Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam

Lời mở đầu Vốn là một trong những nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Trong giai đoạn từ năm 2001-2005, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 6%-7%/năm thì đòi hỏi lượng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 50-60 tỷ USD, trong đó vốn trung và dài hạn chiếm khoảng 40%-50% vốn đầu tư. Trước tình hình đó, công tác huy động vốn trung và dài hạn là một

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1286 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề rất cần thiết. Trong khi Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hoàn thiện thì hệ thống Ngân hàng thương mại ( NHTM) Việt Nam vẫn giữ vai trò là một “kênh” huy động vốn trung và dài hạn đặc biệt quan trọng. Là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng khích lệ trong công tác huy động vốn trung và dài hạn trong giai đoạn từ năm 1998 - 2000. Qua đó đã góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng thời giữ vững vai trò là Ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Song kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước trong thời gian tới. Hơn nữa, để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trở thành một Tập đoàn Tài chính- Tín dụng vững mạnh và hội nhập quốc tế trong tương lai thì việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết. Vì các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( 1998-2000). Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị. Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên để gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn tại NHTM. Chương II: Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( Từ 1998-2002). Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới. Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, tôi mong muốn được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn. Nhân dịp hoàn thành đề tài, tôi xin chân thành cảm ơn: cô giáo hướng dẫn, Trưởng phòng Kế hoạch Phát triển và Các anh (chị) phòng nguồn vốn kinh doanh- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu đề tài này. Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính (ĐHKTQD) và các cán bộ làm việc tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian nghiên cứu đề tài này. Hà nội, ngày 05 tháng 05 năm 2002 Chương I Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn tại NHTM I- Hoạt động của Ngân hàng thương mại ( NHTM) 1- Khái niệm và đặc điểm của hoạt động NHTM 1.1- Khái niệm Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng đến và những người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh. Trước tình hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá thành. Lúc này hoạt động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cững từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.2- Đặc điểm của hoạt động NHTM Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng thông qua một số đặc điểm sau: * Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời ( bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng. * Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được phép hoạt động trên thị trường. Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. 2- Nội dung hoạt động của NHTM: Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong phú và đa dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi quốc gia mà các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ. Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản. Bảng tổng kết tài sản của NHTM Tài sản ( Tính lỏng giảm dần) Nguồn vốn - Dự trữ - Các chứng khoán - Cho vay - Tài sản khác - Tiền gửi - Tiền vay - Vốn của ngân hàng - Nguồn vốn khác 2.1- Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản: Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là: Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian. 2.1.1- Huy động vốn Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn và một số nguồn khác. * Huy động từ chủ sở hữu: Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,...). Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào là do tính chất sở hữu của NHTM quyết định. * Huy động từ tiền gửi: Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau: -Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng. Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu. - Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng. - Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời. * Nguồn vay mượn: Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. * Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ,... uy tín của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này. 2.1.2 Sử dụng vốn: Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay và Đầu tư. * Dự trữ: Sự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn ( bằng tiền mặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào qui mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt. Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được hình thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gửi tại Ngân hàng trung ương, Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu. * Cho vay: Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất.Rủi ro tín dụng có thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây dựng chiến lược sai, Thẩm định hồ sơ không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng có thể do nguyên nhân khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho vay ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình thức cho vay chủ yếu như: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn, Cho vay có đảm bảo,... * Đầu tư: Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư khác: - Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi nhuận tương đối lớn ( sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách hữu hiệu nhất cho NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư. - Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư bhằm mục đích sinh lợi nhiều hình thức khác như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,... 2.1.3-Hoạt động môi giới trung gian Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM phát triển toàn diện. ở các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng con đường “ phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu tư, cho vay, mà gần phần nửa ở các dịch vụ, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro. Nghiệp vụ trung gian của NHTM ra đa dạng và phong phú như : Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản, Dịch vụ khấu trừ tự động, Thu chi hộ,... Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản phí dịch vụ. 2.2- Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản: Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng ( huy động vốn, sử dụng vốn, môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được thừa nhận là tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo dõi ở các tài khoản ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo lãnh công nợ, các hợp đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái như giao dịch Swaps, Options, Futrues, các chứng từ có giá,... Mặc dù sự biến động của các giao dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng tổng kết tài sản, nhưng vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá tình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của NHTM. Do đó, khi phân tích hoạt động của NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các hoạt động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ và diễn biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng làm ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM. Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa, các hoạt động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. 3- Sự cần thiết của công tác huy động vốn trung và dài hạn qua NHTM ở Việt Nam hiện nay. 3.1- Nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế ( 2001-2005) ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, mục tiêu hàng đầu là thông qua quá tình CNH, HĐH đất nước để phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được mục tiêu đó thì điều quan trọng nhất là phải có một nguồn vốn đủ mạnh cho đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào lượng vốn mà quan trọng hơn là phải có chính sách huy động, quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Vấn đề huy động và sử dụng vốn không còn là vấn đề mới mẻ nhưng vẫn là vấn đề mang tính chất thơì sự, đã và đang được các nhà kinh tế quan tâm. Bở vì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhanh theo kịp độ phát triển kinh tế xã hội. Theo sự báo của Bộ kế hoạch đầu tư, trong giai đoạn từ 2001-2005 để đạt tốc độ tăng trưởng 6-7%/năm và tổng GDP đạt khoảng 190 tỷ USD trong cả giai đoạn thì Việt Nam cần phải huy động vốn cho đầu tư phát triển khoảng 50-60 tỷ USD ( ≈30% GDP) trong đó vốn trong nước khoảng 60%, vốn trung và dài hạn khoảng từ 40-50% vốn đầu tư. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt khoảng 26% GDP. Như vậy, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn. Vấn đề đặt ra là phải có cơ chế, chính sách và giải pháp nhất quán, đồng bộ để khai thác và sử dụng có hiệu quả. Hiện nay, trong điều kiện thị trường chứng khoán ở nước ta chưa hoàn thiện thì NHTM vẫn đóng vai trò là một kênh huy động vốn trung và dài hạn rất quan trọng trong nền kinh tế. 3.2- Vai trò của huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống NHTM. * Đối với nền kinh tế: - Góp phần thực hiện chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm các nước công nghiệp cho thấy, để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính và tiền tệ. Trong đó, giải pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng cường huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là huy động vốn qua hệ thống NHTM. Thông qua nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu,... NHTM sẽ huy động được khá lớn lượng tiền mặt trong nền kinh tế, thu hẹp lượng tiền mặt trong lưu thông. Qua đó góp phần làm giảm áp lực tăng giá cả hàng hoá, ổn định mặt bằng lãi suất huy động của nền kinh tế. - Góp phần tích cực trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM mà mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được khơi dậy, đảm bảo phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Qua đó góp phần quan trọng vào việc thực hành tiết kiệm, huy động cả nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước theo hướng phát triển và hoà nhập với nền kinh tế thế giới. - Góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Trong đó vai trò cốt lõi là thị trường chứng khoán. Bằng nghiệp vụ phát hành các giấy tờ có giá trung và dài hạn trong công tác huy động vốn, các NHTM đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập và đa dạng hoá các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư đã tạo ra tiền đề quan trọng cho việc tích luỹ vốn của các chủ thể đầu tư trong quá trình mua chứng khoán. - Ngoài ra, huy động vốn trung và dài hạn thông qua hệ thống NHTM còn góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong quá trình đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng,... Hơn nữa còn góp phần đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư và đẩy nhanh quá trình hội nhập vào thị trường chứng khoán quốc tế thông qua nghiệp vụ phát hành trái phiếu quốc tế, vay mượn vốn trung và dài hạn từ các Ngân hàng nước ngoài. * Đối với bản thân NHTM: - Góp phần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của Ngân hàng. Bên cạnh các nghiệp vụ huy động vốn ngắn hạn mang tính chất truyền thống như: Tiền gửi thanh toán, Tiết kiệm ngắn hạn, Kỳ phiếu ngắn hạn,... thì công tác huy động vốn trung và dài hạn cũng ngày càng được chú trọng và không ngừng đổi mới nhằm phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng với đầy đủ các tiện ích cần thiết và tính thanh khoản cao như : Kỳ phiếu có mục đích, Trái phiếu, Tiền gửi tiết kiệm có thưởng,... - Đảm bảo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Mặc dù có thể chuyển hoán nguồn vốn ngắn hạn để cho vay và đầu tư trung và dài hạn nhưng thông thường nó bị hạn chế ở một tỷ lệ nhất định. Do đó không thể thiếu vốn trung và dài hạn trong việc tài trợ cho nhu cầu tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án dài hạn. Hơn nữa, trong quá tình hoạt động, nhu cầu mở rộng mạng lưới liên doanh, liên kết là điều tất yếu xảy ra. Vì vậy huy động vốn trung và dài hạn qua chủ sở hữu sẽ tạo ra nguồn vốn đáp ứng tốt nhất cho vấn đề này. - Góp phần làm tăng khả năng thanh khoản trong thanh toán cho ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của khách hàng thì về nguyên tắc NHTM phải có nguồn vốn trung và dài hạn tương ứng để tài trợ, tạo nên sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản. Song, cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản không còn là vấn đề duy nhất nhằm tạo ta thanh khoản cho NHTM. Thay vào đó, NHTM có thể thực hiện chuyển hoán kỳ hạn của nguồn- dùng nguồn ngắn để cho vay và đầu tư trung và dài hạn, nhằm gia tăng lợi nhuận mà vẫn đảm bảo tính thanh khoản. Tuy nhiên việc chuyển hoá kỳ hạn phụ thuộc nhiều vào môi trường kinh doanh cũng như tiềm lực của NHTM. Do đó về lâu dài thì có một nguồn vốn trung và dài hạn hợp lý sẽ làm tăng khả năng an toàn thanh toán khi có một dòng tiền gửi bị rút ra. - Ngoài ra, ở một số quốc gia, NHTM huy động vốn trung và dài hạn mang tính chất như thực hiện nhiệm vụ cho Chính phủ giao cho trong việc đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ cho các chương trình kinh tế, các dự án trọng điểm, then chốt của quốc gia. Bên cạnh đó, bằng nghiệp vụ nhận làm Ngân hàng đại lý, nhận tài trợ uỷ thác đầu tư, NHTM còn được hưởng phí hay hoa hồng để tăng thêm thu nhập. Tóm lại, huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống NHTM có vai trò rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế cũng như đảm bảo hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng. Nó đóng vai trò là một kênh huy động vốn hữu hiệu, khơi dậy mọi nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế cũng như góp phần thu hút vốn nước ngoài để tập trung phục vụ cho đầu tư phát triển, tạo tiền đề cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. II- Nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn khác nhau. Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau: 1- huy động từ chủ sở hữu: Nguồn vốn trung và dài hạn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam). Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp định, vốn điều lệ và các quỹ. Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN. Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh. Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định). Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng) như: Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,... Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy thực lực, quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính ổn định cao, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng. Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối thông qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau: - Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ các cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,... Các nghiệp vụ huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực đối với các cổ đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông. - Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm vốn tự có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên liên doanh. - Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và một số quỹ khác. Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một số NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho vay lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có tính ổn định tương đối cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc và lãi cho khoản tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín và hiệu quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này. Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn trung và dài hạn đóng vai trò nền tảng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và phát triển của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các NHTM. 2- Huy động tiền gửi trung và dài hạn ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi trung và dài hạn là tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn 12 tháng. Trên phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi trung và dài hạn có thể được chia thành hai loại: Tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư. 2.1- Tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình hoạt động của ccác doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn. Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn trung và dài hạn cũng như là trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội có vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn trung và dài hạn của một ngân hàng. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền đó. Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn vốn này thườg có tính ổn định cao hơn tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi thanh toán. Do đó NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của nền kinh tế. Vì vậy lãi suất huy động nguồn này cũng cao hơn các hình thức huy động ngắn hạn khác. Bên cạnh đó, kỳ hạn của nguồn này cũng rất phong phú, có loại tiền gửi 13 tháng, 18 tháng, 25 tháng,... từng bước đáp ứng mọi nhu cầu gửi tiền của khách hàng. 2.2- Tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn của khách hàng Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. ở các nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng. Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm trung và dài hạn là một trong các nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong các tầng lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn vào NHTM với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao. Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng rất đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ tiết kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản tiền đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn lãi suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được hưởng dịch vụ thanh toán quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm trung và dài hạn, các NHTM đã và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM cũng từng bước nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết. Tóm lại, nguồn vốn trung và dài hạn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của các loại hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng. Trong đó thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến lược lãi suất như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều q._.uan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kĩ trị của các NHTM. 3- Vay trung và dài hạn: Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn trung và dài hạn của NHTM có thể chia thành hai loại chính: Vay trung và dài hạn thông qua phát hành giấy tờ có giá, Vay trung và dài hạn trực tiếp. 3.1- Vay trung và dài hạn thông qua phát hành giấy tờ có giá: Phát hành giấy tờ có giá với kỳ hạn dài là nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM dưới hình thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,... Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành các giấy tờ có giá trung và dài hạn nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông thường việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ thống của NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết. Mức lãi được trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM và khách hàng hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng. * Kỳ phiếu trung và dài hạn: - ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là một công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một CD để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là một chứng nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất định. Người sở hữu CD có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được trả lại chứng chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ với lãi. Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn của các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn chung không có quy định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân hàng phát hành. Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau: + CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời điểm phát hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến hạn. Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến hạn. + CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần. những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. + CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp đồng mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết hạn. CD loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi. Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi điều chỉnh, chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát hành CD, các NHTM Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách có hiệu quả đối với nguồn vốn ngắn và trung hạn. - ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu trung và dài hạn ( Kỳ phiếu có mục đích) dựa trên quyết định số 220- NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc doanh phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích. như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được phép phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này. Theo văn bản trên, kỳ phiếu có mục đích là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt để tài trợ cho một mục đích cụ thể nào đó. Căn cứ vào mục đích, nhu cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD. Kỳ phiếu có mục đích thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. vốn huy động được từ nghiệp vụ này không phải là đối tượng để tính dự trữ bắt buộc. Lãi suất kỳ phiếu này thường hấp dẫn hơn kỳ phiếu ngắn hạn, tuỳ từng mục đích và thời kỳ huy động mà Ngân hàng ấn định mức lãi suất cụ thể. Phương thức trả lãi cũng được các NHTM quốc doanh áp dụng rất linh hoạt : Trả lãi trước, Trả lãi sau hay Trả lãi định kỳ sau các khoảng thời gian bằng nhau. Mức lãi được xác định trên nguyên tắc đảm bảo kinh doanh, thời hạn càng dài, lãi suất càng cao. Kỳ phiếu có mục đích thường có hai loại chứng chỉ là loại có ghi danh và loại không ghi danh. Người sở hữu loại vô danh có thể chuyển nhượng tự do, còn người sở hữu loại có ghi danh mà muốn chuyển nhượng thì phải thông qua Ngân hàng. Nhu cầu phát hành kỳ phiếu có mục đích thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô lớn, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình “ Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau: + Lý do xin phát hành + Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn + Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi) + Thời gian phát hành + Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu + Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu. Phát hành kỳ phiếu có mục đích là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp dẫn người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn trung và dài hạn khi cần thiết. * Trái phiếu trung và dài hạn: - ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng trung và dài hạn là một loại công cụ nợ do NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn. ở Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 cảu Thống đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định. Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận. Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu). Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát hành và có giá trị tối thiểu là 50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu. Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn dài hạn, người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ... NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau: + Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh của đơn vị được quản lý có hiệu quả + Có phương án kinh doanh cụ thể + Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định + Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép NHNN về việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật. Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao, đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia. 3-2 - Vay trung và dài hạn trực tiếp: Khi cần vốn trung và dài hạn mà các nguồn vốn khác chưa đáp ứng thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các hình thức huy động vốn trung và dài hạn khác. ở Việt Nam, nguồn vay vốn trung và dài hạn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài. * Vay từ NHNN và BTC: - Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách là Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM. Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt. - Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh doanh. * Vay trung và dài hạn từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác Ngoài nghiệp vụ vay trung và dài hạn từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh dựa trên nguyên tắc: - Các NHTM phải hoạt động hợp pháp - Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng. - Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHNN. Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay. * Vay trung và dài hạn từ nước ngoài: Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có thể vay vốn trung và dài hạn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả. Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng. 4- Nhận uỷ thác tài trợ phát triển: Đây là nghiệp vụ mang tính chất trung gian của NHTM. Trong đó, NHTM nhận làm Ngân hàng đại lý, nhận uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cho vay trung và dài hạn để thực hiện những chương trình và dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh, cải tạo môi trường. Thông qua nghiệp vụ này Ngân hàng sẽ được hưởng phí hoa hồng và NHTM không có trách nhiệm thẩm định những đối tượng khách hàng này. Nguồn vốn này rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất rất thấp và thời gian trả nợ thường dài ( đối với vốn ODA từ 30-40 năm). Đây là nguồn vốn mà qua đó NHTM có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh tế. Trong đó nguồn vốn ODA là quan trọng nhất, thông thường vốn tài trợ gồm ba khoản: Một khoản tài trợ không hoàn lại, một khoản cho vay với lãi suất thấp và một thời gian ân hạn ( Thời gian từ lúc vay đến lúc bắt đầu trả nợ lãi suất coi như bằng 0), NHTM nhận làm đại lý sẽ trộn ba khoản trên để có một lãi suất hoà đồng cộng với phí của Ngân hàng để cho vay lại nền kinh tế. Như vậy, nguồn vốn này khá hấp dẫn vừa có chi phí thấp, lại vừa không phải tìm kiếm đầu ra. Vì vậy Ngân hàng cần có kế hoạch huy động và tăng cường nguồn vốn này, tích cực chủ động tìm kiếm nguồn tài trợ phát triển, tránh tính trạng phụ thuộc quá nhiều vào sự chỉ định của Chính phủ và Bộ Tài chính như hiện nay. Tóm lại, để đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì việc tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn là một trong những vấn đề rất cần thiết, là cơ sở, là tiền đề để các NHTM thực hiện tốt nghiệp vụ truyền thống của mình góp phần vào sự nghiệp C NH,HĐH đất nước. 5- Các nhân tố tác động đến công tác huy động vốn trung và dài hạn của NHTM. Để tồn tại và phát triển, các NHTM không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong đó, huy động vốn có tầm quan trọng hàng đầu, đặc biệt là tạo lập nền vốn vững chắc thông qua nghiệp vụ huy động vốn. Tuy nhiên, để có một nền vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là một vấn đề nan giải. Nó đòi hỏi ở NHTM phải có những nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn linh hoạt, hấp dẫn và thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn hoạt động của ngân hàng cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn vậy NHTM cần có sự phân tích sự ảnh hưởng của tất cả các nhân tố đến công tác huy động vốn trung và dài hạn của mình. * Nhân tố khách quan: - Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế: Động thái của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra quyết định nên gửi tiền vào Ngân hàng, tích trữ vàng, USD hay mua sắm các tài sản khác. Trong điều kiện nền kinh tế bất ổn định, giá cả và sức mua của đồng tiền biến động mạnh thì người dân có xu hướng tích trữ vàng, USD hoặc các dạng tài sản khác thay vì đem số tiền đó gửi kỳ hạn dài tại NHTM. Ngược lại, một nền kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát hợp lý thì người dân sẽ có cái nhìn khả quan hơn và xu hướng tiền gửi ở các NHTM tăng lên là một điều tất yếu. - Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ “ Để tạo vốn cho đầu tư phát triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là làm ăn có hiệu quả, phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm kể cả trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản xuất kinh doanh và trong tiêu dùng của dân cư”. Thực tế cho thấy, người dân có thu nhập càng cao thì lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể càng lớn, đặc biệt là khi thu nhập bình quân đầu người đã đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ tiết kiệm không phải tăng lên theo tương quan tỷ lệ với sự gia tăng của thu nhập mà tăng với một tỷ lệ lớn hơn so với thu nhập do nhu cầu thiết yếu lúc này được thoả mãn hoàn toàn và lượng tiền dư ra sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, lượng tiền tiết kiệm có được gửi vào NHTM hay không còn phụ thuộc vào tâm lý tiêu dùng các dân cư. Họ có thể đem gửi Ngân hàng, giữ tiền mặt, vàng, ngoại tệ hoặc mua các tài sản khác. Bên cạnh nguồn tiết kiệm từ dân cư thì nguồn tiết kiệm từ các tổ chức kinh tế- xã hội cũng rất quan trọng. NHTM có thể huy động nguồn vốn này thông qua nghiệp vụ phát hành trái phiếu. Do đó để NHTM thực hiện tổ chức năng trung gian tài chính, phục vụ đầu tư phát triển thì đòi hỏi các tổ chức, cá nhân và cả nhà nước phải có chính sách tiết kiệm hợp lý và coi tiết kiệm là quốc sách hàng đầu. - Chính sách của Nhà nước: Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn trung và dài hạn của các NHTM. Bởi vì khi Nhà nước khuyến khích việc mở rộng huy động vốn trung và dài hạn thì sẽ có các chính sách văn bản hướng dẫn cụ thể. Từ đó, các NHTM sẽ có các căn cứ pháp lý để thực hiện nghiệp vụ này một cách thuận lợi hơn. Ngược lại, khi Nhà nước không khuyến khích thì tất yếu công tác này sẽ rất khó có khả năng tồn tại và phát triển. Hiện nay, Nhà nước ta đã thấy được sự cần thiết của việc huy động vốn trung và dài hạn và đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm khuyến khích các NHTM ngày càng mở rộng huy động vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. - Nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế: Nền kinh tế đòi hỏi nhiều vốn cho đầu tư phát triển, ngoài vốn ngắn hạn còn rất nhiều vốn trung và dài hạn. Song tự bản thân nó không thể đáp ứng đủ lượng vốn cần thiết, NHTM với vai trò là cầu nối giữa người thiếu vốn và người thừa vốn đã góp phần cung cấp một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế. ở nước ta, thị trường chứng khoán mở ở dạng sơ khai do đó việc đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM vẫn chiếm vị trí quan trọng và cấp thiết. - Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý: ở những địa điểm dân cư đông đúc, các thành phố lớn có nhiều doanh nghiệp hoạt động và kinh tế phát triển thì NHTM có thể huy động được nhanh hơn và nhiều hơn những nơi kém phát triển... Đặc biệt ở những thị trường sôi động, có độ nhạy cảm cao với lãi suất và tiện ích khách do nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM đem lại thì ở đó việc mở rộng và bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM sẽ thuận lợi hơn các vùng nông thôn hay miền núi. * Nhân tố chủ quan: - Uy tín của NHTM: khi xa rời vốn liếng một thời gian dài để gửi vào NHTM, người gửi thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh tế. Do đó họ thườg có sự cân nhắc và lựa chọn Ngân hàng nào được họ thừa nhận là an toàn và thuận lợi nhất hay nói cách khác là có uy tín nhất đối với gười gửi tiền. Thông thường, người gửi tiền đánh giá uy tín của NHTM qua các tiêu thức cơ bản như: Sự hoạt động lâu năm, quy mô, trình độ quản lý, công nghệ,... Do đó các NHTM cần nâng cao uy tín thông qua các nghiệp vụ của mình, từng bước thoả mãn tối đa nhu cầu của người gửi tiền. Khi đã tin tưởng vào một NHTM nào đó, tất yếu họ sẽ tạm xa rời vốn liếng của mình để gửi vào Ngân hàng hưởng lãi. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân ta có câu tục ngữ “ Chọn mặt gửi vàng”, và trong hoạt động ngân hàng chữ “Tín” và “Lòng tin” là rất quan trọng. - Chính sách lãi suất cạnh tranh: Bao gồm cả lãi suất huy động và cho vay. Đây là một chính sách quan trọng của NHTM, nó đòi hỏi phải có sự linh hoạt, vừa hấp dẫn người gửi , đòng thời phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Thông thường, quy mô của tiền gửi vào ngân hàng biến động tỷ lệ thuận đặc biệt thì quy luật này bị phá vỡ. Chẳng hạn khi lãi suất huy động giảm nhưng người gửi vẫn thu được một khoản lợi tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ trượt giá thì vốn huy động của ngân hàng vẫn có thể tăng lên. Như vậy có thể nói lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn đến quy mô tiền gửi vào NHTM, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Vì người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lời của các hình thức đầu tư khác như cổ phiếu, trái phiếu,... Từ đó dân chúng sẽ đưa ra quyết định có nên gửi tiền vào ngân hàng hay không? Gửi bao nhiêu và dưới hình thức nào?... Đối với các tổ chức kinh tế- xã hội thì ít nhạy cảm hơn đối với lãi suất mà NHTM huy động mà họ quan tâm nhiều tới công nghệ ngân hàng, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất và tính tiện ích cũng như thanh khoản của trái phiếu ngân hàng cũng được các tổ chức này đặc biệt quan tâm. - Chính sách sản phẩm: Đa dạng hoá sản phẩm trong lĩnh vực ngân hàng đã khó, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn lại càng nan giải hơn. Tuy nhiên, các NHTM đã cho ra đời nhiều sản phẩm vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại như: Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu,... với sự phong phú về kỳ hạn, mệnh giá và chủng loại. Qua đó từng bước đã thu hút được nhiều khác hàng hưởng ứng. Một NHTM có sự đa dạng trong nghiệp vụ huy động vốn trong nền kinh tế, thoả mãn được nhu cầu của người gửi tiền; một sản phẩm phù hợp sẽ làm họ quan tâm và thúc dục họ gửi tiền vào ngân hàng hơn là tìm kiếm các hình thức đầu tư khác. Vì vậy đa dạng hoá sản phẩm, đặc biệt là trong huy động vốn trung và dài hạn có thể coi là” cuộc chạy đua” không có đích cuối cùng của các NHTM hiện nay. - Công tác cân đối vốn của Ngân hàng: Một chiến lược huy động vốn trung và dài hạn đúng đắn phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trung và dài hạn trong cùng thời kỳ, sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn đó chính là công tác cân đối vốn trung và dài hạn của Ngân hàng. Trong quá trình đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển tình hình công tác cân đối vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với bất cứ NHTM nào. Thông qua cân đối vốn, NHTM sẽ biết được thực trạng và có những dự đoán nhu cầu biến động vốn trong tương lai. Từ đó có thể đưa ra chính sách huy động trung và dài hạn thích hợp về số lượng cũng như là về loại tiền và kỳ hạn huy động. Qua đó sẽ nâng cao tính chủ động của NHTM trong công tác huy động vốn trung và dài hạn. - Chính sách quảng cáo: Chính sách quảng cáo đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các ngành trong thời đại ngày nay, trong đó không loại trừ ngành Ngân hàng. Để tạo được hình ảnh đẹp trong con mắt khách hàng thì NHTM cần phải thực hiện đồng bộ nhiều yếu tố. Trong đó không chỉ chú trọng đến các hình thức quảng cáo như: Quảng cáo trên tạp chí, Panô, láp phích, Internet,... mà còn cần có sự kết hợp với các chính sách như: Chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm,... Đặc biệt là trong nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn, việc tuyền truyền, quảng cáo để mọi tầng lớp dân cư hiểu biết về các thông tin là rất cần thiết. Trên cơ sở hiểu biết công tác huy động của Ngân hàng thì dân chúng mới có thể nhiệt tình hưởng ứng. - Ngoài một số chính sách sơ bản trên, nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM còn chịu sự tác động của một số chính sách như: Chính sách khách hàng, các dịch vụ ngân hàng,... Trong đó các dịch vụ huy động vốn như: Tư vấn, chiết khấu,... kèm theo nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn có vai trò hỗ trợ quan trọng. Qua đó nhằm tạo ra những tiện ích hấp dẫn khách hàng và có thể tăng sức cạnh tranh trong công tác huy động vốn trung và dài hạn của NHTM. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta, việc tạo lập và tập trung mọi nguồn lực để phục vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước là rất cấp bách. Trong đó nguồn vốn trung và dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển. Với vai trò là “ cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong xã hội, thông qua các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của mình, các NHTM đã góp phần quan trọng trong việc khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế đáp ứng cho nhu cầu tín dụng trung và dài hạn, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh doanh ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế- xã hội và thực hiện Chính sách tiền tệ quốc gia. chương II Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( từ 1998-2000) I- Tổng quan về ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( BIDV) 1- Lịch sử hình thành và phát triển * Lịch sử hình thành BIDV được thành lập theo quyết định số 177-TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, tiền tệ, tín dụng, và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng Lịch sử xây dựng, trưởng thành và đổi mới của Ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước. Qua mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, tuỳ theo nhiệm vụ của từng thời kỳ mà BIDV mang nhiều tên gọi: + Ngân hàng kiến thiết Việt Nam từ ngày 26-4-1957 + Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam từ ngày 24-6-1981 + Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14-11-1990 Năm 1996 BIDV được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký quyết định số 286-QĐ/NH5 ngày 21-9-1996 thành lập lại theo mô hình Tổng công ty Nhà nước quy định tại quyết định số 90-TTg ngày 7-3-1994 theo uỷ quyền của Thủ tướng chính phủ, nhằm tăng cương tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn hệ thống BIDV; đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế Hiện nay BIDV là một trong bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) lớn của Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong phục vụ đầu tư phát triển có chức năng huy động vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong nước và ngài nước để đầu tư phát triển, kinh doanh đa năng tổng hợp về tài chính tiền tệ, tín dụng ngân hàng; làm Ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ cho đầu tư phát triển từ các nguồn vốn của Chính phủ, các tổ chức tài chính, tiền tệ, các tổ chức kinh tế, xã hội,... trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật về Ngân hàng. * Quá trình phát triển: Sự phát triển của IBDV có thể được xem xét ở hai giai đoạn cơ bản - Giai đoạn trước khi có pháp lệnh ngân hàng ( 5- 1990): Thời kỳ mới thành lập hoạt động của ngân hàng còn nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn, ban đầu chỉ có 8 chi nhánh với đội ngũ 200 cán bộ mà đa số chưa được đào tạo có hệ thống về nghiệp vụ tài chính- Ngân hàng- kế toán. Nhiệm vụ cơ bản của ngân hàng trong giai đoạn này là: Nhận vốn từ ngân sách và tiến hành cấp phát, cho vay đồi với các công trình đầu tư xây dựng cơ bản ( XDCB) Tháng 10 -1998, nghiệp vụ của IBDV được mở rộng hơn, trong đó có nghiệp vụ “ huy động và khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi bằng những biện pháp kinh tế năng động, có hiệu quả và thanh toán trong XDCB”. Tuy nhiên trên thực tế việc huy động chỉ bó hẹp ở tiền gửi ở các tổ chức quốc doanh. Công tác huy động vốn chưa được thực thi theo đúng nghĩ của nó. Bên cạnh đó Ngân hàng sử dụng vốn cũng rất thụ động, chủ yếu là đầu tư theo kế hoạch nhà nước; vốn ngân sách dót xuống sẽ được cấp phát, cho vay theo thời hạn quy điịnh trong kế hoạch. - Giai đoạn sau khi có pháp lệnh Ngân hàng: Có thể khẳng định: Đây là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử phát triển của BIDV. Trong điều kiện mới, BIDV đã xây dựng được cho mình một vị thế khá vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NHTM. Về cơ bản BIDV có một số khó khăn và thuận lợi sau; + Những khó khăn: Tuy là một trong những ngân hàng ra đời sớm nhưng tới đầu năm 1995 BIDV mới thực sự chuyển hẳn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trong quá trình chuyển này ngân hàng đã vấp phải một số khó khăn nhất định. Cụ thể là: * Ngày 1-1-1995, TổngCục đầu tư tách khỏi BIDV và chịu sự quản lý của Bộ tài chính do đó, BIDV phải chuyển toàn bộ nguồn vốn cho ngân sách cấp trả về Tổng cục đầu tư trực thuộc Bộ tài chính. Điều này đã kéo theo một sự hẫng hụt ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. * Đội ngũ cán bộ của Ngân hàng mặc dù có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư XDCB nhưng khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường đã tỏ ra lúng túng, chưa thực sự nhạy bén và hoà mình vào phong cách quản lý kinh doanh mới * Ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh trong môi trường có tính cnạh tranh cao. Bên cạnh đó, BIDV cũng có sự thua thiệt khi bước vào cơ chế mới chậm hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác ( Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương...). + Thuận lợi so với các NHTM khác: * Bước vào hoạt động như một NNTM chậm nên BIDV có thể tranh thủ kế thừa, học hỏi những kinh nghiệm rút ra từ những thành công hay thất bại ở các NHTM khác. * Trong quá trình phục vụ đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước, BIDV đã tạo lập và duy trì được một đội ngũ khách hàng truyền thống. Hơn nữa BIDV cũng luôn nhận được sự giúp đỡ có hiệu quả và rất kịp thời từ NHNN cùng sự quan tâm, ủng hộ của các cấp chính quyền. *BIDV có đội ngũ cán bộ với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Nhận thức rõ những khó khăn và lợi thế của mình, toàn hệ thống BIDV đã nỗ lực thực hiện các mục tiêu đề ra, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế- xã hội. Liên tục trong 5 năm (1996-2000) các chỉ tiêu cơ bản như: Tổng tài sản, huy động vốn, tín dụng,... luôn tăng trưởng ở mức cao( tốc độ tăng trưởng bình quân 28%/năm) thị phần hoạt động cũng không ngừng gia tăng. Kết quả đó là nền tảng quan trọng và là tiền đề cơ bản để từng bước xây dựng nền móng vững chắc cho hoạt động cuả tập đoàn tài chính ng._.iển kinh tế- xã hội, đặc biệt ở những quốc gia đang phát triển như nước ta hiện nay. Muốn thu hút vốn nhàn rỗi của công chúng thì chính NHTM phải tìm hiểu nhu cầu, tâm lý của công chúng và phải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó. Dưới sự tác động của nhiều nhân tố ( tình hình hấp thụ vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, lãi suất...), công tác huy động vốn trung và dài hạn luôn là vấn đề thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Do đó sự tìm tòi, nghiên cứu đưa ra những giải pháp huy động vốn trung và dài hạn thiết thực trong thời gian tới là rất cần thiết với hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và với hệ thống BIDV nói riêng. A- Giải pháp: Để góp phần mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV trong thời gian tới, em xin đề xuất một số giải pháp như sau: 1- Chú trọng công tác phân tích nguồn vốn trung và dài hạn Phân tích nguồn vốn nói chung và phân tích nguồn vốn trung và dài hạn nói riêng là việc làm quan trọng và rất cần thiết, nhằm giúp cho Ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn rẻ, có quy mô và cấu trúc đảm bảo cho mục tiêu huy động.Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi BIDV quan tâm tới một số vấn đề sau: 1.1- Phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn Quy mô và cấu trúc nguồn vốn trung và dài hạn tối ưu là một trong những cơ sở quan trọng đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời của BIDV.Nó không phải là yếu tố bất biến mà thay đổi cùng với sự phát triển của Ngân hàng trong mỗi thời kỳ nhất định.Hơn nữa, mỗi nguồn vốn trung và dài hạn đều có những yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn trả,…Do đó, Ngân hàng phải quan sát, đánh giá chính xác từng loại nguồn vốn để kịp thời có những chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ cụ thể.Muốn vậy , BIDV cần chú trọng tới một số yếu tố sau: * Cần nghiên cứu và thành lập Phòng phân tích hoạt động kinh doanh.Trong đó, bộ phận chuyên trách về phân tích nguồn vốn phải có khả năng dự báo về sự biến động về quy mô và cấu trúc của nguồn vốn, cán bộ phụ trách phải là những người có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực này. * Việc phân tích, đánh giá có thể dựa vào một số chỉ tiêu như: khả năng cho vay trung và dài hạn( Hệ số sử dụng vốn ), Quy mô tăng vốn và một số chỉ tiêu khác.Đồng thời phải ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình phân tích, nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời và khoa học. * Cần gắn chặt hơn nữa giữa công tác huy động vốn và sử dụng vốn.Điều này không có nghĩa là chỉ có sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn mà đòi hoỉ có sự linh hoạt của Ngân hàng trong từng trường hợp cụ thể.Ví dụ: BIDV có nguồn vốn trung và dài hạn dư thừa thì có thể cân đối cho vay ngắn hạn hoặc nếu nguồn ngắn hạn có tính ổn định cao thì lợi dụng để cho vay trung và dài hạn nhưng phải đề phòng những rủi ro có thể xảy ra. * Chú trọng phân tích khách hàng tiềm năng.Điều này có nghĩa là BIDV cần có sự quan tâm hơn nữa trong việc nghiên cứu đặc điểm, tính chất của một chủ thể hay một nhóm người liên quan đến việc ra quyết định giao dịch với Ngân hàng ( gưỉ tiền, cho BIDV vay,…). Tóm lại, phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn là một giải pháp hữu hiệu giúp BIDV tiếp cận một cách khoa học và hệ thống với các nguồn vốn trung và dài hạn, là cơ sở để Ngân hàng đưa ra những chính sách huy động vốn phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng nguồn. 1.2- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý Lãi suất là một công cụ quan tọng trong công tác huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV, đặc biệt là huy động từ các tầng lớp dân cư. Do đó, một chính sách lãi suất vừa có sức cạnh tranh vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng là rất cần thiết, em xin đề xuất một số giải pháp về vấn đề này như sau: * Định mức lãi suất tiền gửi trung và hạn hợp lý để kích thích dân chúng Mục đích chủ yếu của khách hàng gửi tiền dài hạn vào Ngân hàng là sinh lời. Do đó với một mức lãi suất thấp sẽ không bù đắp được sự mất giá của khoản tiền gửi. Vì vậy, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất gửi trung và dài hạn phải lớn hơn tiền gửi ngắn hạn. Như vậy để kích thích khách hàng gửi tiền dài hạn, BIDV cần tạo một khoảng cách rõ rệt giữa lãi suất huy động dài hạn và ngắn hạn. Tuy nhiên, đề nghị này không có nghĩa là phải tăng lãi suất huy động vốn trung và dài hạn, điều mà các nhà sản suất không dễ dàng chấp nhận. Hơn nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao thì họ sẽ không đầu tư trực tiếp vào các phương án kinh doanh mà gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Nếu điều đó xảy ra thì BIDV sẽ gặp khó khăn vì không giải quyết được đầu ra. Vì vậy, BIDV cần có sự nghiên cứu, cân đối giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi trung và dài hạn để tạo khoảng cách cần thiết giữa hai mức lãi suất này. Ngoài ra, trong lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cũng cần định mức lãi suất phù hợp giữa các kỳ hạn khác nhau, đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao, phản ánh được cung cầu về vốn, đảm bảo lãi suất thực dương nhưng đồng thời phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. * Thưởng lãi suất đối với khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với kỳ hạn thực dài hơn kỳ hạn danh nghĩa. Như chúng ta đã có dịp đề cập, đối với khách hàng rút tiền trước hạn thì BIDV thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của kỳ hạn ban đầu. Vậy trong trường hợp ngược lại, BIDV có thể khuyến khích người gửi tiền trên tài khoản với kỳ hạn thực tế dài hơn kỳ hạn danh nghĩa bằng cách thưởng thêm một tỷ lệ % nào đó tương ứng với chênh lệch giữa kỳ hạn thực và kỳ hạn danh nghĩa. Cụ thể: Ví dụ: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng là 6%/ năm còn lãi suất huy động 24 tháng là 6,55%/năm thì Ngân hàng có thể thưởng tương ứng 0,1%- 0,3% cho khách hàng với chênh lệch kỳ hạn thực và kỳ hạn danh nghĩa là 12 tháng. Như vậy sẽ kích thích được người gửi, đặc biệt là khách hàng có tiền nhưng chưa xác định được thời gian cần dùng đến. Mặt khác, BIDV cũng có một khoản vốn ổn định với chi phí thấp hơn. 2-Nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo các tiện ích cho khách hàng Để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong thời gian tới, ngoài việc tìm kiếm khách hàng mới thì BIDV còn phải duy trì được những khách hàng truyền thống đã có.Muốn vậy, BIDV cần nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo tiện ích cho khách hàng thông qua một số nội dung chủ yếu sau: * Nâng cao chất lượng cán bộ huy động vốn, bảo đảm mỗi cán bộ ngoài việc thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn còn phải có khả năng thực hiện vai trò tư vấn giúp đỡ khách hàng tận tình chu đáo trong khi gửi tiền, mua Kỳ phiếu, Trái phiếu,…Do đó, cần có sự tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ huy động vốn có đủ trình độ chguyên môn, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Nên có sự bổ sung, xen kẽ những cán bộ có nhiều kinh nghiệm với những cán bộ mới được đào tạo trong nền kinh tế thị trường. * Ngân hàng phải giữ được chữ “ tín” với khách hàng. Muốn vậy thì BIDV phải thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán, không được phép khất chi, hoãn chi với khách vì lý do thiếu tiền. Bên cạnh đó phải thực hiện khâu thanh toán nhanh chóng thông qua áp dụng công nghệ hiện đại trong giao dịch như: Máy đếm tiền, máy rút tiền tự động ATM, máy soi tiền,... Tham gia thanh toán bù trừ liên Ngân hàng bằng cách nối mạng với trung tâm thanh toán bù trừ. * Ngân hàng cần phải công khai các chỉ tiêu tài chính quan trọng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng có sự hiểu biết về BIDV một cách thuận lợi. Mặt khác, Ngân hàng cũng cần tăng cường mối quan hệ hữu hảo với cấp uỷ và địa phương nơi hoạt động. Qua đó tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các cấp, các ngành. * Trong quá trình mở rộng mạng lưới, BIDV cần chọn lựa địa thế thuận lợi và xây dựng cơ sở vật chất khang trang. Một địa điểm giao dịch sang trọng, có nơi đỗ xe, có sơ đồ hướng dẫn, có dịch vụ tư vấn,... là nhân tố quan trọng để thu hút khách hàng tới giao dịch. Người gửi tiền sẽ cảm thấy an toàn hơn khi có cơ sở vật chất của Ngân hàng đầy đủ và hiện đại. * Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ: Để hấp dẫn người gửi tiền và giảm bớt khối lượng giấy tờ cần phải xử lý thì BIDV cần phải hiện đại hoá, vi tính hoá trong xử lý nghiệp vụ. Trước đây, nhiều người có nhiều tiền không muốn gửi vào NHTM vì lý do họ cho rằng thủ tục gửi tiền vào và rút tiền ra rất phiền hà. Hơn nữa, là tác phong giao dịch của nhân viên thiếu mềm mỏng, tận tình, nhiều nơi còn biểu hiện cửa quyền hách dịch. Điều đó đã gây ra tâm lý ngại tiếp xúc với NHTM trong dân chúng mà đến nay vẫn cờn dư âm. Do đó, NHTM Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng phải không ngừng đổi mới toàn diện hoạt động của mình, tổ chức lại bộ máy, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình nghiệp vụ. Từng bước áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại, đồng thời tiếp tục thực hiện cải tiến các nghiệp vụ thanh toán truyền thống cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Mặt khác, các thủ tục giấy tờ trong giao dịch cũng cần được chú trọng hơn, thực tế khi thấy khách hàng gửi tiền phải mất từ 20-30 phút hoặc lâu hơn nữa. Thiết nghĩ thời gian thực hiện một nghiệp vụ như thế là dễ dàng chút nào, mà đòi hỏi BIDV phải trang bị những công cụ cần thiết trong công tác huy động. Hơn nữa, cần có sự thiết kế giấy tờ giao dịch một cách khoa học, dễ đọc, dễ hiểu, ngắn gọn,... đảm bảo mọi khách hàng có thể tiếp cận và hiểu một cách thấu đáo. Bên cạnh đo, Ngân hàng cần phải bố trí nhiều bàn giao dịch khách nhau tại một quầy dao dịch, tránh tính trạng khách hàng phải xếp hàng để chờ đến lượt mình giao dịch. * Ngoài ra, BIDV cũng cần nghiên cứu mở rộng và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu gửi tiền của khách hàng như: Thực hiện dịch vụ Ngân hàng tại nhà (Home Banking) như nhận gửi và cho vay tại nhà, làm việc ngoài giờ hành chính, thái độ tác phong giao dịch tận tình, chu đáo,... 3- Nâng cao trình độ cán bộ và đổi mới công tác quản lý: Nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng nhất, quyết định mọi sự thành công hay thất bại của mọi hoạt động kinh tế. Trong quá trình hoạt động, BIDV luôn coi phát triển nguồn nhân lực là vấn đề then chốt, đặc biệt là trong công cuộc cơ cấu lại Ngân hàng như hiện nay. Thực tế tại BIDV có nhiều cán bộ có chuyên môn gỏi, có năng lực quản lý và công tác quản lý ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá Ngân hàng, bắt kịp kỹ thuật công nghệ Ngân hàng mới, mở rộng huy động trung và dìa hạn thì BIDV cần chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao trình độ công nhân viên và công tác quản lý trong Ngân hàng. * Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, đặc biệt là trong công tác huy động vốn: BIDV cần tiếp tục thường xuyên mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ nhân viên và đặc biệt là cán bộ chủ chốt ở hội sở và một số chi nhánh lớn theo các nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại. Trong đó cần có sự kết hợp giữa đào tạo ngắn hạn, đào tạo bên ngoài và đào tạo tại chỗ. Bên cạnh đó, BIDV nên có chính sách động viên, khuyến khích cán bộ của mình tự nâng cao trình độ nghiệp vụ bằng cách hỗ trợ vật chất và tinh thần; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mọi cán bộ được tìm hiểu, nghiên cứu và học tập hay tiếp cận với các mô hình, quy trình nghiệp vụ ở các nước có hệ thống Ngân hàng hiện đại như ở Anh, Mỹ, Pháp,... Qua đó nhằm tạo điều kiện cho cán bộ Ngân hàng có thể học hỏi kinh nghiệm để vận dụng một cách phù hợp với thực tế ở nước ta. Ngoài ra, BIDV cũng cần quan tâm hơn nữa tới các cán bộ có điều kiện tự nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, từng bước hướng tới xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa có “ tâm” vừa có chuyên môn nghiệp vụ giỏi. Nhưng chỉ có trình độ chuyên môn thì chưa đủ, trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng cần phải có sự phối kết hợp nhiều yếu tố. Trong đó thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng sẽ là “ hình ảnh” của Ngân hàng trong con mắt khách hàng. Do đó, ngay từ khi tuyển dụng cho đến khâu đào tạo, quản lý, BIDV cần phải thường xuyên chú ý lựa chọn, sàng lọc để Ngân hàng có một đội ngũ cán bộ có phong cách lịch sự, nhiệt tình, vững vàng về tư tưởng đạo đức, lối sống và giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. *Đổi mới công tác quản lý điều hành. Bên cạnh việc cải tiến và đầu tư thêm các trang thiết bị phục vụ trong quá trình hoạt động nói chung và tỏng công tác huy động vốn nói riêng thì BIDV nên hoàn thiện mô hìh tổ chức bộ máy, bố trí sắp xếp nhân lực hợp lý ổn định theo hướng “ chọn người phù hợp cho yêu cầu công việc”. Trên cơ sở đó, BIDV cần lựa chọn và đào tạo nhnữg cán bộ có thái độ, năng lực và phẩm chất tốt để quản lý điều hành công tác huy động vốn. Quản lý và điều hành công tác huy động vốn hợp lý sẽ là động lực lớn để thúc đẩy quá trình mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV trong tương lai. 4- Đa dạng hoá các hình thức huy động: * Đối với huy động tiền gửi Bên cạnh kỳ hạn đang áp dụng, BIDV có thể mở rộng thời hạn tiền gửi như 5 năm, 10 năm và lâu hơn nữa. Việc áp dụng hình thức huy động tiền gửi với kỳ hạn đa dạng sẽ đáp ứng được nhu cầu của mọi khách hàng, tạo điều kiện đa dạng hoá hình thức huy động vốn và sử dụng vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng. Bởi lẽ huy động vốn luôn gắn liền với sử dụng vốn, mặc dù BIDV có thể chuyển hoán vốn theo luật định nhưng sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động và sử dụng vốn sẽ tạo thế chủ động hơn cho Ngân hàng. Bên cạnh sự đa dạng về kỳ hạn thì BIDV nên duy trì và củng cố các khách hàng như: Trả lãi trước, trả lãi sau, rút lãi theo các khoảng thời gian bàng nhau,... hay gửi tiền một nơi nhưng có thể rút tiền ở nhiều nơi. Vì kỳ hạn dài và đa dạng nên đòi hỏi BIDV cần có sự cải tiến về mẫu sổ tiết kiệm sao cho phù hợp, dễ kiểm tra, dễ đối chiếu, tránh nnhững phiền hà không cần thiết cho khách hàng. Ngoài việc mở rộng các loại tiền gửi mang tính truyền thống thì BIDV cũng cần nghiên cứu và áp dụng phổ biến các hình thức huy động tiết kiệm có mục đích, cụ thể: +Tiết kiệm xây dựng nhà ở: Hình thức này tạo cho Ngân hàng nguồn vốn trung và dài hạn, đồng thời người gửi cũng được hưởng những lợi ích nhất định mà chúng ta đã có dịp đề cập. Hiện nay thu nhập và nhu cầu chi tiêu cho nhà ở là khá lớn, do đó BIDV cần áp dụng một cách rộng rãi hơn loại hình tiết kiệm này. + Tiết kiệm học đường: Hình thức này dành cho gia đình trẻ có con hoặc chưa có con nhưng muốn tiết kiệm để sau này có một khoản tiền chi trả cho con cái học hành, thành đạt, hình thức này cũng đang được Công ty Bảo hiểm nhân thọ PRUDENTIAL thực hiện. Do đó có thể khẳng định rằng đây là hình thức phù hợp với mong muốn và tâm lý của người Việt Nam. + Tiết kiệm gửi góp: Hình thức này chủ yếu dành cho người có thu nhập hiện tại để dùng cho tương lai hay khi về già bằng cách hàng tháng hay hàng quý gửi một số tiền nhất định vào Ngân hàng, thời hạn gửi có thể là 5 năm, 10 năm và lâu hơn nữa. + Ngoài ra, BIDV có thể tiếp tục nghiên cứu và thử nghiệm các hình thức khác như: Tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm có quay số mở thưởng theo định kỳ,... Qua đó từng bước thu hút dân chúng quan tâm, kích thích họ tới giao dịch với Ngân hàng. Tuy nhiên, các hình thức trên còn khá mới mẻ đối với BIDV. Do đó, để áp dụng phổ biến ở các chi nhánh của mình, BIDV cần phải có thời gian thử nghiệm và tạo điều kiện để thực hiện. Song chúng ta có thể tin tưởng rằng. Với sự nỗ lực, sáng tạo của toàn bộ hệ thống trong thời gian tới BIDV sẽ áp dụng nhiều hình thức tiết kiệm mới, phù hợp để bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. * Đối với kỳ phiếu và trái phiếu: + Phát hành kỳ phiếu có mục đích: Là hình thức huy động vốn trung và dài hạn mà BIDV đã áp dụng khá linh hoạt trong thời gian qua. Để phát huy thế mạnh của nghiệp vụ này, Em xin đề xuất một số ý kiến sau: Thứ nhất: Hiện nay BIDV phát hành kỳ phiếu mang tính đơn điệu về lãi suất ( lãi suất cố định cho BIDV trung ương ấn đinh). Do đó, để mở rộng nghiệp vụ này BIDV cần nghiên cứu và thử nghiệm các loại kỳ phiếu mới như: Kỳ phiếu có lãi suất điều chỉnh, kỳ phiếu có lãi suất thả nổi,... mà chúng ta đã đề cập ở chương I. Thứ hai: Để tạo tính lỏng cho công cụ này thì BIDVcần cho phép các chi nhành thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, mau một nơi có thể chiết khấu nhiều nơi. Được vậy người mua kỳ phiếu chắc chắn sẽ hài lòng vì được hưởng lãi suất cao và có thể có tiền ngay khi cần thiết, mà Ngân hàng cũng có nhiều thuận lợi. Thứ ba: Hiện nay BIDV phát hành kỳ phiếu với hai loại chứng chỉ là vô danh và có danh. Trong hai loại này lại có sự khách biệt về phương thức trả lãi ( loại vô danh không áp dụng trả lãi định kỳ), vậy có nên chăng vẫn duy trì sự phân biệt này? Bởi lẽ dân chúng mua kỳ phiếu bao giờ cũng muốn hưởng lãi cao và có nhiều tiện ích nhất. *Phát hành tráiphiếu:: n nnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnn Trái phiếu là công cụ huy động vốn dài hạn khá hiệu quả của BIDV nhằm tài trợ cho các dự án, các công trình trọng điểm của Đảng và Nhà nước. trong thời gian qua, thông qua nghiệp vụ này, BIDV đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, để khai thác tối đa tiềm năng vốn của nền kinh tế thì việc đa dạng hoá công cụ này là rất cần thiết, Em xin đề cập một số hướng đa dạng hoá sau: Thứ nhất, mệnh giá trái phiếu BIDV phát hành còn nghèo nàn ( trái phiếu VND mới chỉ có hai mệnh giá là 5 triệu đồng và 10 triệu đồng; trái phiếu USD cũng chỉ có hai loại là 1000 USD và 500 USD). Vì vậy để trái phiếu BIDV có thể vươn tới mọi đối tượng khách hàng thì việc đa dạng hoá mệnh giá là rất cần thiết. Với trái phiếu VND có thể đưa ra các mệnh giá như: 500.000 VND, 1 triệu, 2 triệu, 3 triệu,... 20 triệu hoặc nhiều hơn; với trái phiếu USD có thể đưa ra các mệnh giá: 100USD, 200USD,... 1000USD hoặc nhiều hơn. Sự đa dạng vè mệnh giá của trái phiếu chắc chắn sẽ được mọi tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng bởi một lẽ đơn giản là phù hợp với túi tiền của và được hưởng lãi cao hơn so với các hình thức đầu tư khác. Thứ hai: Nếu theo thông lệ quốc tế thì trái phiếu BIDV phát hành là trái phiếu nhằm huy động vốn trung hạn ( kỳ hạn dài nhất hiện nay là 5 năm). Do đó việc nghiên cứu để phát hành trái phiếu nhiều kỳ hạn và theo thông lệ quốc tế là rất cần thiết trong thời gian tới. BIDV có thể nghiên cứu các kỳ hạn như: 6 năm, 7 năm,... 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nếu có thể. Song vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và Ngân hàng kinh doanh có lãi. Ngoài ra, BIDV cũng cần có sự nghiên cứu và xin phép Chính phủ, NHNN để phát hành các loại trái phiếu như: Trái phiếu có lãi suất có thể điều chỉnh, trái phiếu dài hạn có thể chuyển đổi sang công cụ nợ khác,... tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi đối tượng khách hàng có tiền đều có thể mua trái phiếu của Ngân hàng. Có thể nói đa dạng hoá và cung cấp các tiện ích kèm theo trong nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu là một phương thức hữu hiệu, thôi thúc dân chúng gửi tiền với kỳ hạn dài vào BIDV. Chính vì vậy toàn bộ hệ thống BIDV cần nỗ lực tìm tòi để thoả mãn tối đa nhất mọi nhu cầu gửi tiền của dân chúng, góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng của nguồn vốn trung và dài hạn trong tương lai. * Đối với các hình thức huy động vốn trung và dài hạn khác như: Huy động vốn từ chủ sở hữu, vay trung và dài hạn, nhận tài trợ uỷ thác đầu tư thì vấn đề đa dạng hoá gặp nhiều khó khăn. Song BIDV có thể nỗ lực, năng động trong việc thu hút các nguồn vốn vay thông qua kiến nghị với Nhà nước tăng thêm vốn điều lệ, tăng bổ sung thêm quỹ đầu tư phát triển, mở rộng mối quan hệ hữu hảo với các định chế tài chính trong nước ( các công ty Bảo hiểm, Ngân hàng ...) và nước ngoài, chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ uỷ thác,... Qua đó từng bước nâng cao vốn của chủ, có thể vay mượn vốn trung và dài hạn khi cần thiết với chi phí hợp lý. 5- Tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng cáo: Ngày nay tuyên truyền, quảng cáo là hoạt động cần thiết của kinh doanh nói chung và kinh doanh Ngân hàng nói riêng. Nó vừa là một phương tiện, phương pháp kỹ thuật, nghệ thuật vừa là công cụ để nối liền hoạt động kinh doanh của NHTM với thị trường. Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền quảng cáo đã được BIDV triển khai trên bề rộng nhưng hiệu quả công tác này chưa thực sự được chú trọng nâng cao, để góp phần mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong thời gian tới thì công tác tuyên truyền, quảng cáo cần được quan tâm hơn, Em xin đề xuất một số ý kiến để tăng cường hiệu quả của công tác này. * BIDV cần thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của mình trên cá phương tiện thông tin đại chúng ( truyền hình, đài báo, tạp chí...) với những thông tin cần thiết kèm theo như: lãi suất, kỳ hạn... Trong đó cần có những khoản mục để Ngân hàng có thể tiếp nhận ngay thông tin phản hồi từ công chúng, hay để công chúng dễ liên hệ và giao dịch với Ngân hàng như: Số điện thoại, địa chỉ giao dịch,... Thông tin phải đầy đủ nhưng phải tiết kiệm chi phí. * Tạo dựng và duy trì hình ảnh cá nghiệp vụ huy động cũng như Ngân hàng trong con mắt xã hội và với khách hàng tiềm năng thông qua nhân viên Ngân hàng như: Thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, thái độ lịch sự, hướng dẫn nhiệt tình, vui vẻ. Bên cạnh đó có thể tổ chức Hội nghị khách hàng để nắm nguyện vọng và phổ biến chế độ, chính sách Ngân hàng cho khách hàng * Tham gia vào các tổ chức mang tính yểm trợ như: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng ASEAN, Hiệp hội Ngân hàng Châu á, tham gia các Hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế,... qua đó nhằm nâng cao uy tín, đảm bảo khả năng an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Trên đây là một số giải pháp cơ bản mà BIDV cần xem xét, nghiên cứu và thực hiện nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn, góp phần thực hiện tốt nghiệp vụ truyền thống cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, những giải pháp trên chỉ có thể thực hiện được và có hiệu quả trong một môi trường vĩ mô phù hợp. Vì vậy, bên cạnh những giải pháp đã đề cập thì việc kiến nghị với Nhà nước, với NHNN để hoàn thiện môi trường vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công tác mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV trong thời gian tới là rất cần thiết. B- Các kiến nghị: 1- Đối với Nhà nước Chúng ta có thể nhận thấy chỉ có một phần tiết kiệm trong nước được sử dụng cho đầu tư trực tiếp, còn lại nằm dưới dạng nhàn rỗi. Muốn khai thác hết tiềm năng này và nâng sức cạnh tranh thu hút vốn từ thị trường quốc tế, Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, hoàn thiện môi trường pháp lý trong lĩnh vực Ngân hàng, củng cố lại hệ thống NHTM. * ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Đây là tiền đề quan trọng số một để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn. Đối với Việt Nam hiện nay thì những điều kiện quan trọng để tạo nên sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là: ổn định chính trị, ổn định tiền tệ và có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. - ổn định chính trị: Duy trì sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng thúc đẩy huy động vốn có hiệu quả. Một nền chính trị được kiến tạo vững chắc, có thiết chế hợp lý, được quần chúng nhân dân tin yêu và hoàn toàn ủng hộ thì những chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực huy động vốn sẽ dễ dàng được thực hiện. Ngược lại, sự bất ổn địnhvề chính trị xã hội sẽ tạo nên những hoài nghi của dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước về chế độ, chính sách và làm cho họ e ngại trong khi bỏ vốn đầu tư. - ổn định tiền tệ: Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ thuận lợi hơn. Người dân sẽ an tâm hơn khi gửi tiền với kỳ hạn dài vào các định chế tài chính trong nền kinh tế. Muốn vậy đòi hỏi Nhà nước cần duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, đảm bảo lãi suất thực “ dương” cho người gửi tiền; có chính sách tỷ giá ổn định và linh hoạt, tránh các đột biến làm giảm sức mua của nội tệ. - Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn: Chính phủ cần có các chính sách ngoại giao, tiết kiệm và đầu tư một cách phù hợp, giảm bớt hệ thống quản lý hành chính cồng kềnh, tăng cường tính độc lập của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Bên công nghệ đó, Nhà nước cũng cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là ở các doanh nghiệp Nhà nước bằng cách đầy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Tránh tình trạng đầu tư dàn trải, tham ô, lãng phí, lãi giả lỗ thật,... làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. * Hoàn thiện môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý trong lĩnh vực Ngân hàng đã từng bước được hoàn thiện trong thời gian qua. Sự ra đời của luật Ngân hàng đã tạo điều kiện cho môi trường hoạt động kinh doanh của NHTM thuận lợi hơn, từng bước hoà nhập với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó sự ra đời của “ Bảo hiểm tiền gửi” trong năm 2000 đã củng cố thêm niềm tin của quần chúng vào hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên để khai thác hết tiềm năng vốn nhàn rỗi trong nước và ngoài nước, mở rộng huy động vốn trung và dài hạn qua NHTM thì Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý theo hướng sau: - Song song với việc đưa luật Ngân hàng vào thực tiến thì Nhà nước cần kết hợp với các luật khác như: Luật doanh nghiệp, luật ngân sách, luật thương mại nhằm tạo ra hệ thống luật hoàn thiện, chi tiết và công bằng. - Nhà nước cầm sớm nâng các quy định về quảng cáo, cạnh tranh thành luật để tạo ra “ sân chơi” bình đẳng cho các NHTM. * Củng cố lại hệ thống NHTM Để nâng cao chất lượng hoạt động và tiến tới hội nhập với NHTM trong khu vực và trên thế giới thì việc cải cách và củng cố lại hệ thống NHTM Việt Nam là rất cần thiết. Nhà nước cần củng cố theo hướng sau: - Đối với NHTM quốc doanh: Nhà nước cần cấp đủ, bổ sung thêm vốn điều lệ để tăng năng lực tài chính cũng như tăng sức mạnh cạnh tranh để hào nhập với xu thế chung cảu các NHTM trong khu vực; cần có sự tách bạch giữa cho vay chính sách và cho vay thương mại, trừ một số trường hợp nhất định ( phải được Bộ Tài chính bảo lãnh); việc tái cấp vốn phải căn cứ vào thực trạng hoạt động của aNHTM theo tiêu chuẩn quóc tế để có báo cáo chính xác với NHNN và Bộ tài chính. Ngoài ra, Nhà nước cần giảm tỷ lệ thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước ( hiện nay là 6%) xuống một tỷ lệ thấp hơn và về lâu dài thì nên xoá bỏ tỷ lệ thu này để tăng vốn tự có cho các Ngân hàng. - Đối với các NHTM ngoài quốc doanh: Nhà nước cần có sự quản lý, thanh tra giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các NHTM này. 2- Đối với Ngân hàng Nhà nước Nhằm hướng tới mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế, đặc biệt là “ kênh” qua NHTM thì NHNN cần có những chính sách mềm dẻo, linh hoạt theo hướng sau: * Khởi thảo và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt. trong đó cần khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các NHTM và tổ chức tín dụng cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh doanh. NHNN cần dùng lãi suất làm “ đòn bẩy” thúc đẩy các NHTM chú trọng huy động vốn trung và dài hạn. * NHNN cần tăng cường phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ cức Chính phủ và phi chính phủ nước ngoài, nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài chảy qua “kênh” NHTM. * NHNN cần có những hướng dẫn cụ thể về các hình thức huy động vốn trung và dài hạn như: Tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng,... Cần có những quy định cụ thể về áp dụng lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài 10 năm, 20 năm... * NHNN cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các tổ chức tín dụng bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua đó nhằm giúp khách hàng có được hướng giải quyết đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với Ngân hàng. * Duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thích hợp bằng cách NHNN tăng cường kiểm soát việc cho ra đời các tổ chức tín dụng mới cũng như việc mở thêm chi nhánh và các phòng giao dịch của tổ chức tín dụng. Tóm lại, để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong thời gian tới thì đòi hỏi hệ thống BIDV nghiên cứu, triển khai và thực hiện linh hoạt, đồng bộ nhiều giải pháp. Đồng thời Nhà nước cũng như NHNN cần có những chính sách thiết thực, vừa khuyến khích NHTM huy động vốn trung và dài hạn vừa khơi dậy được tiềm năng vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế Kết luận Vốn trung và dài hạn có vai trò hết sức quan trọng trong quá tình phát triển kinh tế, là cơ sở cho sự thành công của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Do vậy, việc mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV trong thời gian tới là rất cần thiết. Qua đó nhằm tạo dựng nguồn vốn vững chắc cho sự phát triển bền vững của Ngân hàng, đồng thời góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội. Trong giai đoạn từ năm 1998-2000, BIDV đã có những thắng lợi bước đầu trong công tác huy động vốn trung và dài hạn. Nhưng nếu Ngân hàng phát huy hết lợi thế của mình và thực thi những giải pháp sát thực, hữu hiệu thì BIDV sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa. Đồng thời, để huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV ngày càng mở rộng thì đòi hỏi Nhà nước, NHNN phải có chính sách khuyến khích, hỗ trợ hợp lý. Danh mục tài liệu tham khảo 1- Luật các TCTD, các văn bản hướng dẫn của BIDV. 2- Báo cáo thường niên 19981999 của BIDV. 3- Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ năm 2001 của BIDV. 4- Định hướng phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn 2001-2005 của Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 4/2000 5- tạp chí Ngân hàng các số năm 1998,1999,2000 6- Thời báo kinh tế, 1999,2000 7- Ngân hàng thương mại, Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải. 8- Frederic S. Mishkin: Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa học kỹ thuật, 1991. 9- Edward W.Reed, Ph. D và Edward K.Giu Ph.D nghiệp vụ Ngân hàng thương mại Ban kiểm soát Kiểm tra nội bộ Kế toán Thanh toán tập trung T.Tin phòng ngừa RR Điện toán ứng dụng- xử lý T.Tin Thanh toán quốc tế Tài chính Quan hệ quốc tế Ngân hàng đại lý Ban nghiên cứu Văn phòng đại diện Kế hoạch- phát triển Chứng khoán Nguồn vốn-Kinhdoanh Tổ chức cán bộ Tiền lương thi đua Pháp chế Chế độ T. tin tuyên truyền Kiểm toán nội bộ Đào tạo Văn phòng Tín dụng 4 Tín dụng 5 Bảo lãnh Tín dụng 3 Tín dụng 2 Tín dụng 1 Thẩm định Ban thư ký Hội đồng tín dụng Hội đồng quản trị Ban tổng Giám đốc Sơ đồ tổ chức tại BIDV Trung ương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34216.doc
Tài liệu liên quan