LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu và đang diễn ra rất mạnh mẽ, cùng với đó là sự phát triển ngày càng đa dạng của các loại hình sản xuất kinh doanh, trong đó có lĩnh vực tài chính. Tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Nằm trong guồng quay chung của sự phát triển nền kinh tế khu vực và thế giới - các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) cũng không tránh được sự chi phối đó. Để đảm bảo cho sự tồn tại
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phát triển của các DNNVV thì nguồn lực tài chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất, giúp các DNNVV nắm bắt được các cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được khả năng trả nợ và các DNVVV luôn được xem là đối tượng khách hàng chứa đựng quá nhiều rủi ro. Với đặc điểm của các DNVVN là quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, thiếu tài sản thế chấp, khả năng xây dựng các dự án có tính khả thi còn yếu, số liệu thông tin kế toán chưa đáng tin cậy… nên các doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Đó cũng là lý do mà các DNVVN khó tiếp cận được vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại và đang là một trở ngại lớn cho các DNVVN hiện nay.
Việc ngày càng mở rộng về quy mô của hệ thống các ngân hàng cộng với môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển DNVVN là nhiệm vụ hết sức rất cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Không ngoại trừ xu thế đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình (NHNo &PTNT) đã không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hoá cung ứng sản phẩm dịch vụ bằng các chiến lược và chính sách ưu đãi nhằm thu hút khách hàng mới. Việc hướng các sản phẩm dịch vụ vào các DNVVN, đặc biệt là các sản phẩm cho vay đối với doanh nghiệp đã đem lại cho NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình doanh số hoạt động đáng kể, điều này góp phần nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính nói chung và hệ thống các ngân hàng thương mại nói riêng.
Xuất phát từ kết quả đạt được và những gì chưa làm được và để định hướng cho thời gian tới NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình cần có những giải pháp như thế nào nhằm hướng việc cung ứng sản phẩm cho vay vào các DNVVN một cách có hiệu quả hơn, quy mô hơn. Tôi chọn nghiên cứu đề tài:
"Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình".
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài chia thành 3 chương.
Chương 1: Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM đối với DNVVN - những vấn đề cơ bản
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại NHNo& PTNT tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay DNVVN tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình
Chương 1
MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế Việt Nam, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan trọng, đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… Các DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần… kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Chiếm tỷ trọng tương đối cao, trên 90% tổng doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô. Mặc dù chiếm tỷ trọng lớn như thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn và lao động.
Tuỳ theo đặc điểm và quy định của mỗi nước mà DNVVN được định nghĩa theo các cách khác nhau. Tuy nhiên DNVVN được định nghĩa một cách chung nhất: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân; kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận; có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia (Nguồn: Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam của Nguyễn Đình Hương - Nhà xuất bản thống kê 2002).
Ở Việt Nam, DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô vốn và lao động tuỳ theo quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo quy định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001 thì DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.1.2 Đặc điểm
- DNVVN có cơ cấu tổ chức đơn giản, linh hoạt.
Các DNVVN thường có cơ cấu tổ chức đơn giản, số lượng lao động ít vì thế các doanh nghiệp này rất năng động linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc thâm nhập được vào thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều thành công. Lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ thu được tối đa khi sản phẩm hàng hoá đang trong giai đoạn tăng trưởng, và khi sản phẩm hàng hoá đến giai đoạn suy thoái, bị thị trường từ chối thì các DNVVN với quy mô vừa hoặc nhỏ sẽ dễ dàng chuyển hướng sản xuất, lựa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất, phù hợp nhất với khả năng của mình. Hơn nữa, những người điều hành quản lý doanh nghiệp phần lớn là chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc là người góp vốn lớn nhất nên họ được toàn quyền ra tất cả các quyết định có liên quan đến doanh nghiệp. Cũng do hoạt động hẹp, chủ sở hữu vừa là người đầu tư vừa là người quản lí nên các doanh nghiệp này được tự do hành động. Sự gắn bó sát sao của chủ doanh nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập trung hết trí lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì họ có khả năng tự quyết nên họ có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi, tạo điều kiện cho khả năng thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự thay đổi của khoa học kĩ thuật. Còn đối với các doanh nghiệp lớn, do quy mô lớn cả về lao động và vốn nên thiếu sự linh động, khó phản ứng kịp thời với những biến động của thị trường, mà hầu hết các doanh nghiệp này thường có chủ sở hữu là Nhà nước nên bị động trong sản xuất kinh doanh, chiến lược kinh doanh phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, vì thế có lúc mục tiêu lợi nhuận phải nhường chỗ cho mục tiêu phát triển.
- Mặc dù là nơi tạo việc làm chủ yếu trong mọi lĩnh vực. Mỗi năm thu hút
hàng triệu lao động nhưng hầu hết chất lượng lao động trong các DNVVN rất thấp vì các doanh nghiệp này thường tận dụng nguồn lao động rẽ tại địa phương, họ ít được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ do đó hiệu quả lao động chưa cao. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có vốn ít nên hiếm có các chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao động của doanh nghiệp.
- Nói đến DNVVN ở Việt Nam chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế nên hầu hết các DNVVN ở nước ta đều thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực này mang tính đại diện cho DNVVN .
- Các DNVVN phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp như hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên các DNVVN cung cấp một khối lượng sản phẩm đa dạng cho xã hội. Đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì sự phát triển của các DNVVN là cách thức tốt nhất để sản xuất hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu. Nhờ quy mô nhỏ, chi phí sản xuất kinh doanh thấp vì tận dụng được nguồn lao động, nguyên vật liệu rẻ tại địa phương, nên các DNVVN có khả năng chuyên môn hoá sâu, có thể sản xuất một mặt hàng thay thế nhập khẩu có chất lượng tốt, giá thành phù hợp với sức mua của nhân dân từ đó góp phần ổn định đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường…
Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ thuật tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện đại là rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả năng huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ.
- Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài chính có hạn, DNVVN thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng như ít có khả năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác, phần lớn các DNVVN được thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản lý của họ có hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường. Các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể trả lương cao cho người lao động nên khó có khả năng thu hút những người lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp.
- Các DNVVN có năng lực tài chính thấp.
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữư thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo được năng lực bằng uy tín kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Vì thế DNVVN rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại thì các DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng dự báo trước những sự biến động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây dựng các kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh của không ít DNVVN còn yếu trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác, không ít các DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ quan Thuế nên đã cố tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ… Một số doanh nghiệp còn làm trái chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết… Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp cận vốn tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như vậy với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận các nguồn tài chính lại khó khăn nên tiềm lực tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả năng cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường không cao lắm.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng với môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
1.1.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNVVN có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như: giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, giữ vai trò ổn định nền kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động, tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng, là trụ cột của kinh tế địa phương… Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay để góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thì yêu cầu các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN. Có như vậy mới huy động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Điều đó được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, Về số lượng: Các DNVVN là bộ phận kinh tế chiếm ưu thế tuyệt đối, có mặt ở hầu hết mọi thành phần kinh tế với đủ các loại hình kinh doanh đa dạng. Ở nước ta các DNVVN chiếm tỷ trọng trên 90% tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế, con số này còn ở mức cao hơn ở một số nước phát triển như Đức, Nhật. Đối với một số nước Châu Á như Singapo, Malaixia, Hàn Quốc… các DNVVN chiếm từ 81- 98% tổng số doanh nghiệp (Nguồn: Thông tin DNVVN - www.smenet.com.vn). Như vậy, mới chỉ nhìn vào những con số này chúng ta đã thấy được vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế quan trọng như thế nào. Với số lượng như vậy, hàng năm các DNVVN đóng góp rất đáng kể vào GDP của cả nước (khoảng 25% GDP), giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì có thể thấy rằng tiềm năng phát triển để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra trong giai đoạn tới phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các DNVVN chứ không chỉ phụ thuộc vào các chương trình dự án lớn.
Thứ hai, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động, tạo công ăn việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp góp phần ổn định và phát triển xã hội.
Ở nước ta theo ước tính hàng năm các DNVVN thu hút khoảng 7,8 triệu lao động tương đương với 26% lao động của cả nước; trong đó số lao động được thu hút vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (35,7%), sau đó đến các ngành thương mại - dịch vụ (19,5%), xây dựng (15,6%)… Con số này cho thấy vai trò của DNVVN lớn hơn rất nhiều so với DNNN trong việc thu hút lao động, tạo công ăn việc làm góp phần giải quyết tốt sức ép thất nghiệp đang ngày càng gia tăng.
Thứ ba, Nhờ việc thu hút hàng triệu lao động mỗi năm các DNVVN đã tạo ra nguồn thu nhập ổn định thường xuyên cho dân cư, góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ.
Phần lớn các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế lớn thường chỉ tập trung đáp ứng nhu cầu của một nhóm khách hàng nhất định có mức thu nhập cao ở các vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, dân cư đông đúc, thị trường tiêu thụ rộng. Vì thế họ đã bỏ qua đoạn thị trường rất quan trọng đó là bộ phận khách hàng có mức thu nhập thấp hơn nhưng lại chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế. Đây là đoạn thị trường có tiềm năng rất lớn để cho các DNVVN xâm nhập, tạo chỗ đứng cho riêng mình nhưng đồng thời nó cũng giúp cân đối được khả năng cung cầu trong xã hội, đáp ứng được cho nhu cầu phần lớn cho bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp, nâng cao mức sống cho họ. Hơn nữa các doanh nghiệp lớn không đáp ứng được tất cả các yêu cầu của nền kinh tế như lưu thông hàng hoá, phát triển ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp… Trong khi đó các DNVVN với quy mô nhỏ; cấu tổ chức đơn giản, linh hoạt; mặt khác vốn của hầu hết các doanh nghiệp này là do những chủ thể kinh doanh tự nguyện bỏ ra, hoặc do các cổ đông đóng góp hoặc do liên doanh liên kết… vì thế họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có quyền quyết định ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng, trình độ cũng như nhu cầu thị trường. Đây là những điều kiện quan trọng giúp các DNVVN từng bước khai thác những tiềm năng của các vùng miền mà các doanh nghiệp lớn không thể tiếp cận được; góp phần làm giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng của đất nước, cải thiện mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực khác nhau.
Thứ tư, DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính của dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương. Để thành lập doanh nghiệp thuộc loại này thì chỉ cần một số vốn nhỏ do đó đã tạo điều kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn. Như vậy thông qua DNVVN những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh lời. Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng của DNVVN rất hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những nguồn thân quen. Vì thế DNVVN được tiếp xúc với người cho vay, người cho vay có khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các DNVVN có thể tận dụng được nguồn lao động và nguyên liệu với giá rẻ, do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, sự phát triển của các DNVVN đã tận dụng được tối đa các nguồn lực của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ tay nghề thấp, góp phần làm ổn định và phát triển xã hội.
Thứ năm, DNVVN có mặt trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Nó có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. DNVVN là một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, là cơ sở để hình thành nên các tập đoàn kinh tế lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, các DNVVN cũng là đầu mối cung cấp đầu vào hay tham gia vào một khâu nào đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Chính điều này đã làm tăng khả năng hoạt động cho các doanh nghiệp trên thị trường, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Thứ sáu, DNVVN góp phần hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động, sáng tạo. Cùng với việc phát triển các DNVVN là sự xuất hiện của nhiều nhà kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, đây là lực lượng rất cần thiết góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở nước ta phát triển. Đội ngũ các nhà kinh doanh hiện nay ở Việt Nam còn rất khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng do chế độ cũ để lại. Trong nhiều năm đổi mới đã xuất hiện nhiều gương mặt trẻ điển hình, năng động và sáng tạo trong quá trình điều hành, quản lý DNVVN. Với chính sách hỗ trợ các DNVVN sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ các nhà kinh doanh trẻ phát huy năng lực của mình đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.
Thứ bảy, Sự phát triển của các DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào quá trình sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường cạnh tranh. Những yếu tố đó tác động lớn làm cho nền kinh tế phát triển năng động và hiệu quả hơn.
Với vai trò to lớn của các DNVVN trong nền kinh tế quốc dân thì việc khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp này là một giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, đặc biệt là thực hiện chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đây cũng là một trong các giải pháp đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần đưa ra các chính sách phát triển hợp lý tạo điều kiện tốt nhất để các DNVVN phát huy được tối đa vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2 Vai trò của NHTM trong hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại. Đây không chỉ là khoản sử dụng vốn lớn nhất của ngân hàng, mà còn là nguồn tạo ra thu nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lợi. Hơn thế nữa, chính chức năng cho vay này có thể dẫn đến những rủi ro lớn nhất mà các ngân hàng nói chung phải chấp nhận. Sự sụp đổ của một ngân hàng thương mại thường có liên hệ với những vấn đề tồn tại trong danh mục các khoản cho vay hơn là từ sự thua lỗ ở các loại tài sản có khác. Phần lớn quỹ của ngân hàng đều được dùng để cho vay; mức doanh lợi chủ yếu được sản sinh từ các khoản cho vay, và gánh nặng rủi ro kinh doanh cũng tập trung ở đây.
Cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối với nền kinh tế đất nước và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng xã hội của ngân hàng trong nền kinh tế. Cho vay là lý do tồn tại cơ bản đối với ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng là nhu cầu cần thiết của tất cả các chủ thể và thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Việc đáp ứng nhu cầu tín dụng này có thể được xem như là một cam kết hay nghĩa vụ xã hội của ngân hàng trong khuôn khổ của khả năng sinh lợi và rủi ro. Hệ thống ngân hàng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho việc mua hàng hóa và dịch vụ và để hỗ trợ cho đầu tư (như xây dựng nhà cửa, xa lộ, cầu cống và những công trình kiến trúc khác, cũng như để mua máy móc và thiết bị). Đầu tư làm gia tăng năng suất các nguồn của cải xã hội và tạo ra mức sống cao hơn cho cá nhân và gia đình. Khi tín dụng ngân hàng khan hiếm và chi phí cao thì chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng. Các biến động về tín dụng ngân hàng cũng có tác động lên lạm phát. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì tiền gửi ngân hàng là một trong những thành phần lớn nhất của cung tiền tệ được sử dụng bởi công chúng và những thay đổi về cung tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với những thay đổi về giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Còn tiền gửi vào ngân hàng lại có mối liên hệ với các khoản cho vay của ngân hàng. Các khoản cho vay gần như luôn luôn được thực hiện bằng cách nâng số dư tài khoản của khách hàng nếu như khách hàng đó có sẵn tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, hoặc bằng cách mở một tài khoản tiền gửi cho số tiền vay nếu người vay là một khách hàng mới. Như vậy, khi một ngân hàng cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp vay, thì nó tạo ra trên sổ sách của nó một tài khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người đi vay, nghĩa là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay.
Hoạt động cho vay có tính phức tạp, vì chức năng cho vay đóng vai trò cơ bản đối với các ngân hàng, và mức độ rủi ro ở từng khoản cho vay có nhiều khác biệt. Ngân hàng phải đánh giá lợi tức mang lại và những đặc điểm rủi ro của các khoản cho vay và phải thẩm định mức độ hấp hẫn tương đối giữa các loại cho vay khác nhau.
1.2.3 Các phương thức cho vay của NHTM đối với các DNVVN
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định.
1.3 Mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1 Khái niệm mở rộng cho vay DNVVN
Mở rộng cho vay là thuật ngữ phản ánh quy mô cho vay của các Ngân hàng thương mại được mở rộng với điều kiện có thể, song phải đảm bảo mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN phản ánh mức sinh lời và độ an toàn của ngân hàng trong công tác cho vay đối vơi DNVVN .
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, để quyết định bỏ vốn tài trợ vào một dự án nào đó các ngân hàng phải đứng trước hai sự lựa chọn là lợi nhuận và rủi ro. Mức rủi ro càng cao thì khả năng sinh lời càng lớn. Vì thế đứng trước một quyết định cho vay, ngân hàng có thể theo đuổi mục tiêu lợi nhuận cao hay thấp, song phải xác định được mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lợi để đảm bảo.
Đối với bất kỳ một ngân hàng nào thì cho vay bao giờ cũng được coi là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cao nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đe doạ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, mở rộng hoạt động cho vay cùng với nâng cao hiệu cho vay trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều kiện tiên quyết quyết định sự tồn tại và phát triển không chỉ riêng cho bản thân mỗi ngân hàng mà còn cho cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
1.3.2 Tác dụng của mở rộng hoạt động cho vay của NHTM đối với DNVVN
DNVVN đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN đang gặp phải nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và chịu áp lực cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các DNVVN phát triển trong điều kiện năng lực tài chính, quy mô nhỏ bé nên việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh tài chính và khả năng cạnh tranh cho các DNVVN.
Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, cho vay, đầu tư, thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản…) đã đến với cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế trong khi tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào cản. Nguyên nhân là phần lớn DNVVN thành lập với số vốn nhỏ, hoạt động chưa ổn định, một số DNVVN sau một thời gian kinh doanh đã rút lui, thay tên đổi chủ (doanh nghiệp ma) gây nên tâm lý lo ngại cho các NHTM khi tiếp cận đối tượng khách hàng này. Hiệu quả sản xuất kinh doanh DNVVN bị hạn chế, khả năng sinh lời thấp, hoàn trả vốn khó khăn tạo cho các ngân hàng tâm lý ngại tiếp cận. Một bộ phận nhỏ DNVVN hoạt động mang tính lừa đảo; các dự án sản xuất kinh doanh thiếu tính khả thi, thiếu tính chiến lược kinh doanh, chưa tạo lập được uy tín đối với ngân hàng do đó các NHTM ngại tiếp cận với loại hình kinh doanh này vì độ rủi ro quá cao. Hơn nữa, rất nhiều NHTM hiện nay, đặc biệt là các NHTM Nhà nước còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng còn thiếu thông tin về DNVVN, mặt khác năng lực thẩm định dự án còn nhiều hạn chế nên họ chưa sẵn sàng tiếp cận với bộ phận khách hàng quá rủi ro này.
Như vậy, với thực trạng đó thì việc mở rộng hoạt động cho vay các DNVVN là một sự cần thiết bởi nếu có chính sách hỗ trợ tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì hoạt động cho vay của ngân hàng cũng sẽ có hiệu quả. Việc mở rộng cùng với nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN không chỉ mang đến cho ngân hàng nguồn thu nhập cao, tránh được rủi ro cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận được nguồn vốn lớn phục vụ cho sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.3.2.1 Đối với Ngân hàng thương mại
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng.
DNVVN là bộ phận khách hàng lớn, chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, DNVVN trở thành một bộ phận tiềm năng lớn để cho các NHTM tiếp cận với đối tượng khách hàng này. Việc mở rộng hoạt động cho vay giúp cho các NHTM đánh giá được từng đối tượng khách hàng, phân loại được từng đối tượng khách hàng giúp ngân hàng tránh được rủi ro và chính điều đó cũng làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các NHTM trong quá trình đánh giá hiệu quả cho vay sẽ phân loại từng đối tượng khách hàng, từ đó có các chính sách ưu đãi về lãi suất và điều kiện vay vốn đối với từng doanh nghiệp để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình làm tăng thu nhập cho ngân hàng.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay hoàn thiện hơn.
Mở rộ._.ng cho vay DNVVN giúp ngân hàng chú trọng kiểm soát tốt hơn rủi ro từ hoạt động cho vay. Thông qua việc xác định được những nguyên nhân chủ yếu tác động đến hiệu quả cho vay DNVVN, ngân hàng sẽ hoàn thiện hơn trong công tác cho vay. Từ đó giúp ngân hàng rút ra những kinh nghiệm trong phân tích đánh giá khách hàng, trong quá trình thực hiện nghiệp vụ như đưa ra các cơ cấu nợ hợp lý, đưa ra mức lãi suất và thời hạn nợ phù hợp với từng đối tượng khách hàng… đồng thời cũng giúp các ngân hàng thu thập được nhiều thông tin hơn về khách hàng, giúp cho việc kinh doanh có hiệu quả hơn. Ngoài ra, để hoạt động cho vay thực sự mang lại hiệu quả hơn nữa thì bên cạnh các sản phẩm tín dụng truyền thống các NHTM cần phát triển các dịch vụ đi kèm. Có như vậy thì số lượng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng gia tăng phong phú hơn, tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính.
1.3.2.2 Đối với doanh nghiệp
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng thuận lợi hơn.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN buộc các ngân hàng phải đưa ra được các biện pháp phòng tránh những rủi ro có thể xảy ra nhưng vẫn đem đến cho ngân hàng mức lợi nhuận có thể chấp nhận được. Tức là ngân hàng đã sẵn sàng đương đầu với những rủi ro có thể xảy ra khi cho vay DNVVN, vì vậy các DNVVN có cơ hội tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng quan trọng này. Trong quá trình hoạt động sản xuất của mình, vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả hơn nếu có một cơ cấu vốn tối ưu. Đặc điểm nổi bật nhất của các DNVVN là vốn chủ sở hữu thấp nên vốn vay là nguồn vốn cực kỳ quan trọng. Có thể vay vốn dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại hoặc phát hành trái phiếu, hoặc thông qua các quỹ hỗ trợ… Nhưng hầu hết các DNVVN lại không đủ điều kiện để phát hành trái phiếu, các quỹ hỗ trợ chưa được quan tâm vì thế nguồn vốn vay từ các NHTM được xem là nguồn vô cùng quan trọng đối với các DNVVN. Khi DNVVN tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng thì quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên thuận lợi hơn, cùng với đó hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ đem lại hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cả ngân hàng và doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ trước khi quyết định cho vay và vay, cần xác định tỷ lệ vốn vay hợp lý để tránh được rủi ro cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng không bỏ qua cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Khi đi vay doanh nghiệp phải chịu áp lực trả nợ khi đến hạn. Do đó, buộc các doanh nghiệp phải tính toán chính xác chi phí sản xuất kinh doanh, tốc độ quay vòng của vốn, giá thành sản phẩm… sao cho sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh doanh nghiệp không chỉ thu đủ để trả nợ ngân hàng mà còn có lợi nhuận mang lại. Để làm tốt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng hạch toán kinh doanh, tổ chức kinh doanh, sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN buộc công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp phải rõ ràng minh bạch hơn.
Các báo cáo tài chính là những tài liệu quan trọng không thể thiếu trong hồ sơ xin vay vốn của các doanh nghiệp. Thông qua đó ngân hàng có thể phân tích, thẩm định, đánh giá năng lực tài chính cũng như khả năng kinh doanh của doanh nghiệp để đưa ra các quyết định cho vay hay không. Nếu các báo cáo thiếu tính minh bạch, không rõ ràng, không chứng minh được khả năng tài chính lành mạnh của doanh nghiệp thì sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc vay vốn. Vì thế, doanh nghiệp khi đi vay cần phải đáp ứng đầy đủ và chính xác các yêu cầu của ngân hàng để việc vay vốn dễ dàng, thuận lợi hơn, tiết kiệm được thời gian, đảm bảo kịp thời nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra đúng dự định.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN làm tăng khả năng cạnh tranh và uy tín cho các doanh nghiệp.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn nguồn vốn tín dụng ngân hàng từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao sức mạnh tài chính và khả năng cạnh tranh. Nhờ nguồn vốn vay đó doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng các quan hệ hợp tác từ đó tạo uy tín lớn cho doanh nghiệp trên thương trường.
1.3.2.3 Đối với nền kinh tế
Việc mở rộng hoạt động cho vay không những tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn mà còn giúp cho hoạt động của ngân hàng mang lại thu nhập đáng kể. Điều đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, mở rộng hoạt động cho vay buộc các NHTM phải có một cơ cấu vốn, một chính sách tín dụng hợp lý nhằm giải quyết các mối quan hệ cung cầu trong nền kinh tế một cách phù hợp và hiệu quả; đồng thời cũng tạo điều kiện để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN tạo đà cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín cho ngân hàng; đồng thời góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, thực hiện ổn định tiền tệ.
Mở rộng hoạt động cho vay sẽ thúc đẩy sự phát triển các DNVVN; góp phần quan trọng trong việc thực hiên các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của đất nước, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng phát triển của địa phương, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội…
Như vậy, có thể nói mở rộng hoạt động cho vay DNVVN của NHTM có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với bản thân của ngân hàng và doanh nghiệp mà cho cả nền kinh tế. Mở rộng hoạt động cho vay giúp ngân hàng nâng cao mức thu nhập đồng thời giúp cho các DNVVN khắc phục được những nhược điểm về vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và ổn định xã hội.
1.3.3 Nội dung mở rộng cho vay đối với các DNVVN
Thiếu vốn là tình trạng thường xuyên xảy ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Do đó, mở rộng cho vay tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới trang thiết bị… Việc phân phối tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế tạo cho quá trình sản xuất được liên tục.
Hiện nay, với sự xuất hiện hàng loạt các loại hình ngân hàng khác nhau như: ngân hàng hợp danh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh… Điều này dẫn đến áp lực cạnh tranh, đòi hỏi các ngân hàng phải luôn luôn chú trọng tìm ra những giải pháp nhằm thắng trong cạnh tranh, nâng cao uy tín trên thị trường. Cho nên, mở rộng cho vay không những thu hút khách hàng mới mà còn phải gắn liền với chất lượng tín dụng, đảm bảo nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả.
Trên cơ sở đó, nội dung mở rộng cho vay đề cập tới một số vấn đề cần phải thực hiện như:
1.3.3.1 Mở rộng phương thức cho vay
Việc mở rộng phương thức cho vay vừa phải chặt chẽ về pháp lý, phù hợp với pháp luật nhưng an toàn về tài sản, đơn giản về thủ tục, linh hoạt chủ động cho khách hàng DNVVN tuỳ chọn cho mình một phương thức vay vốn thuận tiện trong giao dịch cũng như trong việc sử dụng vốn. Để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị truờng, việc mở rộng các phương thức cho vay không những tận dụng các ưu điểm của từng phương thức mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn, đáp ứng nhu cầu phong phú của doanh nghiệp.
Chẳng hạn:
+ Mở rộng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (HMTD).
Ưu điểm nổi bật nhất của việc cho vay theo HMTD là đáp ứng được vốn tín dụng kịp thời, đơn giản hoá trong các khâu lập hồ sơ cho vay, hồ sơ thế chấp tài sản đối với khách hàng vay vốn ngắn hạn, có nhu cầu vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, phương thức luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần.
+ Cho vay thấu chi: Đây là phương thức cho vay tốt vì nó tiết kiệm được chi phí thời gian thủ tục, DN chủ động về nhu cầu vốn kinh doanh. Phương thức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả ngân hàng và DN, bởi vì DN muốn vay theo phương thức này phải đều mở tài khoản thanh toán tại NHNo, do đó NHNo có thể kiểm soát được tình hình thu chi của doanh nghiệp để có quyết định đúng đắn có cho vay tiếp hay không, đồng thời DN sử dụng tiền vay một cách chủ động kịp thời và linh hoạt.
+ Cho vay trả góp: Rất thích hợp với các DNVVN, vừa đơn giản lại ít rủi ro bởi vì món vay được thực hiện trên những đảm bảo chắc chắn về nguồn trả nợ.
+ Cho vay khấu trừ chứng từ: Khi mà thị trường chứng khoán nước ta đang dần phát triển, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành thì nghiệp vụ chiết khấu chứng từ là nghiệp vụ được áp dụng phổ biến. Hiện nay, một số NHTM có cơ chế hướng dẫn nghiệp vụ này nhưng thực tế các ngân hàng cơ sở chỉ cho vay chiết khấu những chứng từ có thời hạn là ngắn.
Như vậy, Trong tương lai gần, khi có đầy đủ các phương tiện, trình độ của cán bộ tín dụng được nâng cao và khả năng áp ứng về tín dụng tốt hơn, NHNo nên triển khai đáp ứng đầy đủ tất cả các phương thức cho vay cho từng loại hình DNVVN nói chung và cho từng DN nói riêng.
1.3.3.2 Mở rộng sản phẩm cho vay
Mở rộng cho vay DNVVN với đầy đủ các loại vốn ngắn, trung, dài hạn đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn nhằm thu hút các dự án, các chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh. Đồng thời có chính sách thích hợp đúng đắn đối với các dịch vụ cơ bản (nghiệp vụ huy động vốn, dịch vụ cho vay, dịch vụ thanh toán) thì chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp khuếch trương mới có điều kiện thực hiện hiệu quả. Ngoài ra, phát triển các dịch vụ ngoại vi, đây là dịch vụ mang tính bổ trợ, bổ sung làm tăng thêm giá trị của dịch vụ cơ bản và có thể tạo ra sự khác biệt giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn.
1.3.3.3 Mở rộng điều kiện cho vay
DNVVN thường có quy mô hoạt động nhỏ, trình độ quản lý còn hạn chế, hệ thống sổ sách không rõ ràng, nhu cầu món vay nhỏ…Nên, mở rộng điều kiện cho vay là yêu cầu rất cần thiết giúp các DNVVN tiếp cận vốn NHNo một cách dễ dàng hơn.
+ Đổi mới quy trình cho vay: nhằm giảm bớt các thủ tục, nội dung không cần thiết; chỉnh sửa những quy định không phù hợp với thực tiễn, các quy định cần rõ ràng để tránh tình trạng hiểu sai hoặc có tình vận dụng. Cụ thể hoá thể lệ, chế độ mà NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam ban hành bằng một quy trình cho vay riêng đối với các đối tượng khách hàng khác nhau, đặc biệt là đối với các DNVVN nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với đặc điểm của chi nhánh.
+ Linh hoạt trong việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay phù hợp với cơ chế thị trường.
Lãi suất có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, lãi suất cho vay của ngân hàng phải căn cứ vào rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, không nên phân biệt lãi suất cho vay doanh nghiệp lớn và với lãi suất cho vay DNVVN. Cùng với việc phân loại khách hàng để có chính sách lãi suất phù hợp, tạo sự khác biệt trong lãi suất nhằm thu hút các DNVVN vay vốn tại ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể cùng thoả thuận với khách hàng để có một lãi suất thống nhất, phù hợp cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Ngoài ra, cần áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi đối với DNVVN có quan hệ lâu dài, có uy tín với NHNo và đối với DNVVN vay lần đầu có thể áp dụng giảm lãi suất để thu hút thêm khách hàng mới đến với ngân hàng.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.4.1 Các nhân tố khách quan
- Môi trường pháp lý
Các yếu tố pháp lý trong nền kinh tế là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho sự phát triển xã hội. Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Pháp luật ban hành không hợp lý, đồng bộ sẽ gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp luật đồng bộ và hợp lý sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh; bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ngân hàng và cả khách hàng, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho ngân hàng và doanh nghiệp…
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của NHTM như: Luật các tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp, Nghị định số 90/2001/ NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quyết định số 193/2001/TT-BTC ngày 29/09/2001 về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN, Thông tư số 01/2006/TT-NHNN ngày 20/02/2006 của Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn một số nội dung về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN…
- Môi trường kinh tế
Sự phát triển kinh tế của đất nước có tác động rất nhiều đến hoạt động cho vay bởi nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ tạo điều kiện cho môi trường kinh doanh phát triển, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên, đó cũng là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất; do đó nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp cũng được tăng lên tương ứng tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động cho vay. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định làm cho giá cả ổn định, tình trạng lạm phát ở mức kiểm soát sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động và tránh được những thiệt hại cho ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền từ đó tạo điều kiện nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn trì trệ, suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy mô sản xuất bị thu hẹp, nhu cầu đầu tư bị giảm mạnh, thua lỗ kéo dài dẫn đến các khách hàng của ngân hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả cho vay của ngân hàng bị giảm sút.
- Môi trường chính trị - xã hội
Một quốc gia có môi trường chính trị - xã hội ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư. Xã hội có ổn định thì nền kinh tế mới phát triển được, bất cứ một sự biến động nào về chính trị hay xã hội cũng đều gây ra sự xáo động cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó, nó có tác động đáng kể tới các hoạt động của cả ngân hàng và doanh nghiệp.
- Các chủ trương chính sách vĩ mô của Nhà nước
Các chủ trương chính sách của Nhà nước có tác động rất lớn đối với hoạt động cho vay của Ngân hàng bằng việc Nhà nước đưa ra những định hướng, chính sách, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là chính sách tiền tệ quốc gia. Bởi hoạt động cho vay của NHTM chịu tác động trực tiếp từ các công cụ của chính sách tiền tệ như: tỷ lệ dự trử bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và tái chiết khấu… Ngoài ra, các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu… có tác động đến mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế, vì thế nó tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp. Nếu như các chính sách này không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh thì chắc chắn hiệu quả cho vay của các NHTM cũng sẽ bị giảm sút.
- Các yếu tố bất khả kháng
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có thể phải đối mặt với những yếu tố bất khả kháng như: thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, hoặc những thay đổi ở tầm vĩ mô… vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến người vay, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Trong nhiều trường hợp người vay có thể dự báo, thích ứng hoặc khắc phục được những khó khăn; đôi khi người vay bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những yếu tố bất khả kháng đối với người vay là rất nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng.
1.4.2 Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
Là những nhân tố vô cùng quan trọng quyết định đến hoạt động cho vay của các NHTM. Bao gồm:
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Dựa trên cơ sở đưa ra các chiến lược kinh doanh đúng đắn thì ngân hàng mới có những kế hoạch triển khai phù hợp cho từng thời kỳ nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu đặt ra. Những kế hoạch có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả cho vay như: kế hoạch tăng trưởng tín dụng, kế hoạch huy động vốn, kế hoạch Maketing ngân hàng…
- Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một NHTM là hệ thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng đó.
Chính sách tín dụng phản ánh hoạt động tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng bao gồm: chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách về thời hạn và kỳ hạn nợ, chính sách về tài sản đảm bảo… Các chính sách này đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, có ý nghĩa quyết định thành công hay thất bại của hoạt động tín dụng nói chung và của hoạt động cho vay nói riêng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng vay vốn, đảm bảo khả năng sinh lời trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Như vậy, một chính sách tín dụng hợp lý sẽ đảm bảo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn cũng như đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Phân tích tín dụng
Tín dụng là hoạt động sinh lời cao nhất song cũng là hoạt động rủi ro nhất của NHTM. Rủi ro này do rất nhiều nguyên nhân, có thể gây ra tổn thất làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi đưa ra quyết định cho vay. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng. Phân tích tín dụng phải được thực hiện trước, trong và sau khi cho vay. Đây là một công việc hết sức quan trọng quyết định đến chất lượng của hoạt động cho vay. Nếu việc phân tích tín dụng không thực hiện đầy đủ thì ngân hàng không nắm được những thông tin về khách hàng, không xác định được những rủi ro có thể xảy ra. Do vậy, hiệu quả cho vay của ngân hàng có thể sẽ bị giảm sút.
- Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là thứ tự các bước mà cán bộ tín dụng và những người có liên quan, có thẩm quyền cần thực hiện trong quá trình cho vay. Nó được bắt đầu từ khi tiếp xúc khách hàng để chuẩn bị lập hồ sơ vay vốn cho đến khi thu hồi được hết nợ và lưu lại các thông tin về khách hàng.
Hiệu quả cho vay có được đảm bảo hay không phụ thuộc nhiều vào quy trình tín dụng của ngân hàng. Việc thực hiện tốt các nội dung, quy định trong từng bước cùng với với việc phân tích tín dụng hiệu quả sẽ giúp ngân hàng tránh được rủi ro cũng như nâng cao được hiệu quả cho vay.
Trong quy trình cho vay, ngân hàng cần chú ý đến một số bước quan trọng như: tiếp xúc tìm hiểu khách hàng, thẩm định, phân tích hồ sơ vay vốn, kiểm tra sử dụng vốn vay, thu nợ gốc và lãi.
+ Tiếp xúc tìm hiểu khách hàng là một khâu quan trọng trong quá trình cho vay. Trong giai đoạn này nhân viên ngân hàng cần thu thập được đầy đủ thông tin; có được những thông tin đầy đủ, chính xác, trung thực để có được những đánh giá đầy đủ và tổng thể về khách hàng làm cơ sở cho việc quyết định cho vay và đề xuất hạn mức cho vay đối với khách hàng.
+ Thẩm định và phân tích hồ sơ vay vốn phải đảm bảo phân tích chính xác tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, của các dự án đầu tư của doanh nghiệp cũng như khả năng sinh lời của dự án và hiệu quả kinh tế mà dự án mang lại… Hơn nữa, còn đảm bảo đánh giá đúng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp .
+ Kiểm tra sử dụng vốn vay: là bước giúp ngân hàng nắm được diễn biến của khoản vốn đã cung cấp cho khách hàng để ngân hàng có những điều chỉnh, can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa được rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sử dụng vốn giúp ngân hàng thiết lập được hệ thống phòng ngừa hữu hiệu, tránh được tổn thất cho ngân hàng.
+ Thu hồi nợ gốc và lãi: là khâu rất quan trọng, cho biết hoạt động cho vay của ngân hàng có thực sự mang lại lợi nhuận cho ngân hàng hay không? Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những biểu hiện bất lợi có thể xảy ra do doanh nghiệp mang lại và đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời sẽ làm giảm tối thiểu những khoản nợ quá hạn, hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất cho ngân hàng.
- Hệ thống thông tin tín dụng
Hệ thống thông tin hữu hiệu, nắm bắt kịp thời chính xác luồng thông tin về khách hàng là điều kiện để xem xét và đưa ra quyết định cho vay, đề phòng được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Đối với các NHTM, việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp, xử lý thông tin kịp thời… là một trong những điều kiện quyết định sự thành công trong công tác kinh doanh và nâng cao hiệu quả cho vay của NHTM.
- Hiệu quả công tác huy động vốn
Một trong những chức năng quan trọng của ngân hàng đó là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Do đó, ngân hàng có thực hiện tốt công tác huy động vốn thì mới mở rộng được hoạt động cho vay. Nếu ngân hàng có một chính sách tín dụng hợp lý, có chiến lược khách hàng tốt, thu hút được nhiều khách hàng vay vốn có uy tín thì sẽ mang lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể.
- Công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác này phải được thực hiện song song kết hợp giữa thanh tra - kiểm tra ngân hàng và kiểm tra, giám sát doanh nghiệp. Việc thanh tra, kiểm tra phải được thực hiện một cách khách quan, trung thực có như vậy mới giúp ngân hàng tránh được những rủi ro do yếu tố chủ quan mang lại.
- Trình độ của cán bộ ngân hàng
Con người là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào, hoạt động cho vay của ngân hàng cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Hiệu quả cho vay cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào công tác tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ của mỗi NHTM. Một NHTM với đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt thì sẽ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp vụ cho vay nói riêng một cách hệ thống, chuyên nghiệp và đạt hiệu quả cao hơn.
Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Đặc điểm chung của các DNVVN hiện nay là năng lực tài chính yếu kém, thiếu tài sản thế chấp, phương án sản xuất kinh doanh chưa có tính khả thi cao, thông tin kế toán chưa đáng tin cậy, trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp yếu kém nên nhiều doanh nghiệp chưa đủ sức để cạnh tranh trên thị trường. Điều này có thể dẫn đến việc sản xuất kinh doanh không hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng làm cho hoạt động cho vay của ngân hàng không có hiệu quả. Ngoài ra, do quy mô vốn nhỏ, doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp để vay vốn hoặc có nhưng không đủ điều kiện.
Các DNVVN chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương nên trình độ chuyên môn, tay nghề của lao động thấp, kể cả chủ doanh nghiệp. Nên nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được các phương án sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư có tính khả thi cao để thuyết phục các ngân hàng bỏ vốn đầu tư làm cho hoạt động cho vay DNVVN của ngân hàng kém hiệu quả.
Đặc biệt trình độ yếu kém của doanh nghiệp trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây lì… là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Rất nhiều khách hàng sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc… Nhiều doanh nghiệp đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại nhiều doanh nghiệp kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Sử dụng vốn là một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Doanh nghiệp sử dụng vốn của ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đích xin vay, thậm chí có một số doanh nghiệp còn sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản… làm cho vốn đầu tư của ngân hàng đứng trước rủi ro lớn, hiệu quả cho vay của ngân hàng bị giảm sút.
Như vậy, DNNVV là đối tượng khách hàng lớn và đầy tiềm năng mang lại cho các ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể. Hoạt động cho vay của NHTM có hiệu quả hay không không những phụ thuộc vào khả năng, trình độ chuyên môn của ngân hàng mà còn phụ thuộc nhiều vào bản thân các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có hoạt động hiệu quả, thực hiện đúng nguyên tắc vay vốn thì cùng với đó hoạt động cho vay của ngân hàng mới có hiệu quả. Điều đó thể hiện chất lượng của hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng được biểu hiện cụ thể qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như: kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá hạn… và được trình bày cụ thể ở nội dung của chương tiếp theo.
Chương 2
THỰC TRẠNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1 Khái quát chung về NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình
NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình là chi nhánh thành viên thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Tổ chức tiền thân của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình ngày nay là Ngân hàng Phát triển Nông thôn tỉnh Bình Trị Thiên, thành lập ngày 26/03/1988 theo Nghị định số 53/HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Sau khi có quyết định tách tỉnh Bình Trị Thiên thành ba tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ) ngày 01/01/1989, NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình được thành lập. Đến ngày 14/11/1990 có chỉ thị số 400/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Quảng Bình .
Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng uỷ quyền, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Quảng Bình thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Bình, có trụ sở tại Số 2 - Mẹ Suốt - TP Đồng Hới * Tel: (052) 822647 - 827151 * Fax : (052) 822647 - 823117.
Từ khi được thành lập đến trước ngày 01/10/1998, NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình được tổ chức và hoạt động theo Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính ban hành ngày 23/05/1990 và Điều lệ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành theo quyết định số 250/QĐ ngày 11/11/1992.
Từ ngày 01/10/1998 đến nay, NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình được tổ chức và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X tại kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 121/12/1997(Chủ tịch nước ký quyết định công bố ngày 26/12/1997 có hiệu lực kể từ ngày 01/10/1998) và Điều lệ tổ chức, hoạt động do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê chuẩn ngày 22/11/1997.
NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt được tổ chức và hoạt động theo mô hình chi nhánh thuộc Tổng công ty Nhà nước do Hội đồng quản trị lãnh đạo và Tổng giám đốc điều hành. NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc có con dấu riêng và bảng cân đối tài khoản riêng; đại diện theo uỷ quyền của NHN0&PTNT Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp và chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Quảng Bình
2.1.2.1 Chức năng của NHNo&PTNT Quảng Bình
Trực tiếp thực hiện kinh doanh tiền tệ đa năng, chủ yếu là huy động nguồn vốn, cho vay nội, ngoại tệ và các dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng trong và ngoài nước theo phân cấp của NHNo&PTNT Việt Nam.
Tổ chức kiểm tra, kiểm toán nội bộ theo uỷ quyền của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc NHNo Việt Nam giao.
2.1.2.2 Nhiệm vụ của NHNo&PTNT Quảng Bình
Trước hết nhiệm vụ của ngân hàng là phải huy động vốn:
- Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước cả bằng nội tệ và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng…
- Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư từ Chính phủ, NHNN và các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
- Vay vốn của NHNN, các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước.
Cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt
Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thanh toán: Thanh toán không dùng tiền mặt (chuyển khoản) và
thanh toán bằng tiền mặt.
Kinh doanh ngoại hối
Kinh doanh dịch vụ
Cân đối điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh
NHNo trực thuộc trên địa bàn.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy
định của Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam.
Thực hiện đầu tư dưới các hình thức như: Hợp vốn đồng tài trợ,
liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNo Việt Nam cho phép.
Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và đào tạo tay nghề trên địa bàn
(nếu được Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp giao).
2.1.2.3 Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Quảng Bình
Giám đốc
Phòng
Tổ chức
Cán bộ
Phòng
Kế hoạch
Phòng
Tín dụng,
thẩm định
Phòng
Kiểm tra - KTNB
Phó
Giám đốc
Phòng Kế toán -
Ngân quỹ
Phòng
Thanh
toán
quốc tế
Phòng
Hành
chính
Phòng
Điện
toán
Phó Giám đốc thường trực
6 NHNo loại II tại 6 huyện
4 NHNo loại II tại TP Đồn._.hích tiền gửi không kỳ hạn cũng như tiền gửi trung và dài hạn.
Thứ năm, Để thực hiện thu hút tiền gửi, cạnh tranh với các TCTD khác ngoài các biện pháp trực tiếp phải lưu ý tìm kiếm nhiều đơn vị, dự án đầu tư để cho vay đồng thời làm tốt khâu dịch vụ khác theo hướng bám sát ngay từ đầu, giảm lãi suất, có thái độ phục vụ tốt.
Thứ sáu, Ngân hàng phải chú trọng đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Bởi vì yếu tố cạnh tranh về giá bị hạn chế, các ngân hàng rất khó nâng hơn mức lãi suất tiền gửi vì chênh lệch mức lãi suất đầu vào - đầu ra hiện tại rất nhỏ, không đảm bảo cho kinh doanh có lãi, ngân hàng cần thực hiện theo hướng:
- Nâng cao năng lực của nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Bởi vì, đây được coi là bộ mặt của ngân hàng, họ giữ vai trò quyết định đến sự thành bại và phát triển của ngân hàng. Sự tham gia của họ thể hiện sự giao tiếp nhằm tạo ấn tượng đẹp về hình ảnh ngân hàng, sự tự tin và tính chuyên nghiệp trong nhận biết ý muốn của khách hàng, xử lý nhanh chóng thành thạo các thủ tục dịch vụ, chủ động đề nghị giúp đỡ những khó khăn, vướng mắc mà khách hàng đang gặp phải.
- Tăng cường trang thiết bị vật chất, thiết bị ngân hàng hiện đại, chính xác, giảm thủ tục thao tác thủ công. Điều này sẽ nâng cao chất lượng phục vụ tạo ra sự tin cậy đối với khách hàng, thể hiện tính chuyên nghiệp cao của hoạt động ngân hàng. Từ đó nâng cao uy tín của ngân hàng, thu hút ngày càng đông khách hàng đến với ngân hàng.
Thứ bảy, Tích cực cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, khắc phục tình trạng tồn đọng vốn; đồng thời đảm bảo đủ nguồn vốn có lãi suất đầu vào ổn định, phù hợp với hoạt động kinh doanh, tránh rủi ro về lãi suất.
Thứ tám, Cần chú trọng quan tâm hơn tới việc xác định phong tục tập quán, thói quen hay tôn giáo. Vì các yếu tố này ảnh hưởng nhiều tới nhu cầu dịch vụ tài chính ngân hàng, theo đó nó tác dụng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của hộ sản xuất.
Thứ chín, Giữ vững và cũng cố các các mối quan hệ khách hàng tiền gửi truyền thống sẵn có, chú trọng đặc biệt đến các khách hàng lớn đã ký văn bản thoả thuận với NHNo Việt Nam như hệ thống Bảo hiểm, Quỹ hỗ trợ đầu tư…
Thứ mười, Định mức về huy động tiết kiệm nên sử dụng như là một tiêu thức đánh giá Cán bộ tín dụng. Ngân hàng yêu cầu Cán bộ tín dụng khi giải ngân, thu nợ và thăm khách hàng phải có trách nhiệm huy động tiết kiệm.
Thứ mười một, Có cơ chế khuyến khích bằng vật chất thích hợp với từng chi nhánh, từng cán bộ tham gia hoạt động ở các làng, xã vùng sâu vùng xa. Phối hợp chính quyền địa phương, Hội phụ nữ, Hội nông dân để tổ chức tuyên truyền vận động người dân tham gia gửi tiền vào ngân hàng.
3.2.2.2 Hình thành bộ phận chuyên trách cho vay DNVVN
Hoạt động cho vay DNVVN khó có thể đạt được hiệu quả cao nếu thiếu bộ phận chuyên trách (hoặc Phòng). Do đó, việc thành lập Phòng tín dụng DNVVN là lẽ tất yếu. Nghiên cứu về kinh nghiệm cho vay các DNVVN của các NHTM trên thế giới cho thấy cần phải phân loại theo 3 nhóm khách hàng: Các doanh nghiệp lớn và vừa, các DNVVN và khách hàng cá nhân, tương ứng với 3 nhóm khách hàng là 3 bộ phận chịu trách nhiệm từ việc nghiên cứu sản phẩm đến việc cung cấp tín dụng và quản lý các khoản vay.
Đối với NHNo Quảng Bình cũng cần thành lập nên bộ phận chuyên trách hoặc Phòng tín dụng DNVVN phù hợp theo xu thế phát triển của các thành phần kinh tế trên địa bàn và theo tiêu chuẩn của NHNo&PTNT Việt Nam quy định:
- Bố trí những nhân viên trẻ, thực sự có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp, nhạy bén với công việc và yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản, phải nắm chắc pháp luật, đặc biệt luật dân sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp…
- Có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ, tin học.
3.2.2.3 Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng cũng như công tác cho vay thì việc xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý là rất cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận với khách hàng.
Đối với NHNo Quảng Bình để mở rộng hoạt động cho vay các DNVVN một cách có hiệu quả, trước hết ngân hàng cần thực hiện đa dạng hoá các loại hình cho vay và các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động tín dụng. Đây là biện pháp cơ bản và rất cần thiết để thực hiện phân tán rủi ro, tránh tập trung vốn đầu tư quá lớn vào một dự án, một khách hàng để khi rủi ro xảy ra ngân hàng không bị thiệt hại quá lớn. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức cho vay giúp doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn, đáp ứng nhu cầu phong phú của doanh nghiệp.
Bên cạnh đa dạng hoá các hình thức cho vay thì NHNo Quảng Bình cần đa dạng hoá các loại hình tài sản đảm bảo. Ngân hàng muốn thu hút được nhiều khách hàng là các DNVVN thì cần phải mở rộng danh sách các loại tài sản đảm bảo bởi hầu hết các DNVVN có tài sản nhỏ, không đủ điều kiện để thế chấp vay vốn.
Xây dựng chính sách tín dụng, ngân hàng cần phải xác định một cơ cấu nợ hợp lý. Hiện nay dư nợ cho vay của NHNo Quảng Bình đối với DNVVN chủ yếu tập trung vào nguồn vốn ngắn hạn mà dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nợ cho vay. Vì thế, trong thời gian tới ngân hàng cần tập trung phát triển tín dụng trung dài hạn. Các doanh nghiệp thường có nhu cầu vốn trung dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật… và trong điều kiện phát triển nhanh chóng của Khoa học và Công nghệ thì nhu cầu vốn trung dài hạn để đầu tư ngày càng gia tăng. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi giúp cho ngân hàng nâng cao doanh số cho vay, vì thế ngân hàng cần tận dụng khai thác để phát triển hoạt động cho vay trung dài hạn.
Mặt khác, trong việc xây dựng chính sách tín dụng hợp lý thì việc xây dựng chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng là một trong những chính sách cực kỳ quan trọng. Ngân hàng cần đưa ra các mức lãi suất tín dụng khác nhau tuỳ theo kỳ hạn, tuỳ theo loại tiền và tuỳ theo loại khách hàng. Lãi suất có thể cố định trong suốt kỳ hạn tín dụng hoặc biến đổi tuỳ theo thay đổi của lãi suất thị trường. Ngân hàng đưa ra mức lãi suất định trước nhưng có thể cho phép các cán bộ tín dụng đưa ra mức lãi suất thoả thuận trong giới hạn cho phép đối với những khách hàng truyền thống, khách hàng vay lớn. Hơn nữa, khi xây dựng chính sách tín dụng ngân hàng cũng phải tính đến rủi ro lãi suất, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Vì thế cần đưa ra các mức lãi suất linh hoạt, đa dạng trên cơ sở đảm bảo được khả năng sinh lời cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
3.2.2.4 Bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tín dụng
Trình độ của cán bộ tín dụng là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển cho vay các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng của NHNo Quảng Bình. Do đó, chi nhánh phải đẩy mạnh công tác đào tạo trình độ chuyên môn cũng như nâng cao trình độ khoa học công nghệ, kỹ năng tác nghiệp của các ngân hàng lớn trên thế giới cho cán bộ tín dụng để đưa Chi nhánh nói riêng và ngành NHNo nói chung phát triển. Bên cạnh đó, NHNo Quảng Bình không chỉ chú trọng đến nghiệp vụ chuyên môn mà còn cần phải chú ý đến khả năng giao tiếp với khách hàng, đạo đức của cán bộ nhằm tạo uy tín cho khách hàng về doanh nghiệp.
NHNo Quảng Bình cần hoạch định một kế hoạch đào tạo lâu dài song song với việc thường xuyên tổ chức những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, đặc biệt là vấn đề nâng cao nhận thức của CBTD về DNVVN. Chương trình đào tạo này nhằm thay đổi nhận thức về DNVVN cho NHNo, đây là chương trình rất cần thiết cho NHNo để xoá đi mặc cảm về khu vực DNVVN đầy tiềm năng này và đồng thời trợ giúp cho việc xây dựng chiến lược hướng vào các DNVVN. Tự bản thân các cán bộ trên mọi cương vị cần thường xuyên nghiên cứu học hỏi để không ngừng rèn luyện tư cách đạo đức và tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp. Chi nhánh cũng cần có các chính sách khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ.
Ngoài ra, chi nhánh nên tổ chức đào tạo các lớp tin học, ngoại ngữ, bồi dưỡng, bổ sung kiến thức sử dụng các chương trình phần mềm trong quá trình hiện đại hoá NHNo và cả trong tương lai để đáp ứng yêu cầu hiện đại Ngành NHNo&PTNT. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng cần gắn trách nhiệm với quyền lợi của CBTD để các CBTD có trách nhiệm cao đối với công việc. Chi nhánh cũng cần đề ra chế độ thưởng, phạt nghiêm minh đối với các CBTD. Trong vấn đề này, chi nhánh nên có chính sách cụ thể về các hình thức, chế độ khen thưởng đối với các CBTD hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Đi đôi với khen thưởng, cần có hình thức kỹ luật nghiêm minh đối với các cán bộ cố ý làm sai hoặc vô tình gây nên hậu quả nghiêm trọng cho NHNo Quảng Bình.
3.2.2.5 Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng
Thông tin luôn là vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Thông tin phải được cập nhật và xử lý nhanh chóng, chính xác bởi chất lượng thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược tín dụng. Nắm bắt kịp thời các thông tin ngân hàng sẽ phân tích, đánh giá và định hướng được những rủi ro có thể xảy ra, ngân hàng có thể dự báo, dự đoán trước những tín hiệu biến động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những biến động của thị trường do đó giúp ngân hàng đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn cũng như tránh được những rủi ro mà dự án sản xuất có thể gặp phải.
Ngân hàng có thể thu thập thông tin trực tiếp từ khách hàng, từ Hội sở, từ trung tâm tín dụng (CIC) hoặc từ các phương tiện thông tin đại chúng khác… Để việc thu thập và xử lý thông tin được kịp thời, chính xác NHNo cần thành lập một nhóm tư vấn thông tin tín dụng có chức năng thu thập, phân tích các thông tin về khách hàng, về kinh tế, thị trường, thông tin về pháp luật … có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
3.2.2.6 Nâng cao năng lực, chất lượng thẩm định cho vay
Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết bởi nó ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả cho vay của ngân hàng. Để làm được điều đó việc thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đối chiếu, đảm bảo chính xác của nguồn thông tin thu thập được, xử lý các thông tin đó để căn cứ đưa ra quyết định có cho vay hay không.
Trong quá trình thẩm định, năm điều kiện quan trọng mà cán bộ NHNo Quảng Bình đòi hỏi phải có từ khách hàng xin vay:
- Tư cách pháp lý: Đó là việc căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Cán bộ tín dụng phải tiếp cận đến nơi đến chốn quá trình sản xuất kinh doanh của DNVVN, các sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất, công nghệ sản xuất, công cụ lao động, chất lượng công cụ và cuối cùng là phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua bảng tổng kết tài sản, các tài khoản lỗ lãi. Nhưng cũng không nên quá tin tưởng vào các số liệu của khách hàng, vào việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì trên thực tế không ít khách hàng có hai loại sổ sách.
- Phải đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp, vì trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp càng kém thì khả năng rủi ro, mất vốn của khách hàng khi cho vay càng lớn.
- Vấn đề tài sản thế chấp từ lâu được coi là điều kiện đầu tiên khi quyết định cho vay. Bởi vì, đây là tài sản duy nhất đảm bảo tính an toàn khi khoản vay gặp rủi ro. Chính vì tâm lý đó nên đã gây ra nhiều hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp có phương án sản xuất khả thi, nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản chưa có tính pháp lý cao. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro khi biến động về giá. Hơn nữa, các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản làm cho số tiền thu từ việc phát mại tài sản bị giảm. NHNo Quảng Bình cần phải có cái nhìn đúng đắn về tài sản thế chấp, đó là điều kiện bất đắc dĩ trong đòi hỏi từ khách hàng chứ không phải là một nguyên tắc áp phải áp dụng một cách cứng nhắc.
- Vấn đề cuối cùng là việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với NHNo nơi cho vay nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi tài sản thế chấp đang còn nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều rất cần thiết. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực sự có năng lực, thông qua quá trình thẩm định cán bộ NHNo nơi cho vay có thể tư vấn thêm cho khách hàng các vấn đề liên quan đến tính khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, NHNo nơi cho vay cũng phải chú trọng tới công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm nghiêm túc các điều kiện : trước, trong và sau khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn thu nợ không nên cứng nhắc rập khuôn, mà thực sự hợp tác với người vay.
3.2.2.7 Xây dựng chiến lược khách hàng
Mặc dù DNVVN được đánh giá là khu vực kinh tế đầy tiềm năng của hệ thống NHTM, nhưng cho đến nay vẫn chưa có NHTM nào có chiến lược marketing rõ ràng, đặc biệt là đối tượng khách hàng là các DNVVN. Chiến lược marketing đối với DNVVN cần phải tính đến đặc thù của các DNVVN và yếu tố cạnh tranh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực đối với khu vực ngân hàng.
Những năm gần đây, các DNVVN trên địa bàn có tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém, thua lỗ, tài chính thiếu lành mạnh; Tiến trình sắp xếp, cổ phần hoá lại DNNN đã và đang đẩy nhanh. Vì vậy, việc chuyển mạnh sang cho vay DNVVN là định hướng đúng đắn của NHNo Quảng Bình
Trong thời gian tới, xu hướng phát triển nhanh chóng của loại hình DNVVN đòi hỏi NHNo Quảng Bình ngay từ bây giờ phải xây dựng được chiến lược cạnh tranh ngân hàng để thu hút khách hàng. Để làm được điều đó ngân hàng cần tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, quan trọng và các đối tượng khách hàng khác để có những chính sách khách hàng hợp lý. Ngân hàng cần có các chính sách ưu đãi với những doanh nghiệp truyền thống đặc biệt là những doanh nghiệp quan trọng, đồng thời có các chính sách để thu hút thêm khách hàng mới. Để thực hiện được điều này, chi nhánh cần xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá khách hàng cụ thể, thực hiện đầy đủ phương pháp tính điểm tín dụng để nâng cao hơn nữa hiệu quả cho vay của ngân hàng. Thực tế cho thấy, ứng dụng phương pháp chấm điểm tín dụng cho phép giảm bớt chi phí và thời gian cho vay đối với DNVVN, do đó cho phép các TCTD mở rộng vốn vay với khách hàng, cho phép các NHTM xây dựng được quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ hơn qua đó kiểm soát tín dụng được chính xác hơn.
Hiện nay NHNo Quảng Bình đã xây dựng được một hệ thống chấm điểm khách hàng doanh nghiệp với nhiều chỉ tiêu như ngành, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, quản hệ của doanh nghiệp với ngân hàng… Đây là việc làm hết sức quan trọng giúp cho ngân hàng đánh giá đúng các đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, để việc chấm điểm khách hàng được thực hiện đầy đủ và chính xác, chi nhánh cần mở thêm các chỉ tiêu xếp hạng, nâng cao công tác thu thập và xử lý thông tin khách hàng.
Ngoài ra, chi nhánh cần tăng cường công tác tiếp thị, tìm hiểu khách hàng trên địa bàn để nghiên cứu, xây dựng mục tiêu kế hoạch đầu tư, kết hợp với tư vấn đầu tư để chủ động hơn nữa trong quan hệ tín dụng, khai thác khách hàng, lựa chọn và thu hút những khách hàng làm ăn có hiệu quả từ đó góp phần nâng cao được hiệu quả cho vay tại ngân hàng.
3.2.2.8 Chính sách Marketing, quảng cáo và phát triển các dịch vụ
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thị phần của ngân hàng ngày càng giảm do bị đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh. Do đó, muốn hoạt động tốt NHNo Quảng Bình cần xác định một chiến lược Marketing đủ sức cạnh tranh với ngân hàng khác. Trong thời gian tới, chi nhánh cần phát triển các sản phẩm dịch vụ đi kèm đặc biệt là dịch vụ tư vấn doanh nghiệp, các DNVVN rất cần sự tư vấn của ngân hàng vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn rất hạn chế, không thích ứng được với sự biến động của thị trường. Vì thế, để thu hút được các DNVVN thì NHNo Quảng Bình cần tổ chức tư vấn doanh nghiệp thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực như : tư vấn lập các dự án sản xuất kinh doanh, tư vấn lập các báo cáo tài chính, tư vấn về thị trường giá cả… giúp cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, cùng với đó là hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ đạt hiệu quả hơn.
Ngoài ra, ngân hàng có thể thực hiện các chính sách giao tiếp, khuyếch trương, quảng bá hình ảnh của ngân hàng thông qua các chương trình hỗ trợ, mở rộng tiếp xúc khách hàng… để thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia vay vốn của ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp có nhiều tiềm năng.
3.3 Một số kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình
3.3.1 Với các cơ quan quản lý Nhà nước
Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay của NHTM đối với các DNVVN không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng các khoản vay và thu lợi nhuận mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp và cả toàn bộ nền kinh tế. Do đó, các cơ quan Nhà nước cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, trong đó đạt hiệu quả cao khi cho vay các DNVVN .
Trước hết, Chính phủ cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các DNVVN phát triển. Hiện tại địa vị pháp lý của các DNVVN chưa được xác định rõ ràng, hoạt động vủa DNVVN chưa được điều chỉnh và hướng dẫn ngoại trừ Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về hỗ trợ phát triển các DNVVN. Các DNVVN phải hoạt động theo nhiều luật khác nhau gây ra nhiều khó khăn cho cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy, Chính phủ cần phải có văn bản chung quy định cụ thể về loại hình doanh nghiệp này .
Bộ máy quản lý Nhà nước cồng kềnh gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp lớn cũng như DNVVN. Chính phủ cần đơn giản hoá bộ máy quản lý Nhà nước. Để tăng cường công tác quản lý DNVVN trong đăng ký kinh doanh cũng như giám sát hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, Chính phủ nên sớm hình thành một cơ quan riêng phụ trách việc tổ chức đăng ký kinh doanh và giám sát quản lý các DNVVN. Bên cạnh đó tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác kế toán tại các DNVVN buộc các DNVVN chấp hành đúng luật thống kê, kế toán và kiểm toán.
Chính sách thuế hiện nay đang áp dụng với DNVVN còn nhiều bất cập bởi còn tồn tại nhiều mức thuế khác nhau với cách quản lý phức tạp, không chặt chẽ đã gây ra phiền hà cho các doanh nghiệp đồng thời dẫn đến hiện tượng trốn thuế. Do đó, Chính phủ cần điều chỉnh luật thuế sao cho phù hợp với các DNVVN.
Thị trường bất động sản và chính sách đất đai phải xây dựng được hệ thống đăng ký, khắc phục sự bất bình đẳng trong việc giao, cấp đất cho sản xuất kinh doanh; hình thành loại hình dịch vụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đảm bảo cho việc kinh doanh quyền sử dụng đất được thuận lợi. Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp trong đó Chính phủ cần nhanh chóng cấp sổ đỏ cho các DNVVN, hợp pháp hoá quyền sở hữu cho DNVVN. Bên cạnh đó, cần đơn giản các thủ tục giao dịch đảm bảo để tránh gây lãng phí thời gian.
Chính phủ cần tăng cường cung cấp thông tin và dịch vụ tài chính cho các DNVVN; mở rộng các danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính, dịch vụ xem xét báo cáo tài chính đối với các doanh nghiệp chưa có bộ máy kiểm toán nội bộ và khả năng tài chính hạn chế không thể thuê kiểm toán báo cáo tài chính.
Nhà nước nên tạo điều kiện khuyến khích phát triển các hợp đồng thuê, thuê mua hoặc bán trả góp tạo thuận lợi cho các DNVVN có được máy móc thiết bị mới. Nhiều DNVVN khó có khả năng mua được những máy móc thiết bị mới, hiện đại với chi phí cao trong khi nguồn vốn từ NHTM khó tiếp cận vì thế hình thức thuê mua là một giải pháp quan trọng. Các DNVVN không cần bỏ ra một lúc số vốn lớn mà vẫn sử dụng được những máy móc thiết bị hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, nhờ đó mà nền kinh tế của đất nước cũng được thúc đẩy phát triển, hoạt động ngân hàng từ đó cũng được nâng cao.
Bên cạnh các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có các chính sách phát triển hoạt động của các NHTM trong nghiệp vụ cho vay. NHNN cần bổ sung các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành cơ chế, thể lệ tín dụng. Cần mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng (CIC), vì hệ thống thông tin tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong phòng ngừa rủi ro tín dụng cho các NHTM.
3.3.2 Với NHNo&PTNT Quảng Bình
Để mở rộng hoạt động cho vay các DNVVN nhưng vẫn đảm hiệu quả hoạt động thì trong thời gian tới NHNo Quảng Bình cần:
- Xây dựng một chiến lược kinh doanh có định huớng phù hợp với các DNVVN, xây dựng cơ cấu cho vay DNVVN phù hợp với cơ cấu chung của ngân hàng, đa dạng hoá đối tượng vay, mở rộng hơn nữa thị phần cho vay DNVVN. Vì đây là khách hàng đầy tiềm năng, có số lượng ngày càng gia tăng, ngành nghề kinh doanh đa dạng, phong phú… Ngân hàng cần khai thác triệt để bộ phận khách hàng này nhằm đưa nguồn vốn ngân hàng đầu tư một cách có hiệu quả cho nền kinh tế đồng thời nhằm tăng lợi nhuận cho ngân hàng từ hoạt động tín dụng.
- Tăng cường công tác phân tích, thẩm định chính xác hồ sơ vay vốn, thường xuyên kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng để có những biện pháp kiểm soát rủi ro nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất cho ngân hàng.
- Ngân hàng cần xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, tư vấn giúp doanh nghiệp xây dựng các dự án phát triển kinh doanh có tính khả thi cao để đầu tư vốn cho doanh nghiệp, kiểm tra giám sát việc thực hiện dự án, thu hồi vốn và lãi đúng hạn.
Để mở rộng hoạt động cho vay các DNVVN cũng như việc nâng cao hiệu quả tín dụng nói chung và hiệu quả cho vay các DNVVN nói riêng không chỉ cần sự nỗ lực của riêng bản thân NHNo Quảng Bình mà còn cần phải được sự quan tâm đúng mức của Hệ thống NHNo Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần triển khai kịp thời và hướng dẫn các văn bản, quyết định của NHNN và các văn bản khác đồng thời đưa ra những văn bản hoạt động nội bộ chỉ đạo sát sao hoạt động của các chi nhánh. Nâng cao công tác khai thác thông tin hiệu quả đặc biệt là các thông tin trong nội bộ hệ thống NHNo. Bên cạnh đó cần đưa ra các mức biểu phí, lãi suất phù hợp với từng địa bàn hoạt động của từng chi nhánh. Xem xét, đưa ra kế hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực hiệu quả, nâng cao được cả số lượng và chất lượng cán bộ nhân viên. Mặt khác, NHNo cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm giảm nợ quá hạn và nợ khó đòi. Công tác kiểm tra, kiểm soát không chỉ bao gồm việc kiểm tra giám sát khách hàng mà quan trọng hơn là phải kiểm tra, giám sát công việc hàng ngày của cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định, ban lãnh đạo chi nhánh cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên của chi nhánh.
3.3.3 Với các DNVVN
Để thực hiện tốt hoạt động mở rộng cho vay các DNVVN thì ngoài sự nỗ lực của các cơ quan chức năng, ngành ngân hàng cũng như của chi nhánh NHNo Quảng Bình rất cần đến sự hợp tác và cố gắng từ chính bản thân của các DNVVN. Muốn vậy, các DNVVN cần:
- Thường xuyên tiếp nhận các thông tin từ thị trường cũng như từ các ngân hàng, làm được điều này các DNVVN có thể có được cơ hội vay vốn ngân hàng cũng như phản hồi được những khó khăn vướng mắc để các cơ quan quản lý Nhà nước có những giải pháp phù hợp. Bên cạnh đó, do nắm được đầy đủ những thông tin cần thiết đáp ứng yêu cầu ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian vay vốn, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp đồng thời đảm bảo lợi thế về thời gian cho doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh.
- Đào tạo nguồn nhân lực: đây là một yêu cầu thời sự trong quá trình hội nhập quốc tế. Các DNVVN thường xem nhẹ yếu tố con người trong kinh doanh. Hơn thế nữa, người lao động trong các DNVVN thường không được đào tạo bài bản theo những kiến thức và kỹ năng mà thị trường yêu cầu. Bên cạnh Chính phủ có các chương trình đào tạo, cập nhật thông tin cho các DNVVN thì bản thân các DNVVN phải chủ động đào tạo đội ngũ nhân viên, coi đầu tư vào nguồn nhân lực là một khoản đầu tư chiến lược không thể thiếu trong quá trình kinh doanh. Trong đào tạo nguồn nhân lực thì các chủ DNVVN phải là người đi đầu để nâng cao năng lực quản lý và điều hành đặc biệt khả năng lập kế hoạch kinh doanh theo chuẩn mực cần được hoàn thiện. Đây chính là một trong những giải pháp để DNVVN có thể tiếp cận được vốn của ngân hàng bởi từ đây các chủ DNVVN có thể lập được những báo cáo nghiên cứu khả thi hoàn chỉnh để thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn.
- Hệ thống sổ sách cần rõ ràng, minh bạch và đầy đủ thông tin. Các báo cáo tài chính là những tài liệu quan trọng để ngân hàng thẩm định về năng lực tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay DNVVN không chú trọng đến việc lập báo cáo tài chính theo đúng quy định, chuẩn mực. Các báo cáo gửi lên ngân hàng đôi khi còn sơ sài, không đủ thông tin cần thiết. Thậm chí có những trường hợp số liệu đã không đúng thực tế gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thẩm định hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp, do đó nhiều khi chỉ vì các báo cáo tài chính mà DNVVN không thể vay vốn được của ngân hàng trong khi đó đáng lẽ ra doanh nghiệp được vay. Vì vậy, các DNVVN cần tuân thủ các quy định, chế độ tài chính kế toán, kiểm toán của Nhà nước. Hiện nay đã có rất nhiều phần mềm kế toán nên các DNVVN cần áp dụng, với chi phí thấp mà ngân hàng cũng dễ theo dõi.
- Ngoài ra, các DNVVN cũng cần chú trọng đến việc hoàn thành thủ tục pháp lý cần thiết cho các bất động sản, đảm bảo cho tính pháp lý các tài sản thế chấp khi các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng.
Làm được những việc này, các DNVVN sẽ tạo được uy tín cho các tổ chức kinh tế trong đó có hệ thống ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng cũng như nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
KẾT LUẬN
Trong nền cơ chế thị trường với nhiều yếu tố kinh tế xã hội biến động phức tạp nên không tránh khỏi những hạn chế trong kinh doanh, khó khăn lớn nhất mà các DNVVN hiện nay đang gặp phải là tình trạng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp lại không đủ điều kiện để tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Từ thực trạng hiện nay cho thấy, bộ phận DNVVN đang phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động… Nhận thấy tiềm năng to lớn đó, hiện nay rất nhiều Ngân hàng, đặc biệt là các NHTM CP đang ra sức tăng cường khai thác bộ phận khách hàng này, họ thực hiện nhiều chính sách ưu đãi để thu hút ngày càng nhiều các DNVVN tham gia sử dụng vốn của ngân hàng. NHNo&PTNT Quảng Bình cũng vậy, đã có những nỗ lực trong việc đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các DNVVN trên địa bàn, thể hiện qua sự tăng trưởng kinh tế cho vay và dư nợ của các khoản vay. Tuy nhiên, những tồn tại và nguyên nhân đang gặp phải lại là nhân tố cản trở việc mở rộng quan hệ tín dụng của Ngân hàng với các DNVVN.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNVVN tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình", nhận thấy việc mở rộng cho vay DNVVN là hướng đi đúng, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của tỉnh Quảng Bình. Đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay và đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với các ban ngành liên quan từ đó khẳng định việc mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNVVN là một chiến lược quan trọng, là việc làm hết sức cấp thiết. Điều đó không những giúp cho các ngân hàng mở rộng quy mô kinh doanh mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế cũng như đối với các DNVVN .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Hương - Giải pháp phát triển các DNVVN ở Việt Nam.
2. PGS.TS Phan Thị Thu Hà - Giáo trình NHTM. NXB ĐH Kinh tế Quốc dân năm 2007.
3. Các báo cáo tổng kết hàng năm của NHNo&PTNT Quảng Bình.
4. Sổ tay tín dụng - NHNo&PTNT Quảng Bình.
5. Các công văn, quy định và một số tài liệu khác của NHNo&PTNT Quảng Bình.
6. Nghị định 90/2001/NĐ-CP của chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN .
7. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN.
8. Tạp chí ngân hàng, Thị trường tài chính - tiền tệ, Tài chính doanh nghiệp các số năm 2007.
9. Một số website: www.google.com.vn; www. doanh nghiệp.com.vn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNo : Ngân hàng nông nghiệp
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN : Doanh nghiệp
CBTD : Cán bộ tín dụng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Quảng Bình 34
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của NHNo Quảng Bình qua các năm 36
Bảng 2.2: Tổng doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ qua các năm 39
Bảng 2.3: Tình hình kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế 41
Bảng 2.4: Hoạt động cho vay đối với DNVVN 44
Bảng 2.5: Tình hình dư nợ theo loại hình doanh nghiệp 48
Bảng 2.6: Dư nợ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn DNVVN qua các năm 52
Bảng 2.7: Nợ xấu của DNVVN so với các thành phần kinh tế 55
Bảng 2.8: Phân loại nợ xấu theo nhóm 56
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7688.doc