Tài liệu Một số giải pháp nhằm khuyến khích - Thúc đẩy hoạt động FDI ra nước ngoài của các Doanh nghiệp Việt Nam: ... Ebook Một số giải pháp nhằm khuyến khích - Thúc đẩy hoạt động FDI ra nước ngoài của các Doanh nghiệp Việt Nam
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm khuyến khích - Thúc đẩy hoạt động FDI ra nước ngoài của các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong quá trình quốc tế hoá, ĐTTT ra nước ngoài là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thế giới. Sự vận động cả về vốn, con người, dịch vụ, thông tin và văn hoá của nó có tác dụng to lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển và tính bền vững của nền kinh tế toàn cầu. Đối với từng quốc gia, ĐTTT ra nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không chỉ tác động đến tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế quốc dân, mà còn giúp các DN trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, tránh các rào cản thuế quan, phi thuế quan, mở rộng được thị trường, thiết lập mối quan hệ với các quốc gia khác, từ đó nâng cao vị thế của DN trên thị trường...
Nền kinh tế của Việt Nam nói riêng và các nước ĐPT nói chung cũng không nằm ngoài dòng chảy xu thế này. Song riêng đối với nền kinh tế Việt Nam thì ĐTTT ra nước ngoài quả thực là một lĩnh vực khá mới mẻ. Dự án đầu tiên ĐTRNN của Việt Nam là năm 1989 nhưng cũng không được đưa vào thực hiện. Cho đến nay mới chỉ hoạt động được 19 năm, thực tế đã đạt được một số kết quả nhất định, song chắc chắn cũng còn tồn tại không ít hạn chế. Với mong muốn tìm hiểu và nghiên cứu cụ thể về cả những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động ĐTTT ra nước ngoài của các DNVN trong thời gian qua, cũng như các chính sách, quy định của Chính phủ đã ban hành (bắt đầu từ năm 1999). Em đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm khuyến khích – thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm hệ thống hoá lý luận về việc ĐTRNN của DN các nước ĐPT nói chung và Việt Nam nói riêng. Đồng thời, xem xét, giới thiệu, đánh giá thực trạng các chính sách của Việt Nam, các kinh nghiệm của một số nước ĐPT trong lĩnh vực khuyến khích ĐTTT ra nước ngoài. Và thực trạng ĐTTT ra nước ngoài của các DNVN trong thời gian từ 1989 đến nay qua các số liệu thực tế; qua đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị từ phía Nhà nước và các DN theo hướng khuyến khích, thúc đẩy các DNVN ĐTRNN.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu và số liệu ĐTRNN của Việt Nam và các nước trong khu vực; nhưng do tính chất mới mẻ của đề tài, là một vấn đề khá mới của nền Kinh tế nước ta; do hạn chế về khả năng và thời gian của người thực hiện. Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài này, khó lòng đề cập đầy đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Chính vì vậy em rất mong nhận được sự quan tâm và ý kiến đóng góp quý báu từ thầy cô và các bạn sinh viên, để vấn đề ngày càng được hoàn thiện. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Trần Mai Hương - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Chương I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ ĐTTT RA NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm đầu tư và ĐTRNN
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước và thế giới, hoạt động đầu tư không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Đầu tư có rất nhiều cách hiểu, và dưới đây chỉ là một số khái niệm phổ biến.
Theo Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005, “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và luật pháp có liên quan”.
Về bản chất đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. Những kết quả thu được có thể là tái sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác,…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong hoạt động đầu tư, ngoài việc đầu tư trong nước, các nhà đầu tư cũng thường hay thực hiện việc ĐTRNN. Đầu tư không còn bó hẹp trên phạm vi một quốc gia mà mở rộng trên phạm vi toàn thế giới. Sự ra đời và phát triển của đầu tư nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Theo hiệp hội Luật quốc tế (1996) “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của nước sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ”.
Theo Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định về đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam. Trong điều 1 có ghi rõ: "Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài theo quy định của Nghị định này."
Đầu tư nước ngoài là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quốc tế hoá như hiện nay. Đây là hình thức đem lại lợi nhuận khá cao cho các nhà đầu tư. Sự vận động của nó có tác động to lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển và tính bền vững của kinh tế toàn cầu. Theo quan điểm cúa cá nhân tôi, ĐTRNN là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ trong nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
Theo Nghị định số 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ ra ngày 9/8/2006. Chương I, điều 3 có quy định “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.”
2. Các hình thức ĐTRNN – Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1. Đầu tư gián tiếp (FPI)
Đầu tư nước ngoài gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Đặc điểm của đầu tư nước ngoài gián tiếp
Chủ đầu tư nước ngoài không kiểm soát các hoạt động kinh doanh.
VĐT là của các tổ chức quốc tế thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi và gắn chặt với thái độ chính trị của các chính phủ và tổ chức quốc tế khác. Chẳng hạn như vốn tài trợ phát triển chính thức ODF trong đó ODA chiếm tỷ trọng lớn. ODA mang tính ưu đãi cao, ngoài các điều kiện về lãi suất, thời hạn cho vay, khối lượng vốn vay tương đối lớn, ODA còn có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 15%. Nếu VĐT là của tư nhân thì bị giới hạn bởi tỷ lệ góp vốn theo Luật Đầu tư của các nước sở tại, thường từ 10% - 25% vốn pháp định.
Chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua lãi suất cho vay hay lợi tức cổ phần.
VĐT được phân tán trong vô số cổ đông và trái phiếu, nên chủ đầu tư có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh, hay độ rủi ro của đầu tư nước ngoài gián tiếp là thấp.
FPI được thực hiện dưới các dạng sau:
Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Các chính phủ, các tổ chức tài chính, kinh tế xã hội của các nước thông qua các chương trình viện trợ không hoàn lại để trợ giúp các nước chậm phát triển hơn. Chẳng hạn như chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình nước sạch, chương trình lương thực của thế giới,...
Viện trợ quốc tế hoàn lại: Chủ đầu tư, cũng giống như ở trên song các nước chậm phát triển phải đi vay (có hoàn lại) nhưng với lãi suất thấp hơn.
Các DN tư nhân của nước này cho DN của nước khác vay (thông qua bán chịu hàng hoá với giá cao hơn giá theo quan hệ mậu dịch thông thường), hay là việc cá nhân người nước ngoài bỏ tiền mua trái phiếu của chính phủ, cổ phiếu của các công ty để hưởng tiền lãi.
2.2. Đầu tư trực tiếp (FDI)
Đây là hình thức đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Về thực chất, FDI là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua một phần, thậm chí toàn bộ cơ sở đó (làm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản). Trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản lý điều hành hoạt động đối với đối tượng mà họ bỏ VĐT. Chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của cơ sở đó.
Đặc điểm của ĐTTT nước ngoài
Chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo Luật Đầu tư nước ngoài của nước tiếp nhận VĐT trực tiếp nước ngoài quy định. Quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư.
Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộ vào mức độ góp vốn của mỗi bên. Với DN 100% vốn nước ngoài thì chủ đầu tư toàn quyền quản lý DN.
Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
ĐTTT nước ngoài được thực hiện thông qua việc thành lập DN mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần DN đang hoạt động hoặc sát nhập các DN với nhau.
ĐTTT nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn tạo ta thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía tiếp nhận đầu tư. Vốn FDI không chỉ bao gồm VĐT ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả vốn vay của DN để triển khai và mở rộng dự án cuãng như VĐT trích từ lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt động của DN.
ĐTTT nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
VĐT trực tiếp nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà và ít chịu sự chi phối của chính phủ cũng như các quan hệ chính trị giữa chủ đầu tư với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư
Theo mục tiêu của chủ đầu tư, FDI được chia thành:
Đầu tư theo chiều rộng: Hình thức đầu tư mà chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất một sản phẩm nào đó (lợi thế về công nghệ, kỹ năng quản lý,...) và chuyển sản phẩm này ra nước ngoài.
Đầu tư theo chiều sâu: Chủ đầu tư thường chú ý đến việc khai thác nguồn tài nguyên vật liệu tự nhiên dồi dào và lao động rẻ ở nước ngoài để sản xuất các sản phẩm có thể nhập lại về nước mình hoặc xuất khẩu sang nước khác.
Căn cứ vào chiến lược đầu tư, có 2 hình thức ĐTTT nước ngoài của DN
FDI được thực hiện thông qua hai kênh chủ yếu: đầu tư mới (Greesnield Investment – GI) và Liên minh và sáp nhập (Mergers & Acquisition – M&A).
Đầu tư mới – GI là hình thức các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây dựng một DN mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống và thường gặp ở các nước ĐPT.
Liên minh và sáp nhập (M&A) là hình thức mà chủ đầu tư tiến hành thông qua mua lại, liên minh và sáp nhập các DN hiện có ở nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, NICs và là hình thức đầu tư rất phổ biến chi phối luồng vận động của VĐT quốc tế trong những năm cuối của thế kỷ 20.
3. Vai trò của ĐTTT ra nước ngoài đối với các nước ĐPT
3.1. ĐTTT ra nước ngoài giúp cho nước đầu tư – các nhà đầu tư nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư và khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Các quốc gia đều phát triển nền kinh tế với những lợi thế riêng, nếu biết khai thác những lợi thế đó một cách hợp lý thì sẽ tạo được bước nhảy vọt cho nền kinh tế khi nền kinh tế thế giới ngày càng tiến sâu vào quá trình nhất thể hoá. Với các nước ĐPT việc sử dụng các nguồn lực trong nước vẫn còn nhiều bất cập, chưa tiết kiệm và chưa có hiệu quả. Do vậy, khi tiến hành ĐTTT ra nước ngoài, chủ đầu tư sẽ đem theo những yếu tố sản xuất được bắt nguồn từ những nguồn lực trong nước, thậm chí có cả nguồn lực “dư thừa” so với nhu cầu đầu tư trong nước ở những lĩnh vực mang tính truyền thống, lĩnh vực có thế mạnh của quốc gia đó. Với môi trường kinh doanh lành mạnh ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trình độ quản lý DN, quản lý quá trình đầu tư ngày càng hiện đại. ĐTTT ra nước ngoài giúp cho các nước đầu tư sử dụng có hiệu quả nguồn lực “dư thừa” tương đối trong nước trong môi trường kinh doanh rộng lớn hơn, mật độ cạnh tranh thấp hơn theo nguyên lý “pha loãng”, đặc biệt với những ngành mà quốc gia đó có thế mạnh.
Mặt khác, xét trên góc độ toàn nền kinh tế, tăng cường thu hút vốn là một trong những điều kiện tiên quyết để các nước ĐPT đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các nước ĐPT luôn trong tình trạng “khát” VĐT, nhưng trên góc độ vi mô, một số ngành, một số lĩnh vực có hiệu quả sử dụng vốn thấp, tạo ra tình trạng thừa vốn trong nội bộ ngành. Đồng thời, do giới hạn về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên… mà tỷ suất lợi nhuận VĐT của một số ngành, một số lĩnh vực (như nông nghiệp, lâm nghiệp) trong nền kinh tế không thể tăng trưởng hơn được nữa cho dù ta tiếp tục đầu tư vốn. Do đó, tỷ suất lợi nhuận đầu tư được nâng cao hơn, tăng hiệu quả sử dụng vốn khi ĐTRNN, tránh được tình trạng ứ đọng vốn trong nội bộ ngành, tạo động lực mới cho nền kinh tế, đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Đối với các DN ĐTTT ra nước ngoài, thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của DN mà họ bỏ VĐT, mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức. Hơn nữa, hình thức ĐTTT mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nước nhận đầu tư. Chính vì vậy, các nhà đầu tư có quyền kiểm soát, quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT, lợi nhuận thu về cao hơn. Đồng thời, ĐTTT ra nước ngoài còn tạo dựng sự hợp tác và liên kết với nước ngoài để cùng nhau phát triển. Qua đó, FDI giúp các nước ĐPT không những hạn chế bớt sự cạnh tranh không cần thiết mà còn nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ về vốn, công nghệ từ đối tác tham gia liên kết, cũng như những ưu đãi về thuế… của Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư.
3.2. Xây dựng được thị trường cung cấp đầu vào ổn định - tận dụng được các nguồn lực ở nước ngoài một cách có hiệu quả hơn ở trong nước.
Nhu cầu về nguồn nguyên nhiên liệu tự nhiên, thị trường và đặc biệt là những “tài sản” có giá trị chiến lược khác như kỹ thuật, công nghệ và thương hiệu đã khiến nhiều công ty lớn tiến hành mua lại quyền kinh doanh của những công ty khác. Theo học thuyết nội bộ hoá do giới hạn về điều kiện tự nhiên (ngành lâm nghiệp không có đất thích hợp để trồng cao su), nên ĐTRNN đã là một giải pháp kinh tế cao. Lợi ích của việc nội bộ hoá là tránh được độ trễ về thời gian, việc mặc cả khi mua bán nguyên nhiên liệu từ nước ngoài, và tình trạng thiếu người mua. Ví dụ, một DN thép có thể đối mặt với tình trạng thiếu nguyên liệu cung cấp và chị phí giao dịch cao khi mua quặng sắt từ nước ngoài, đặc biệt khi DN phải mua từ châu lục khác. Nếu DN này mua lại mọtcông ty khai mỏ nước ngoài, tứclà tiến hành việc nội bộ hoá bao gồm cả việc mua luôn quặng sắt và chi phí vận chuyển, sẽ loại bỏ được tình trạng thiếu thốn nguyên liệu. Hay một ví dụ khác như ngành lâm nghiệp trồng cây cao su; Điều kiện tự nhiên, đất đai ở Lào rất thích hợp cho cây cao su, nên có thể đạt năng suất cao, đồng thời giá thành đầu tư thấp hơn so với trồng cao su ở Tây Nguyên và duyên hải miền Trung.
Hiệu quả sử dụng nguồn lực là vấn đề đóng góp vai trò quan trọng để giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi DN, nâng cao được sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận. Vì khi tận dụng được nguồn lực ở nước ngoài, giảm được chi phí vận chuyển, chi phí do thuế nhập khẩu khi mua nguyên liệu từ nước ngoài, tận dụng những ưu đãi của nước tiếp nhận đầu tư; giảm được chi phí quảng cáo và Marketing (do sản phẩm ở gần người tiêu dùng và thị trường tiêu thụ). Tức là giảm được chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm. Hạn chế được phần nào khó khăn thiếu vốn của các nước ĐPT khi ĐTRNN do giảm được tổng chi phí sản xuất. Một trong những giải pháp tốt nhất cho vấn đề này là ĐTTT ra nước ngoài. Do LLSX phát triển không đều giữa các quốc gia và sự phân bổ nguồn lực không đều trên thế giới đã tạo ra lợi thế và sự khác nhau giữa nhu cầu, khả năng khai thác và hiệu quả khai thác nguồn lực ở mỗi nước. Có hiện tượng “thừa” nguồn lực ở một số nước và “thiếu” nguồn lực ở một số nước khác, dẫn đến hiện tượng tìm kiếm và khai thác nguồn lực lẫn nhau giữa các nước nhằm tối ưu hoá hiệu quả sử dụng và phục vụ cho mục đích tăng lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, từ đó thúc đẩy nền kinh tế nước đầu tư phát triển nhanh chóng. ĐTTT ra nước ngoài tạo cơ hội cho các DN sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực của nước chủ đầu tư, đồng thời tạo cơ hội cho các DN sử dụng được một cách tốt nhất các nguồn lực dư thừa cuả nước tiếp nhận đầu tư.
3.3. ĐTTT ra nước ngoài giúp các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
ĐTRNN nói chung và ĐTTT ra nước ngoài nói riêng giúp cho DN của các nước ĐPT thích nghi dần với thị trường khu vực, trường thế giới và việc tự do hoá thương mại khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. Vì vậy, ngoài mở rộng và phát triển thị trường trong nước, các DN còn tìm cách thâm nhập thị trường nước ngoài, tức là mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các DN ra nhiều nước khác trên thế giới. Để có mặt trên một thị trường nước ngoài, các chủ đầu tư có nhiều hình thức xâm nhập khác nhau (xuất khẩu, cấp license, nhượng quyền, liên doanh góp vốn với chủ đầu tư nước sở tại, lập chi nhánh,…). DN có thể xâm nhập thị trường nước ngoài bằng cách đơn giản là xuất khẩu sản phẩm của mình. Tuy nhiên, hình thức này có thể gặp phải một số vấn đề như chi phí nghiên cứu thị trường cao, các rào cản thuế quan và phi thuế quan không cho phép xâm nhập hoặc xâm nhập nhưng với chi phí cao. Tương tự, DN có thể cấp license cho đối tác nước ngoài phân phối sản phẩm nhưng DN có thể gặp phải lo ngại về hành vi cơ hội của đối tác dẫn đến những thiệt hại về uy tín, doanh thu và lợi nhuận cho DN. Thêm vào đó, thực tế đã chứng minh, các thị trường ở các nước thường không hoàn hảo, gây khó khăn cho việc giao dịch bằng con đường thương mại thông thường. Vì lẽ đó, các DN thường ĐTTT ra nước ngoài theo hình thức (FDI) thành lập các chi nhánh do mình sở hữu 100% hoặc sở hữu phần lớn. Khi đó, sản phẩm của các DN sẽ có nhiều người sử dụng hơn, nhiều người biết đến sản phẩm của các DN hơn. Nếu sản phẩm chất lượng tốt và được người tiêu dung nước ngoài yêu thích thì đồng nghĩa với đó là khả năng cạnh tranh của sản phẩm của các DN đã được nâng cao. Do đó, khả năng phát triển của DN ngày càng cao, tăng sự tự tin cho các DN, vị thế của quốc gia nói chung và của DN nói riêng cũng được nâng cao trên trường quốc tế và trong thương mại quốc tế.
ĐTRNN là lĩnh vực chứa đựng nhiều khó khăn thử thách, song cũng chính là cơ hội nếu các DN biết nắm bắt để tạo ra khả năng mới cho nền kinh tế. Chẳng hạn như việc thành lập công ty FDI 100% VĐT tại nước tiếp nhận đầu tư, thì sản phẩm sẽ gần gũi với người tiêu dùng hơn, dễ dàng tiếp cận và thâm nhập vào thị trường nước ngoài hơn so với việc xuất khẩu hàng hoá từ trong nước ra nước ngoài.
3.4. ĐTTT ra nước ngoài giúp các nhà đầu tư tránh được hàng rào thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư.
Mặc dù nhận thức được rằng tự do hoá đầu tư, tự do hoá thương mại góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phân bổ nguồn lực trên thế giới một cách có hiệu qủa nhất. Song, do nhiều lý do khác nhau, nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đặt ta các hàng rào bảo hộ khác nhau nhằm thực hiện các mục đích bảo hộ của mình như: Hàng rào thuế quan, giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu…hay các hàng rào tinh vi khác như: các yêu cầu về vệ sinh môi trường, vệ sinh sản xuất, về điều kiện làm việc của người sản xuất hàng hoá, về tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật của hàng hoá…ĐTRNN là biện pháp hữu hiệu để các DN tránh hàng rào bảo hộ thương mại và dễ dàng hơn trong việc đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Không những thế, ĐTRNN các DN còn có thế tận dụng những ưu đãi trong chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước tiếp nhận đầu tư; tận dụng những thuận lợi về luật đầu tư, các chính sách thuế của Chính phủ các nước tiếp nhận đầu tư.
ĐTRNN cũng giúp các DN, các nhà đầu tư khẳng định được khả năng, bản lĩnh, trình độ của mình nói riêng và của nước chủ đầu tư nói chung đối với nước tiếp nhận đầu tư. Qua đó, nâng cao uy tín chính trị của các nước đầu tư trên trường quốc tế.
3.5. ĐTTT ra nước ngoài có thể kéo dài vòng đời sản phẩm - đổi mới công nghệ
Mỗi sản phẩm có một vòng đời, từ khi xuất hiện cho đến khi bị đào thải; vòng đời này dài hay ngắn tuỳ vào từng sản phẩm. Theo lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm (International product life cycle – IPLC) của Raymond Vernon, ban đầu phần lớn các sản phẩm mới được sản xuất tại nước phát minh ta nó và được xuất khẩu đi các nước khác. Nhưng khi sản phẩm mới đã được chấp nhận rộng rãi trên thị trường thì sản xuất bắt đầu được tiến hành ở các nước khác. Cụ thể vòng đời quốc tế của một sản phẩm gồm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Sản phẩm mới xuất hiện. Giai đoạn này, người tiêu dung chú trọng đến chất lượng và độ tin cậy hơn là giá sản phẩm. Quy trình sản xuất chủ yếu là sản xuất nhỏ.
+ Giai đoạn 2: Sản phẩm chín muồi, nhu cầu tăng, xuất khẩu tăng mạnh, các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước xuất hiện vì thấy có thể kiếm được nhiều lợi nhuận. Nhưng dần dần nhu cầu trong nước giảm, chỉ có nhu cầu ở nước ngoài tiếp tục tăng. Xuất khẩu nhiều (đạt đến đỉnh cao) và các nhà máy ở nước ngoài bắt đầu được xây dựng (sản xuất mở rộng thông qua FDI). Giá trở thành yếu tố quan trọng trong quyết định của người tiêu dùng.
+ Giai đoạn 3: Sản phẩm được tiêu chuẩn hoá, thị trường ổn định, hàng hoá trở nên thông dụng, các DN chịu áp lực phải giảm chi phí càng nhiều càng tốt để tăng lợi nhuận hoặc giảm giá để tăng năng lực cạnh tranh. Cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các thị trường trong nước trì trệ, cần sử dụng lao động rẻ hơn thôg qua FDI. Nước xuất khẩu sản phẩm nay trở thành nước chủ đầu tư và phải nhập khẩu chính sản phẩm đó vì sản phẩm sản xuất trong nước không còn cạnh tranh được về giá bán trên thị trường quốc tế.
Như vậy, với những sản phẩm đã “bão hòa” tại thị trường trong nước, đòi hỏi phải chấm dứt chu kỳ sản xuất kinh doanh sản phẩm đó trên thị trường trong nước, thì ĐTRNN là một giải pháp tối ưu vì đối với thị trường nước khác, sản phẩm đó vẫn có thể tiếp tục “sống” và đem lại hiệu quả cho nhà sản xuất. Trong trường hợp này, nhà sản xuất có thể di chuyển máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất sang các nước đó để sản xuất, kéo dài “tuổi thọ” của sản phẩm.
Hơn nữa, trong thời đại bùng nổ Khoa học – Công nghệ và CNTT thì ĐTTT ra nước ngoài là một trong những phương pháp ít tốn kém nhất mà các DN các nước ĐPT có thể áp dụng để tiếp cận với KHCN cao, học hỏi những ứng dụng trong CNTT. Đây chính là một khoản lợi nhuận vô hình mà DN nhận được khi thực hiện ĐTTT ra nước ngoài; Để có thể áp dụng các tiến bộ mới về KHCN trên thế giới (trong nước chưa có điều kiện triển khai) vào DN và tận dụng các máy móc thiết bị tiến bộ này, các DN có thể xúc tiến đầu tư tại những quốc gia thích hợp (các nước phát triển) để chuyển các máy móc đó tới để đầu tư. Đây là hình thức đi tắt đón đầu rất hiệu quả; Nó mang lại lợi nhuận kép cho các nhà đầu tư.
3.6. Giảm thiểu rủi ro
Rủi ro một yếu tố không thể tránh khỏi trong quá trình đầu tư kể cả đó là rủi ro có thể lường trước hoặc những rủi ro không lường trước được. Rủi ro được coi như bạn đồng hành của quá trình đầu tư. Và theo nguyên tắc “không bỏ chung trứng cùng một giỏ” thì một trong những giải pháp hiệu quả để giảm thiểu hay san sẻ rủi ro trong đầu tư cho các DN là thực hiện ĐTTT ra nước ngoài, đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Hạn chế được rủi ro về mặt lạm phát, rủi ro về tỷ giá… Mặt khác, ĐTRNN còn tạo ra những khoản thu ngoại tệ cho các DN, góp phần làm tăng ngoại tệ của đất nước, giúp cho cán cân thanh toán được ổn định và phát triển theo chiều hướng tốt.
Ngoài những vai trò kể trên, ĐTTT ra nước ngoài còn có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý sản xuất, trong kỹ thuật sản xuất đối với lực lượng lao động trong nước; các DN ĐTTT ra nước ngoài có điều kiện học hỏi kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoạch định chính sách quản lý kinh tế, trong việc tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng với các thành phần kinh tế, các chủ thể khác nhau trên thị trường trong nước.
II. ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Xu thế tất yếu của đầu tư nước ngoài
Khi nói đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Việt Nam nói riêng và các nước ĐPT nói chung vẫn quen nghĩ đến các công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước chứ dường như không nghĩ đến các công ty trong nước ĐTRNN. Tại sao không khi mà hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã và đang diễn ra mạnh mẽ không những chỉ ở các nước phát triển mà cả ở các nước ĐPT. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc năm 2005 thì xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các nước ĐPT đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. ĐTRNN nói chung và ĐTTT ra nước ngoài nói riêng là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Quá trình phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới diễn ra ngày càng sâu rộng, giúp các quốc gia phát huy lợi thế so sánh của mình khi tham gia ĐTRNN, đồng thời khắc phục được mặt hạn chế về công nghệ và năng lực quản lý và làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế trong nước thông qua việc tiếp nhận ĐTTT từ nước ngoài. Như vậy có sự tác động đồng thời của bản thân hoạt động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Đây là cơ sở của sự gia tăng xu hướng đầu tư cả hai chiều thay cho khuynh hướng đơn phương, một chiều trước đây; Là minh chứng cho sự mạnh dần lên của xu hướng đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới và nó là một xu hướng mang tính tất yếu khách quan.
Ta thấy rằng, mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia lại có những thế mạnh riêng. Thế mạnh cơ bản mà các nước phát triển chiếm lĩnh và phát huy ở các nước ĐPT là VĐT lớn cũng như trình độ KHCN hiện đại, phát triển ở mức cao. Còn điểm mạnh mà các nước ĐPT có thể phát huy ở các nước phát triển là môi trường kinh doanh của các nước này rộng lớn, khiến cho nhiều lĩnh vực đầu tư còn bị bỏ ngỏ hoặc chi phí để thực hiện một số lĩnh vực đầu tư đối với họ còn tương đối cao so với các nước ĐPT khi các nước này trực tiếp thực hiện chúng. Các nước ĐPT cũng có thể đầu tư sang các nước kém phát triển hơn; khai thác thế mạnh mình ở các quốc gia khác.
Xét trên một khía cạnh khác, chính những lợi thế so sánh của từng quốc gia, xuất hiện hiện tượng chuyên môn hoá nhằm thực hiện công việc một cách có hiệu quả nhất. Song nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển đa dạng, phong phú. Xuất phát từ nhu cầu đó mà xuất hiện sự hợp tác, liên kết giữa các quốc gia bằng các hình thức ĐTRNN, nhằm tận dụng các nguồn lực của nhau để tăng hiệu quả VĐT. Đồng hành với quá trình này là sự cạnh tranh, sự chạy đua giữa các quốc gia trên trường quốc tế. Có nghĩa là ngoài việc cùng nhau liên kết hợp tác với nhau thì mỗi nước đều phải tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để tạo ra những bước tiến vượt bậc, đuổi kịp các nước phát triển.
Như vậy, hoạt động ĐTTT ra nước ngoài là xu thế tất yếu khách quan và cần thiết để các nước ĐPT có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới; nỗ lực săn lùng nguồn tài nguyên thiên nhiên, thị trường và các tài sản có tính chiến lược, gồm cả công nghệ và thương hiệu; nắm lấy cơ hội để phát triển nền kinh tế đất nước.
Các hình thức ĐTTT ra nước ngoài của các DN ở các nước ĐPT
Ở các nước ĐPT, ĐTTT ra nước ngoài thường được thực hiện theo kênh GI. Với những hình thức thường được áp dụng phổ biến là:
2.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BBC):
Đây là hình thức mà hai hay nhiều bên hợp tác kinh doanh với nhau dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư tại nước sở tại, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm:
- Không thành lập pháp nhân mới.
- Hoạt động dựa trên văn bản ký kết giữa các bên. Khi hết thời gian hiệu lực thì các bên không còn rang buộc về mặt pháp lý.
Ở Trung Quốc, hình thức này chiếm khoảng 15,3% tổng số dự án và 25,9% số VĐT vào. Ở Việt Nam, chiếm 6,7% số dự án và 10,3% số vốn nước ngoài đầu tư vào trong thời gian qua. Hình thức hợp tác kinh doanh chủ yếu ạp dụng trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, dịch vụ bưu chính viễn thông…
2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh:
DN liên doanh là DN được thành lập do một hặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp chung vốn với FN nước sở tại trên cơ sỏ hợp đồng liên doanh.
Đặc điểm:
- Thành lập DN có tư cách pháp nhân.
- Các bên cùng tham gia điều hành DN, chia lợi nhuận và chịu tủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Có nước quy định mức góp vốn tối đ a, có nước quy định mức góp vốn tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư nước ngoài.
Quy định tối đa nhằm bảo vệ chu quyền quốc gia, dân tộc và cũng do nước sở tại không quá thiếu vốn. Nhật Bản quy định mức góp tối đa là 49% vốn pháp định vào nhiều lĩnh vực.
Quy định tối thiểu nhằm mục đích thu hút càng nhiều vốn càng tốt. Ví dụ như Việt Nam mức vốn góp tối thiểu chủ đầu tư nước ngoài là 30% vốn pháp định của DN liên doanh.
Ở Trung Quốc, hình thức liên doanh chiếm 63,7% số dự án, và 48,4% số VĐT vào. Ở Viêt Nam, là 49,1% số dự án và 66,1% số VĐT vào trong thời gian qua.
2.3. Hình thức DN 100% vốn nước ngoài:
DN 100% vốn nước ngoài là DN do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ vốn để thành lập.
Đặc điểm:
- Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điếu hành toàn bộ DN theo quy định của pháp luật nước sở tại. DN hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- DN 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tư. Ở Trung Quốc, loại hình DN này chiếm 21,1% số dự án, 25,7% số VĐT vào. Ở Việt Nam là 45,2% số dự án và 23,6% số VĐT vào trong thời gian qua.
2.4. Hình thức hợp đồng xây dưng – kinh doanh - chuyển giao BOT.
Đây là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cầu hạ tầng trong một thời hạn nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn hoặc với một giá tượng trưng công trình đó cho nước sở tại. BOT lần đầu tiên được ghi vào luật Việt Nam năm 1990.
Các hình thức biến tướng của BOT là BT và BTO.
BTO: hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao – Kinh doanh. Là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài về việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại sẽ cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi.
BT – hợ._.p đồng Xây dựng - Chuyển giao:là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài về việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi VĐT và có lợi nhuận hợp lý.
Ngoài ra, hình thức FDI còn có thể phân loại theo nguồn tính chất dòng vốn và phân loại theo động cơ của nhà đầu tư
2.5. Phân theo tính chất dòng vốn
2.5.1. Vốn chứng khoán
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu DN do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty.
2.5.2. Vốn tái đầu tư
DN có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
2.5.3. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu DN của nhau.
2.6. Phân theo động cơ của nhà đầu tư
2.6.1. Vốn tìm kiếm tài nguyên
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng rồi rào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
2.6.2. Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu và giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất: điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v...
2.6.3. Vốn tìm kiếm thị trường
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
Những điều kiện cần thiết để các DN tiến hành ĐTTT ra nước ngoài
3.1. Những điều kiện về phía DN
Mặc dù khi ĐTTT ra nước ngoài gặp nhiều rủi ro hơn khi đầu tư trong nước (như rủi ro chính trị, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro văn hoá – xã hội…), nhưng các nhà đầu tư vẫn tích cực tìm khai thác lợi thế so sánh của nước sở tại với hy vọng tìm được mảnh đất mà ở đó tiền vốn có khả năng sinh lời cao hơn, tạo ta một “chiếc bánh thứ hai” cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để có thể tiến hành ĐTTT ra nước ngoài, điều kiện tiên quyết đầu tiên là phải tuân theo đúng quy định của pháp luật ghi rõ trong Luật đầu tư ra nước ngoài của mỗi nước (ở Việt Nam hoạt động ĐTRNN được quy định trong chương VIII trọng bộ Luật Đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và đã được bổ sung sửa đổi năm 2006); bên cạnh đó các DN của các nước ĐPT cần đảm bảo một số yêu cầu như:
Thứ nhất, các DN cần có tiềm lực tài chính mạnh.
ĐTRNN thực chất là quá trình di chuyển vốn ở phạm vi quốc tế từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. VĐT bao gồm các nguồn lực tài chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây dựng các nhà máy mới, duy trì và mở rộng các tiềm lực sẵn có… Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ DN, tổ chức nào. Muốn cạnh tranh được trên thị trường thì các DN phải đủ mạnh, có nghĩa là phải cần có một nguồn vốn dồi dào, hay tiềm lực tài chính mạnh, các DN phải có một quá trình lâu dài tích tụ và tập trung vốn. Đồng thời muốn đứng vững trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và thu được lợi nhuận thì các công ty phải đủ sức cạnh tranh bằng sản phẩm của mình. Đòi hỏi sản phẩm phải được đầu tư đầy đủ về cả vốn lẫn công nghệ.
Trên thế giới hiện nay có một xu thế khá phổ biến là sự xuất hiện của tập đoàn kinh tế và đóng vai trò quan trọng trong việc tích tụ và tập trung vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường và tối đa hoá lợi nhuận. Hình thức này chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển. Đối với các nước ĐPT vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhiều Tổng công ty lớn ra đời là tiền đề để tiến tới thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh. Có thể từ Tổng công ty tiến lên thành lập tập đoàn kinh tế sẽ đảm bảo tiềm lực tài chính vươn ra thị trường thế giới, hình thành các công ty xuyên quốc gia. Khi đó, việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ trở nên dễ dàng.
Thứ hai, kiến thức và trình độ KH-CN của các DN phải đạt tới mức độ có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư, hoặc có những bí quyết kỹ thuật, kỹ năng riêng có để sản xuất sản phẩm
Một tổ chức kinh tế muốn thực hiện ĐTTT ra nước ngoài phải có thế mạnh về kiến thức và KH-CN bao gồm tất cả các hoạt động phát minh (sản phẩm mới, quy trình sản xuất, kỹ năng Marketting và quản lý, năng lực sáng tạo, nền tảng kiến thức của DN). Trình độ KH-CN là yếu tố quan trọng thứ hai liên quan đến hiệu quả của hoạt động ĐTTT ra nước ngoài. KH-CN giúp các nhà sản xuất tạo ra được những sản phẩm mang tính chất đặc thù của mình, và các sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghệ cao. Giúp các nhà sản xuất giữ được vị thế độc quyền của mình về sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và của cả DN. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi các DN phải có nguồn lực lớn đủ mạnh chi phối các yếu tố đầu vào của sản xuất và công nghệ nhỏ không đủ sức làm được. Đối với các DN vừa và nhỏ phải tìm được những “khoảng trống” thị trường hay có những bí quyết kỹ thuật, những tiến bộ mới của KH-CN mới có thế ĐTRNN hiệu quả.
Thứ ba các DN phải có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một tất yếu. Năng lực cạnh tranh của DN thể hiện chủ yếu ở hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại cũng như tương lai: sản phẩm của DN có khả năng cạnh tranh cao, được người thị trường chấp nhận, DN được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng KH-CN tiên tiến, đội ngũ cán bộ và công nhân giỏi chuyên môn; có khả năng tiếp cận nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Song, để chiến thắng trong cạnh tranh DN phải tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ không phải chỉ tìm cách nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Năng lực cạnh tranh mạnh mẽ đảm bảo cho DN có thể tồn tại và chiến thắng ở những nơi mà DN tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh. Như vậy, khả năng cạnh tranh của DN chính là điều kiện cần thiết cho DN tiến hành đầu tư ở nước ngoài. Các nước ĐPT nói chung và Việt Nam nói riêng có xuất phát điểm thấp, thiếu vốn và kinh nghiệm quản lý, trình độ công nghệ chưa cao… nên rất cần một chiến lược thích hợp nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các DN ĐTRNN hoạt động hiệu quả.
Thứ tư, các DN phải có nguồn nhân lực đủ năng lực đầu tư, quản lý sản xuất, kinh doanh, có tính tổ chức cao và có đạo đức nghề nghiệp:
Đây là điều kiện đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ĐTTT ra nước ngoài, mang tính chiến lược để đạt hiệu quả đầu tư lâu dài và bền vững, bao gồm các yếu tố như trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp… Trong tình hình hiện nay, khi hội nhập giữa các nền kinh tế trong khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng, hoạt động ĐTRNN cũng đang từng bước đi vào chiều sâu trong cơ chế thị trường luôn luôn biến động. Vì vậy, cần thiết phải có đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình độ năng lực, am hiểu sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng mục tiêu đề ra. Ngoài ra, do sự khác biệt về ngôn ngữ, khác biệt về văn hoá, về tập quán và luật pháp nên khi ĐTRNN còn phát sinh rất nhiều quan hệ phức tạp, đòi hỏi nguồn nhân lực của các DN phải có nhận thức sâu sắc về nhiều mặt, tính độc lập cao và kỹ năng xử lý các tình huống. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực, trước khi ĐTRNN, các DN cần đào tạo, kiểm tra trình độ nhân lực trước đồng thời cần tạo điều kiện để họ có khả năng thích ứng được nhanh với điều kiện làm việc mới. Có như vậy, DN mới đảm bảo gặt hái được nhiều thành công khi ĐTTT ra nước ngoài.
3.2. Các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước của chủ đầu tư
Nhiều quốc gia trên thế giới mặc dù đã nhận thức được hội nhập kinh tế là một tất yếu khách quan, song họ chỉ coi trọng việc dòng chảy vào trong nước còn dòng chảy ra tức là đem tiền ra nước ngoài đầu tư là đất nước bị hụt vốn. Đây là một quan điểm phi kinh tế, ĐTRNN không chỉ là cần mà còn là một xu hướng tất yếu. Thực tế thế giới đã chứng tỏ rằng: một nước mà dòng ĐTTT ra nước ngoài càng mạnh thì càng có nhiều khả năng mở rộng thị trường và tăng cơ hội đầu tư kinh doanh, tăng việc làm và tăng động lực phát triển kinh tế đất nước. ĐTRNN là một lĩnh vực khá mới nên nhiều DN của Việt Nam cũng như các nước ĐPT khác vẫn còn xa lạ với ĐTRNN. Một phần vì chưa đủ lực, phần khác vì môi trường pháp lý chưa cho phép. Do vậy mà ĐTTT ra nước ngoài phụ thuộc rất nhiều vào đường lối chính sách và các biện pháp hỗ trợ từ phía nhà nước. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn cả trực tiếp và gián tiếp đến việc định hướng và đến lượng vốn của nước đó chảy ra nước ngoài.
Thứ nhất, ảnh hưởng của chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động ĐTTT ra nước ngoài
Những chính sách kinh tế vĩ mô tác động mạnh mẽ đến thúc đẩy ĐTTT ra nước ngoài bao gồm: ưu đãi về thuế, chính sách tài chính - tiền tệ, xuất khẩu và quản lý ngoại hối… Các chính sách này có liên quan đến các mặt như hiệu quả sử dụng vốn của nhà đầu tư (hiệu quả trong nước càng cao thì họ càng ít ĐTRNN), khả năng xuất khẩu (trong nước càng khó xuất khẩu thì các nhà đầu tư càng muốn ĐTRNN) và khả năng nhập khẩu (càng dễ nhập khẩu các sản phẩm từ nước ngoài thì các nhà đầu tư càng muốn chuyển sản xuất ra nước ngoài sau đó nhập khẩu sản phẩm đó về nước…).
Các ưu đãi thuế và tài chính, có thể dưới dạng các hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các chủ đầu tư (chính phủ cấp vốn, cấp tín dụng hoặc tham gia góp vốn vào dự án đầu tư ở nước ngoài); hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng (khu công nghiệp, khu chế xuất, cầu, đường,…); tài trợ cho các chương trình đào tạo cảu các dự án FDI ở nước ngoài; miễn hoặc giảm thuế (miễn thuế chuyển nhượng tài sản, giảm thuế cho các chủ đầu tư đầu tư vào các ngành hay địa bàn khuyến khích đầu tư,…), hoãn nộp thuế đối với các khoản thu nhập từ đầu tư ở nước ngoài.
Sự thay đổi các chính sách tài chính - tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng hoặc ngược lại hoặc hỗn hợp sẽ tác động mạnh đến lãi suất thực tế, từ đó làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Ví dụ, việc chuyển chính sách “nới lỏng tiền tệ - thắt chặt tài chính” sang chính sách “thắt chặt tiền tệ - nới lỏng tài chính” làm cho mức lãi suất thực tế tăng cao, nhờ đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư nội địa, đầu tư trong nước có hiệu quả, tuy nhiên chính sách đó lại không khuyến khích ĐTTT ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, sự thay đổi chính sách tài chính - tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến lạm phát, qua đó tác động gián tiếp làm đến ĐTRNN. Khi lạm phát cao, đồng tiền nội địa bị mất giá và khi đó cùng một đơn vị tiền tệ nội địa sẽ mua được ít hơn các dịch vụ đầu tư ở nước ngoài, vậy ĐTTT ra nước ngoài giảm. Ngược lại, nếu đồng tiền của nước đầu tư lên giá so với đồng ngoại tệ khác, các nước đó sẽ tăng cường ĐTTT ra nước ngoài.
Các chính sách xuất - nhập khẩu như Hiệp định thương mại song phương và đa phương của nước đầu tư sẽ tạo cơ hội cho hàng hoá của các công ty ở nước này thâm nhập vào thị trường nước ngoài dễ dàng, tức là rào cản thương mại bị giảm xuống, và sẽ tạo động lực, tác động đến hoạt động ĐTTT ra nước ngoài.
Các chính sách nới lỏng hoặc thắt chặt quản lý ngoại hối ở nước đầu tư theo hướng tự do hoá thị trường vốn các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài. Ngược lại, với chính sách quản lý ngoại hối thắt chặt, họ phải tuân thủ các quy chế giới hạn quyền chuyển vốn ra khỏi quốc gia, làm hạn chế khả năng ĐTRNN của các chủ đầu tư.
Thứ hai, các hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ ĐTTT ra nước ngoài từ phía Chính phủ.
Các hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ ĐTTT ra nước ngoài của các nước chủ đầu tư bao gồm: Hiệp định song phương và đa biên về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu tư; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; các trợ giúp về tài chính trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, bảo hiểm đầu tư, cung cấp các thông tin đầy đủ về môi trường đầu tư ở nước ngoài, chính sách đối ngoại của nước đầu tư…
Việc ký kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư. Hiệp định đầu tư song phương (Bilateral Investment Treaties – BITs) là Hiệp định được ký kết giữa nước đầu tư với nước nhận đầu tư, còn Hiệp định đầu tư đa biên (Multibilateral Agreement on Investment – MAI) là hiệp định được ký kết giữa các Chính phủ của một nhóm nước với nhau. Các hiệp định này thường có các quy định bảo hộ và khuyến khích hoạt động đầu tư giữa các nước thành viên. Nội dung các Hiệp định này quy định những nguyên tắc cơ bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình tiếp cận và kinh doanh ở các nước nhận đầu tư. Việc ký kết các hiệp định đầu tư với các nước là yếu tố quan trọng có tính quyết định thúc đẩy DN trong nước ĐTTT ra nước ngoài.
Hiệp định tránh thuế hai lần (Double Taxation Treaties - DTTs) giữa nước đầu tư với nước ngoài, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chỉ phải nộp thuế một lần tại nước nhận đầu tư, nhờ đó họ giảm bớt được chi phí đầu tư và tăng lợi nhuận. Việc này tạo ra sự hấp dẫn về tài chính, khuyến khích các nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài, các DN ĐTTT ra nước ngoài.
Ngoài ra, ĐTTT ra nước ngoài có nguy cơ gây ra cho các chủ đầu tư rủi ro cao hơn đầu tư trong nước nên cũng cần phải áp dụng các chính sách bảo hiểm cho hoạt động ĐTTT ra nước ngoài. Có thể là Chính phủ đứng ra bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Cũng có thể là các DN Bảo hiểm tư nhân bán các hợp đồng bảo hiểm cho các chủ đầu tư nước ngoài để bảo hiểm chống lại một số rủi ro. Tuy nhiên, có nhiều rủi ro đặc biệt là các rủi ro về chính trị và phi thương mại (bị quốc hữu hoá, tổn thất do chiến tranh…) các công ty bảo hiểm tư nhân không sẵn sàng đứng ra bảo hiểm. Vì vậy, nếu Chính phủ các nước đứng ra bảo hiểm cho các rủi ro này thì các nhà đầu tư của các nước đó sẽ yên tâm hơn khi tiến hành ĐTRNN.
Bên cạnh đó, để khuyến khích hoạt động ĐTTT ra nước ngoài, Chính phủ các nước ĐPT có thể trợ giúp các nhà đầu tư của mình tiếp cận thị trường đầu tư nước ngoài thông qua việc thành lập các trung tâm xúc tiến đầu tư, các tổ chức hỗ trợ đầu tư ở nước ngoài, phát triển các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư, hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, hỗ trợ lãi suất…dành các ưu đãi thương mại (thuế quan và phi thuế quan) cho các hàng hoá của các nhà đầu tư nước mình sản xuất ở nước ngoài và xuất khẩu trở lại nước đầu tư… Nước chủ đầu tư cũng có thể đàm phán để nước nhận đầu tư dỡ bỏ các rào cản đối với FDI và với thương mại giữa hai nước. Nước chủ đầu tư có thể tham gia vào các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế, để tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư nước mình trong quá trình đầu tư và tiến hành trao đổi thương mại với các nước khác.
Chính phủ hoặc các cơ quan của Chính phủ đứng ra cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin cần thiết về thị trường, đối tác, về cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh, thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài (hành lang pháp lý, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, các thông tin cụ thể của ngành, lĩnh vực hay địa bàn đầu tư; mở các hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm của DN…
Đồng thời, hỗ trợ kỹ thuật cho nước nhận đầu tư để cải thiện môi trường đầu tư, cải cách luật pháp, chính sách theo hướng rõ ràng, minh bạch hơn nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính cũng sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động FID. Đây là yếu tố tác động tích cực tới việc thúc đẩy ĐTTT ra nước ngoài ở các nước ĐPT (có Việt Nam.)
Ngoài ra , đối với các nước công nghiệp phát triển thì Chính phủ còn có thêm chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ để khuyến khích các chủ đầu tư của nước mình chuyển giao công nghệ sang các nước ĐPT thông qua FDI.
Bên cạnh các biện pháp khuyến khích đầu tư thì còn có một số chính sách của Chính phủ các nước nhằm hạn chế hoạt động ĐTRNN như: Hạn chế chuyển vốn ra nước ngoài để kiểm soát cán cân thanh toán, hạn chế thâm hụt; Hạn chế bằng thuế như đánh thuế 2 lần; Hạn chế tiếp cận thị trường (là các rào cản phi thương mại); Cấm đầu tư vào một số nước do căng thẳng trong quan hệ ngoại giao, chính trị…
II. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Các nhân tố tại Việt Nam
Trước hết phải kể đến là nhận thức về tình hình quốc tế hoá nền kinh tế. Qua các phân tích ở phần trên của đề tài ta thấy rằng: Đây là yếu tố quan trọng, tác động tích cực tới luồng đầu tư trên thế giới.
Cùng với đó là hệ thống chính sách pháp luật như: chính sách tài chính, tiền tệ; chính sách ưu đãi khuyến khích xuất khẩu; chính sách nhập khẩu hay như nới lỏng hoặc thắt chặt quản lý ngoại hối...Các hoạt động thúc đẩy ĐTRNN như ký kết các hiệp định song phương, đa bên về đầu tư; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; hỗ trợ tài chính, bảo hiểm đầu tư và các chính sách đối ngoại của nước ta...;cung cấp thông tin, trợ giúp tiếp cận thị trường… Đây cũng là các chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước Việt Nam - những điều kiện cần thiết để DN trong nước có thế thực hiện dễ dàng việc ĐTRNN.
Song nếu làm không đúng rất có thể dẫn đến ĐTRNN và tạo việc làm trong nước có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau, tăng cường ĐTRNN dẫn tới giảm đầu tư nội địa, làm giảm cơ hội việc làm trong nước, tăng tình trạng thất nghiệp và gia tăng tệ nạn xã hội. Đòi hỏi Việt Nam phải có những chính sách trợ cấp xã hội tốt, đặc biệt là trợ cấp thất nghiệp sẽ củng cố niềm tin cho người dân và giảm bớt áp lực từ làn sóng phản đối ĐTRNN tại Việt Nam.
2. Các nhân tố tại nơi đầu tư
Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc đến các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở địa điểm đó có thuận lợi hay không.Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, dân số cũng góp một phần quyết định đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và khả năng sinh lợi của dự án. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú, nhân công dồi dào và giá rẻ, vị trí địa lý thuận lợi sẽ thu hút các nhà đầu tư vì như vậy sẽ giảm được chi phí và giá thành, tăng lợi nhuận cho chủ đầu tư.
Bên cạnh các yếu tố khách quan trên thì còn một số nhân tố tại nơi đầu tư tác động mạnh đến quyết định ĐTRNN của các nhà đầu tư, các DN Việt Nam như: Chính sách, pháp luật cụ thể là khung chính sách về FDI và các quy định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI; Các yếu tố của môi trường kinh tế như: Tình hình kinh tế, xã hội trong đó trình độ phát triển kinh tế hay các yếu tố thuận lợi trong kinh doanh.
2.1. Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư: bao gồm các quy định liên quan trực tiếp đến FDI và các quy định có ảnh hưởng gián tiếp FDI.
Các quy định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp đến FDI gồm các quy định về việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài (cho phép, hạn chế, cấm đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực; cho phép tự do hay hạn chế quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài đối với các dự án; cho phép tự do hoạt động hay áp đặt một số điều kiện hoạt động; có hay không các ưu đãi nhằm khuyến khích FDI;..), các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI và cơ chế hoạt động của thị trường trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế có VĐT của Nhà nước (cạnh tranh có bình đẳng không, t hông tin có minh bạch, rõ ràng không,…). Các quy định ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt động FDI.
Chính sách thương mại của nước nhận đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư vì FDI gắn với sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
Chính sách tư nhân hoá liên quan đến việc cổ phần hoá, bán lại các công ty.
Chính sách tiền tệ và chính sách thuế có quan trọng đến sự ổn định của nền kinh tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các dự án FDI.
Chính sách tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá các tài sản ở nước nhận đầu tư; giá trị các khoản lợi nhuận các chủ đầu tư thu được và năng lực cạnh tranh của các hàng hoá xuất khẩu của các chi nhánh nước ngoài. Một nước theo đuổi chính sách đồng tiền quốc gia yếu sẽ có lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu hàng hóa.
Chính sách liên quan đến cơ cấu các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ (vùng nào, ngành nào đã bão hoà rồi; hay không khuyến khích đầu tư).
Chính sách lao động: có hạn chế hay không hạn chế sử dụng lao động nước ngoài; ưu tiên hay không ưu tiên lao động trong nước,…
Chính sách giáo dục, đào tạo, chính sách y tế,… ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực cung cấp cho các dự án FDI.
Các quy định trong các hiệp định quốc tế mà nước nhận đầu tư tham gia ký kết.
2.2. Chính sách, pháp luật, chính trị ổn định
Tình hình ổn định chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu để thực hiện các cam kết bảo đảm an toàn sở hữu tài sản và các khuyến khích đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì ổn định chính trị tạo sự ổn định về kinh tế xã hội, giảm bớt độ rủi ro cho các nhà đầu tư quốc tế. Việt Nam được thế giới đánh giá là nước có nền chính trị ổn định, ngay cả sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), chính vì thế hiện nay Việt Nam đang là một mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế đã chứng minh, trong năm 2007 vừa qua, nguồn vốn FDI vào Việt Nam bùng nổ và đạt mức kỉ lục 20,3 tỷ USD. Hay một ví dụ điển hình cho tác động của tình hình ổn định chính trị đó là Irắc. Ta biết rằng, Irắc là nước có nguồn tài nguyên dầu mỏ vô cùng phong phú song tình hình bất ổn ở Irắc là một rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành tiếp cận đầu tư vào thị trường này. Việt Nam đã có dự án thăm dò dầu khí ở Irắc lên tới 100 triệu USD nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong việc thực hiện.
Chính sách sở hữu để kiểm soát hoạt động của nhà đầu tư, khống chế mức độ sở hữu là biện pháp quan trọng để hạn chế mức độ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như Trung Quốc chỉ cho phép hình thức này trong lĩnh vực công nghệ cao và sản xuất hàng xuất khẩu. Chính sách chuyển quản lý ngoại tệ, nới lỏng hay thắt chặt việc cho phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài cũng tác động không nhỏ đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách này có thể thay đổi theo từng thời kỳ, tuỳ từng tình hình cụ thể của mỗi nước.
Sau khi dự án ĐTRNN của các DN, các nhà đầu tư được thông qua bởi các cấp có thẩm quyền trong nước thì các dự án của các chủ đầu tư còn phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho nước chủ nhà qua các khâu như cấp giấy phép, thẩm định dự án và quản lý việc thực hiện dự án. Nếu quá trình thẩm định kéo dài sẽ gây không ít khó khăn cho nhà đầu tư và như vậy cũng ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư và các quyết định đầu tư của họ.
Thủ tục hành chính cũng ảnh hưởng nhiều đến chi phí và cơ hội đầu tư. Nhiều trường hợp chỉ vì thủ tục hành chính quá rườm rà, mất nhiều thời gian mà khi hoàn thành xong các thủ tục theo quy định của nước nhận đầu tư thì cơ hội đầu tư cũng đã qua mất. Thủ tục hành chính rõ ràng, minh bạch là một trong những tiêu chí quan trọng khi nhà đầu tư quyết định đầu tư tại nước đó hay không.
Một đất nước có chính trị ổn định, môi trường pháp lý hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, các chính sách hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài sẽ là một tạo động lực to lớn đến quyết định đầu tư của các DN cũng như các nhà đầu tư nước ngoài.
2.3.Yếu tố của môi trường kinh tế
Với các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cầu thị trường. Một nước có dân số đông, GDP bình quân đầu người cao, GDP tăng trưởng với tốc độ cao, sức mua lớn sẽ có sức hấp dẫn đối với FDI vì đem lại cho chủ đầu tư cơ hội tăng thị phần và lợi nhuận.
Với các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến tài nguyên thiên nhiên, lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề, công nghệ, phát minh, sáng chế, cơ sở hạ tầng cứng (cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng, mạng viễn thông…)
Trình độ và chất lượng giáo dục cao là một nhân tố quan trọng khi các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá về nguồn nhân lực sẽ thu hút từ nước chủ nhà cho dự án, giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư.
Không phải lúc nào các chủ đầu tư nước ngoài cũng đem công nghệ cùng với vốn đi đầu tư ở các nước khác. Bản thân họ cũng kỳ vọng tìm được những công nghệ, phát minh sáng chế và các tài sản mới do DN ở các nước nhận đầu tư sáng tạo ra và sở hữu độc quyền.
2.4. Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh
Đó là các chính sách xúc tiến đầu tư, các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực bằng cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích cho các chủ đầu tư; các dịch vụ hậu đầu tư.
Các ưu đãi, khuyến khích đầu tư (ưu đãi về thuế, về tài chính,…) giúp các chủ đầu tư tăng tỷ suất lợi nhuận, giảm chi phí hoặc hạn chế rủi ro.
Tham nhũng của nước nhận đầu tư sẽ làm nản long các chủ đầu tư nước ngoài. Tham nhũng khiến cho chi phí đầu tư và chi phí kinh doanh tăng lên và các nhà đầu tư không thể dự đoán trước được chi phí có thể tăng đến mức nào. Tham nhũng cũng làm cho các cơ hội đầu tư trở nên không chắc chắn. Dù đã phải chi tiền cho các quan chức chính phủ nhưng các nhà đầu tư vẫn không biết chắc mình có được đầu tư hay không vì không co một rang buộc chặt chẽ nào từ phía các quan chức này. Chính vì vậy, nhiều khi không cần cân nhắc đến các yếu tố khác, khi thấy một nước có nhạn tham nhũng nặng nề, các chủ đầu tư sẽ không tìm đến nước đó nữa.
Ngoài ra, FDI là một hoạt động lâu dài, vì vậy khi đầu tư ở đâu thông thường chủ đầu tư nước ngoài sẽ phải có thời gian nhất định sống và làm việc ở đó, có khi còn phải mang theo cả gia đình. Điều này khiến họ phải cân nhắc đến các dịch vụ tiện ích xã hội của nước nhận đầu tư xem có đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ hay không. Một nước không có các trường học quốc tế dành cho người nước ngoài, chất lượng nhà ở thấp, các dịch vụ vui chơi giải trí nghèo nàn sẽ khó thu hút được nhiều FDI.
Các nhân tó thuộc môi trường quốc tế
Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn định hay không, có thuận lợi hay không thuận lợi cho nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư cũng như cho chính chủ đầu tư khi tiến hành hoạt động ĐTRNN. Môi trường đầu tư ngày càng được cải tiến và càng có độ mở cao, dòng vốn FDI trên toàn thế giới sẽ dễ dàng lưu chuyển hơn và nhờ vậy lượng vốn FDI toàn cầu có thể tăng.
Bên cạnh đó sự tương đối đồng điệu về quan niệm, văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán... cũng là một yếu tố các nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu tư. Với các nhà đầu tư Việt Nam thì Lào và Campuchia là mảnh đất quen thuộc để đầu tư và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số dự án cũng như tổng số VĐT ra nước ngoài của Việt Nam.
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC KHUYẾN KHÍCH THÚC ĐẨY CÁC DOANG NGHIỆP ĐTTT RA NƯỚC NGOÀI
Trong xu thế toàn cầu hoá, cùng với việc thu hút VĐT từ bên ngoài, ĐTRNN là phương thức không thể thiếu ở một quốc gia thực hiện chính sách mở cửa để tạo thế chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. ĐTTT ra bên ngoài trên đà phát triển và bùng nổ, đặc biệt chiểm ưu thế là các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU…có số lượng DN ĐTRNN rất lớn. Ở một số nước ĐPT hiện nay, ngoài việc tiếp nhận FDI từ các nước phát triển, đang cố gắng từng bước vươn lên trở thành các nhà đầu tư quốc tế có uy tín, như Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc…Nhất là Trung Quốc - nước có một số điểm tương đồng với Việt Nam, sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã khai thác được nhiều lợi thế để dần từng bước trở thành “nhà đầu tư lớn” của thế giới. Vì vậy, thông qua kinh nghiệm ĐTTT ra nước ngoài của các quốc gia này, Việt Nam có thể rút ra những bài học thiết thực để phát triển hoạt động ĐTRNN của các DN Việt Nam
1. Chính sách và kinh nghiệm vủa Hàn Quốc
12/1968 Điều Luật về đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc được ban hành. Chính phủ Hàn Quốc luôn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các Công ty, tập đoàn; có sự ưu đãi (đặc biệt về vốn) và luôn khuyến khích các DN vươn ra hoạt động ở nước ngoài. 1975 ĐTRNN của Hàn Quốc bước sang giai đoạn mới, đầu tư vào ngành thương mại và xây dựng tăng rất nhanh do quy mô đầu tư được mở rộng ra toàn cầu; và sau gần 20 năm kể từ năm 1959 – manh mún về ĐTRNN – 1977, lần đầu tiên Hàn Quốc đã đưa tổng số vốn ĐTRNN lên 77triệu USD, thông qua 80 chi nhánh ở 80 trung tâm kinh doanh quan trọng trên toàn thế giới.
Kể từ năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các chính sách nới lỏng về VĐT ra nước ngoài đối với các công ty; tập trung mở rộng khả năng đầu tư ở các nước chưa có quan hệ ngoại giao; bãi bỏ các điều luật và điều lệ gây hạn chế ĐTRNN. Vì vậy, ĐTRNN của Hàn Quốc tăng nhanh. Tiếp đó, 4/1982, hệ thống quản lý VĐT ra nước ngoài được áp dụng. Các hoạt động với giá 100.000 USD trở lên đều do Ngân hàng Hàn Quốc phê chuẩn. Từ năm 1984, Chính phủ khuyến khích mạnh mẽ các công ty hoạt động trong các ngành công nghiệp tiêu biểu. Năm 1986, Hàn Quốc trong tình trạng dư ngoại tệ, giá nhân công tăng vọt làm cho chi phí sản xuất trong nước tăng theo. Các công ty trong nước được khuyến khích ĐTRNN mạnh mẽ. Chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, hợp tác khu vực và tiến tới toàn cầu hoá, hợp tác khu vực và tiến tới toàn cầu hoá tạo động lực thúc đẩy nguồn VĐT của Hàn Quốc ở nước ngoài ngày càng tăng và đạt xấp xỉ 2,9 tỷ USD vào năm 1995.
Chính phủ Hàn Quốc sẽ miễn thuế th._. những điều chỉnh, bổ sung những chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa thúc đẩy hoạt động ĐTRNN của các DNVN. Mặt khác, việc nâng cao quản lý cũng nhằm mục đích hạn chế các hoạt động, các giao dịch bất chính, gây thất thoát ngoại tệ của đất nước; giám sát tiến trình sản xuất kinh doanh của các DN nhằm tránh việc lợi dụng khoảng cách về địa lý, khó khăn trong quản lý để có những hành vi tham ô, tham nhũng...gây nguy hại cho DN cũng như cho nền kinh tế nước ta.
Để việc quản lý hoạt động ĐTRNN của Việt Nam được tốt hơn ngoài những việc hiện nay đã và đang thực hiện, có thể kiến nghị thêm một số giải pháp như:
Thành lập hẳn một cơ quan có nhiệm vụ giám sát hay bộ phân chuyên trách đảm nhận công tác quản lý các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DNVN. Với mục đích là nhằm giám sát, điều phối các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DN; từ đó đề xuất các phương án xây dựng, điều chỉnh và đề xuất những văn bản, quy định pháp lý liên quan đến hoạt động ĐTRNN; giúp các DN tránh khỏi những rủi ro do thiếu hiểu biết hoặc quá liều lĩnh; hạn chế tệ nạn tham nhũng, gây thất thoát ngoại tệ. Đồng thời, là cơ quan đầu mối giải quyết các vướng mắc mà các DN gặp phải khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thành lập đoàn khảo sát tại chỗ ở các nước tiếp nhận đầu tư để đánh giá sâu và chính xác hiệu quả hoạt động ĐTRNN
Thiết lập mối liên hệ thân thiết, gần gũi hơn nữa giữa các cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ, tham tán của Việt Nam ở nước ngoài với các DNVN, để hỗ trợ kịp thời các DNVN khi gặp khó khăn, giải quyết kịp thời các tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư...Yêu cầu các cơ quan này có báo cáo định kỳ về chính sách và cơ hội đầu tư của nước sở tại.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên có những chính sách, quy định rõ ràng trong việc khen thưởng và kỷ luật đối với các DN ĐTRNN. Nếu DN có thành tích tốt khi hoạt động đầu tư tại các quốc gia khác, mang về các nguồn lợi nhuận đáng kể cho nền kinh tế trong nước, nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước thì nên có những khen thưởng xứng đáng; nhẳm khuyến khích những DN này và tạo động lực khuyến khích các DN khác đang đề xuất các dự án ĐTRNN. Song song với đó là các biện pháp kỷ luật cứng rắn, xử lý nghiêm khắc đối với những DN mà không tuân theo luật định như: chậm trễ trong việc báo cáo kết quả kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư; thời gian giải ngân quá chậm trễ; không tuân theo thủ tục chuyển ngoại tệ, lợi nhuận kinh doanh về nước; có biểu hiện tham ô, gian lận gây thất thoát ngoại tệ...
Nói tóm lại, song song với việc thiết lập và mở rộng các mối quan hệ hữu nghị, tốt đẹp, thân thiết với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, muốn thúc đẩy hơn nữa hoạt động ĐTTT ra nước ngoài của các DNVN thì việc đưa ra các quy định, các chính sách thông thoáng, thủ tục ngắn gọn, các chính sách hỗ trợ, ưu đãi, khuyến khích việc ĐTRNN của Nhà nước, của Chính phủ là vô cùng quan trọng. Vì càng hạn chế càng nằm trong trạng thái “bó” lâu thì sự hỗ trợ cho DN VN ở nước ngoài càng ít và không tạo được lực mới cho nền kinh tế để phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
II. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP ĐTRNN (CÁC NHÀ ĐẦU TƯ)
Để hoạt động ĐTTT ra nước ngoài sôi động hơn nữa trong những năm tiếp theo. Bên cạnh những giải pháp kiến nghị đã đưa ra đối với Chính phủ và các cơ quan chức năng Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền từ Trung Ương đến địa phương; thì Chính bản thân các DNVN cũng phải có những cố gắng, nỗ lực của mình; phải có những giải pháp cho riêng DN mình; để có thể sẵn sàng vươn ra thế giới hội nhập, phát huy tối đa các thế mạnh của mình trên trường quốc tế.
Thiết nghĩ, nếu như không còn bất kỳ một bất cập, bất kỳ một vướng mặc nào trong vấn đề Luật pháp, thủ tục, ngoại tệ,...gây khó khăn, trở ngại cho việc ĐTRNN của các DNVN; nếu như có nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ đầy đủ về mọi mặt, cực kỳ thuận lợi cho hoạt động ĐTRNN (hình ảnh ví vón đơn giản như việc người dân tộc thiểu số Việt Nam tiến hành sản xuất kinh doanh, đầu tư ra các thành phố lớn); thì liệu rằng “dòng nước chảy ngược” từ các DNVN ra các nước khác trên thế giới có thực sự đủ năng lực, kinh nghiệm, đủ khả năng cạnh tranh,... để đạt được các kết quả “đáng nể” trên trường quốc tế hay không!.
Vậy để đạt được thành công trong hoạt động ĐTRNN, các DNVN cần:
Hoàn thiện, nâng cao chất lượng việc lập dự án đầu tư và chuẩn bị nhân lực cho dự án
Muốn ĐTRNN, DN phải cần lập được dự án đầu tư có tính khả thi cao, đảm bảo tính toán, cân đối hợp lý khả năng tài chính.
Trước hết, các DN phải nâng cao nhận thức cho các DN về tầm quan trọng của việc lập các dự án đầu tư chứ không phải chỉ đơn thuần là mang tính hình thức, để hợp thức hoá thủ tục hành chính và xin cấp giấy phép đầu tư. Vì “không chuẩn bị là chuẩn bị cho thất bại”.
Tiếp đó, trong khâu chuẩn bị, lập dự án đầu tư cần có sự chuẩn bị, tính toán một cách cụ thể chi tiết; đáp ứng đầy đủ các thủ tục, yêu cầu theo quy định trong Nghị định 78/2006/NĐ-CP. Có rất nhiều loại dự án khác nhau với những đặc thù riêng, tuỳ thuộc vào từng loại hình đầu tư mà DNVN lựa chọn khi tiến hành ĐTRNN như: Đầu tư mới, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh; theo hình thức liên kết, sát nhập; hay mua lại...Và tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực khác nhau: công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, bưu chính - viễn thông, hay đầu tư phát triển vào cở sở hạ tầng, vào giáo dục – đào tạo, vào phát triển nguồn nhân lực...
Đồng thời, trong quá trình chuẩn bị cho một dự án đầu tư, các DN cũng phải tiến hành công tác chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án như công tác tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ lập dự án có chuyên môn, có trình độ, am hiểu về quy trình lập dự án đầu tư cũng như lĩnh vực định đầu tư của dự án. Tập hợp những người có tinh thần trách nhiệm cao; không chỉ cho khâu lập dự án mà cho tất cả các khâu còn lại của dự án. Con người là yếu tố quyết định cơ bản. Muốn ĐTRNN có hiệu quả phải có nguồn nhân lực đủ năng lực về chuyên môn, am hiểu lĩnh vực hoạt động, có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực của đó. Hơn hết, đó phải là những người có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp và đặc biệt phải thông thạo về ngoại ngữ...Vì vậy, bên cạnh lựa chọn ra đội ngũ nhân lực phù hợp với dự án, các DN nên chủ động đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho dự án của DN mình.
2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNVN trên trường quốc tế.
Thứ nhất: DNVN lựa chọn vũ khí cạnh tranh phát huy tối đa lợi thế của DN mình.
Có nhiều loại vũ khí cạnh tranh đang được các Công ty trên thế giới sử dụng. Đó là (1) sự vượt trội về kỹ thuật/công nghệ, (2) danh tiếng về chất lượng, (3) sự hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ, (4) mạng lưới chăm sóc khách hàng, (5) khả năng giữ nhân viên giỏi, (6) chi phí thấp, (7) danh tiếng và thương hiệu, (8) khả năng tài chính, (9) sự định hướng khách hàng và khả năng nghiên cứu thị trường, (10) sự đa dạng của sản phẩm, và (11) phân đoạn thị trường.
Mỗi một loại vũ khí đều có những đặc điểm riêng, có những vượt trội riêng, vì vậy mỗi loại vũ khí mang đến cho Công ty những lợi thế riêng. Danh tiếng và thương hiệu được coi là tài sản quý giá và là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Khả năng về tài chính, khả năng giữ được nhân viên giỏi là một trong những điểm mạnh giúp doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ của mình. Danh tiếng về chất lượng, hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ, mạng lưới chăm sóc khách hàng, định hướng khách hàng... được coi là những vũ khí cạnh tranh đầy hiệu quả. Tuy nhiên, sức mạnh của mỗi loại vũ khí trong các ngành khác nhau cũng khác nhau. Do vậy, các Công ty trước hết cần phải hiểu rõ đặc điểm riêng của mình để lựa chọn vũ khí cạnh tranh cho phù hợp. Thực tế, các Công ty nước ngoài thường sử dụng kết hợp khoảng 5-6 vũ khí để đạt được lợi thế cạnh tranh.
Việc lựa chọn và phát triển vũ khí cạnh tranh phụ thuộc vào các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. Các yếu tố bên trong như điểm yếu, điểm mạnh, năng lực của Công ty và đặc điểm ngành nghề mà Công ty đang hoạt động là cơ sở để cho Công ty lựa chọn loại vũ khí. Tương tự, các yếu tố bên ngoài như chủ trương, chính sách, và sự hỗ trợ của nhà nước cũng là căn cứ để lựa chọn vũ khí cạnh tranh.
Đối với các DNVN, do có sự hạn chế về vốn, công nghệ và quản lý nên các DN chỉ nên chọn ra những vũ khí có thể duy trì và phát triển thành lợi thế cạnh tranh. Các vũ khí có thể lựa chọn là:
Danh tiếng về chất lượng: Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh đầy lợi hại trên thị trường. Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của người tiêu dùng ngày càng cao thì chất lượng của các sản phẩm/dịch vụ càng được chú trọng. Đặc biệt, để đưa được hàng hoá vào các thị trường khó tính như thị trường Mỹ và châu Âu, chất lượng hàng hoá cần phải đạt tới mức “chất lượng quốc tế” và phải được một tổ chức có uy tín chứng nhận. Vì vậy, để xâm nhập vào được các thị trường như thị trường Mỹ và châu Âu, các DN cần xây dựng được cho mình một danh tiếng về chất lượng. Việc tạo lập được một danh tiếng về chất lượng là một điều hoàn toàn không dễ, tuy nhiên các DNVN vẫn có thể làm được điều này.
Chi phí thấp: Chi phí thấp là một vũ khí cạnh tranh đầy mãnh lực. DNVN, với lợi thế có nguồn lao động dồi dào, đơn giá rẻ, có thể sản xuất ra các sản phẩm/dịch vụ để tiêu thụ với giá cả mang tính cạnh tranh cao. Hơn thế nữa, các DNVN còn có thể áp dụng các phương pháp quản lý vật tư tiên tiến (ví dụ JIT) hoặc thiết lập đồng minh chiến lược trong cung cấp nguyên vật liệu nhằm giảm thiểu chi phí đầu vào, giảm giá thành sản phẩm.
Hỗ trợ về sản phẩm: Hỗ trợ về sản phẩm/dịch vụ là một vũ khí cạnh tranh được nhiều Công ty sử dụng. Thực tế chứng minh rằng, các sản phẩm/dịch vụ phụ trợ đi kèm đã giúp Công ty xây dựng được một mối quan hệ tốt với khách hàng và tạo cho khách hàng một niềm tin tuyệt đối vào sản phẩm/dịch vụ của Công ty. Đây là một dịch vụ dễ thực hiện nhưng tốn kém ít. Tuy nhiên, thời gian qua, các DNVN ít chú ý đến hoạt động hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ, vì vậy họ đã mất một phần lớn thị phần vào tay các DN do nước ngoài đầu tư. Các DNVN cần phải đẩy mạnh và đầu tư hơn nữa hoạt động hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ của mình.
Định hướng khách hàng: Định hướng khách hàng là việc DN hoạt động theo tôn chỉ “sản xuất ra các sản phẩm/dịch vụ phải trên cơ sở nhu cầu khách hàng và chất lượng sản phẩm/dịch vụ là mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng của sản phẩm/dịch vụ đó”. Vì vậy, Công ty cần phải nghiên cứu nhu cầu khách hàng để sản xuất ra sản phẩm/dịch vụ không chỉ thoả mãn nhu cầu khách hàng ngay từ đầu mà còn thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của họ. Việc triển khai các chương trình cải tiến chất lượng như ISO 9000:2000, TQM, hoặc bất kỳ một hệ thống cải tiến chất lượng nào khác đều nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Phân đoạn thị trường: Phân đoạn thị trường là một vũ khí cạnh tranh hiệu quả, đặc biệt là đối với các DN có nguồn lực hạn chế. Việc phân chia thị trường ra thành các phân đoạn khác nhau là việc các DNVN phải lựa chọn cho mình một thị trường phù hợp là một con đường đúng đắn để đi đến thành công. Các DNVN với những hạn chế của mình về vật lực và tài lực vẫn có thể chọn ra cho mình một thị trường riêng không chỉ ở trên lãnh thổ Việt Nam mà còn cả ở thị trường nước ngoài.
Bảng: Tóm lược một số cách lựa chọn vũ khí cạnh tranh cho một số ngành
Công nghệ cao
Dịch vụ
Chế tạo
Tổng hợp
1. Vượt trội về kỹ thuật
1. Danh tiếng về chất lượng
1. Danh tiếng về chất lượng
1. Danh tiếng về chất lượng
2. Danh tiếng về chất lượng
2. Giữ nhân viên giỏi
2. Danh tiếng, thương hiệu
2. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
3. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
3. Danh tiếng, thương hiệu
3. Chi phí thấp
3. Danh tiếng, thương hiệu
4. Mạng lưới chăm sóc khách hang
4. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
4. Đa dạng về sản phẩm
4. Giữ nhân viên giỏi
5. Giữ nhân viên giỏi
5. Nguồn tài chính
5. Phân đoạn thị trường, tập trung
5. Chi phí thấp
6. Chi phí thấp
6. Định hướng khách hàng, nghiên cứu thị trường
6. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
6. Nguồn tài chính
Xây dựng các cơ sở chăm sóc khách hàng: Khách hàng ngày càng quan tâm đến dịch vụ hậu mãi khi mua một sản phẩm/dịch vụ nào đó. Vì vậy, bố trí các cơ sở chăm sóc khách hàng ở những thuận tiện với đầy đủ trang thiết bị, đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, tận tình phục vụ là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc bán hàng. Các Công ty, các DN Việt Nam phải quan tâm hơn nữa đến việc thiết lập mạng lưới chăm sóc khách hàng nếu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của DN mình. (nếu không khả năng cạnh tranh đã yếu lại càng yếu đi).
Danh tiếng và thương hiệu: Thương hiệu là một tài sản quý giá mà không phải DNVN nào cũng nhận thức được. Vừa qua do không có thương hiệu mà sản phẩm của nhiều DNVN khi xuất ra nước ngoài đã phải chịu nhiều bất lợi như giá thấp hoặc phải bán nhờ thương hiệu của một hãng nước ngoài nào đó. Do vậy, đầu tư xây dựng thương hiệu vững mạnh là việc làm cần thiết và cực kỳ quan trọng đối với các DNVN.
Giữ nhân viên giỏi: Nhân viên giỏi là một trong những nhân tố quyết định chất lượng của công việc, quyết định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Giữ nhân viên giỏi là một vũ khí cạnh tranh đầy uy lực, đặc biệt là đối với các ngành công nghệ cao và dịch vụ. Tầm quan trọng của việc giữ được các nhân viên giỏi đã được kiểm chứng rõ ràng ở các DN có VĐT nước ngoài. Tuy nhiên, đối với các DN, tổ chức của Việt Nam thì điều này vẫn hoàn toàn mới. Vì vậy, tuyển dụng và giữ nhân viên giỏi ở lại làm việc cho Công ty phải là một trong những chiến lược dài hạn, đúng đắn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tiến hành áp dụng.
Dưới đây là bảng tóm lược một số cách lựa chọn vũ khí cạnh tranh cho một số ngành mà theo kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới đã thực hiện liên kết 5-6 vũ khí cạnh tranh. Các DNVN có thể tham khảo và vận dụng một cách sáng tạo sao cho phù hợp với chiến lược cụ thể DN mình.
Thứ hai: Nâng cao năng lực tài chính của DN mình
Bên cạnh việc xác định chính xác vũ khí cạnh tranh, để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế, các DNVN phải nâng cao năng lực tài chính của mình có thể bằng cách tích luỹ và tập trung cho mình một lượng VĐT nhất định, hay tham gia vào thì trường tài chính, thị trường chứng khoán nhằm tăng việc huy động và luân chuyển vốn trên thị trường. Các dự án ĐTRNN hiện nay của các DNVN có tổng VĐT vô cùng nhỏ so với mặt bằng chung của nhiều nước trên thế giới. Mà trong tổng VĐT đó, vốn tự có của DN chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Một quốc gia mà mạnh về tài chính, mạnh về kinh tế, thì đó ắt sẽ là một cường quốc kinh tế trên thế giới như Mỹ, Nhật... Với DN cũng vậy, nếu có năng lực tài chính mạnh, DN sẽ chủ động hơn rất nhiều, tránh được nhiều thủ tục của việc vay tín dụng, vay VĐT...
Để huy động và tập trung vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. một số DN cùng lĩnh vực hoạt động nên xem xét liên hiệp với nhau hình thành lên các tổng công ty lớn; từ các tổng công ty lớn này sẽ phát triển thành các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia. Các tập đoàn kinh tế này là tru cột của nền kinh tế quốc dân, vừa là đầu tàu kéo các DN khác ĐTRNN, là nòng cốt thực hiện ĐTRNN để khai thác thị trường quốc tế. Khi đó, năng lực cạnh tranh của các DN sẽ trở thành sức mạnh cạnh tranh của cả một tập đoàn kinh tế, mạnh hơn rất nhiều.
Thứ ba: Đầu tư năng lực KH-CN; nâng cao hiệu quả sản xuất của DN
Trình độ KH-CN có tính chất quan trọng đối với việc sản xuất kinh doanh của DN, đến năng lực cạnh tranh của DN. Vì vậy, các DN phải luôn cố gắng đổi mới trang thiết bị, tích cực học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu về các công nghệ mới, để áp dụng các công nghệ mới nay nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, được miễn giảm thuế đối với khoản thu nhập tạo ra từ công nghệ mới, và hơn nữa còn được vay vốn ưu đãi để đầu tư.
Các DN có thể áp dụng biện pháp khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ và hạch toán các khoản chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm rẻ cũng sẽ là một vũ khí cạnh tranh lợi hại của DN khi ĐTRNN.
Chủ động học hỏi, tìm hiểu về những công nghệ mới và hiện đại, có thể ứng dụng trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, qua các buổi toạ đàm, đào tạo về công nghệ mới. Mở rộng các hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ mới. Tiếp cận với các kênh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Tham khảo ý kiến, tư vấn của các chuyên gia về khoa học công nghệ để lựa chọn được công nghệ, xây dựng phương án kinh doanh và phát triển thị trường phù hợp.
Các DN cũng có thể mua lại những công nghệ cũ của nước ngoài vẫn có khả năng phát huy hiệu quả trong thực tiễn và phù hợp với khả năng tài chính của DN.
Trong vấn đề công nghệ, các DNVN cũng cần phải chú ý một vấn đề. Tại sao Nhật, EU không chuyển giao cho ta công nghệ chế biến cà phê? Bởi vì nếu chuyển giao thì cà phê của họ sẽ mất tính cạnh tranh với cà phê VN. Trong chuyến đi Tanzania, phía bạn rất muốn Việt Nam chuyển giao công nghệ chế biến hạt điều. Nhưng không thể làm theo cách nghĩ đơn giản của nhiều quan chức. Vì Tanzania có giá lao động rất rẻ, sản lượng hạt điều lại lớn. Nếu cho họ công nghệ thì ngay lập tức hạt điều VN sẽ có một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Các DNVN thực sự phải sáng suốt trong chuyển giao công nghệ. Còn các nhà chức trách nên có tư duy quản lý nhằm vào chỗ tương tự như thế này, có tính định hướng chứ không phải hạn chế chung chung.
Thứ tư: Nâng cao năng lực quản lý của chính bản thân các DN
Việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý DN đối với các DN hoạt động trong nước đã khó, việc quản lý các DN đầu tư tại các nước ngoài còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động trong DN là những nhà quản lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết, trước hết là về lĩnh vực mà mình đang kinh doanh, biết khai thác triệt để mọi nguồn lực trong DN và tận dụng mọi cơ hội đầu tư...
Các DN cần có những chính sách khuyến khích, trợ giúp các thành viên trong DN, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ quản lý trong DN như: có các suất học bổng, đào tạo tại nước ngoài, sau khi học xong sẽ quay về tiếp tục quản lý, điều hành một bộ phận của chuyên môn nào đó của DN; tìm hiểu, học hỏi để khắc phục sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, về tập quán... để xây dựng văn hoá doanh nghiệp của mình trên nước sở tại.
Các nhà quản lý, lãnh đạo cần tích luỹ kinh nghiệm, có khả năng làm việc độc lập và có kỹ năng xử lý tình huống tốt tại nơi “đất khách quê người”.
3. Đầu tư hợp lý cho Nghiên cứu thị trường nước tiếp nhận đầu tư.
Một yếu tố quan trọng khi các DNVN có ý định mở rộng hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh ra nước ngoài cần có sự chuẩn bị kỹ từ khâu nghiên cứu thị trường, chính sách pháp luật, tập quán, thói quen tiêu dùng, các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm; đặc biệt là tìm hiểu nghiên cứu kỹ chính sách thuế, phí; các quy định xuất nhập khẩu ... môi trường đầu tư ở nước sở tại để lựa chọn các cơ hội đầu tư phù hợp với mình.
Các DN cần có chiến lược đầu tư hợp lý cho việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn xem xét để đối với từng thị trường cụ thể đưa ra quyết định sản xuất mặt hàng gì, tiêu thụ như thế nào? Xem xét DNVN có thể đầu tư cái gì và nên đầu tư cái gì ra nước ngoài để đất nước thực sự có lợi.
Đồng thời, đối với các dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước ngoài, các DN cần thực hiện chế độ báo cáo tài chính định kỳ cho cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài; xem khâu nào vướng mắc, vướng mắc ở đâu để Nhà nước xem xét có sự điều chỉnh các chính sách, quy định cho phù hợp với các yêu cầu thực tiễn. Như vậy Nhà nước sẽ có điều kiện quản lý theo sát hoạt động ĐTRNN của các DN. Về phần mình, DN phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định mới có thể đẩy nhanh các khâu cấp phép đầu tư, thực hiện dự án đầu tư một cách hiệu quả.
Trước hết, về thị trường, các DNVN nên nhắm đến những thị trường dễ chấp nhận các sản phẩm và công nghệ VN như châu Phi, ASEAN… Song cũng luôn phấn đấu tích luỹ năng lực kinh nghiệm để vươn ra thị trường các nước phát triển, nhờ các luật sư tư vấn đầu tư để tìm hiểu về thị trường các nước phát triển như Mỹ, Anh, Úc, Đức, Nhật, Ý... Hiện nay, xu hướng đầu tư vào thị trường các nước phát triển nhất là Mỹ của các DNVN đang tăng lên rõ rệt; đặc biệt là các công ty thuỷ sản đầu tư, xuất khẩu sang Mỹ. Và các mặt hàng này của Việt Nam đang ngày càng có vị thế ở nước ngoài, các DNVN không còn cảm thấy ra nước ngoài làm ăn là chuyện gì đó xa lạ như trước đây nữa.
Phải xem việc ĐTRNN là một bộ phận để phát triển mở rộng thị trường, là cầu nối thúc đẩy thương mại phát triển. Vì vậy, cần xem xét và lựa chọn kỹ lưỡng hình thức đầu tư sao cho có lợi nhất cho DN mình và cho đất nước. Mỗi hình thức đầu tư có những ưu nhược điểm riêng và áp dụng trong các trường hợp khác nhau. Ngoài hình thức đầu tư mới thị Mua lại và sát nhập cũng là một sự lựa chọn tốt và có thể rất phù hợp với điều kiện thực tế của các DNVN hiện nay.
Với mua lại và sát nhập (M&As) có 4 lợi ích cơ bản so với đầu tư mới. Thứ nhất, công ty có thể nhanh chóng để hiện diện tại một thị trường nước ngoài hơn là đầu tư mới. Thứ hai, bằng hình thức này, công ty có thể ngăn cản các đối thủ cạnh tranh, nhất là trong các thị trường toàn cầu hoá nhanh chóng. Thứ ba, công ty mua lại có thể tăng hiệu quả các công ty được mua lại bằng cách chuyển giao công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản lý. Cuối cùng, M&As có thể ít rủi ro hơn đầu tư mới và có thể tận dụng được các tài sản giá trị của công ty được mua như mối quan hệ khách hàng, hệ thống phân phối, nhãn hiệu, hệ thống sản xuất.
Tuy nhiên, hình thức M&As có nhược điểm là bên mua lại có thể đánh giá công ty được mua với giá quá cao, thường là do họ quá lạc quan về lợi ích do sự cộng hợp giữa công ty đi mua và công ty được mua. Ngoài ra sự khác biệt về văn hoá tổ chức và cách vận hành sẽ tạo ra sự mâu thuẫn dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Ngược lại, đầu tư mới có lợi thế hơn so với M&As là công ty có thể linh hoạt hơn để có thể tạo ra một công ty theo ý muốn; xây dựng văn hoá tổ chức cho một công ty mới dễ hơn là thay đổi văn hoá từ công ty khác
Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì hình thức M&As còn là con đường nhanh chóng hơn để tiếp cận với công nghệ hiện đại cũng như sở hữu được thương hiệu nổi tiếng như đã đề cập ở trên. Nếu chúng ta phải xây dựng từ đầu thì phải mất thời gian quá dài để có thể xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại. Còn nếu chúng ta dựa vào nguồn đầu tư từ nước ngoài thì cũng khó thực hiện được. Nếu là các ngành công nghệ cao thì các doanh nghiệp nước ngoài thường đầu tư 100% vốn nước ngoài để bảo vệ công nghệ như Canon, Toyota. Một số công ty lúc mới vào Việt Nam vì chưa am hiểu thị trường thường tiến hành liên doanh với các đối tác Việt Nam nhưng khi đã đứng vững trên thị trường liền tìm cách trở thành doanh nghiệp hoàn toàn vốn nước ngoài, ví dụ như Acecook, Unilever... Cho nên song song với hình thức đầu tư mới, các DNVN cần chú ý đến hình thức M&As để khai thác các lợi thế của nó.
Để mua một DN một cách hiệu quả, công ty đi mua phải chú ý cả 3 giai đoạn: lựa chọn công ty mục tiêu, lựa chọn chiến lược mua lại thích hợp và hòa nhập hai tổ chức thành một.
Lựa chọn công ty mục tiêu thường dựa vào (1) tình hình tài chính, vị trí sản phẩm của công ty đó trên thị trường, (3) môi trường cạnh tranh, (4) năng lực quản lý và (5) văn hóa doanh nghiệp. DNVN ngoài các yếu tố trên còn phải lựa chọn công ty mục tiêu có thể thực hiện mục tiêu lâu dài là nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường thế giới và hiện đại hóa.
Lựa chọn chiến lược và thời điểm để tiến hành mua lại rất quan trọng vì nó quyết định sự thành công và giá mua. Để mua lại hiệu quả nhất, công ty đi mua phải thuyết phục công ty mục tiêu là mua lại sẽ đem lại lợi ích cộng hợp lớn hơn vì các công ty này thường muốn bảo vệ các cổ đông cũng như nhân viên của họ. Ví dụ như Philip Morris mua lại Miller năm 1969 thành công nhờ Philip có lợi thế về Marketing trong khi Miller yếu về mặt này. Còn nếu không có sự đồng thuận của đối tác, cuộc mua lại sẽ rất khó và giá cũng sẽ rất cao. Các công ty ở Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động rẻ và thị trường tiêu thụ tiềm năng tương đối lớn sẽ là lợi thế để có thể tạo nên lợi ích cộng hợp.
Vấn đề khó khăn cuối cùng là sự hợp nhất của hai công ty. Sự hợp nhất phải bảo đảm được sự cộng hợp để duy trì lợi thế cạnh tranh trong các lĩnh vực như tài chính, sản xuất, nghiên cứu và phát triển hay quản lý. Công ty mẹ ở Việt Nam càng khó khăn hơn vì kiến thức quản trị cũng như kinh nghiệm kinh doanh quốc tế vẫn còn yếu, và đặc biệt và vấn đề văn hóa doanh nghiệp vẫn còn khá mới mẽ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên nếu các công ty có thể sử dụng lực lượng Việt kiều thì vấn đề khó khăn về nhân sự sẽ được giảm đi đáng kể.
Với quy định hiện nay, con đường thuận lợi hơn cả cho các nhà đầu tư Việt Nam có lẽ là liên kết với các DN của người Việt Nam đang làm ăn để mở rộng, tái đầu tư hoặc mua cổ phần hoặc liên kết với DN của bạn để phối hợp làm ăn thay vì tự mình bắt đầu.
Và dù lựa chọn hình thức đầu tư nào, thì các DNVN cần liên hệ với Việt kiều ở các nước để thu thập thông tin và xin tư vấn để đầu tư vào lĩnh vực và sản phẩm phù hợp…
Ngoài ra, các DNVN cần liên hệ chặt chẽ với các Đại sứ quán, Cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài để xin cung cấp thông tin và tư vấn trước khi quyết định ĐTTT tại một nước.
Tóm lại, mặc dù có khá nhiều trở ngại các DN Việt Nam cần phải vượt qua, nhưng để nâng cao vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Các công ty cần có sự chuẩn bị và chiến lược để có thể bắt đầu tham gia vào xu hướng của thế giới.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong nước sẽ là sự gia tăng năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO thì ĐTTT ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới nhất định sẽ được tăng cường đáng kể. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng đã xác định: “Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt nam đầu tư ra nước ngoài”. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 5 năm tới các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đầu tư khoảng 1,0 đến 1,2 tỷ USD ra nước ngoài, bình quân mỗi năm 200 triệu USD. Đây có lẽ là một tín hiệu khả quan đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Trong xu thế toàn cầu hoá, đầu tư quốc tế là một xu hướng tất yếu và ngày càng sôi động, đóng vai trò chủ lực của nền kinh tế mỗi quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa để tạo thế chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế, một số nước ĐPT hiện nay, cùng với việc thu hút và tiếp nhận FDI từ các bên ngoài, thì ĐTRNN là phương thức không thể thiếu, họ đang cố gắng vươn lên trở thành các nhà đầu tư quốc tế có uy tín, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông....
Một năm sau khi ra nhập WTO, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.Và không nằm ngoài xu thế chung của kinh tế thê giới, Việt Nam đã có những động thái tích cực trong hoạt động ĐTTT ra nước ngoài. Việt Nam đã biết tận dụng những lợi thế so sánh của mình trong một số ngành như: dầu khí, cao su, chế biến hạt điều, thuỷ điện, xây dựng văn phòng cho thuê,... đã thu được những kết quả đáng kể trong lĩnh vực đầu tư mới này. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định xuất phát cả từ phía Nhà nước và cả từ phía các DN.
Đề tài này đã tập trung nghiên cứu lý luận chung về ĐTRNN và thực tiễn các chính sách của Nhà nước đã áp dụng trong lĩnh vực ĐTTT ra nước ngoài cũng như thực tiễn hoạt động ĐTRNN của các DNVN trong thời gian qua (1989-4/2008), nhằm tìm ra những điểm mạnh và những hạn chế còn tồn tại để từ đó, đề xuất một số giải pháp - kiến nghị từ cả phía Chính phủ và phía các DN. Với mục đích khuyến khích thúc đẩy, tăng cường hoạt động ĐTRNN của các DNVN.
Do thời gian nghiên cứu có hạn và đây là một lĩnh vực kinh tế khá mới của nền kinh tế Việt Nam, khả năng tiếp cận nguồn thông tin còn hạn chế, cho nên các giải pháp đưa ra vẫn có phần mang tính định hướng, chưa cụ thể; mới chỉ ở giác độ vĩ mô là chính chứ chưa thể đi sâu vào nghiên cứu được trên giác độ vi mô. Chính vì thế, nếu có điều kiện để tiếp tục nghiên cứu đề tài này, em sẽ có thể đi sâu nghiên cứu điểm mạnh và hạn chế tồn tại của từng ngành, để từ đó đưa ra giải pháp thúc đẩy phù hợp với từng ngành và từng loại hình DN cụ thể.
Tuy nhiên, hy vọng đề tài này sẽ cung cấp được cho những cá nhân, DN quan tâm đến lĩnh vực này những thông tin bổ ích khi nghiên cứu, tìm hiểu hay thực hiện ĐTRNN, cũng như trong quá trình hoạch định chính sách khuyến khích các DNVN ĐTRNN. Tạo động lực mới cho nền kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2007
Giáo trình Lập dự án Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2007
Báo Khoa học và Phát triển ngày 29/12/2006
Đầu tư, số ngày 30/9/2005, tr.4 & số ngày 26/4/2007, tr.5
Đỗ Đức Định, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở một số nước Đông Nam Á,
Khoa học – Xã hội, Hà Nội - 1993
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, Các công cụ tài chính và vị thế củ Việt Nam trong khu vực đầu tư ASEAN, NXB Tài chính, Hà Nội – 2005
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài NXB Tài chính, Hà Nội – 2006
Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Nghị định số 22/1999/NĐ–CP ngày 14/4/1999 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định về Đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp Việt Nam.
Thông tư số10/2006/TT-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 349 – Tháng 6/2007
Tạp chí Kinh tế phát triển số 125 – Tháng 11/2007
Quốc tế số 27/2005, tr.14
Một số trang website:
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐTTT
Đầu tư trực tiếp
DN
Doanh nghiệp
VĐT
Vốn đầu tư
NICs
Các nước công nghiệp mới
ĐPT
Đang phát triển
KH - CN
Khoa học – Công nghệ
ĐTRNN
Đầu tư ra nước ngoài
TCTD
Tổ chức tín dụng
DNVN
Doanh nghiệp Việt Nam
KT – XH
Kinh tế - Xã hội
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28543.doc