Lời nói đầu
Trong vài thập kỷ trở lại đây, khu vực Đông á và Đông Nam á nổi lên như một hiện tượng thần kỳ. Khu vực này đã đạt dược mức tăng trưởng cao và ngoạn mục trong một khoảng thời gian liên tục 20 - 25 năm. Sự thành công này có được là nhờ vào việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong và ngoài nước.
Nằm trong khu vực năng động nhất của thế giới, Việt Nam đã có một lợi thế nhất định khi tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thời gian vừa qua chúng ta đã đạt được mức
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm huy động nguồn vốn trong dân phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng trưởng khá cao (8-9%). Song để có thể duy trì mức tăng trưởng liên tục thì đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực mà đặc biệt là vốn cho đầu tư phát triển.Vốn là một yếu tố quan trọng để tiến hành sản xuất bảo đảm tăng trưởng và phát triển của mọi hình thái xã hội. Nó được coi là “chìa khoá” của sự tăng trưởng và phát triển của nhiều nước trên thế giới.
Chúng ta có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau (từ trong nước, từ ngoài nước...) nhưng về lâu dài thì nguồn vốn trong nước là chỗ dựa tốt nhất, bền vững nhất cho sự ổn định và phát triển kinh tế. Còn nếu dựa quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài thì sễ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc, nền kinh tế bấp bênh và rơi vào khủng hoảng (như một số nước châu á hiện nay). Trong nguồn vốn trong nước thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư giữ một vị trí quan trọng, nó góp phần không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay nguồn vốn trong dân cư còn rất lớn nhưng chưa huy động được nhiều. Bằng biện pháp gì, chính sách gì để có thể huy động được lượng vốn đó là yêu cầu đặt ra của thực tiễn. Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề này trong quá trình thực tập tại Vụ Tài chính-Tiền tệ Bộ Kế hoạch-Đầu tư, được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ trong vụ cũng như giáo
viên hướng dẫn, tôi đã tập trung nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm huy động nguồn vốn trong dân phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội “.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài này chỉ trình bày một số giải pháp chủ yếu liên quan đến việc thu hút vốn tiền tệ trong dân
Đề tài chia làm ba phần:
- Phần I: Vốn với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
- Phần II: Khả năng vốn trong dân và tình hình huy động vốn trong dân vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
- Phần III: Một số kiến nghị nhằm huy động vốn trong dân phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
phần i
Vốn với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
* *
*
I.Vốn là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
1.Khái niệm về vốn sản xuất và vốn đầu tư
Có nhiều quan điểm về vốn, song những quan niệm đó đều thừa nhận rằng: Vốn là một yếu tố đầu vào quan trọng để tiến hành sản xuất, bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của mọi thời đại, mọi hình thái kinh tế xã hội. Vốn được biểu hiện dưới dạng hiện vật và tiền tệ. Về phương diện hiện vật, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm tồn kho... là nhân tố đầu vào, đồng thời bản thân nó lại là kết quả đầu ra của các quá trình sản xuất khác. Về phương diện tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tiền được đưa vào sản xuất kinh doanh với mục đích tạo ra lượng tiền lớn hơn số lượng ban đầu.Vốn tiền tệ là “trung gian” bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Ngoài ra vốn còn tồn tại dưới dạng tài sản vô hình nhưng có giá trị như bằng phát minh, sáng chế, nhãn hiệu,lợi thế cửa hàng...
Với quan niệm rộng hơn,người ta có thể coi lao động, tài nguyên cũng là vốn. Lao động dư thừa từ khu vực truyền thống có thể đưa sang xây dựng đường sá, cầu cống mà hầu như không cần máy móc thiết bị khác. Trong trường hợp đó chính lao động trở thành nguồn vốn lớn. Ngoài ra cũng có thể khai thác tài nguyên để tạo vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp nêu trên, dù ở mức độ tối thiểu, người ta cũng cần phải có vốn với tư cách là loại nhân tố sản xuất độc lập, khác hẳn với các loại nhân tố tài nguyên và lao động.
Tổng số vốn đã được tích luỹ lại gọi là tài sản quốc gia. Toàn bộ tài sản sản quốc gia bao gồm ba loại:
-Tài nguyên thiên nhiên
-Tài sản được sản xuất ra
-Nguồn nhân lực
Tài sản dược sản xuất ra bao gồm toàn bộ của cải vật chất dược tích luỹ lại qua quá trình phát triển của đất nước. Những tài sản này được chia làm 9 loại:
Công xưởng, nhà máy
Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng
Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải
Cơ sở hạ tầng
Tồn kho của tất cả loại hàng hoá
Các công trình công cộng
Các công trình kiến trúc quốc gia
Nhà ở
Các cơ sở quân sự
Trong đó, bộ phận sử dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất gọi là vốn sản xuất bao gồm 5 loại đầu (vốn cố định) và loaị thứ 6 (vốn tồn kho). Vậy ta có thể khái niệm chung về vốn sản xuất :
-Vốn sản xuất: là một bộ phận của tài sản quốc gia được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất, nó bao gồm hai bộ phận: Vốn cố định và vốn tồn kho. Trong đó, vốn cố định là bộ phận cơ bản.
Vốn cố định và tài sản cố định, trong nhiều trường hợp người ta thường sử dụng thay thế hai thuật ngữ này, song về bản chất chúng có sự khác biệt nhất định. Vốn cố định là những tài sản cố định được đưa vào sản xuất, còn trong trường hợp tài sản cố định vẫn
nằm yên thì không thể coi là vốn cố định được. Nhưng ở đây, chúng ta không đi sâu vào vấn đề này, và có thể coi chúng là một khi xét trong quá trình sản xuất. Tài sản cố
định, trong quá trình sản xuất bị hao mòn dần (hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình), phần hao mòn này được chuyển dần vào sản phẩm và sau khi tiêu thụ thì được trích lại dưới dạng khấu hao. Nhằm mục đích tái sản xuất lại tài sản cố định đã bị hao mòn trong quá trình và ngoài ra còn phải mua thêm các trang thiết bị, máy móc mới (do máy móc bị hao mòn vô hình và do yêu cầu mở rộng sản xuất) . Chi phí để thực hiện việc tái sản xuất này chính là vốn đầu tư.
-Vốn đầu tư : Vốn đầu tư là chi phí để thực hiện việc tái sản xuất tài sản cố định, bao gồm phân thay thế những tài sản bị thải loại, chi phí tăng thêm những tài sản cố định mới, chi phí tăng thêm tài sản tồn kho.
Vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn tiết kiệm, tích luỹ và nó là cơ sở cho vốn sản xuất, tạo ra vốn sản xuất. Để tiến hành quá trình sản xuất, đòi hỏi phải có máy móc, thiết bị và các loại hàng hoá khác phục vụ, điều kiện này có được khi thực hiện đầu tư. Các nguồn tài sản này (theo lập luận ở trên) sẽ trở thành vốn sản xuất khi chúng được tham gia vào sản xuất. Vốn sản xuất là yếu tố làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế, vì thế để tăng sản lượng của nền kinh tế thì đòi hỏi phải thực hiện quá trình đầu tư, đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu (kỹ thuật công nghệ...) từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng của mỗi đồng vốn.
2.Vốn đầu tư và vốn sản xuất với tăng trưởng và phát triển kinh tế
a.Quan hệ giữa tốc độ phát triển kinh tế và hệ số ICOR.(mô hình Harrod-Doma)
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho đơn vị đó.
Nếu gọi đầu ra là Y và tốc độ tăng trưởng của đầu ra là g, có nghĩa là:
DY
g = ---------
Yt
Nếu gọi S là mức tích luỹ của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP sẽ là:
S t
s = ---------
Yt
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư, nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S = I ), do dố ta cũng có thể viết:
It
s = ---------
Yt
Mục đích của đầu tư là dể tạo ra vốn sản xuất (I = K ). Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra, có nghĩa:
DKt+n
.k = ---------
DY
It
hoặc k = ----------
DY
DY It . DY It It
vì -------- = ------------ = ------- : ------------
Yt It . Yt Yt DY
Do đó chúng ta có:
s
g = --------
k
k được gọi là hệ số ICOR. Hệ số này nói lên rằng, vốn sản xuất được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản để tăng trưởng; các khoản tiết kiệm của dân cư và các công ty chính là nguồn góc cơ bản của đầu tư.
Cần lưu ý rằng tỷ số gia tăng vốn - đầu ra chỉ đo năng lực của phần vốn tăng thêm, nó khác với tỷ số trung bình vốn - đẩu ra phản ánh năng lực của toàn bộ vốn sản xuất.
b.Tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội .
Đầu tư là một trong những bộ phận của tổng cầu (AD)
AD = C + I + G + NX
Sự thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu về cầu chi tiêu tăng lên làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1. Do đó làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá cũng biến động từ PLo đến PL1 . (Xem sơ đồ 1)
AS
PL
Vốn sản xuất được tăng thêm nhờ vào đầu tư tăng, huy động được các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng... đưa vào sản xuất, từ đó làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung, làm cho đường tổng cung dịch chuyển từ AS0 đến AS1 , do đó làm cho mức sản lượng tăng từ I0 đến I1 và làm cho mức giá giảm từ PL0 xuống PL1 (xem sơ đồ 2).
PLo
PL1
AD1
AD00
GDP
Y1
Yo
Sơ đồ 1: Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng
PL AS0
AS1
PL0
PL1
AD
Y1 Y0 GDP
Sơ đồ 2: Tác động của vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế
Tác động của vốn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế còn được thể hiện thông qua hàm sản xuất :
Y = f (K, L, R, T... )
Trong đó: Y là sản lượng đầu ra (GDP hay GNP)
K là vốn sản xuất
L là lao động
R là tài nguyên
T là tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
Trong nền kinh tế thị trường, các biến số trực tiếp tạo ra giá trị sản lượng đầu ra chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung cầu. Một số luồng đầu vào (biến số đầu vào) thì ảnh hưởng tới mức cầu, một số khác thì ảnh hưởng tới mức cung. Sự cân bằng cung cầu do giá thị trường điều tiết sẽ tác động ngược trở lại các luồng đầu vào và dẫn tới kết quả của sản lượng nền kinh tế. Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của sự tăng trưởng là xác định các nhân tố tác động đến sự gia tăng sản lượng. Điều đó đưa đến vấn đề trung tâm cần nghiên cứu là sự tăng trưởng do cầu hay cung hay nói cách khác, các nhân tố ảnh hưởng tới lượng cung (như vốn sản xuất, lao động, khoa hóc kỹ thuật, tài nguyên ...) quyết định hay
các nhân tố thuộc về cầu (như mức thu nhập của dân cư, giá tiêu dùng, các chính sách về kinh tế...) quyết định sự gia tăng sản lượng GDP ?
Kinh tế học vĩ mô xác định trong từng thời kỳ ngắn hạn, tương ứng với mức giá và tiền lương nhất định, sản lượng của nền kinh tế luôn ở dưới mức tiềm năng, tức là nền kinh tế còn có các nguồn lực chưa khai thác hết như: công nhân thất nghiệp, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc thiết bị chưa sử dụng hết..Trường hợp đó cung không phải đã bị giới hạn, các hãng còn có thể cung ứng lượng sản phẩm theo yêu cầu, do đó gia tăng tổng sản lượng trong toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng cầu. Lý luận này được hầu hết các nhà kinh tế học đồng tình. Nhưng với những nước chưa đáp ứng dược nhu cầu cơ bản thì lại chưa chứng minh được.
Xuất phát từ thực tế các nước chậm phát triển và đang phát triển cung chưa đáp ứng được cầu. Sự gia tăng sản lượng bắt nguồn từ việc gia tăng các yếu tố đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai , nguyên liệu, kỹ thuật và công nghệ.
Hàm sản xuất nói lên sản lượng tối đa có thể đạt được tuỳ thuộc vào lượng các đầu vào trong điều kiện trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi một yếu tố (biến số) có vai trò nhất định trong việc tạo ra kết quả đầu ra, do trình độ phát triển kinh tế mỗi nơi, mỗi lúc quy định.
Trong các yếu tố tác động đến kết quả sản xuất có bao nhiêu luồng đầu vào và vốn có vai trò như thế nào trong sự gia tăng sản lượng ?
Sự gia tăng sản lượng phụ thuộc vào sự gia tăng các yếu tố đầu vào theo quan hệ giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai, nguyên liệu,kỹ thuật và công nghệ.
Như đã nói ở phần trước, nguồn vốn để tăng trưởng trong một nước bao gồm nhiều loại: vật tư kỹ thuật,tiền tệ, lao động và tri thức khoa học... trong đó vốn tiền tệ là nguồn vốn bao trùm do những lý do chính sau đây:
-Thứ nhất, vốn sản xuất là một bộ phận của tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất, cùng với các yếu tố sản xuất khác để tạo ra sản phẩm hàng hoá (đầu ra). Nó bao gồm các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải,
nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật... Trong quá trình sản xuất, giá trị của vốn sản xuất được chuyển dần vào giá trị sản phẩm, đồng thời do nhu cầu mở rộng sản xuất cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp khấu hao vá tăng thêm vốn sản xuất mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư.
-Thứ hai, lao động là một yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất cũng giống như các yếu tố khác được tính bằng tiền trên cơ sở giá cả sức lao động do thị trường qui định. Lao động không đơn thuần là số lượng mà còn bao gồm cả chất lượng mà người ta gọi là vốn nhân lực. Đó là lao động với trình độ, tri thức học vấn và những kỹ năng, kinh nghiệm lao động sản xuất nhất định. Do vậy, những chi phí nhằm nâng cao trình độ cho người lao động thể hiện là nguồn vốn tiền tệ đầu tư cho nhân lực và coi là đầu tư dài hạn cho đầu vào.
-Thứ ba, đất đai và các tài nguyên khác cũng là những yếu tố đầu vào trong sản xuất, do diện tích đất đai và các tài nguyên khác là cố định nên phải nâng cao hiệu quả sử dụng chúng bằng cách đầu tư thêm vốnlàm tăng thu nhập. Chính điều này đã làm cho vai trò của vốn nổi lên vì nhờ nó mà các tài nguyên, đất đai được khai thác làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng.
-Thứ tư, những thành tự khoa học kỹ thuật, công nghệ mới là đầu vào cực kỳ quan trọng. phải có đầu tư vốn cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm để ứng dụng vào sx nhằm nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm.
Hệ thống các yếu tố tác động đến sản lượng trong từng doanh nghiệp và trong toàn bộ nền kinh tế là những tham số có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau theo những tỷ lệ hết sức chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau đưa đến sự tăng trưởng kinh tế. Song ta phải khẳng định rằng yếu tố quan trọng hàng đầu là vốn đầu tư mà người ta thường gọi tắt là vốn. Phải có vốn để đầu tư cho phương tiện lao động nhằm nâng cao năng suất lao động. Khi có được năng suất lao động sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm và đó chính là sự tăng trưởng kinh tế.
Muốn tăng trưởng kinh tế nhanh cần phải đổi mới công nghệ, mà muốn đổi mới công nghệ lại cần vốn. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới (NICS) đã cho thấy nhờ có vốn đổi mới công nghệ, từ đó sản lượng sản xuất tăng lên thu nhập đầu người nhờ đó mà tăng,qui mô thị trường được mở rộng và lại thúc đẩy đổi mới công nghệ...
Vốn không chỉ có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng mà nó còn góp phần vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng qui mô sản xuất từ đó giải quyết được các vấn đề xã hội. Đồng thời, vốn còn là điều quan trọng tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá.
Tóm lại, vốn là một yếu tố không thể thiếu được để tăng trưởng và phát triển. Thậm chí nhiều nhà nghiên cứu kinh tế còn cho rằng tăng trưởng và phát triển thực chất là vấn đề làm thế nào tạo ra được các nguồn vốn đầu tư đủ đảm bảo tốc độ tăng trưởng dự tính.
Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư với mục tiêu tăng trưởng kinh tế .
1. Khái niệm về tiết kiệm
Tiết kiệm được hiểu là khoản chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Vậy thu và chi là hai vấn đề cấu thành nên nội dung tiết kiệm.
Đối với một số nước, tiết kiệm có được là tổng số của tiết kiệm trong nước và tiết kiệm ngoài nước. Tiết kiệm trong nước theo tổ chức kinh tế thì chia thành tiết kiệm của Chính phủ, tiết kiệm của các Công ty và tiết kiệm của các hộ gia đình (người tiêu dùng). Theo tính chất sở hữu thì chia ra tiết kiệm của Nhà nước và tiết kiệm của tư nhân.
Tiết kiệm Nhà nước.
Tiết kiệm của Nhà nước bao gồm tiết kiệm của ngân sách Nhà nước và tiết kiệm của các Xí nghiệp quốc doanh.
- Tiết kiệm của ngân sách Nhà nước: còn gọi vốn ngân sách chi cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng cách lấy tổng thu trừ đi tổng chi, nhưng đối với các Chính phủ của các nước đang phát triển thường xảy ra hiện tượng bội chi ngân sách. Trong trường hợp đó, nguồn vốn chi cho đầu tư phát triển vẫn có thể đạt được bằng cách sử dụng các khoản viện trợ nước ngoài và bán trái phiếu.
Sự thay đổi tiết kiệm ngân sách Nhà nước thường phụ thuộc vào các nhân tố:
+ Sự tăng giảm tổng thu của ngân sách như thu thuế, thu lệ phí và thu từ việc bán tài nguyên hay cho thuê một số tài sản thuộc khu vực Nhà nước. Thu ngân sách theo nghĩa rộng còn bao gồm cả các khoản vay của Chính phủ viện trợ và thu về phát hành trái phiếu (trong và ngoài nước). Trong các loại thu trên, thuế là loại thu chủ yếu tạo nên bộ phận chủ yếu của vốn ngân sách.
+ Sự tăng hay giảm chi thường xuyên của ngân sách: việc giảm các khoản chi thường xuyên chậm hơn tốc độ tăng thu cũng làm tăng vốn ngân sách Nhà nưóc chi cho phát triển kinh tế.
- Tiết kiệm của các Doanh nghiệp quốc doanh:
Tiết kiệm của các Doanh nghiệp quốc doanh là phần lợi nhuận còn lại để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh. Hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, tài sản của thành phần kinh tế
này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia (Doanh nghiệp Nhà nước chỉ chiếm 23,6% về số lượng nhưng chiếm tới 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống). Tuy nhiên, các Doanh nghiệp Nhà nước chưa tận dụng và phát huy được nguồn lực và tài sản mà Nhà nước đã giao phó, khả năng cạnh tranh yếu nhất là trong việc tiêu thụ sản phẩm và đấu thầu quốc tế. Nhiều Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ liêm miên nên các khoản tiết kiệm cho đầu tư phát triển chưa xứng với khả năng của nó.
Xu hướng mới của cơ chế quản lý hiện nay đối với các Xí nghiệp quốc doanh là đưa tài chính quốc doanh trở thành độc lập với tài chính Nhà nước. Từ đó, tiết kiệm của các Xí nghiệp quốc doanh có được trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh doanh trở thành một trong những nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy tiết kiệm của khu vực Nhà nước (gồm ngân sách và các Xí nghiệp quốc doanh) là có sự đóng góp của các thành phần kinh tế. Vì tất cả các thành phần kinh tế phải đóng góp thuế vào ngân sách nên đây là nguồn tiết kiệm quan trọng để chi cho đầu tư phát triển.
b. Tiết kiệm của tư nhân.
Nguồn tiết kiệm này bao gồm tiết kiệm của các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh và tiết kiệm của hộ gia đình.
- Tiết kiệm của các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh: Đây là phần tiết kiệm của các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Doanh nghiệp nông nghiệp, Doanh nghiệp đoàn thể.. .. Trong thời bao cấp, nguồn tiết kiệm này rất hạn chế vì kinh tế tư nhân không được phép phát triển, nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường thì bộ phận này phát triển rất nhanh, đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế.
- Tiết kiệm của hộ gia đình: Là phần thu nhập chưa dùng đến của họ. Nguồn tiết kiệm này rất khó thống kê chính xác bởi ở Việt Nam hiện nay việc kê khai tài sản, kê khai thu nhập chưa được áp dụng rộng rãi đối với mọi người, hơn nữa nguồn thu nhập của dân cư rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, tiết kiệm của hộ gia đình chủ yếu lấy từ các nguồn:
+ Tiết kiệm từ thu nhập trong nước (lương, lợi nhuận kinh doanh.. .. )
+ Tiết kiệm từ thu nhập của người đi học, lao động từ nước ngoài gửi về.
+ Tiết kiệm của bộ phận dân cư có thu nhập do thân nhân ở nước ngoài gửi về.
Mặc dù khó thống kê song chúng ta có thể khẳng định được rằng nguồn tiết kiệm của khu vực tư nhân là rất lớn, nguồn tiết kiệm này thường nằm dưới
dạng vàng và đô la trong khi tỷ lệ gửi tiết kiệm vào Ngân hàng là rất thấp. Trong điều kiện hiện nay, nguồn tiết kiệm của tư nhân là nguồn vốn quan trọng trong vốn đầu tư cần phải huy động để đầu tư phát triển.
Khái niệm về đầu tư.
Đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống.
Đầu tư là việc sử dụng tiền vào mục đích sinh lời, tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của đầu tư, không thể coi đầu tư là việc sử dụng tiền không nhằm mục đích thu lại khoản giá trị lớn hơn khoản ban đầu bỏ ra. Như vậy đầu tư khác với việc mua sắm, để dành.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư:
Kể cả Nhà nước lẫn tư nhân khi quyết định đầu tư vào lĩnh vực nào, họ đều phải xem xét rất kỹ các yếu tố có liên quan và tính toán xem đầu tư như thế nào là có lợi nhất. Các yếu tố có tác động đến nhu cấu đầu tư là:
a.Chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư vì chu kỳ kinh doanh có ảnh hưởng đến thu nhập của các nhà đầu tư.
Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, qui mô nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng và ngược lại khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi xuống thì nhu cầu đầu tư sẽ giảm.
b. Lãi suất tiền vay: lãi suất tiền vay có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư bởi nó liên qua dến chi phí đầu tư. Trong kế hoạch thường có nhiều dự án. ở mức lãi suất cao, chi phí đầu tư sẽ lớn nên chỉ có một vài dự án có thu nhập đảm bảo và trang trải các chi phí. Khi lãi suất tiền vay giảm, chi phí đầu tư sẽ giảm và nên có nhiều dự án hơn có khả năng trang trải các chi phí và thu được lợi nhuận nên nhu cầu đầu tư sẽ tăng.
c. Thuế thu nhập của Công ty: cùng với lãi suất, các quy định về thuế của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư đặc biệt là thuế thu nhập của Công ty. Nếu Chính phủ đánh thuế thu nhập vào các Công ty cao sẽ làm tăng chi phí đầu
tư và làm cho thu nhập của các Công ty giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Mặt khác, Chính phủ cũng có thể kích thích đầu tư bằng hình thức miễn giảm thuế đối với các khoản lợi nhuận diùng để tái đầu tư. Khi mức thuế của Chính phủ giảm sẽ làm cho nhu cầu đầu tư tăng lên.
d. Môi trường đầu tư: Xuất phát từ đặc điểm của đầu tư là hướng tới kết quả sau một thời gian nhất định (phụ thuộc vào thời gian), do vậy đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường đầu tư tương đối ổn định nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố như cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội. Những quy định của pháp luật đầu tư, nhất là những quy định có liên quan đến lợi ích tài chính (chế độ thuế, giá nhân công.. .. ), chế độ đất đai (qui chế thuê mướn, chuyển nhượng.. ..), các thủ tục hành chính.. .. Nếu những yếu tố trên đây là thuận lợi sẽ khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn ra đầu tư. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư, Chính phủ giữ một vai trò quan trọng, họ thường quan tâm đến việc đưa ra những chính sách nhằm tăng được lòng tin trong kinh doanh.
3. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân với mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế, nhà nước phân chia tổng sản phẩm được làm ra theo tỷ lệ giữa các bộ phận khác nhau của nền tái sản xuất. Xác định tỷ lệ dành cho tiêu dùng và cho tiết kiệm.Sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân (GDP) theo những
tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiêu dùng, tiết kiệm nhằm tích tụ, tập trung vốn để đầu tư, phát triển kinh tế nhằm thoả mãn những nhu cầu chung của nhà nước, xã hội và của cá nhân.
-Bộ phận tổng sản phẩm quốc dân dành cho tiết kiệm được dùng để đầu tư dưới dạng tài sản cố định, hàng hoá dự trữ hoặc tiền mặt để phục vụ quá trình tái sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
-Bộ phận tổng sản phẩm quốc dân dành cho tiêu dùng dưới dạng vật phẩm tiêu dùng hoặc tiền mặt dành cho cá nhân để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động.
GDP được chia bao nhiêu cho tiêu dùng, bao nhiêu cho tích luỹ ? phần tiêu dùng thì bao nhiêu cho tiêu dùng chung ? bao nhiêu cho tiêu dùng cá nhân? điều đó cần phải giải quyết trong năm hoạt động tài chính và bất cứ chính phủ nước nào cũng phải thực hiện việc phân chia đó.
sơ đồ 1: phân phối tổng sản phẩm quốc dân
TốNG SảN PHẩM QUốC DÂN
( GDP)
QUỹ TíCH LUỹ
QUỹ Bù ĐắP
QUỹ TIÊU DùNG
TIÊU DùNG Cá NHÂN
TIÊU DùNG CủA NHà NƯớC
ĐầU TƯ TáI SảN XUấT Và TĂNG TRƯởNG KINH Tế
Để phân chia tổng sản phẩm quốc dân một cách khoa học trước hết phải tính toán qui mô, tỷ trọng của đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng tăng trưởng thực tế ở mỗi thời kỳ. Ta đã biết cơ cấu của tổng sản phẩm quốc dân bao gồm:
gnp = i + c + g + (x - m)
Trong đó: I là đầu tư
c là tiêu dùng của cá nhân
g là tiêu dùng của chính phủ
(x - m) là phần xuất nhập khẩu ròng trong năm
Từ đó có thể rút ra phương trình phản ánh đầu tư:
i = gdp - c - g - (x - M)
Vậy đầu tư phần lớn là nhờ tiết kiệm trong nước, chính là phần chênh lệch giữa GDP và tiêu dùng. Phần dành cho tiêu dùng ít hơn cũng có nghĩa là dành nhiều GDP hơn cho tiết kiệm để đầu tư và phần khác tài trợ cho đầu tư là từ nước ngoài.
Trong điều kiện dành cho tiêu dùng không thay đổi thì tốc độ tăng đầu tư phụ thuộc vào qui mô và tốc độ tăng GDP và nguồn thu từ nước ngoài.
Khi xác định được tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân khả thi, có thể xác định tỷ lệ dành cho đầu tư từ nguồn tiết kiệm trong nướcvà các khoản thu từ nước ngoài chiếm trong GDP.
Thực tiễn của thời đại cho phép chúng ta rút một kinh nghiệm quí báu cho tăng trưởng và phát triển là nâng cao tỷ lệ tiết kiệm trong GDP. Quĩ tiền tệ Quốc tế đã kết luận rằng: tương lai thuộc về những quốc gia biết tiết kiệm.
Phạm trù tiết kiệm là đối lập với phạm trù tiêu dùng trong cặp phạm trù sử dụng thu nhập. Chúng ta đã quen với cặp phạm trù tích luỹ và tiêu dùng trong khái niệm thu nhạp quốc dân (V + M). Phạm trù có phạm vi hẹp hơn phạm trù tiết
kiệm trong sử dụng GDP. Trước hết xét về lượng của GDP lớn hơn V + M trước đây của thu nhập quốc dân. Xét về phạm vi, tiết kiệm quốc gia được xem
xét về tính toán trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân bao gồm cả kĩnh vực sản xuất kinh doanh và hoạt động dịch vụ. Trong khi tích luỹ chỉ chú ý tới sản phẩm thặng dư của lĩnh vực sản xuất mà không chú ý tới lĩnh vực dịch vụ tạo ra GDP. Cách phân tích đó cho thấy lượng tiết kiệm quốc gia lớn hơn nhiều so với quan niệm tích luỹ trước đây.
Tiết kiệm trong sử dụng nguồn thu là nguồn gốc để đầu tư tăng trưởng kinh tế. Nhưng giữa tiết kiệm và đầu tư không phải là một dấu bằng. Mục đích của tiết kiệm là để tiêu dùng trong tương lai cao hơn. Trong một thời gian lượng tiết kiệm bao giờ cũng lớn hơn lượng đầu tư vì có thể có những tiết kiệm nhỏ
chưa đủ sức để tham gia đầu tư mà phải tiếp tục tiết kiệm thêm. Muốn thực hiện tiết kiệm quốc gia cần phải thực thi tiết kiệm trong chi tiêu của Chính phủ, của Doanh nghiệp các thành phần kinh tế, của các tổ chức xã hội và dân cư. Nhà nước cần phải có một chiến lược tiết kiệm quốc gia và chính sách tiết kiệm cụ thể cho phù hợp với từng thời kỳ, từng năm cho việc chi tiêu sử dụng các khoản thu nhập của Nhà nước, của Doanh nghiệp và của dân cư.
Chỉ có trên cơ sở tiết kiệm Nhà nước mới có thể huy động và đầu tư cho phát triển. Nhà nước muốn huy động lượng tiền tiết kiệm từ dân cư thì phải gương mẫu trong tiết kiệm chi tiêu vốn ngân sách, từ đó dân mới yên tâm gửi tiền tiết kiệm của mình cho Chính phủ sử dụng. Phải có chính sách huy động đúng đắn để người dân nhận thức ra hiệu quả mà họ thu được từ việc bỏ tiền tiết kiệm ra đầu tư. Thêm vào đó là gửi tiền cho Nhà nước thì người dân thấy an toàn, vừa bảo toàn được vốn vừa có lãi cần thiết.
Sử dụng vốn huy động từ trong dân đầu tư vào các công trình kinh tế phải bảo đảm được tốc độ tăng trưởng cao. Đó không chỉ là tấm gương cho đầu tư,
tạo niềm tin cho dân mà còn là để có vốn và lãi trả cho dân. Đó cũng là con đường sử dụng vốn đầu tư để tăng trưởng.
Qua phân tích quan hệ giữa tiết kiệm - đầu tư - tăng trưởng và quay lại hệ số ICOR càng sáng tỏ điều ta đã nói muốn tăng trưởng trong một thời kỳ nào đó thì cần phải điều động một tỷ lệ đầu tư trong GDP thích hợp. Hệ số này cũng phản ảnh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo hiệu quả đầu tư vì tốc độ tăng trưởng suy cho cùng bị khống chế bởi lượng vốn đầu tư.
Nhưng cũng trong hệ số ICOR chỉ ra tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm và đầu tư mà đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Để tăng trưởng nhanh và ổn định lâu dài, điểm mấu chốt là phải duy trì được tỷ lệ đầu tư (I) trong tổng sản phẩm trong nước cao và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn thể hiện ở chỉ số ICOR thấp
I/GDP I/GDP
ICOR = hay mức tăng GDP =
Mức tăng GDP ICOR
Tăng trưởng kinh tế có thể dựa vào nguồn lao động, đất đai, khoa học kỹ thuật... nhưng quan trọng nhất là vốn.
Đối với những nước trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nguồn lực trong nước thường có sự trái ngược nhau: Lực lượng lao động rất dồi dào đến mức dư thừa song vốn lại rất khan hiếm, dự trữ đất đai và các nguồn tài nguyên khác tính trên đầu người thấp và ngày càng cạn kiệt. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu phải ưu tiên cho những ngành sử dụng nhiều lao động, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động có tri thức, có tay nghề cao để gia tăng sản phẩm, tạo ra sự tăng trưởng cho đất nước.
Xu thế của toàn thế giới trong mấy thập kỷ qua là sử dụng thay thế vốn cho lao động, quyết định hiệu quả lao động. Công nghiệp hoá trong giai đoạn
tiếp theo là trang bị khoa học kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế thể hiện rõ nét là sự gia tăng vốn cố định, đầu tư cho những người lao động nhằm tăng
năng suất lao động, lúc đó chỉ số ICOR sẽ tăng dần. Song trong hệ số này không tính đến khả năng của khoa học công nghệ và yếu tố lao động tham gia vào tạo ra sản lượngtheo một tỷ lệ nào đó với vốn.
Trong điều kiện nước ta (cũng như một số nước khác), trong chặng đường đầu tiên của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi một số vốn tích luỹ lớn thì việc thực hiện tích luỹ ban đầu là quan trọng và phải thực hiện bằng tích tụ và tập trung vốn.
Để có sự tích tụ và tập trung vốn phải có sự tích luỹ từ trước.
Tích luỹ là sự gia tăng thêm dần của cải vật chất dựa vào tái sản xuất mở rộng nhằm ngày càng tăng quy mô tổng sản phẩm trong nước. Khi quy mô GDP và GNP lớn thì một phần trăm do tăng trưởng sẽ có khối lượng hàng hoá có giá trị sử dụng lớn hơn nhiều so với những nước có quy mô nhỏ.
Còn tích tụ sẽ làm tăng quy mô vốn nhờ ở việc dành ra một bộ phận thu nhập trong tổng sản phẩm để bổ sung cho vốn sản xuất. Như vậy nếu không có sự tích luỹ thì sẽ không có sự tích tụ, nói cách khác tích tụ là kết quả trực tiếp của tích luỹ, càng tích luỹ thì tích tụ ngày càng mở rộng.
Trong mối quan hệ nhân quả, tích tụ không chỉ là nhân quả của tích luỹ mà quan trọng hơn, tích tụu là nguyên nhân góp phần thúc đẩy tích luỹ.
Tập trung vốn là sự tăng qui mô vốn bằng cách kết hợp những vốn nhỏ thành vốn lớn. Như vậy sự ._.tập trung vốn dựa trên cơ sở tích luỹ vốn và tích tụ vốn, nó được quyết định bởi lượng tích luỹ sẵn có đã đạt được trong xã hội.
Sự tập trung vốn là xu hướng tất yếu mang tính quy luật của mọi chế độ xã hội. Nhờ tập trung vốn được thực hiện trên qui mô lớn và tốc độ nhanh sẽ có tác dụng lớn với sự tích luỹ. Trong một thời kỳ nhất định với số vốn tích luỹ tăng dần nhờ vào tái sản xuất theo hình tròn xoáy ốc ở các đơn vị cơ sở thì những
bước chuyển biến kinh tế sẽ chậm chạp. Phải nhờ phương pháp tập trung với qui mô lớn có thể tạo ra các doanh nghiệp mới, những ngành mới, vùng kinh tế mới
theo hướng sản xuất qui mô lớn, tập trung chuyên môn hoá, từ đó tạo ra những bước nhẩy vọt trong kinh tế.
Mặt khác cũng chính trong điều kiện tích luỹ có hạn, do đó nhờ tập trung vốn qui mô lớn có thể áp dụng những thành tựu kỹ thuật mới, trang bị kỹ thuậthiện đại cho sản xuất, đẩy nhanh sự tiến bộ kỹ thuật trong nền sản xuất xã hội, góp phần nâng cao nhanh chóng năng suất lao động xã hội, tăng nhanh tích luỹ. Vậy tập trung vốn trở thành đòn bẩy mạnh mẽ cho tích luỹ. Tựu trung lại bằng con đường tích tụ, tập trung vốn sẽ làm tăng vốn sản xuất, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng dẫn đến tổng sản phẩm quốc dân được tạo ra ngày càng nhiều hơn.
Khi tổng sản phẩm tăng lên sẽ có điều kiện dành ra một bộ phận lớn hơn cho mục đích sản xuất, tức là tăng tích tụ - tập trung, đẩy nhanh quá trình tích luỹ và đó là tiền đề giúp cho quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước.
III.Vốn trong dân với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vốn trong dân chính là một lượng giá trị mới do lao động của con người tạo ra được tích luỹ lại.
Vốn trong dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Nhân tố thứ nhất là trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Nền kinh tế càng phát triển thì thu nhập bình quân đầu người càng cao. Khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ tiết kiệm cũng tăng theo. Điều này được thể hiện thông qua việc biểu diễn hàm chi tiêu:
C = a + b. DI
a: các khoản thu nhập khác ngoài DI
b: độ dài của hàm chi tiêu
b = DC/ DI = MPC (xu hướng tiêu dùng cận biên)
DI: thu nhập có thể sử dụng
Tại D1: mức thu nhập có thể sử dụng nhở hơn mức chi tiêu (DI < C), tại đó để có đủ tiền chi tiêu dân cư phải sử dụng các khoản đi vay.
Tại D2: mức thu nhập có thể sử dụng lớn hơn mức chi tiêu. Tại đây, dân cư có tiền tiết kiệm. (Xem sơ đồ 3)
Như vậy, khi trình độ phát triển kinh tế của đất nước càng cao thì nguồn vốn trong dân cư càng lớn.
C
C2
C0
0 (Hàm C)
C1
D1 D0 D2 D1
(Sơ đồ 3 )
Nhân tố ảnh hưởng thứ hai là tập quán tiêu dùng của dân cư. Tập quán tiêu dùng của những bộ phận dân cư khác nhau có những xu hướng khác nhau. Do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (bão lụt, hạn hán...), một bộ phận dân cư đặc biệt là ở nông thôn miền Bắc và miền Trung có khuynh hướng tiết kiệm để dự trữ, ngay cả trong trường hợp thu nhập thấp. Ngược lại, một bộ phận dân cư đặc biệt là ở các vùng đô thị, có khuynh hướng tiêu dùng theo tập quán tiêu dùng của dân cư các nước phát triển có đời sống cao.
Xét trong thời gian dài, thói quen của người tiêu dùng có thể được điều chỉnh bằng thu nhập của họ. Họ có thể tăng hoặc giảm tiêu dùng theo thu nhập hiện tại và tương lai của họ.
Như vậy, mỗi vùng dân cư có thói quen tiêu dùng khác nhau, vì thế tỷ lệ chi cho tiêu dùng và tiết kiệm cũng khác nhau, từ đó dẫn đến nguồn vốn trong dân ở các vùng khác nhau cũng khác nhau.
Nhân tố ảnh hưởng thứ ba là giá cả: Giá cả là một yếu tố quyết định đến khối lượng tiền tệ lưu thông trên thị trường và giá cả cũng có ảnh hưởng đến lưu
thông tiền tệ. Trong điều kiện bình thường, giá cả ổn định thì khi thu nhập tăng, tiết kiệm có xu hướng tăng. Khi giá cả không ổn định, liên tục tăng tức là đồng tiền mất giá thì các khoản chi phí cho sinh hoạt bình thường hàng ngày không đủ chi tiêu mua sắm hàng hoá sinh hoạt nữa nên đời sống của bộ phận dân cư không có tiết kiệm sẽ rất khó khăn còn bộ phận dân cư có thu nhập cao, tiết kiệm nhiều sẽ phải mang khoản tiết kiệm của mình ra chi tiêu. Khi đó, nguồn tích luỹ trong dân cư sẽ giảm (nguồn vốn trong dân cư giảm xuống).
ảnh hưởng của các nhân tố khác: Khả năng động viên của Nhà nước thông qua các chính sách thuế thu nhập, các chính sách đóng góp xã hội, chính sách lãi suất và các chính sách khác cũng có ảnh hưởng tới thu nhập. Ngoài ra, các nhà kinh tế còn cho thấy mức chi tiêu cần thiết tối thiểu trongg sản phẩm quốc nội theo đầu người. Cơ cấu dân số giữa nông thôn và thành thị, cơ cấu tuổi tác, cơ cấu giới tính, chính sách lãi suất cũng ảnh hưởng tới tiết kiệm.
Huy động vốn trong dân cho tăng trưởng và phát triển kinh tế được thực hiện dưới hai dạng là: huy động trực tiếp và gián tiếp. Huy động gián tiếp bằng các hình thức như gửi tiết kiệm ở Ngân hàng, ở các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu... Huy động trực tiếp là việc sử dụng các biện pháp khuyến khích nhân dân tự đầu tư.
Huy động vốn trong dân có một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu làm tốt được điều đó chúng ta sẽ giải quyết được hàng loạt vấn đề:
- Đáp ứng được nhu cầu to lớn để phát triển sản xuất, tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế.
- Tạo công ăn việc làm cho lao động, góp phần giả quyết vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam, thúc đẩy sản xuất phát triển và có nhiều sản phẩm xuất khẩu, tạo kim nghạch xuất khẩu lớn. Ngoài ra còn góp phần vào việc giải quyết các vấn đề xã hội khác.
- Tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng và vững chắc bằng nội lực của mình.
i
Phần II
Khả năng vốn trong dân và tình hình huy động vào qúa trình tăng trưởng kinh tế .
* *
*
I. Khả năng vốn trong dân
1. Đánh giá về nguồn vốn trong dân
Trong những năm qua, trước yêu cầu huy động vốn cho phát triển kinh tế xã hội, đã có khá nhiều dự đoán về vốn trong dân, nhưng những dự đoán này chênh lệch nhau rất lớn. Có dự đoán trong dân hiện nay lên đến 40.000 đồng nhưng mới chỉ huy động được gần khoảng 50% (tức là 20.000tỷ ) cho đầu tư phát triển. Có dự đoán vốn trong dân hiện nay có khoảng 10.000 tỷ đồng và đã huy động đến 90% cho đầu tư phát triển. Vậy nguồn vốn trong dân là bao nhiêu?
Theo điều tra về vốn đầu tư của kinh tế ngoài quốc doanh và dân cư, trong năm 1992 số vốn này là 10864 tỷ đồng tỷ đồng, trong đó vốn của kinh tế tập thể là 897 tỷ đồng, doanh nghiệp tư nhân 548 tỷ đồng, kinh tế cá thể và hộ gia đình 9.419 tỷ đồng. So với GDP số vốn của tư nhân chiếm 9,8%.
Năm 1994, từ kết quả điều tra hộ gia đình đa mục tiêu có thể thấy, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng là 176.500 đ trong khi tiêu dùng (không kể xây dựng nhà cửa ) khoảng 151.500 đồng , chênh lệch (tiết kiệm) một tháng là 25.000 đồng tính ra 1 năm là 300.000 đồng. Nếu suy rộng cho dân số trung bình trên cả nước là 72 triệu người thì số tiền tiết kiệm trong dân là 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% tổng GDP.
Năm 1995, theo tính toán sơ bộ ,chênh lệch giữa thu và chi bình quân 1 người 1 tháng là 38.000 đồng, tính ra cả năm là 456.000đồng và với số dân 74
triệu người thì số tiền tiết kiệm trong dânlà 33.774 tỷ đồng, chiếm khoảng 13,1%GDP
Trong những năm gần đây đời sống của nhân dân ta không ngừng được cải thiện, thu nhập liên tục tăng lên. do đó tiết kiệm trong dân không ngừng tăng lên, không những tăng về lượng tuyệt đối mà cả về tỷ lệ so với tổng GNP.
Một số chuyên gia ước đoán tỷ lệ này trong giai đoạn 1996 đến nay đạt 15% / năm . Với tổng GNP hai năm 1996 , 1997 là 259 nghìn tỷ đồng và 269 nghìn tỷ đồng thì số tiền tiết kiệm trong dân sẽ lần lượt là 38.850 tỷ đồng (năm 1996)và 44.000 tỷ đồng năm 1997.
Chắc chắn những con số tính toán trên đây còn thấp hơn nhièu so với thực tế vì trong quá trình điều tra các hộ gia đình không nói hết các khoản thu nhập của mình. Thậm chí họ cũng không muốn nói chính xác khoản tiền tiết kiệm của gia đình họ. Nhưng ngay cả như vậy thì con số trên cho ta thấy khả năng to lớn của nguồn vốn trong dân cần phải được quan tâm đúng mức và có các giải pháp huy động để tăng cường cho nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội
2. Hướng sử dụng nguồn vốn trong dân
Nguồn vốn tích luỹ và tiết kiệm trong người dân được sử dụng theo nhiều hướng. Mọi người dân đều lựa chọn sử dụng đồng tiền có lợi nhất cho mình
Lựa chọn theo hướng nào là phụ thuộc vào các yếu tố : khả năng nghề nghiệp trình độ quản lý kinh doanh, hoàn cảnh gia đình chính sách của nhà nước, sự ổn định hay mất giá của đồng tiền ... Thông thường Vốn trong dân được sử dụng theo các hướng chủ yếu sau:
Một là, đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh như thành lập doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, hộ nông dân đầu tư vốn sản xuất nông nghiệp, người làm thủ công dịch vụ .... Những người này
phần lớn đầu tư số vốn tích lũy và tiết kiệm của mình. Nếu mọi người dân đều đầu tư có hiệu quả thì đây là hướng đầu tư tích cực nhất. Điều đó được thể hiện
qua mức sản lượng hàng hoá và GNP tăng của kinh tế ngoài quốc doanh trong mấy năm gần đây .
Hai là, đầu tư vốn kinh doanh bất động sản khi họ đã mua được nhà và đất thì số vốn đó được tồn tại dưới dạng tài sản nhà và đất. Còn khi chưa mua được, nó tồn tại dưới dạng vàng và ngoại tệ, giấy bạc Ngân hàng hoặc số dư tiết kiệm tại Ngân hàng
Ba là, gửi tiền vào ngân hàng hoặc cho vay để lấy lãi . Mục đích của hưóng đầu tư này là để lấy lãi (lợi tức ). Những người đầu tư theo hướng này có thể là do không có khả năng và điều kiện kinh doanh trên hướng đầu tư khác. Tiền tiết kiệm thường được gửi vào ngân hàng thương maị, kho bạc Nhà nước quỹ tín dụng nhân dân . Họ gửi tiền vào đâu là tuỳ thuộc vào độ tin cậy của dân vào tổ chức tín dụng và mức lãi suất của tổ chức tín dụng đó đề ra. Ngoài gửi tiền vào tổ chức tín dụng một số người còn chơi hụi, chơi họ hoặc cho anh em bạn bè vay (hiện nay với mức lãi suất từ 2,5 - 5 % tháng )
Vốn trong dân sử dụng theo hướng này tồn tại dưới dạng số dư trên tài khoản tiết kiệm, chứng khoán có giá (tín phiếu kho bạc , kỳ phiếu có mục đích ...) giấy nhận nợ viết tay (nếu cho cá nhân vay).
Bốn là, tích luỹ tiền để xây dựng hoặc mua nhà ở, mua sắm tài sản tiêu dùng có giá trị lớn, đầu tư cho con cái học hành,. Tích luỹ để sử dụng theo hướng này tồn tại bằng hiện vật gạch ngói , tre gỗ và các vật liệu xây dựng khác, vàng ngoại tệ. Nếu chưa tích luỹ đủ để thực hiện mục đích, nhân dân thường gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi nên nó tồn tại bằng số dư tiết kiệm hoặc chứng khoán có giá .
Năm là, tích luỹ tiền mà chưa có mục đích sử dụng . Hướng này thường có những người có ý đồ chỉ là cất trữ của cải hoặc chưa xác định được hướng sử
dụng có lợi nhất. Số tiền tích luỹ này chủ yếu là vàng, USD và một số tài sản có giá trị cao như mua nhà đất, xe máy ở nông thôn là xe đạp (con cháu chưa đến tuổi sử dụng xe đạp , xe máy nhưng cứ mua để đấy).
Trong mấy năm gần đây phần vốn nhàn rỗi của nhân dân đa phần để dành mua vàng ngoại tệ , một số khác thì mua nhà và đất và cải thiện các phương tiện sinh hoạt. Theo kết quả điều tra mức sống gần đây của Bộ kế hoạch và đầu tư và tổng cục thống kê thì ; “44% tiền để dành của nhân dân dùng để mua vàng và ngoại tệ , 20% mua nhà đất và cải thiện điều kiện sinh hoạt, chỉ có 17% gửi tiết kiệm ( phần lớn là tiết kiệm ngắn hạn ) và 19% dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư nhưng phần lớn là đầu tư ngắn hạn.
Một cuộc điều tra khác cho thầy, đồng tiền tích luỹ của tư nhân nước ta được huy động thông qua tổ chức tài chính chỉ chiếm 18,6% trong khi tiền nằm ở dạng tích trữ vàng là 32,7% (ở dạng tiền mặt (đồng Việt Nam và đô la Mỹ)là 13,4%. Người ta cũng đầu tư vào mua sắm nhà cửa mất 17% sắm đồ dùng lâu bền 0,9% dự trữ dưới dạng thóc gạo và hoa màu 11,3% số còn lại 8,9% nằm dưới các hình thức dự trữ khác.
Số liệu trên đây cho thấy xu hướng tích trữ tiền dưới dạng vàng, đô la và đầu tư kinh doanh bất động sản chiếm tỷ lệ lớn , trong khi đó đầu tư vào sản xuất kinh doanh và gửi tiền tiết kiệm chỉ chiếm 40% tổng tích luỹ của nhân dân. Lý do giải thích chỉ có thể là các dịch vụ ngân hàng, thể chế tài chính của Nhà nước chưa được họ tin tưởng. Tính ổn định của đồng tiền và các sử sự của Nhà nước đối với quyền của người gửi tiền khi có các biến động dường như chưa có sức thuyết phục.
Đồng thời môi trường đầu tư chưa đủ thông thoang để người dân bỏ vốn ra kinh doanh. Do vậy Nhà nước cần có các biện pháp nhằm thúc đẩy xu hướng gửi tiết kiệm và tự đầu tư trong nhân dân
II .Tình hình huy động vốn trong dân thời gian qua
1. Tình hình huy động đầu tư gián tiếp của dân thông qua các tổ chức tài chính tín dụng .
Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trườngcó sự quản lý của nhà nước, hệ thống ngân hàng đã nhanh chóng phát triển mạng lưới và thức hiện các biên pháp tích cực để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Công tác huy động đã được huy động vốn đã được ngành ngân hàng tích cức thực hiện và đã đạt được kết quả khả quan
Tốc độ vốn tăng bình quân từ 1992 đến 1997 là 37,1%, trong đó huy động vốn bằng VNĐ tăng bình quân là 50,9%, huy động bằng ngoại tệ tăng bình quân 22,95% năm
Theo báo cáo tài chính Việt Nam tháng 3 năm 1995 ta có số liệu về tiền gửi ở các ngân hàng bao qồm các ngân hàng thương maị quốc doanh và 16 ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh khác
( Tỷ VND )
1991
1992
1993
1994
Tổng số tiền gửi
13.881
100%
16.564
100%
18.071
100%
22.622
100%
Tiền gửi bằng đồng VN
5.527
39,8%
8.351
50,4%
10.665
59,0%
14.229
62,9%
Tiền gửi bằng ngoại tệ (đô la Mỹ)
8.354
60,2%
82.13
49,6%
7.406
41,0%
8.193
37,1%
Quan sát bảng số liệu ta thấy tổng tiền gửi tăng dần dần từ 13,881 tỷ đồng năm 1991 lên 22,622 tỷ đồng năm 1994 (tháng 9). Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng Việt Nam so với tổng số tiền tăng nhanh từ 39,8% vào năm 1991 lên 62,9% năm 1994
Đến ngày 31/12/1997 tổng số tiền gửi tiết kiệm tại 85 ngân hàng đạt khoảng 28.000 tỷ đồng chiếm 9,4 % GDP và tiền huy động hệ thống quý tín dụng nhân dân đạt 1032 tỷ đồng chiếm 0,35 % GNP , phần lớn nguồn vốn này
là nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho mục đích thương maị, vốn để đầu tư dài hạn thấp và nhiều hạn chế.
Cùng với các chức tín dụng kho bạc Nhà nước dùng hình thức bán các loại trái phiếu kho bạc để huy động vốn, tính đến ngày 31 /12/97 tổng số vốn huy động bằng trái phiếu kho bạc đạt khoảng 6000tỷ đồng, tuy nhiên thực tế các nguồn huy động cuả kho bạc hiện nay vẫn có kỳ hạn ngắn từ 1 - 2 năm.
Về hình thức huy động, bên cạnh các hình thức huy động tiết kiệm truyền thống, ngân hàng đã da dạng hóa các hình thức huy động vốn dần dần thích ứng với tâm lý tập quán và trình độ dân trí đất nước như : Mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng, mở rộng các hình thức tiết kiệm dài hạn có mục đích như tiết kiệm xây dựng nhà ở,tiết kiệm có vé số trúng thưởng, kỳ phiếu dài hạn nội tệ và ngoại tệ, triển khai các mô hình quỹ tín dụng nhân dân như quỹ tín dụng cho người nghèo... Mở rộng hình thức gửi tiền tiết kiệm một nơi có thể rút ở nhiều nơi. Chính vì thế mức tăng huy động vốn cả nội tệ và ngoại tệ từ dân cư vào ngân hàng năm 194 đạt 160 % so với năm 1993,chiếm hơn 70 % tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng. Huy động vốn trong nước của ngành ngân hàng năm 1994 đã chiếm tỷ trọng 20 % GDP.
Gần đây để khai thác hơn nữa các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư hệ thống ngân hàng và kho bạc nhà nước đang tiến hành mở thí điểm việc mở tài khoản cá nhân và phát hành séc cá nhân.
Bước đầu việc này được thực hiện ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến nay đã có 20.000 tài khoản cá nhân được mở ở 2 thành phố .
Bên cạnh những kết quả rất đáng khích lệ như trên đã nêu,việc huy động vốn qua các tổ chức tài chính trung gian cũng còn một số hạn chế. Mức huy
động chưa phải đã huy động hết nguồn vốn nhàn rỗi rong dân cư. Điều này được thể hiện ở một số mặt.
Một là mặc dù tỷ lệ tiết kiệm tăg nhanh nhưng mức tiết kiệm nước ta vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thấp xa so với nhu cầu đầu tư.
1991
1992
1993
1994
1995
Tiết kiệm %
6,4
10,5
10,7
16,3
18,5
Đầu tư %
15,0
17,6
24,9
25,5
29,2
Đầu tư bình quân /người
45,0
25,0
43,0
53,0
80,6
(Nguồn :Báo cáocủa Bộ KH và ĐT tháng 7/1996)
Hai là , tỷ lệ tiền gửi trên GDP tuy đã tăng dần qua các năm (1993 là 13,8%; 1994 là 17,7% 1995 là 22,2% ; 1996 là 24,9 % và 27% ) nhưng tỷ lệ này ở các nước nói chung đều có mức cao hơn,
Ba là vốn huy động trung và dài hạn còn quá ít, mặc dù hai năm 1996 và 1997 có khá hơn thông qua huy động kỳ phiếu và trái phiếu nhưng số lượng không đáng kể và chủ yếu là kỳ phiếu 1 - 2 năm. Hình thức huy động vốn tuy đã mở ra áp dụng một số hình thức huy động vốn nhưng phát triển nhất vẫn là hình thức gửi tiết kiệm truyền thống, còn hình thức huy động khác chỉ tồntại một thời gian (đặc biết là huy động vốn trung và dài hạn ) không phát huy được như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm bảo đảm bằng vàng...
Bốn là về lãi suất kém nhạy bén.Tuy rằng từ năm 1996 trở lại đây có sự chuyển biến (đã có lãi suất thực dương) nhưng giai đoạn lãi suất đầu vào chưa khuyến khích người gửi, lãi suất đầu ra thì người vay lại khôngchịu nổi làm cho dòng chảy tín dụng bị ngừng trệ, lúc thì ứ tiền trong dân cư, lúc thì ứ tiền trong ngân hàng.
Do những tồn tại trên nên hệ thống tài chính trung gian chưa phát huy được hiệu quả, thông qua hình thức gửi tiết kiệm hệ thống tì chính chỉ huy đáng
được khoảng 17% tổng lượng tiền nhàn rỗi số còn lại nằm dưới dạng tích trữ vàng ,USD và các hình thức khác.
2. Tình hình dân cư tự đầu tư
Nếu tính chung cả 5 năm (1991 - 1995)thì tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước tính trên khoảng 18 tỷ USD (theo mặt bằng giá cả năm 1995) trong
đó phần của Nhà nước chiếm khoảng 43 %, phần của tư nhân đầu tư chiếm 30 % và phần còn lại là do các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 1995 theo số liệu thống kê, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 62.000 tỷ đồng tăng 19% so với năm 1994 trong đó nguồn vốn các doanh nghiệp tự đầu tư là 5.000 tỷ đồng (riêng khầu hao cơ bản là 2.500 tỷ đồng ) nhân dân và các Công ty thuộc khu vực tư nhân đầu tư 16.000 tỷ đồng, các Công ty đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp khoảng 20.000 tỷ đồng phần ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển chiếm trên 30% tổng số chi ngân sách.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam bao gồm chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ đó là khoảng 10 triệu hộ nông dân, 1,5 triệu cá nhân và hộ kinh doanh, tiểu chủ , 22.000 doanh nghiệp đăng ký theo luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty. Công cuộc đổi mới kinh tế đã tạo ra một bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đến lượt mình , sự phát triển của khu vực này đã đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển của khu vực này đã làm tăng số công ăn việc làm một cách đáng kể ở khu vực đô thị cũng như nông thôn.Theo số liệu của Bộ lao động- Thương binh và xã hội, tỷlệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 13% năm 1989 xuống 6,08% năm 1994 và xuống 5,88 % năm 1996,hàng năm có khoảng 1 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra trong nước chủ yếu nhờ khu vực kinh tế này. Nếu như trong giai đoạn 1988 - 1993, lao động ở khu vực Nhà nước giảm 1,1 triệu người thì khu vực ngoài quốc doanh tăng 5,4 triệu người.
Mặc dù còn đang trong giai đoạn hình thành, nhưng kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần cho nền kinh tế gần 2/3 GDP. Và một điều rõ ràng tốc độ tăng trưởng kinh tế có giữ được cao như mong muốn hay không chắc chắn sẽ phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bước phát triển rõ rệt nhất của kinh tế ngoài quốc doanh, nhằm tạo dựng được một khung pháp lý phù hợp, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ thể hiện qua bảng về số lượng doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế .
Biểu: Số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế.
1991
1992
1993
1994
1995
Doanh nghiệp Nhà nước
9832
9.300
6.055
6.246
6104
Doanh nghiệp tư nhân
76
3126
8690
14.164
15435
Công ty trách nhiệm hữu hạn
13
1170
3389
5310
5925
Công ty cổ phần
3
65
106
134
143
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
218
373
566
838
1200
Hợp tác xã
1549
6200
Tổng cộng
10.263
14.126
18.899
28.351
35402
Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế quốc doanh dang được ghi nhận ở mức khá cao trong mấy năm gần đây nhờ tận dụng được nhứng tiềm năng công suất tạo lập trong quá khứ và nhiều đặc quyền chưa được triệt bỏ từ cơ chế cũ. Mặc dù còn bị thua thiệt nhiều về chính sách và xuất phát điểm , các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã chứng tỏ tính hiệu quả hơn so với doanh nghiệp Nhà nước. Cụ thể là theo tính toán của Bộ kế hoạch và đầu tư, hiện nay GDP trên 1 đồng vốn bỏ ra của doanh nghiệp ngoài quốc doanhlà 1,6. Tỷ trọng nộp vào ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng từ 23 % năm 1991 lên 24 % năm 1995. Nhìn bề ngoài chỉ tiêu nộp vào ngân sách Nhà nước là 3,3 còn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,38 nhưng nếu trừ đi nộp khấu hao và thuế
gián thu thì các tỷ kệ đó của doanh nghiệp Nhà nước là 0,24 còn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,27.
Để thấy sự phát triển của khu vực này về nguồn nhân lực, các dữ liệu ở bảng sau cho chúng ta thấy tỷ trọng phát triển trong cơ cấu vốn giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh, ngoài quốc doanh và liên doanh nước ngoài.
Tỷ trọng vốn của các loại hình doanh nghiệp
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng số (%)
100
100
100
100
100
Doanh nghiệp Nhà nước (%)
88,25
78,2
71,0
63,2
58,1
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (%)
0,15
1,1
6,2
6,6
5,7
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (%)
11,6
17,7
22,8
3,2
36,2
(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Những thông tin ít ỏi và chắc chắn còn xa với thực tế trên đây chỉ phần nào chứng minh cho sự năng động, tính hiệu quả và tiềm năng to lớn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một khu vực kinh tế đầy triển vọng.
Theo số liệu các cuộc điều tra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 1995 mức vốn bình quân ở các doanh nghiệp tư nhân là 100 - 130 triệu đồng trong đó doanh nghiệp tư nhân có vốn điều lệ trên 500 triệu đồng chỉ chiếm 5% ở Công ty trách nhiệm hữu hạn là 600 - 700 triệu đồng và ở Công ty cổ phần la 5 - 6 tỷ đồng. Ta có bảng về vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như sau:
1991
1992
1993
1994
1995
Doanh nghiệp tư nhân
11
540
1351
2090
2500
Công ty trách nhiệm hữu hạn
25
1212
2723
3882
1237
Công ty cổ phần
30
566
850
1071
1211
Tổng
66
2318
4924
7013
7981
Mặc dù đã có bước phát triển nhảy vọt về số lượng doanh nghiệp, về mức độ tăng vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ 66 tỷ (1991), 2318 tỷ (1992) ; 1921 tỷ (1993) ; 7043 tỷ (1994) và 7981 tỷ (1995) năm 1995 gấp hơn 100 lần so với năm 1991 nhưng tỷ trọngvốn của khu vực này trong tổng số vốn
đầu tư của toàn bộ nền kinh tế lại có xu hướng giảm. Tổng số vốn của 22.000doanh nghiệp đã đăng ký theo luật chỉ mới bằng 18 % số vốn của doanh nghiệp Nhà nước. Hầu hết các máy móc thiết bị của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã cũ và lỗi thời.
Nhằm tìm hiểu tình hình hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã có cuộc điều tra về doanh nghiệp tư nhân ở 3 thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh theo phương pháp chọn mẫu (tổng số các doanh nghiệp được điều tra là 280 doanh nghiệp ). Trong tổng số doanh nghiệp điều tra ở 3 địa phương thì số doanh nghiệp kinh doanh trong ngành thương mại chiếm tỷ trọng cao nhất là 45,07%, trong đó Hà Nội là 25,45% Hải Phòng là 67,31% và thành phố Hồ Chí Minh là 49,29%. Số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng 25% trong đó Hà Nội là 29,09% Thành phố Hồ Chí Minh là 28,9% còn Hải Phòng có tỷ lệ thấp là 7,69%. Cuộc điều tra còn cho thấy, trong tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân phần vốn đầu tư ban đầu bằng tiền mặt còn thấp.
Bảng tỷ lệ vốn đầu tư ban đầu bằng tiền mặt:
(% / tổng số doanh nghiệp )
Tỷ lệ tiền mặt
Chung
Hà Nội
Hải Phòng
TP. HCM
100% T M
62,15
57,14
65,96
62,13
70- 100%
5,97
5,71
6,38
2,96
50% - 100%
5,98
11,43
8,41
4,14
30% - 50%
5,98
14,29
4,25
4,3
< 30%
21,91
11,43
14,89
26,04
Tổng số
100,00
100,00
100,0
100,00
Số liệu ở trên cho thấy tỷ lệ % tiền mặt trong đầu tư ban đầu của các doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm hơn 60 % tổng số vốn, gần 40% vốn đầu tư nằm dưới dạng trang thiết bị văn phòng, tài sản cố định.
Qua việc phân tích tình hình phát triển của kkhu vực kinh tế ngoài quốc doanh ta có thể thấy rằng từ năm 1992 trở lại đây kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ về quy mô và số lượng nhưng nhìn chung khu vực vẫn chưa phát huy hết khả năng của mình. Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn ở quy mô nhỏ tập trung chủ yếu (khoảng 80%) vào các lĩnh vực thương maị, dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Để khu vực kinh tế tư nhân phát triển đúng hướngvà nhanh hơn càn có sự nâng đỡ nhiều mặt từ phía Nhà nước trong đó vấn đề quan trọng là cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
3. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc huy động vốn
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong việc huy động vốn của dân cư kể cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chung quy lại có những vấn đề sau:
a. Về huy động đầu tư gián tiếp
Lãi suất tiền gửi trung và dài hạn đã được điều chỉnh cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn nhưng quyền lợi kinh tế đó vẫn chưa xứng với thời gian gửi tiền của nhân dân. Có nghĩa là lãi suất tiền gửi ngắn hạn hợp lý hơn và dài hạn còn bất hợp lý. Xây dựng lãi suất tiền gửi trung và dài hạn còn ít mức. Trả lãi cho tiền gửi có kỳ hạn rút ra trước thời hạn chưa linh hoạt, người rút tiền vẫn bị thiệt thòi nhiều.
- Hình thức gửi tiền chưa phong phú và hấp dẫn.
- Việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hoặc cho các doanh nghiệp và cá nhân vay chưa bảo đảm an toàn và mức độ tin cậy để : chọn mắt gửi vàng”
- Tổ chức mạng lưới thu hút tiền gửi tiết kiệm cảu ngân hàng chưa rộng khắp nhất là khu miền núi nông thôn và hải đảo. cách thức chi trả tiền gửi còn có nhiều vấn đề chưa hợp lòng dân, thủ tục rườm rà ...
b. Về hình thức đầu tư trực tiếp:
Nguyên nhân chủ yếu là do môi trường để khuyến khích đầu tư còn hạn chế
- Vốn đầu tư ngân sách không đủ sức khắc phục tình hình yếu kém về hạ tầng kinh tế xã hội vốn tín dụng đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ , do vậy đã hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Quy hoạch vùng, ngành đô thị khu vực công đã có bước triển khai mạnh nhưng nói chung chưa được xét duyệt làm cơ sở chuẩn bị cho đầu tư bố trí kế hoach đầu tư.
Thiếu một môi trường pháp lý đảm bảo cho sự ổn định và phát triển kinh tế với nhịp độ cao và bền vững.
- Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã có nhưng còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết
+ Thủ tục xét duyệt đầu tư còn phiền hà, qua nhiều cửa làm cho nhà đầu tư phải “chạy lên chạy xuống” nhiều lần, nghĩa là khía cạnh hành chính còn nhiều vấn đề gây cản trở
- Nhiều biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đã được quy định rõ nhưng chưa được áp dụng trong thực tế, đặc biệt các biện pháp hỗ trợ về đất đai mặt bằng sản xuất kinh doanh, hỗ trợ vốn, công nghệ và các dịch vụ đầu tư khác
- Các ưu đãi về thuế , nhất là đối với các dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất còn thấp không khuyến khích được các nhà đầu tư.
Phần III
Một số giải pháp nhằm huy động vốn trong dân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
* *
*
I. Những mục tiêu phát triển lớn cho giai đoạn 1996-2000 và dự tính việc huy động vốn để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế
1. Những mục tiêu phát triển lớn của giai đoạn 1996-2000
Để xây dựng những kế hoạch 5 năm có cơ sở khoa học và đảm bảo thực hiện vững chắc cần phải có chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế cho cả một thời gian dài nhằm dự đoán trước những khó khăn thuận lợi mà chúng ta có thể gặp trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII sau khi phân tích đặc điểm tình hình trong nước và thế giới, những thời cơ mà chúng ta phải chủ động nắm lấy để vươn lên phát triển nhanh và vững chắc tạo thế và lực mới đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1996-2000. Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào những năm tiếp theo của đầu thế kỷ sau.
Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 9-10%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 4,5%; công nghiệp 14-15%; dịch vụ 12-13%; xuất khẩu khoảng 28%. Tỷ lệ đầu tư/GDP đạt khoảng 30%. Năm 2000, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 34-35% trong GDP nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 19-20%; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%.
2) Những hướng ưu tiên đầu tư trong thời kỳ 1996-2000
Trong giai đoạn 1996-2000, nguồn lực đầu tư phát triển trong toàn bộ nền kinh tế sẽ định hướng đầu tư vào các ngành và các lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ yếu như: phát triển nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu nông thôn; phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu; xây dựng hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc, cấp thoát nước; hạ tầng xã hội, giáo dục, y tế văn hoá, môi trường, khoa học công nghệ.
Đối với nguồn vốn nhà nước, Chính phủ Việt Nam có thể định hướng trực tiếp hoặc hỗ trợ gián tiếp nhằm thực hiện cơ cấu đầu tư hợp lý theo ngành và lãnh thổ Việt Nam sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Nâng cấp các trục giao thông xuyên cả nước; phát triển đồng bộ hệ thống giao thông ở 3 vùng kinh tế trọng điểm. Mở thêm các tuyến giao thông từ các khu kinh tế trọng điểm đến các điểm kinh tế, dân cư ở Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- X0131.doc