Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm Chinsu

Lời mở đầu Trong xu thế phát triển nhanh chóng như ngày nay để tăng cường sự hội nhập với nền kinh tế trong nước cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới. việc đổi mới nhận thức trong cách làm, cách tiếp cận với chất lượng sản phẩm cũng như mô hình quản lý chất lượng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhất là trong giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta và sắp tới là hội nhập WTO . Đó là những bước đi cơ bản và cần thiết của đất nước để sánh

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3079 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm Chinsu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng đồng thời điều đó cũng đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước những thách thức không nhỏ. Một câu hỏi đặt ra là: “ Chất lượng hay là chết ”. Bởi lẽ khi đất nước hội nhập với thế giới thì thì toàn thế giới sẽ là một sân chơi và có luật chơi công bằng. Sự cạnh tranh gay gắt là không tránh khỏi và không được phép khoan nhượng với bất cứ đối thủ nào. Tuy nhiên sự “chuyển mình’’ của hệ thống quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Việc quản lý chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp tương đối nhiều khó khăn và thách thức. Để thấy rõ hơn vai trò của chất lượng sản phẩm trong hoạt động kinh doanh em đã đi sâu vào một sản phẩm cụ thể của một doanh nghiệp cụ thể. Do đó đề tài mà em chọn để trình bày trong đề án này là: “ Nâng cao chất lượng các sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà Nội ’’. Trong khuôn khổ của một bài đề án em chỉ có thể trình bày được một số biện pháp để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng các sản phẩm gia vị Chinsu nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó phát triển thị phần ra toàn quốc và các nước trong khu vực. Đề án này gồm những phần cụ thể sau: Chất lượng sản phẩm và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh Công ty Masan và sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà Nội Đánh giá của khách hàng Hà Nội về chất lượng các sản phẩm gia vị Chinsu của công ty Masan Một số giải pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm Chinsu Kết luận Đề án này của em được hoàn thành với sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của cô giáo Phạm Thị Huyền. Em xin chân thành cảm ơn cô đã giúp em hoàn thành tốt đề án môn học này. I - Chất lượng sản phẩm và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh 1. Các khái niệm cơ bản về chất lượng sản phẩm 1.1. Khái niệm cơ bản về chất lượng sản phẩm Trong Nền kinh tế thị trường như ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp. khi mà hàng hoá đã trở nên dư thừa thì người tiêu dùng lại có xu hướng quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhiều hơn. Vậy chất lượng sản phẩm là gì mà các doanh nghiệp lại coi nó là nhân tố sống còn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Các chuyên gia thì đưa ra những khái niệm liên quan đến ‘mức độ phù hợp với công dụng’, ‘mức độ phù hợp với các yêu cầu’, ‘mức độ tự do cải biến’ và nhiều tính chất khác nữa. Nhưng ở đây em chỉ đề cập đến khái niệm do hiệp hội kiểm tra chất lượng Mỹ đưa ra và đã được toàn thế giới chấp nhận: “Chất lượng sản phẩm là toàn bộ những tính năng và đặc điểm của một sản phẩm hay dịch vụ đem lại cho nó khả năng thoả mãn những nhu cầu được nói ra hay được hiểu ngầm’’. Đây rõ ràng là là một định nghĩa chất lượng lấy khách hàng làm trung tâm. Khách hàng có rất nhiều nhu cầu và kỳ vọng, những nhu cầu đó lại liên tục biến đổi làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp chỉ có thể cung ứng chất lượng khi sản phẩm và dịch vụ của họ đáp ứng được hay vượt quá những kỳ vọng của khách hàng. Một công ty tìm được cách thoả mãn hầu hết những nhu cầu của khách hàng chắc chắn bao giờ cũng là một công ty chất lượng. Một diều quan trọng là phải phân biệt được giữa chất lượng phù hợp và chất lượng thực hiện. Chất lượng sản phẩm được xác định dựa trên đánh giá của khách hàng, mà khách hàng mục tiêu của mỗi công ty là khác nhau. Do vậy khó có thể nói sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn nêu như các thị trường mục tiêu tương ứng của chúng đều có được những gì mà mình trông đợi ở sản phẩm. Ví dụ, nếu nhìn vào hai loại xe Mercedes và Dewoo thì ta thấy rõ ràng là xe Mercedes có chất lượng cao hơn. Nhưng xét về mặt chất lượng tổng thể thì một chiếc xe giá 70.000 USD đáp ứng được những yêu cầu của thị trường mục tiêu là một chiếc xe chất lượng, chiếc xe Dewoo giá 15.000 USD cũng đáp ứng được nhu cầu của thị trường mục tiêu nên cũng được coi là một chiếc xe chất lượng. Vì thị trường mục tiêu của Mercedes là những người có thu nhập cao, còn thị trường mục tiêu của Dewoo lại là những người có thu nhập thấp và trung bình. Tuy nhiên chỉ riêng chất lượng phù hợp thì chưa đủ. Một sản phẩm có thể có mức độ phù hợp rất cao với đặc điểm tính năng kỹ thuật, nhưng điều đó sẽ là vô nghĩa nếu những tính năng kỹ thuật đó lại không đúng. Cái mà các doanh nghiệp phải tính đến là chất lượng theo thị trường chứ không phải chất lượng theo kỹ thuật. Chất lượng sản phẩm là một tiêu chí tổng hợp, nó không chỉ thể hiện ở mặt sản phẩm có chất lượng tốt mà nó còn được đánh giá bởi các tiêu chí khác như: nguyên vật liệu đầu vào, hệ thống phân phối, bao bì nhãn mác, quá trình hậu mãi sau bán hàng……Những tiêu chí đó được đảm bảo sẽ là cơ sở để quyết định đưa sản phẩm ra thị trường cạnh tranh với những sản phẩm khác. Khi đưa sản phẩm ra thị trường thì rủi ro và rào cản là rất lớn bởi những đối thủ có sẵn trên thị trường. Để có thể giành được thị phần tương đối doanh nghiệp phải tạo ra sản phẩm khác biệt và có chất lượng hơn hẳn đối thủ cạnh tranh. Có như vậy doanh nghiệp mới tồn tại được trên thị trường. Chất lượng sản phẩm phải được xác định từ khâu thiết kế sản xuất cho đến quá trình bao gói và phân phối. Tuy nhiên không có một quy định chung nào cho quá trình quản lý chất lượng sản phẩm. Vì vậy hệ thống quản lý chất lượng của từng doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, văn hoá, cách quản trị, cách thực hiện và loại sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp đó. Người ta gọi đó là quá trình thực hiện tổng chất lượng. Vấn đề này phải được các cấp lãnh đạo doanh nghiệp nhìn nhận và đánh giá một cách đúng đắn,. Vì vậy doanh nghiệp phải làm cách nào để khách hàng nhân thức được chất lượng của sản phẩm những quyết định đưa ra nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm phải bắt đầu từ những nhu cầu của khách hàng và kết thúc ở sự nhận thức của khách hàng. Nếu khách hàng mong muốn độ tin cậy, độ bền hay tính năng cao hơn nữa thì những tính năng đó sẽ tạo thành chất lượng dưới con mắt của khách hàng.Việc cải tiến chất lượng chỉ có dầy đủ ý nghĩa khi nó được khách hàng nhận thức. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải điều tra xem khách hàng đang có nhu cầu gì, về loại sản phẩm nào để có chiến lược cải tiến sản phẩm cho hợp lý. Để đảm bảo chắc chắn rằng khách hàng nhận thức được là sản phẩm có chất lượng cao, doanh nghiệp phải triển khai tốt những ý kiến của khách hàng trong suốt quá trình thiết kế, gia công, sản xuất và phân phối. Mặt khác chất lượng phải được phản ánh trong mọi hoạt động của doanh nghiệp chứ không chỉ trong sản phẩm của doanh nghiệp. Về vấn đề này giám đốc điều hành của hãng GE( General Electronic) đã nói “ Chúng tôi không chỉ quan tâm đến chất lượng của sản phẩm mà còn quan tâm đến cả chất lượng quảng cáo, dịch vụ, tài liệu về sản phẩm, việc giao hàng, việc hỗ trợ hậu mãi..v…v…”. Đó không chỉ là phương châm kinh doanh của GE mà đã trở thành hướng đi chung cho tất cả các doanh nghiệp, các công ty đang tồn tại trên thị trường 1.2. Khái niệm về công tác quản lý chất lượng sản phẩm Quản lý chất lượng sản phẩm là một lĩnh vực còn khá mới đối với nền kinh tế nước ta, nhất là từ khi nước ta chuyển hướng phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Một số nhận thức về chất lượng sản phẩm không còn phù hợp với giai đoạn mới. Đồng thời xuất hiện nhiều khái niệm mới mà ta chưa tìm được thuật ngữ tiếng việt thích hợp để hiểu rõ nó. Quan niệm riêng về chất lượng và định nghĩa về chất lượng đã được thay đổi và mở rộng theo từng thời kỳ phát triển của phong trào chất lượng. Tổng quát lại có ba quan điểm về quản lý chất lượng dựa trên nhu cầu của người tiêu dùng. Theo tiêu chuẩn quốc gia Liên Xô thì quản lý chất lượng sản phẩm là việc xây dựng, đảm bảo và duy trì mức chất lượng tất yếu của sản phẩm khi thiết kế chế tạo, lưu thông và tiêu dùng. Còn theo tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản thì quản lý chất lượng sản phẩm là hệ thống phương pháp tạo điều kiện sản xuất tiết kiệm những hàng hoá có chất lượng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO, một tổ chức tiếp thu sáng tạo các luồng tư tưởng, kinh nghiệm thực hành hiện đại dựa trên cách tiếp nhận khoa học, logic đã khái niệm như sau: Quản lý chất lượng sản phẩm là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung, xác định chính sách chất lượng, mục đích trách nhiệm và thực hiện chúng thông qua các biện pháp như lập kế hoạch chất lượng, đảm bảo và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ của hệ thống chất lượng. Để có thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng và đảm bảo chất lượng trong quá trình lưu thông trên thị trường thì mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một mô hình quản lý chất lượng thích hợp và chặt chẽ. hiện nay trên thế giới quản lý chất lượng sản phẩm đã được nhìn nhận một cách toàn diện trên cơ sở quản lý chất lượng công việc ở từng giai đoạn, từng sản phẩm từ khâu marketing, thiết kế, sản xuất, phân phối đến dịch vụ sau bán hàng. Quá trình đó được gọi là mô hình quản lý chất lượng. 2. Vai trò của chất lượng sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh Trong bối cảnh toàn cầu hoá như ngày nay, các công ty đang phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt nhất trong nhiều thập kỷ qua.hàng hoá tràn ngập trên thị trường đẩy các doanh nghiệp vào tình thế khó khăn vì nhu cầu của người tiêu dùng gần như đã bão hoà. Người tiêu dùng không biết lựa chọn sản phẩm nào giữa hàng trăm loại sản phẩm được bày bán trên thị trường. trong tình hình đó để có thể tồn tại trên thị trường các doanh nghiệp phải chuyển từ triết lý sản phẩm và bán hàng sang triết lý khách hàng và Marketing. Để có thể giành được khách hàng và chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì giải pháp duy nhất là phải làm tốt hơn công việc đáp ứng và thoả mãn những nhu cầu của khách hàng. Những sản phẩm có chất lượng sẽ được khách hàng tin tưởng và ủng hộ, ngược lại những sản phẩm kém chất lượng sẽ không thể tồn tại trên thị trường dù có quảng cáo tiếp thị quy mô cỡ nào đi chăng nữa. Điều đó đã trở thành quy luật tất yếu của thị trường, nếu doanh nghiệp nào cố tình vi phạm nó sẽ phải trả giá đắt, lừa dối khách hàng là điều tối kỵ trong kinh doanh. Như một nhà phân tích thị trường đã nói: “ Quảng cáo cho sản phẩm tồi là cách thí mạng nhanh nhất ” Trong những nền kinh tế khan hiếm hàng hoá và những thị trường gần như độc quyền, các công ty không phải mất nhiều công sức để làm vui lòng khách hàng. Vào thập niên 80 ở Đông Âu hàng triệu người tiêu dùng rầu rĩ vì phải xếp hàng để mua được những bộ quần áo với chất lượng tồi tàn. Ngược lại, ngày nay với nền kinh tế mở khách hàng có thể tha hồ lựa chọn trong vô số hàng hoá dịch vụ được trưng bày la liệt tại các cửa hàng và siêu thị. Trong hoàn cảnh đó nhà sản xuất phải đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, nếu không họ sẽ mất ngay khách hàng vào tay đối thủ cạnh tranh. Ngay cả chất lượng và mức độ dịch vụ ngày hôm nay là có thể chấp nhận được thì ngày mai đã không còn chấp nhận được nữa. Nói như vậy để thấy được tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ và dịch vụ. Những người tiêu dùng ngày nay có trình độ học vấn và yêu cầu cao hơn nhiều, điều đó đồng nghĩa là các nhà sản xuất phải nâng cao hơn nữa tính năng cũng như chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Hoạt động thực tiễn của những tập đoàn lớn như Toyota, Sony và những đại lý bán lẻ siêu hạng( marks spencer, L.L.Bean ) đã góp phần nâng cao những đòi hỏi về chất lượng của sản phẩm. Sự thu hẹp nhiều ngành sản xuất ở Hoa Kỳ như ô tô, máy ảnh, hàng điện tử gia dụng là một bằng chứng hùng hồn về những hãng cung ứng hàng chất lượng trung bình đã mất đặc quyền kinh doanh trên thị trường mục tiêu của mình, khi bị các đối thủ cạnh tranh mạnh hơn tấn công. Để sống sót và chiến thắng trên thị trường các doanh nghiệp cần phải áp dụng chiến lược kinh doanh mới, lấy khách hàng làm trung tâm và cung ứng những giá trị hảo hạng như họ mong đợi. Hiện nay vẫn còn những công ty nghĩ rằng công việc của bộ phận marketing là tìm kiếm khách hàng và nếu không lôi kéo được khách hàng thì đã vội kết luận là những người làm Marketing của mình kém cỏi. Nhưng họ đâu có biết rằng khách hàng không chấp nhận sản phẩm của họ là vì chất lượng của sản phẩm đó không đáp ứng được nhu cầu của họ. Cho dù là bộ phận Marketing giỏi nhất thế giới cũng không thể bán được những sản phẩm có chất lượng kém hay không đáp ứng được nhu cầu của bất kỳ khách hàng nào. Bộ phận Marketing chỉ có thể phát huy được hiệu quả trong các công ty mà các phòng ban và toàn thể cán bộ công nhân viên đều cùng chung sức để thiết kế và thực hiện một hệ thống đảm bảo giá trị cho khách hàng hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh. Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí. Cách nghĩ xưa kia của các doanh nghiệp là việc đạt chất lượng cao hơn sẽ đòi hỏi chi phí nhiều hơn và làm chậm tốc độ sản xuất. Nhưng thực ra chất lượng được cải tiến nhờ học được cách “ làm mọi việc đúng ngay từ đầu ”. Chất lượng không phải do kiểm tra mà có, mà phải được tạo ra trong thiết kế. Khi mọi việc được làm đúng ngay lần đầu thì sẽ loại bỏ được nhiều khoản chi phí phát sinh như sửa chữa, bảo dưỡng….., đó là chưa kể đến chuyện mất tín nhiệm với khách hàng. Motorola là một ví dụ điển hình, trong năm năm vừa qua việc đảm bảo chất lượng đã tiết kiệm được 700 triệu USD chi phí sản xuất. Tiết kiệm được chi phí là một chuyện nhưng vấn đề quan trọng hơn là Motorola đã tạo được uy tín với khách hàng. Nhưng cũng phải thấy rằng đảm bảo chất lượng không là chưa đủ mà phải liên tục cải tiến chất lượng bởi vì người mua ngày càng có những yêu cầu cao hơn. Và chất lượng tốt chưa hẳn đã đem lại ưu thế cạnh tranh, đặc biệt khi các đối thủ cạnh tranh cũng nâng cao chất lượng của họ với mức độ tương đương. Ví dụ như hãng hàng không Singapore Airlines nổi tiếng là hãng hàng không tốt nhất thế giới. Tuy nhiên các hãng hàng không đối thủ cạnh tranh mới đây đã thu hút được một phần khách hàng lớn hơn khi họ đã thu hẹp được khoảng cách giữa chất lượng dịch vụ của mình với chất lượng dịch vụ của hãng Singapore. Nói tóm lại cuộc chạy đua về chất lượng không thể cứu vãn nổi một sản phẩm tồi. Sản phẩm, dịch vụ kém chất lượng trước sau gì cũng bị khách hàng từ bỏ và tìm đến những sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Qua đó ta có thể thấy được vai trò của chất lượng sản phẩm quan trọng như thế nào, nó là chìa khoá dẫn đến thành công cho doanh nghiệp biết tận dụng triệt để yếu tố này. 3. Thực trạng về công tác quản lý chất lượng ở Việt Nam Từ sau năm 1986 đến nay cùng với quá trình chuyển nhanh nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cũng được mở rộng, các tiềm năng con người được khơi dậy. Quyền lợi người tiêu dùng và khách hàng ngày càng được đề cao và được pháp luật bảo vệ.Tình hình mới này đòi hỏi sự thay đổi trong nội dung và phương pháp tiến hành quản lý chất lượng sản phẩm Có thể nói rằng văn bản đầu tiên quyết định sự đổi mới các hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới là chỉ thị ngày 6 tháng 8 năm 1989 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về các biện pháp cấp bách nhằm củng cố và tăng cường công tác quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá. Trong đó nêu rõ và biểu dương nhữnh tiến bộ về chất lượng và công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong những năm gần đây. Đồng thời cũng phê phán hiện tượng chất lượng kém không đáp ứng nhu cầu thị trường . Tiếp theo là pháp lệnh đo lường do hội đồng nhà nước ban hành 16 tháng 7 năm 1990 và pháp lệnh chất lượng hàng hoá được công bố ngày 2 tháng 1 năm 1991. Đó là những văn bản quan trọng thể hiện quan điểm nhận thức của lãnh đạo nhà nước về chất lượng sản phẩm. Từ đó ta thấy được chất lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề mang tính vĩ mô và các doanh nghiệp cũng cần có thái độ nghiêm túc về vấn đề này. Đặc biệt cuối năm 1999 đầu năm 2000 với việc đổi mới sâu sắc văn bản pháp lệnh nhà nước về chất lượng hàng hoá đã đánh dấu bước ngoặt trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Văn bản này đã có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 07 năm 2000. Điều đó tạo điều kiện cho việc đổi mới hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm trong giai đoạn mới. Những cải tiến bước đầu về quản lý chất lượng sản phẩm đã được triển khai từ những cơ quan nhà nước đến các cơ sở kinh doanh. Điều đó đã đem lại những sắc thái mới, tạo ra sự phong phú đa dạng cho thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến về nhận thức của các nhà lãnh đạo, các cấp quản lý và các nhân viên trong các doanh nghiệp về công tác quản lý chất lượng sản phẩm Không một nhà lãnh đạo doanh nghiệp nào còn nghi ngờ về yếu tố cạnh tranh của chất lượng sản phẩm. Đó là sự sống còn của doanh nghiệp. Đặc biệt với các doanh nghiệp muốn vươn ra thị trường quốc tế. Để cạnh tranh về chất lượng với các doanh nghiệp nước ngoài quả là khó khăn khi mà các doanh nghiệp nước ngoài có trình độ khoa học và kỷ luật lao động rất cao. Nhưng điều đó không có nghĩa là không làm được. Trong thời gian vừa qua cùng với những đổi mới quan trọng về công tác quản lý vĩ mô, hệ thống quản lý chất lượng nhà nước đã được thành lập và hoạt động tương đối có hiệu quả. Điều đó mở ra một tương lai tươi sáng cho hàng hoá nước ta có thể cạnh tranh với hàng hoá nước nhoài. Đặc biệt là trong thời gian sắp tới khi nước ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới (WTO). Đây là lúc chúng ta nhìn nhận những mặt yếu kém và khắc phục nó để kịp thời hội nhập với thế giới. Nếu không với tốc độ phát triển chóng mặt như ngày nay nền kinh tế nước ta sẽ bị bỏ lại sau lưng cùng với sự nghèo nàn và lạc hậu. Trong những năm gần đây trước những đòi hỏi khách quan cần thiết phải nâng cao nhận thức và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng phối hợp với các tổ chức quốc tế đã đề ra rất nhiều chương trình đào tạo, huấn luyện và các cuộc hội thảo về chất lượng sản phẩm nhằm giúp các doanh nghiệp thấy rõ tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm trong hoạt động kinh doanh. Mà tiêu biểu là tiêu chuẩn chất lượng ISO – 9000. Tiêu chuẩn này được biết đến ở Việt Nam từ những năm 1989 – 1990. Nhưng việc tổ chức nghiên cứu tuyên truyền phổ biến và áp dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam có thể nói là chậm chạp. Cho đến những năm 1995 – 1996 mặc dù đã qua hơn nửa thập kỷ nhưng hầu hết các doang nghiệp không biết ISO – 9000 là gì. Ngay cả trên phương tiện truyền thông còn nhầm lẫn ISO – 9000 với tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá. Các doang nghiệp không biết làm thế nào để áp dụng tiêu chuẩn này hay ai sẽ là ngưòi tư vấn, cấp giấy phép cho họ. Thực trạng về nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam được thể hiện qua kết quả điều tra ban đầu của Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á thái binh dương ( gọi tắt là ESCAP ). Kết quả điều tra ban đầu nhận thức về tiêu chuẩn ISO – 9000 TT Tên doanh nghiệp Sản phẩm chính Số lao động Nhận thức về ISO-9000 1 XN dệt len Sài Gòn Quần áo len dệt 400 không 2 Công ty Thiên Tân Chăn len mỏng 80 không 3 HTX may Tiến Bộ Quần áo may sẵn 200 Rất ít 4 Nhà máy dệt Tân Tiến Khăn ăn, khăn mặt 60 rất ít 5 XN thảm len Đống Đa Thảm len, may mặc 510 không 6 Công ty TNHH Ngọc Phương Quần áo may sẵn 125 rất ít 7 Công ty TNHH Đại Phong May mặc 217 không 8 Trung tâm may Kiến An Con giống nhồi bông 417 rất ít 9 Công ty HERPO Quần áo may sẵn 170 không 10 Công ty TNHH Hiệp Hưng Thêu len, may sẵn 600 không 11 Công ty TNHH Nam Thanh Hàng dệt len 200 không Từ bảng kết quả điều tra ban đầu ta thấy nhận thức của các doanh nghiệp về vấn đề chất lượng sản phẩm là quá ít. Đó là một khiếm khuyết lớn sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường nếu không sửa chữa kịp thời. Chất lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề cốt lõi sống còn của các doanh nghiệp. Những sản phẩm có chất lượng kém sẽ không tồn tại được trên thị trường, nó sẽ không được người tiêu dùng chấp nhận. Do đó doanh nghiệp phải ý thức được rằng ngoài các yếu tố thoả mãn khách hàng bằng các sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với giá cả hợp lý thì việc phân phối nhanh, thuận lợi đến tay người tiêu dùng được xem như yếu tố cấu thành nên chất lượng toàn diện. Trong vài năm trở lại đây các doanh nghiệp đã nhận thức được vị thế cạnh tranh của yếu tố chất lượng và đề ra mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh hướng vào chất lượng. Điều đó đã mang lại những kết quả khả quan. Rất nhiều doanh nghiệp đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và sản phẩm của họ đã được khách hàng chấp nhận. Tính cho đến nay đã có rất nhiều doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO – 9002. Đó là điều đáng mừng của nền kinh tế nước ta. II – Công ty Masan và sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà Nội Giới thiệu chung về công ty Masan Công ty Masan có thể được coi là một tập đoàn mạnh ở trong nước.Tập đoàn Masan được thành lập năm 1996 gồm15 công ty thành viên do toàn bộ người Việt Nam quản lý. Do đó tập đoàn rất quan tâm đến hình ảnh của mình qua các hoạt động kinh tế xã hội. Những nhà lãnh đạo công ty đều là những người đã học và tốt nghiệp tại Liên Xô cũ trong thời kỳ nền kinh tế Liên Xô chuyển sang cơ chế thị trường. Do đó họ rất hiểu những cơ hội và thách thức của bước chuyển giao sang cơ chế thị trường. Công ty Masan có tiềm lực tài chính khá mạnh và nguồn nhân lực có chất lượng cao. Masan là nơi hội tụ khá đầy đủ các “anh hào’’ của các tập đoàn đa quốc gia. Thanh nam châm thu hút nhân tài của Masan không phải là mức lương hậu hĩ, vượt trội mà là một chí hướng mang tính “ mầu cờ sắc áo’’. Sự hợp tác để xây dựng một tập đoàn Việt nam lớn mạnh có khả năng cạnh tranh ngang ngửa với các tập đoàng nước ngoài trong tương lai. Ông Nguyễn Đăng Quang chủ tịch tập đoàn Masan nói: “Có một thứ rất quan trọng mà các công ty đa quốc gia đóng góp cho nền kinh tế Việt Nam đó là phương pháp và môi trường làm việc công nghiệp’’. Masan thu hút được đội ngũ những người chuyên nghiệp vì người Việt Nam ngoài nhà cửa, tiền lương họ còn mong muốn một chút gì đó mang tính mầu cờ sắc áo. Sản phẩm chính của công ty là các loại gia vị, thực phẩm ăn nhẹ như xúc xích, mì ăn liền. Ngoài ra công ty còn kinh doanh nhiều mặt hàng khác nữa. Nhưng ở đề án này em chỉ trình bày riêng về mặt hàng gia vị mang nhãn hiệu Chinsu của công ty Masan. Thương hiệu Chinsu đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng trên thị trường Hà Nội. các sản phẩm gia vị bao gồm nước mắm, tương ớt, nước tương đã được nhiều gia đình sử dụng trong các bữa ăn hàng ngày như một phần không thể thiếu. Công ty Masan đã chinh phục được người tiêu dùng trên thị trường Hà Nội bằng chất lượng sản phẩm và cung cách phục vụ. Công ty luôn đặt lợi ích cuả khách hàng lên trên hết, ban lãnh đạo công ty cùng đội ngũ công nhân viên luôn lao động hết mình vì lợi ích của công ty và khách hàng vì công ty luôn ý thức rằng chỉ có giữ chân được khách hàng thì mới đứng vững được trên thị trường, mà muốn giữ chân khách hàng thì phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ổn định và đồng đều. Đó là phương châm sản xuất kinh doanh của công ty. Những hoạt động sản xuất của công ty Masan trong thời gian qua và quá trình xây dựng thương hiệu Chinsu trên thị trường Hà Nội 2.1. Tổng quan về thị trường gia vị trong nước Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như ngày nay việc đưa sản phẩm ra thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là có những yếu tố ta không thể lường trước được. Như đợt cúm gia cầm vừa qua tưởng chừng như vô hại nhưng thục tế nó đã đem lại những tổn thất khá lớn cho các doanh nghiệp. Các sản phẩm mì gói cao cấp Kim chi, Chinsu của công ty Masan ghi ngay trên bao bì : “ Đặc biệt sử dụng bột mì cao cấp có trộn lòng đỏ trứng gà nguyên chất ’’ đã phải hạ giá bán 200 đồng/1 gói từ mùng 1 tháng 2 đến 15 tháng 2 năm 2004 do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm. Điều đó cho thấy những bất lợi từ thị trường là rất lớn, nó sẽ đánh gục ngay những công ty thiếu bản lĩnh. Nguy cơ từ phía đối thủ cạnh tranh cũng luôn tiềm ẩn. Hiện nay trên thị trường các loại bột, viên, nêm gia vị tạo hương bún bò, phở gà, bún mắm….. của hàng chục công ty có tên tuổi được đóng gói bao bì thật bắt mắt bán ở siêu thị thoáng mát lịch sự chỉ 2000 đồng đến 3000 đồng một gói. Sự chênh lệch về giá không đáng kể, do đó giá không còn là công cụ cạnh tranh hiệu quả nữa. Các doanh nghiệp cần phải tìm cho mình một hướng đi mới, có lẽ chú trọng nâng cao và cải tiến chất lượng là một giải pháp thích hợp. Theo các nhà sản xuất thì nhu cầu tiêu thụ ở thị trường gia vị hiện nay vẫn còn là ẩn số với các nhà kinh doanh. Sản lượng 200 đến 400 triệu tấn hạt nêm 1 năm của các nhãn hiệu lớn như Knor, maggi, Ajinomoto……với chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên khắp cả nước tưởng chừng như đã đẩy mức tiêu thụ đến chỗ bão hoà. Nhưng thực tế cho thấy thị trường vẫn còn chỗ trống bởi chỉ sau 1 năm ra nhập thị trường nhãn hiệu Chinsu cũng tìm được chỗ mới để chen chân với mức độ phát triển tăng gần 100% sau mỗi quý. Bên cạnh đó các cơ sở sản xuất nhỏ cũng tăng bình quân từ 20% đến 30% trong năm qua. Hai yếu tố chính được các công ty lớn tập trung khai thác và xây dựng thương hiệu, giành thị phần là nâng cao chất lượng và tiếp thị, kinh doanh có bài bản. Điểm lại sự ra mắt của hạt nêm Knor, Maggi, Ajingon và mới nhất là Chinsu ta sẽ thấy rõ điều này. Ông Nguyễn Đăng Quang tổng giám đốc công ty Masan, đơn vị tham gia kinh doanh nhãn hiệu Chinsu nói :“Ba yếu tố để một nhà kinh doanh có thể tự tin bước vào cuộc cạnh tranh gia vị hiện nay là khẩu vị, công nghệ và hệ thống phân phối. Nhưng trước hết phải có sản phẩm thực sự có chất lượng’’. Điều đó cho thấy bản thân lãnh đạo công ty Masan rất chú trọng đến chất lượng sản phẩm. Nhìn vào số lượng trên 100 nhãn hiệu gia vị lớn nhỏ ở các địa phương trên cả nước nhiều người dễ lầm rằng mọi nhu cầu tiêu dùng đều đã được đáp ứng. Nhưng thực tế theo đánh giá của các nhà kinh doanh mức tiêu thụ gia vị trong mỗi nghành chỉ ở mức dưới trung bình. Ví dụ với dân số 80 triệu người tiêu thụ nước tương của Việt Nam mới chỉ trên 10 triệu lít. Bình quân chưa đến 1chai/ 1 người/ 1 năm. Trong khi đó con số này ở các nước khác là 2 đến 3 chai/1người/1 năm. Trong mỗi nhóm mặt hàng những nhà sản xuất có thương hiệu vượt trội khẳng định uy tín toàn quốc chưa nhiều mà chủ yếu thể hiện ở lợi thế địa phương. Do vậy gần đây xuất hiện xu hướng cạnh tranh đặc sản khá rõ. Như nước mắm Nha Trang cùng với Phú Quốc, Phan Thiết đang giành lấy thị trường ở các đô thị lớn. Các công ty ở miền bắc như Long Vân cũng vượt cả ngàn cây số đưa sản phẩm vào ra mắt người tiêu dùng phía nam mà chẳng hề e sợ các nhãn hiệu Hưng thịnh, Thanh Hà……..Ngay cả với thị trượng có nhiều nhãn hiệu lớn như Hà Nội, công ty Masan cũng phải tìm nét mới bằng cách bổ xung thêm các vi chất VitaminA, chất sắt, iốt….. vào tương ớt để gây sự chú ý của khách hàng. Theo đơn đặt hàng của một công ty liên doanh một công ty nghiên cứu thị trường đã tiến hành khảo sát 20000 người tiêu dùng và các nhà hàng trong năm 2003. Họ công bố : Thị trường Nước tương ở Việt Nam hiện nay mức tiêu thụ khoảng gần 10 triệu lít/ năm. Trong đó 30% tiêu thụ ở các nhà hàng, quán ăn và 70% tiêu thụ ở các hộ gia đình. Sự thay đổi thị phần giữa các nhãn hiệu không nhiều. Nam Dương chiếm lượng tiêu thụ lớn nhất với trên 6 triệu lít/1 năm. Maggi, Chinsu….. ở khoảng trên dưới 1 triệu lít/1 năm. Các nhãn hiệu còn lại chiếm số lượng ít. Theo các nhà kinh tế dự báo trong các năm tới nhu cầu sẽ tăng trung bình 30% một năm. Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp tăng sản lượng tiêu thụ và mở rộng thị trường. 2.2. Những hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Masan trong quá trình xây dựng thương hiệu Chinsu Công ty Masan xuất hiện và kinh doanh khi trên thị trường đã có nhiều đại gia tên tuổi trong lĩnh vực sản xuất gia vị. Tuy vậy với tiềm lực tài chính và chiến lược kinh doanh hợp lý công ty vẫn tìm được chỗ đứng trên thị trường, doanh thu cũng liên tục tăng trưởng. Để góp phần làm nên thành công đó không thể không kể đến vai trò của các sản phẩm mới được công ty tung ra gần đây. Trước hết ta hãy điểm lại các mốc ra đời của sản phẩm Chinsu: 18/12/2002: Ra mắt nước tương cao cấp hiệu Chinsu 7/4/2003 : Tung ra mì gói Chinsu 1/10/2003 : Xuất hiện nước mắm cao cấp Chinsu trên thị trường 8/12/2003 : Giới thiệu hạt nêm Chinsu Xen kẽ trong các đợt giới thiệu hàng mới là các chiêu thức tự làm mới cho sản phẩm như tung ra nước tương có bổ xung Vitamin , i ốt và chất sắt, tung ra các loại mì gói vị thịt heo, bò, gà khác nhau. Sắp tới sẽ là các loại hạt nêm vị hải sản, nấm và các loại rau củ dinh dưỡng. Thương hiệu Chinsu một cái tên nghe rất “tây’’, nó đã đem lại sắc thái mới cho mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam. Với thế mạnh về công nghệ công ty đã tạo ra những sản phẩm có hương vị rất lạ và thơm ngon. Với những nguyên liệu cao cấp kết hợp bao bì hiện đại và bắt mắt Chinsu đã tạo ra sự tò mò cho khách hàng. Người tiêu dùng rất thích những sản phẩm có cá tính và khác lạ. Về điều này thì công ty Masan đã thành công khi tung ra nhãn hiệu Chinsu Với thế mạnh là dòng sản phẩm cao cấp và có cá tính riêng nên ngững sản phẩm gia vị mang nhãn hiệu Chinsu thường được bán ở các siêu thị và các cửa hàng chuyên doanh. Nhưng trong những tháng cuối năm 2001 hệ thống bán lẻ gia tăng mạnh mẽ. Điều đó đang gây sức ép lên hệ thống phân phối của công ty. Ngay lập tức công ty đã cho xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh 25 cửa hàng tiện nghi với phương thức bán lẻ hoàn toàn mới. Và đến tháng 12 năm 2001 công ty đã khai trương đồng loạt 25 cửa hàng. Kế hoạch phát triển của công ty Masan được xem là có quy mô lớn về vốn đầu tư cũng như số lượng cửa hàng. Ban giám đốc công ty dự kiến sẽ đầu tư cho toàn dự án khoảng 75 tỉ đồng để đến năm 2003 xây dựng một mạng lưới 300 cửa hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ông Nguyễn Tử Long phó tổng giám đốc công ty Masan cho biết : “ Hiện tại để có giá bán cạnh tranh với các siêu thị, các tiệm tạp hoá hệ thống 25 cửa hàng của chúng tôi chấp nhận lỗ thời gian đầu cho đến khi việc xây dựng thương hiệu thành công. Những cửa hàng này hoạt động gần giống siêu thị nhưng mở cửa từ 6h sáng đến 12h đêm. Cách trưng bày hàng hoá được sắp xếp theo một trật tự nhất định và hoàn toà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35707.doc
Tài liệu liên quan