Lời Nói Đầu
Trong thế giới hiện đại, trước xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới, mọi quốc gia, mọi khu vực đều không thể đứng ngoài xu thế này.
Với chính sách đổi mới của nền kinh tế, nước ta đã và đang nhanh chóng hội nhập vào xu hướng chung của thế giới, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới như AFTA, WTO, APEC v.v.. với quan điểm đó chúng ta coi trọng vai trò của Thương mại Quốc tế, coi đây là chiếc cầu nối liền giữa nền kinh tế nước ta với nền
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình Nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty XNK thiết bị toàn bộ & kỹ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế thế giới, là chiếc đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút đầu tư v.v.. và là phương tiện để thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế.
Tuy nhiên, chúng ta cũng sẽ khó có thề hoà nhập với công cuộc toàn cầu hoá, khu vực hoá nếu không nhận ra những khó khăn của chính mình và không đủ sức vượt qua những khó khăn đó. Một trong những khó khăn của Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế thế giới đó là xuất phát điểm của Việt Nam thấp, khoa học công nghệ lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn v.v..
Hiểu được vấn đề này, trong những năm qua Đảng và Chính phủ ta đã cho tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Và con đường nhanh nhất để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là cần nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài bằng cách nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Nhưng nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị như thế nào để phù hợp với điều kiện nền kinh tế của Việt Nam và đạt hiệu quả cao là vấn đề mà các nhà doanh nghiệp nhập khẩu và các ngành các cấp có liên quan đang rất quan tâm xem xét
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, trên cơ sở những kiến thức về kinh tế và nghiệp vụ xuất nhập khẩu đã được truyền thụ tại nhà trường và một số kinh nghiệm thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tại công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết Bị Toàn Bộ Và Kỹ Thuật, em đã lựa chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: " Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ".
Mục đích của đề tài này nhằm nêu lên thực trạng qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ, nghiên cứu những vấn đề phát sinh, những tồn tại vướng mắc khi thực hiện qui trình từ đó tìm ra nguyên nhân, đưa ra những đề xuất và giải pháp khắc phục.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp luận nghiên cứu, đồng thời kết hợp với việc thu thập các thông tin gắn liền với tình hình thực hiện qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport để minh chứng cho những luận điểm được đưa ra.
Trên cơ sở mục đích đề tài, luận văn tốt nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong cơ chế thị trường
Chương II: Thực trạng về quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport
Do thời gian cũng như kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và những lời khuyên quý báu của các thầy, cô giáo, tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty Technoimport, cũng như những ý kiến đóng góp từ phía bạn bè để có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho việc học tập, nghiên cứu sau này.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Quốc Thịnh - thầy giáo trực tiếp hướng dẫn, các cô chú, anh chị trong phòng xuất nhập khẩu 5 đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bài luận văn này.
Chương I
Tổng quan về hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong cơ chế thị trường
I. Khái quát về hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
1. Khái niệm và đặc điểm của thiết bị toàn bộ
Khái niệm về thiết bị toàn bộ
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển và thay đổi cơ cấu của nền kinh tế , các khái niệm và định nghĩa về thiết bị toàn bộ cũng được bổ sung và phát triển. Ngày 13/11/1992 Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định số 91/TTg ban hành ”Quy định về quản lý nhập khẩu máy móc, thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước”, trong đó đưa ra định nghĩa Thiết bị toàn bộ như sau:
Thiết bị toàn bộ là tập hợp máy móc thiết bị, vật tư dùng riêng cho một dự án có trang bị công nghệ cụ thể có các thông số kinh tế - kỹ thuật được mô tả và qui định trong thiết kế của dự án.
Như vậy, nội dung của hàng hoá thiết bị toàn bộ bao gồm:
Khảo sát kỹ thuật.
Luận chứng kinh tế- kỹ thuật hoặc nghiên cứu khả thi công việc thiết kế.
Thiết bị , máy móc, vật tư cho xây dựng dự án.
Các công tác xây dựng, lắp ráp, hiệu chỉnh, hướng dẫn vận hành.
Các dịch vụ khác có liên quan đến dự án như chuyển giao công nghệ, đào tạo v.v..
Thiết bị toàn bộ là nhà máy, cơ sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cơ sở khoa học hay thí nghiệm, bệnh viện, trường học, công trình kiến trúc, công trình thủy lợi, giao thông, bưu điện v.v.. nhờ nước ngoài thiết kế hoặc giúp ta thiết kế, do nước ngoài cung cấp thiết bị, nguyên liệu sản xuất thử, hướng dẫn xây lắp máy và sản xuất thử. Ngoài ra, căn cứ vào tình hình đặc biệt, có thể có một số thiết bị tuy không đủ điều kiện trên nhưng được uỷ ban kế hoạch nhà nước duyệt là thiết bị toàn bộ thì cũng được quy định là thiết bị toàn bộ.
Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ được tiến hành thông qua một hợp đồng (theo hình thức trọn gói) với toàn bộ nội dung hàng hoá nêu trên hoặc thực hiện từng phần tùy theo yêu cầu cụ thể.
Đặc điểm của hàng hoá là thiết bị toàn bộ
Xây dựng công trình thiết bị toàn bộ đòi hỏi vốn đầu tư lớn. ở Việt Nam
vốn thường được lấy từ ngân sách nhà nước. Ngoài nguồn này, Technoimport còn huy động từ các nguồn như vốn tự bổ xung của công ty, vốn vay của chính phủ các nước, tổ chức quốc tế, ngân hàng, công ty nước ngoài do ngân sách nhà nước hoặc ngân hàng nhà nước bảo lãnh và viện trợ bằng tiền Chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế đối với các dự án công trình dựa vào ngân sách nhà nước quản lý.
Thời gian xây dựng công trình kéo dài
Trong mua bán thiết bị toàn bộ, ngoài vật tư, máy móc thiết bị còn nhiều dịch vụ khác như khảo sát, thiết kế, vận hành, bảo dưỡng v.v.. trong đó phải sử dụng chuyên gia kỹ thuật nước ngoài.
Hàng hoá thiết bị toàn bộ có tính chất kỹ thuật chuyên ngành vì thế phải có kiến thức kỹ thuật. Từ năm 1988, nhà nước cho phép Bộ, ngành trực tiếp nhập khẩu mặt hàng này để góp phần tháo gỡ khó khăn trong vấn đề kỹ thuật.
Hàng hóa thiết bị toàn bộ đa dạng, phong phú, phức tạp nên cần kèm theo một dự án gồm những mục chi tiết về giá cả, chủng loại, quy cách đối với từng loại hàng.
2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam hiện nay
2.1. Đối tượng được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ
Kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ là quá trình giao dịch, ký kết,thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ và các dịch vụ có liên quan đến thiết bị đó. Công trình thiết bị toàn bộ thường có tổng vốn đầu tư rất lớn, nguồn vốn sử dụng để nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường là vốn ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn tài trợ của nước ngoài thông qua Chính Phủ hay các nguồn vay nước ngoài có sự bảo lãnh của Nhà nước, các Ngân hàng thương mại Việt Nam v.v.. vì vậy một doanh nghiệp chỉ có thể được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ sau khi đã thực hiện đầy đủ các thủ tục có liên quan theo qui định cụ thể của pháp luật.
Trước kia, theo qui định của thông tư 04/TM- ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ thương mại, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp phải được Bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh phù hợp với Điều 5 Nghị định số 144/HĐBT ngày 7/7/1992 trong đó ở phần nhập khẩu có ghi ngành hàng thiết bị, máy móc. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải đáp ứng các yêu cầu như:
Doanh nghiệp có bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ ngoại thương, giá cả, pháp lý quốc tế trong kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Doanh nghiệp đã kinh doanh nhập khẩu ngành hàng máy móc thiết bị lẻ tối thiểu 5 năm và có mức doanh số nhập khẩu máy móc thiết bị trong năm không dưới 5 triệu USD.
Doanh nghiệp có vốn lưu động do nhà nước giao tự bổ sung bằng tiền Việt nam và tiền nước ngoài tối thiểu tương đương với 500.000USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị.
Do đó, muốn nhập khẩu thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp cần phải xin đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ với Bộ thương mại bằng cách gửi bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh, bao gồm: đơn xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị, giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, hồ sơ hợp lệ xác nhận vốn lưu động (bao gồm vốn Nhà nước giao và vốn tự bổ sung), bảng tổng kết tài sản 5 năm cuối cùng (Biểu tổng hợp), sơ đồ tổ chức bộ máy kinh doanh và cán bộ cần thiết để đảm bảo đủ năng lực kinh doanh thiết bị.
Tuy nhiên, sau này theo nội dung của nghị định 33/CP ngày19/4/1994 về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu và tiếp đó là Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định chi tiết rằng để được phép kinh doanh xuất nhập khẩu (kể cả hàng hoá thiết bị toàn bộ), doanh nghiệp phải được thành lập theo qui định pháp luật, được phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, đã đăng ký mã số kinh doanh với Cục Hải Quan tỉnh, thành và hàng hoá đó không thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu. Với cơ chế mới, để mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể trực tiếp nhập khẩu thiết bị toàn bộ thông qua đấu thầu; hoặc doanh nghiệp có thể uỷ thác cho doanh nghiệp khác được phép kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Điều đáng lưu ý ở đây là đối với một doanh nghiệp muốn được phép kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng này thì trong những văn bản ban hành sau thông tư 04/TM-ĐT như đã kể trên lại chưa được qui định cụ thể, trong các danh mục ngành hàng mà doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu lại không có tên của ngành hàng "thiết bị toàn bộ”. Do vậy, trong thực tế, hiện nay các doanh nghiệp muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn áp dụng các qui định của thông tư 04/TM-ĐT.
2.2. Các phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ
Nếu như thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị lẻ không gặp nhiều vướng mắc và chỉ mất một khoảng thời gian tương đối ngắn thì việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường kéo dài hơn nhiều với một khối lượng công việc đồ sộ và phức tạp liên quan tới các công đoạn xây xựng nhà xưởng, nhập khẩu hàng hoá, lắp đặt, vận hành, đào tạo vận hành v.v.. Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra là nên tiến hành nhập khẩu theo phương thức nào là tối ưu nhất đảm bảo an toàn cho đầu tư trong khi chúng ta chưa đủ khả năng và trình độ để có thể hoàn toàn an tâm về quyết định nhập khẩu thiết bị toàn bộ và công nghệ của mình. Sau đây là một số phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường gặp:
Nhập khẩu uỷ thác: là hoạt động nhập khẩu được hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu thiết bị toàn bộ, uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập thiết bị toàn bộ theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhập khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn, không xin hạn ngạch (nếu có) không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ. Không phải lo tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao dịch với nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác tiến hành đòi bồi thường bên nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành xuất nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh số.
Nhập khẩu tự doanh: hoạt động nhập khẩu tự doanh chính là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí để đảm bảo kinh doanh xuất nhập khẩu có lãi đúng phương hướng, chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế.
Đặc điểm: doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, tự chịu trách nhiệm về mọi mặt kinh doanh của mình liên quan đến quá trình nhập khẩu. Đây là hoạt động mà doanh nghiệp phải xem xét kỹ càng, từ bước nghiên cứu thị trường đến việc ký kết hợp đồng- bởi vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn mình ra, chịu mọi chi phi giao dịch thị trường, giao nhận ở kho tới chi phí vận chuyển và giao nhận hàng hoá, chịu thuế VAT. Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng thì sẽ tính vào doanh số, do đó phải chịu thuế.
2.3. Khung pháp lý hiện nay cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam
Từ những đặc điểm đã trình bày ở trên, có thể thấy rằng không giống như nhập khẩu thiết bị lẻ thông thường, công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ đòi hỏi cả một khoảng thời gian rất dài để có thể hoàn tất các khâu, từ chuẩn bị nguồn vốn, chuẩn bị dự án, lựa chọn phương thức thực hiện đến phê duyệt, đàm phán, ký kết, tổ chức thực hiện, và vận hành công trình. Trong suốt quá trình thực hiện, các khâu này lại chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước thông qua hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng.
Như vậy, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một công tác phức tạp, nó đòi hỏi phải có hệ thống văn bản pháp quy tạo điều kiện cho việc thực hiện phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, các cấp có liên quan trong các giai đoạn nhập khẩu công trình. Xuất phát từ yêu cầu đó, Chính phủ Việt Nam đã cho ban hành nhiều quyết định, nghị định, thông tư tạo thành khung pháp lý vững chắc cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam.
+ Có thể coi Quyết định 91/TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ Thương mại là 2 văn bản pháp quy làm nền cho các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ sau này. Chúng đã góp phần thể chế hoá quá trình nhập khẩu và nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ
Nếu như quyết định 91/TTg ban hành Quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước thì Thông tư 04/TM-ĐT hướng dẫn thực hiện quy định đó.Trong 2 văn bản pháp quy này có nêu định nghĩa và xác định phạm vi hàng hoá thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ không chỉ bao gồm phần hàng hoá hữu hình (máy móc, thiết bị, vật liệu v.v..) mà còn bao gồm cả phần hàng hoá vô hình (thiết kế, giám sát, đào tạo, chuyển giao công nghệ v.v..). Từ đó nêu rõ việc chuyển giao công nghệ là một phần của hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Ngoài ra, theo quyết định 91/TTg thì Bộ thương mại giữ vai trò chính thay nhà nước quản lý việc nhập khẩu, Bộ thương mại có quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu thiết bị cho các doanh nghiệp; quy định cụ thể trình tự và văn bản cần thiết để phê duyệt hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ; quy định rõ các tiêu chuẩn của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ; cùng các ngành quản lý hữu quan và chủ đầu tư xử lý cụ thể khi phải nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng v.v..
+ Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nhà nước được huy động để nhập khẩu máy móc, thiết bị đồng thời đảm bảo quy hoạch xây dựng, áp dụng hiệu quả công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, chính phủ Việt Nam đã ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999) và các nghị định sửa đổi, bổ xung một số điều của quy chế như nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 và Nghị định 07/2003/NĐ-CP ngày 30/1/2003 của Chính Phủ
+ Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho đến nay vẫn luôn gắn liền với hoạt động đấu thầu vì khi lựa chọn nhà cung cấp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là tổ chức đấu thầu để lựa chọn đối tác thích hợp. Điều này dẫn đến việc Chính phủ ta luôn phải bổ xung thêm những nội dung cơ bản của công tác đấu thầu và tổ chức đấu thầu, đưa ra những quy định cụ thể hơn, hệ thống hơn, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về đấu thầu
Nghị định 88/1999/ NĐ-CP ngày 4/9/1999 ban hành Quy chế đấu thầu, cùng với Nghị Định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chính Phủ- sửa đổi, bổ xung một số điều của Quy chế đấu thầu - ra đời nhằm mục đích thống nhất quản lý các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp và lựa chọn đối tác để thực hiện dự án hoặc từng phần dự án trên lãnh thổ Việt nam.
+ Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu máy móc thiết bị, Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã ban hành một hệ thống những văn bản pháp luật như :
Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 hướng dẫn thực hiện nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 của Chính Phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ. Trong đó, có đưa ra các định nghĩa về "chuyển giao công nghệ", "tài liệu kỹ thuật", "đào tạo","các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật và tư vấn quản lý kinh doanh "v.v.. đưa ra các phương thức thanh toán trong chuyển giao công nghệ và quản lý chuyển giao công nghệ của nhà nước. Đặc biệt, thông tư đã nhấn mạnh trong trường hợp chuyển giao công nghệ đi kèm với nhập thiết bị thì phần chuyển giao công nghệ cần lập thành một phần riêng của hợp đồng nhập khẩu thiết bị và chi phí cho việc chuyển giao công nghệ cần tính riêng ngoài giá thiết bị
Quyết định 1091/1999/QĐ-BKHCNMT ngày 22/6/1999 ban hành quy định kiểm tra Nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.Văn bản này quy định phương thức, nội dung, thủ tục kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và quyền hạn, trách nhiệm của các bên liên quan trong kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
+ Mặt khác, hệ thống văn bản quản lý về thuế và thủ tục hải quan cũng lần lượt ra đời, thay đổi theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, góp phần không nhỏ vào việc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo quản lý của Nhà nước
3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ đối với nền kinh tế Việt Nam
Bước vào thời kỳ 2001- 2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm trước đây, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, nguy cơ tụt hậu so với các nước trên thế giới còn lớn, cơ sở vật chất còn lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ chuyển biến chậm, nguồn nhân lực có kiến thức, có tay nghề còn ít, năng suất lao động xã hội tăng chậm, GDP bình quân đầu người còn nhỏ bé
Để có thể khắc phục những tồn tại này, đồng thời rút ngắn khoảng cách tụt hậu về trình độ phát triển kinh tế hàng chục năm so với một số nước trên thế giới, chúng ta chỉ còn cách đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước không thể chỉ đơn thuần dựa trên khoa học kỹ thuật công nghệ lạc hậu trong nước mà còn đòi hỏi phải có nền công nghiệp hiện đại đủ sức trang thiết bị kỹ thuật và hàng tiêu dùng cho xã hội . Với mức tích luỹ quá khiêm tốn của nền kinh tế quốc dân như hiện nay thì việc vươn lên thoát khỏi sự lạc hậu đó đòi hỏi cả một khoảng thời gian lâu dài, một khả năng tài chính lớn và sự nỗ lực huy động tiềm năng chất xám, trong khi đó, trên bình diện quốc tế, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới " thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin ".
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế, lối thoát để có thể rút ngắn thời gian, rút ngắn khoảng cách lại tiết kiệm được công sức cho những lĩnh vực mà mình có thế mạnh và phù hợp với hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay chính là nhập khẩu thiết bị và công nghệ từ các nước tiên tiến. Có thể nói ngắn gọn những ưu thế mà nền kinh tế Việt Nam nói chung và người nhập khẩu nói riêng tận dụng được nhờ nhập khẩu thiết bị toàn bộ như sau:
Nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho phép người mua có thể làm chủ kỹ thuật và công nghệ mới, làm chủ các công nghệ và vật liệu trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân mà nước mình không có khả năng sản xuất hoặc việc sản xuất rất tốn kém về thời gian và tiền của, từ đó tranh thủ sử dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới và sẽ dần dần xây dựng được một nền sản xuất hiện đại với chi phí hợp lý.
Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ giúp cho người mua tiết kiệm được quỹ thời gian và một phần không nhỏ chi phí cho việc xây dựng các cơ quan nghiên cứu khoa học, các viện thiết kế, phòng thiết kế chuyên môn, đào tạo chuyên gia v.v.. mà đôi khi không mang lại hiệu quả mong muốn. Thay vào đó chủ đầu tư có thể tập trung đi sâu vào những lĩnh vực mà mình có thế mạnh
Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một trong những con đường nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, hạn chế được việc phải nhập khẩu những hàng hoá là thành phẩm của công nghệ cao từ nước ngoài với chi phí cao
Xây dựng nhà máy mới hoặc mở rộng quy mô nhà máy hiện tại có thể góp phần tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời giúp cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân tiếp thu được kiến thức kỹ thuật mới cũng như phương pháp quản lý tiên tiến của nước xuất khẩu. Những ưu điểm trên hoàn toàn thích hợp với mục tiêu thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chống lại nguy cơ tụt hậu, cải thiện bộ mặt kinh tế Việt Nam
II. Quy trình nhập khẩu thiết bị
Ngày nay theo quy định ở Việt Nam, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ bao gồm các bước cơ bản sau:
1. Nghiên cứu thị trường
Cũng như các loại hàng hoá thông thường khác, trước khi tiến hành nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần thiết phải nghiên cứu thị trường thiết bị toàn bộ. Thực chất của thị trường thiết bị toàn bộ là thị trường máy móc, thiết bị và nó cũng luôn tuân theo quy luật cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi nghiên cứu thị trường này cần chú ý một số đặc điểm sau:
Cung cầu hàng hoá trong ngắn hạn thay đổi chậm, sức ỳ lớn, không nhạy bén linh hoạt như những hàng hoá khác.
Cung hàng hoá mang tính độc quyền kinh tế.
Thời kỳ mua bán, chuyển giao, lắp đặt v.v.. thường dài.
Hiệu quả kinh tế của thiết bị toàn bộ phải trải qua một thời gian dài mới bộc lộ hết.
Còn nội dung của nghiên cứu thị trường thiết bị toàn bộ cũng giống như nội dung nghiên cứu thị trường của một số loại hàng hoá nhập khẩu khác cụ thể như sau :
Nghiên cứu thị trường trong nước: gồm các bước sau
Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu: khảo sát, phân tích và nghiên cứu về mặt hàng, quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu v.v..
Nghiên cứu dung lượng thị trường và nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường:
+ Nghiên cứu dung lượng thị trường cần phải xác định khả năng cung cấp của doanh nghiệp nhập khẩu cũng như nhu cầu thật sự của khách hàng. Biết được dung lượng thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có thể định hướng cho hoạt động nhập khẩu hàng hoá của mình
+ Nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường: cần phải đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định nhân tố nào có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường từ đó xác định chính xác nhu cầu nhập khẩu mặt hàng đã lựa chọn.
Có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng chính đến dung lượng thị trường đó là các nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi theo chu kỳ (như đặc điểm của sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm của từng thị trường đối với mỗi loại hàng hoá, sự vận động của tư bản v.v..), các nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi lâu dài (như thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hoá thay thế, các chính sách, biện pháp của chính phủ, sự tiến bộ cuả khoa học kỹ thuật và công nghệ), các nhóm nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi tạm thời (như thiên tai, hạn hán, lũ lụt hoặc các hiện tượng gây ra đột biến về cung cầu)
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: tức là việc nghiên cứu tình hình hoạt động, thị phần, chiến lược kinh doanh và khả năng thay đổi chiến lược kinh doanh của, các điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh trong cùng một mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường
Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh: để nắm bắt quy luật vận động của môi trường kinh doanh từ đó có các biện pháp hoặc chính sách tương ứng. Môi trường kinh doanh gồm môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật .v.v.. có tác động lớn, chi phối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Nghiên cứu thị trường quốc tế: doanh nghiệp cần xem xét các yếu tố về cung cầu, giá cả, cạnh tranh v.v.. đặc biệt quan tâm đến các thông tin về nguồn hàng và giá cả hàng hoá
Nguồn cung cấp hàng hoá: nắm vững được tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường thế giới, nghiên cứu đặc điểm các nước cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp để xem xét mức độ ổn định và an toàn của nguồn cung cấp hàng hóa như chính sách xuất khẩu của nước cung cấp là ưu tiên hay hạn chế, tình hình chính trị của quốc gia đó có ổn định không, vị trí địa lý của quốc gia cung cấp có thuận tiện cho giao dịch mua bán, có tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong quá trình nhập khẩu của doanh nghiệp không
Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới: doanh nghiệp phải dự đoán được xu thế biến động của giá cả dựa trên việc đánh giá hiệu quả nghiên cứu tình hình biến động của từng thị trường trên các nhân tố như lạm phát, cung cầu, giá cả v.v.. cộng với những hiểu biết và kinh nghiệm về quy luật thị trường của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp tiến hành so sánh và phân loại các báo giá mặt hàng để lựa chọn được nhà cung cấp thích hợp nhất cho doanh nghiệp
2. Lựa chọn đối tác và hình thức giao dịch
Để lựa chọn được đối tác giao dịch phù hợp nhất với mình doanh nghiệp cần phải nghiên cứu:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh, phạm vi hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, uy tin, chất lượng, giá cả, khả năng về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác
+ Xem xét đến môi trường chính trị của nước đối tác, vị trí địa lý có cho phép ta đánh giá được các ưu thế về địa lý của phía đối tác để giảm thiểu chi phí vận tải, bảo hiểm
Sau khi đã lựa chọn được đối tác giao dịch, doanh nghiệp tùy vào điều kiện của mình để lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp. Có 2 hình thức giao dịch là giao dịch trực tiếp với người bán và giao dịch gián tiếp với người bán qua các văn phòng đại diên, các công ty trung gian
Sau đó, doanh nghiệp sẽ lập dự án (báo cáo) tiền khả thi. Báo cáo tiền khả thi là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và ra quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư.
Sau khi thẩm định báo cáo tiền khả thi, người ta sẽ tiến hành lập luận chứng kinh tế kỹ thuật hay dự án (báo cáo) khả thi.Về cơ bản, nội dung của báo cáo khả thi tương tự như báo cáo tiền khả thi nhưng mức độ chi tiết cao hơn nhiều. Đây thực chất là sự cụ thể hoá báo cáo tiền khả thi.
Đối với các dự án thông thường thì chỉ cần lập báo cáo khả thi là đủ. Đối với các công trình phức tạp và quan trọng thì người ta có thể lập cả báo cáo tiền khả thi và báo cáo khả thi. Nếu việc lập báo cáo tiền khả thi cho thấy việc đầu tư xây dựng công trình này là hoàn toàn hợp lý thì sẽ bắt đầu lập báo cáo khả thi. Sở dĩ như vậy vì một khi báo cáo khả thi đã được thẩm định và thông qua thì sẽ bắt đầu tiến hành công việc thiết kế.
Mặc dù có khác nhau về tên gọi và cách phân định các phần cụ thể bên trong nhưng luật chứng kinh tế kỹ thuật và báo cáo khả thi có thể coi tương tự như nhau. Đây chỉ là cách gọi khác nhau cho công việc tìm hiểu tính hợp lý và các giải pháp của việc xây dựng một công trình thiết bị toàn bộ.
3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá
Đàm phán: có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Đàm phán tạo điều kiện cho hai bên hiểu biết nhau rõ hơn để dễ dàng đi đến thống nhất những bất đồng, những tồn tại, những vướng mắc nẩy sinh. Đặc biệt đối với thiết bị toàn bộ là loại hàng hoá mà đặc điểm của nó là có nhiều chi tiết kỹ thuật, nhiều linh kiện máy móc dẫn đến nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu cần phải thoả thuận để đi đến thống nhất về các linh kiện đồng bộ về thời gian giao hàng v.v.. sao cho thuận tiện nhất cho cả hai phía. Hai bên có thể trao đổi về mọi điều kiện giao dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán. Từ đó đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề còn khúc mắc giữa người mua và người bán để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng.
Ký kết hợp đồng: sau khi đàm phán nhất trí với các điều kiện mua, bán, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Có thể nói giai đoạn đàm phán là bàn đạp để đi đến việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu. Nếu đàm phán có kết quả thì các bên tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhưng trước khi ký kết hợp đồng thì chủ thể của hợp đồng cần phải nắm được nội dung và các điều khoản chủ yếu của hợp đồng, cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản trước khi ký kết. Bởi một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó sẽ rất khó khăn và bất lợi.
Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo, do đó trước khi ký kết bên kia phải xem xét một cách kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những điều khoản đã thoả thuận trong đàm phán. Ngoài ra trong hợp đồng cần được trình bày một cách sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã được thoả thuận, không để tình trạng mập mờ, dễ suy luận theo nhiều cách khác nhau không có lợi cho mình. Hợp đồng nên đề cập đến nhiều vấn đề, tránh tình trạng phải áp dụng tập quán để giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến. Những điều khoản trong hợp đồng phải được xuất phát từ những đặc điểm của thiết bị toàn bộ, từ những điều kiện của hoàn cảnh tự nhiên, xã hội và quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng không có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành của nước người bán hoặc nước người mua, người đứng ra ký kết phải là người đúng thẩm quyền. Ngôn từ để xây dựng nên hợp đồng là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo.
Nội dung của hợp đồng nhập khẩu bao gồm:
Phần mở đầu: tên và số hiệu của hợp đồng, ngày và nơi ký kết hợp đồng, tên và địa chỉ của các bên ký kết (Tên đơn vị, địa chỉ thư, tên điện tín, số điện thoại, số Fax, tên và chức vụ của người ký hợp đồng), cam kết ký hợp đồng.
Các điều khoản của hợp đồng: tên hàng; chất lượng, quy cách, phẩm chất và cách xác định; số lượng và cách xác định; đóng gói, bao bì, ký hiệu, mã hiệu; giá cả, giá trị, điều kiện giao hàng; thời hạn, phương tiên và địa điểm giao hàng; phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán; ._.bảo hiểm, bảo hành, khiếu nại; phạt và bồi thường thiệt hại; tranh chấp và giải quyết tranh chấp; kiểm tra và giám định hàng hoá nhập khẩu; trường hợp bất khả kháng
- Phần ký kết: hợp đồng được làm thành mấy bản, mỗi bên giữ mấy bản, có hiệu lực pháp lý như nhau; hiệu lực của hợp đồng từ lúc nào; bên bán, bên mua ký.
Trong thương mại quốc tế hợp đồng có thể là một văn bản hoặc nhiều văn bản như những điện báo, thư từ giao dịch v.v.. Do đặc điểm của thiết bị toàn bộ nên hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường gồm nhiều văn bản chẳng hạn như đơn chào hàng cố định của người bán và chấp nhận của người mua hoặc đơn đặt hàng của người mua và chấp nhận của người bán.
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải tiến hành công việc theo trình tự sau:
4.1. Xin giấy phép nhập khẩu
Hiện nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu muốn thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký mà hàng hoá đó không thuộc danh mục các loại hàng hoá cấm nhập khẩu hoặc nhập khẩu có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ việc đăng ký mã số với cơ quan hải quan là có thể tiến hành hoạt động nhập khẩu. Còn nếu loại hàng hoá doanh nghiệp cần nhập khẩu thuộc danh mục hàng nhập có điều kiện thì doanh nghiệp phải xin hạn ngạch nhập khẩu hoặc giấy phép nhập khẩu của Bộ Thương Mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành
4.2. Mở L/C
Hoạt động này được người mua thực hiện khi phương thức thanh toán là thanh toán tín dụng chứng từ. Thường bên mua mở L/C trước thời gian giao hàng từ 20 đến 25 ngày. L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình được chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C Khi mở L/C người mở dựa trên căn cứ là các điều khoản của hợp đồng để điền vào mẫu của giấy xin mở L/C kèm theo bản sao hợp đồng cùng 2 uỷ nhiệm chi là uỷ nhiệm chi để ký quỹ theo quy định mở L/C và uỷ nhiệm chi để trả thủ tục phí mở L/C cho ngân hàng
4.3. Thuê tàu
Công ty có thể uỷ thác thuê tàu hoặc tự thuê tàu. Nhà nhập khẩu chỉ thuê tàu nếu trong hợp đồng quy định hoặc nhập khẩu theo giá FOB. Khi đó, ta phải tiến hành thuê tàu dựa vào: những điều khoản của hợp đồng, đặc điểm của hàng hoá cần nhập khẩu, điều kiện vận tải v.v.. Hiện nay, do điều kiện về tàu của ta rất hạn chế và việc thuê tàu nước ngoài đối với doanh nghiệp Việt Nam còn ít kinh nghiệm nên chúng ta thường nhập khẩu theo điều kiện CIF
4.4. Mua bảo hiểm hàng hoá
Hàng hoá có thể được vận chuyển bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không. Khi vận chuyển thì hàng hoá thường gặp mất mát, hư hỏng và tổn thất. Do vậy, nếu các nhà kinh doanh muốn tránh rủi ro nên mua bảo hiểm hàng hoá. Hiện nay, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là loại hình vận chuyển thông dụng nhất nên bảo hiểm đường biển cũng là loại hình bảo hiểm phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh muốn hàng hoá của mình được bảo hiểm thì cần phải mua bảo hiểm bằng cách ký với công ty bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm có thể được ký điều kiện A, B hoặc C. Điều quan trọng nhất ở đây là doanh nghiệp cần phải lựa chọn điều kiện bảo hiểm nào cho hợp lí nhất với giá thấp nhất nhưng lại đạt lợi ích cao nhất trong từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, tùy thuộc vào đặc điểm và tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà ta nên mua bảo hiểm chuyến hay bảo hiểm bao ( một khoảng thời gian nhất định ).
4.5. Thủ tục hải quan
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để nhập khẩu hay xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Về nguyên tắc, trình tự các bước làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu mậu dịch phải được tiến hành theo ba bước sau:
*Làm thủ tục nhập khẩu về mặt giấy tờ tại cơ quan hải quan: chủ hàng nhập khẩu phải nộp hồ sơ hải quan tại trụ sở Chi cục hải quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của hồ sơ hải quan và tính chính xác của các nội dung kê khai trong tờ khai hải quan
*Bước kê khai tại kho hàng, chủ hàng phải xắp xếp hàng hoá trặt tự, thuận tiện cho kiểm tra. Hải quan phải đối chiếu hàng hoá khai trên giấy tờ với thực tế.
*Quyết định xử lý của hải quan: sau khi kiểm tra, đối chiếu, cán bộ hải quan sẽ quyết định cho hàng hoá đi hoặc không cho hàng hoá đi. Nếu đồng ý cho hàng hoá qua, hải quan sẽ kiểm tra xác định số thuế phải nộp của lô hàng dựa trên kết quả tự tính thuế của người khai hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá (nếu có), ra thông báo thuế hoặc viết biên lai thu thuế (nếu có), viết biên lai lệ phí hải quan .v.v..
Công ty phải hoàn toàn tuân theo quy định của hải quan. Nếu vi phạm các quyết định của hải quan sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ
4.6. Nhận hàng nhập khẩu
Căn cứ theo nghị định 200/CP thì mọi giao nhận hàng nhập khẩu đều phải uỷ thác cho cảng, nên phải ký kết hợp đồng với cảng. Khi hàng về thì cảng phải có trách nhiệm báo cho chủ hàng và chủ hàng cử người đến làm thủ tục nhận hàng. Công ty phải tiến hành một số công việc sau:
Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cảng về việc giao nhận hàng từ tàu nước ngoài về
Xác nhận với cảng kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu theo lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện giao nhận
Cung cấp tài liệu cấn thiết cho việc giao nhận hàng hoá như: vận đơn, lệnh giao hàng .v.v..
Thanh toán cho cảng các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp bảo quản vận chuyển hàng hoá
Theo dõi việc giao nhận đôn đốc cảng lập biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong lúc giao nhận
4.7. Kiểm tra hàng hoá
Khi nhận hàng nhập khẩu, công ty phải tiến hành kiểm tra hàng hoá thông qua một công ty giám định như Vinacontrol. Nếu phát hiện thiếu hụt, tổn thất công ty yêu cầu Vinacontrol tiến hành lập chứng từ giám định để đòi bồi thường hoặc nếu rủi ro đó đã được mua bảo hiểm thì công ty có thể yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định và bồi thường những thiệt hại đã xảy ra.
4.8. Thanh toán tiền hàng nhập khẩu
Trong kinh doanh quốc tế hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức tín dụng chứng từ v.v.. nhưng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ và phương thức chuyển tiền là được sử dụng phổ biến nhất
Đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nhà nhập khẩu phải tiến hành mở L/C theo đúng hợp đồng đã ký kết với nhà xuất khẩu, cần cân nhắc thời gian mở L/C có lợi nhất. Khi bộ chứng từ thanh toán gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng mở L/C thì nhà nhập khẩu phải cẩn thận kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy hợp lệ thì mới thông báo đồng ý trả tiền cho ngân hàng và lấy bộ chứng từ đi nhận hàng.
4.9. Giải quyết khiếu nại và tranh chấp ( nếu có )
Nếu có tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thì việc giải quyết theo đúng điều khoản trọng tài và luật quy định trong hợp đồng
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
1. Yếu tố chính trị - luật pháp
Tình hình chính trị bất ổn định có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng. Nó dẫn đến chiến tranh, đình công, bạo động gây ách tắc, trở ngại cho hàng hoá khi hàng đang trên đường từ nước xuất khẩu tới nước nhập khẩu. Không những nó làm chậm tiến độ giao hàng mà còn có thể gây tổn thất, mất mát cho hàng hoá. Ngoài ra, nếu bị bao vây, cấm vận kinh tế, nước bị cấm vận sẽ không thể nhập khẩu được những máy móc, thiết bị có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao từ nước ngoài để phục vụ sản xuất trong nước
Yếu tố luật pháp: hoạt động nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng được tiến hành giữa các chủ thể ở các Quốc gia khác nhau bởi vậy nó chịu sự tác động của chính sách thương Mại và các quốc gia đó.
Đối với các quốc gia cần nhập khẩu thiết bị toàn bộ để hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, chính sách thương Mại của họ luôn khuyến khích thực hiện hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Nhưng đôi khi các nước này lại ban hành quá nhiều các văn bản, quy định có liên quan tới việc đầu tư, tiếp cận công nghệ, nhập khẩu máy móc thiết bị, chuyển giao và áp dụng công nghệ.v.v.. dẫn đến gây khó khăn cho các nhà đầu tư, các nhà nhập khẩu.
Ngược lại, các nước xuất khẩu thiết bị toàn bộ lại có xu hướng ngăn chặn việc bán những công nghệ và máy móc hiện đại mới tạo ra, đặc biệt là những công nghệ mà mới chỉ một mình họ nắm giữ. Thiết bị máy móc và công nghệ được các nước như Nhật, Hoa Kỳ xuất khẩu chẳng qua là những máy móc thiết bị và công nghệ đã sử dụng ở trong nước họ từ trước đó nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, và khi được bán ra chúng vẫn có thể coi là hoàn toàn mới đối với nhiều quốc gia đang phát triển. Rõ ràng trong nhiều trường hợp, người nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn rơi vào tình thế "lực bất tòng tâm", dù có sẵn sàng bỏ nhiều tiền ra để mua công nghệ cũng không được mua, và vì thế để thực hiện được mục tiêu của mình đã đặt ra mà phải "xuống thang" theo những yêu cầu từ phía nhà xuất khẩu.
2. Trình độ sản xuất - khoa học công nghệ và quản lý
Trình độ sản xuất - khoa học công nghệ:
Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ chịu sự chi phối tác động mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Các quốc gia phát triển có trình độ khoa học kỹ thuật cao thường là người xuất khẩu thiết bị toàn bộ. Trong khi các quốc gia nhập khẩu thiết bị toàn bộ lại là các quốc giao đang và chậm phát triển mà Việt Nam là một ví dụ điển hình. Đây là những nước còn yếu kém về trình độ khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng hoặc đang có nhu cầu về thiết bị công nghệ để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, việc xác định đúng đắn trình độ công nghệ của thiết bị toàn bộ nhập khẩu là không dễ dàng. Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã có một hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật để đánh giá trình độ công nghệ của máy móc, dây chuyền nhập khẩu nhưng việc áp dụng và thực hiện nó còn nhiều bất cập.
Điều này dẫn đến trong một thời gian dài chúng ta đã nhập khẩu rất nhiều các công trình thiết bị toàn bộ chỉ đạt từ 30-35% công suất, một số công trình không sử dụng được, nhiều liên doanh đã bị biến thành một nơi tiêu thụ hàng hoá tồn kho ứ đọng của các máy móc thiết bị cũ đã qua sử dụng hoặc đã lạc hậu của phía nước ngoài. Ngoài ra, trong khi xây dựng nhà máy, nhiều nhà đầu tư do trình độ kém, không hiểu biết và quan tâm tới lợi ích xã hội nên đã cố tình cắt giảm nhiều hạng mục xử lý chất thải, máy móc thiết bị bảo vệ người lao động và môi trường. Các yếu tố có hại trong môi trường lao động không chỉ gây ô nhiễm tại nơi làm việc mà còn ảnh hưởng xấu đến cả môi trường sống của dân cư xung quanh.
Nhập khẩu công nghệ nói chung và máy móc thiết bị nói riêng là lợi thế của nước công nghiệp hoá muộn trong việc tận dụng thành tựu khoa học công nghệ. Tuy nhiên nếu không cẩn thận trong việc tiếp nhận và quản lý công nghệ thì lợi thế sẽ trở thành yếu thế, thậm chí biến đất nước thành bãi rác thải công nghệ của các nước phát triển.
Trình độ quản lý: với mọi hoạt động, mọi ngành nghề khả năng quản lý của con người luôn là yếu tố quan trọng đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao, khả năng lãnh đạo cùng với sự nhạy bén, và nhìn xa trông rộng ở người quản lý để có thể điều khiển đội ngũ cán bộ công nhân viên trực tiếp thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu ngược lại, có một người lãnh đạo kém cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên làm việc không nhiệt tình và năng động thì việc thực hiện một quy trình nhập khẩu sẽ không thành công
3. Tỷ giá hối đoái
Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu và có thể gây sự biến đổi lớn trong tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu. Khác với thuế quan và hạn ngạch là những công cụ mà Chính Phủ có thể điều chỉnh trực tiếp, tỷ giá hối đoái lại chủ yếu hình thành từ thị trường, nhà nước chỉ tác động có tính chất điều chỉnh
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, hàng hoá nhập khẩu trở nên đắt hơn vì người nhập khẩu phải dùng nhiều đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một số lượng hàng nhập khẩu. Điều này, kích thích sự tăng giá cả trong nước, làm hạn chế nhập khẩu hàng hoá hoặc kích thích sự phát triển sản xuất các hàng hoá thay thế nhập khẩu ở trong nước. Tỷ giá hối đoái giảm tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí đồng tiền dân tộc để mua hàng hoá từ nước ngoài các nhà nhập khẩu đã phải tăng chi phí sản xuất kinh doanh của mình. Đây là một nhân tố cơ bản làm giảm hiệu quả kinh doanh của hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí sẽ dẫn tới tăng giá thành sản xuất, do đó sẽ làm giảm cầu trên thị trường nội địa về sản phẩm nhập khẩu. Mặt khác do giá cả tăng lên người tiêu dùng nội địa sẽ sử dụng hàng hoá thay thế khác. Điều này, làm giảm kết quả của hoạt động nhập khẩu dẫn tới giảm hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Như vậy, nếu tỷ giá giảm sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu theo hai hướng tăng chi phí và giảm kết quả. Nhưng xét về hiệu quả kinh tế - xã hội khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, tăng tiềm năng sản xuất trong nước tạo việc làm và cải thiện cán cân thanh toán.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ tác động khuyến khích nhập khẩu vì hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả chung trong nước. Chi phí kinh doanh giảm xuống, làm cho kết quả kinh doanh tăng
Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu giữa các mặt hàng thay thế sẽ gây nên sự biến đổi trong cơ cấu hàng nhập khẩu, từ đó dẫn đến sự thay đổi phương án kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu
4. Các nhân tố ảnh hưởng khác
ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng: hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng- với các dịch vụ của mình- đang trở thành một phần không thể thiếu trong các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp không phân biệt đó là doanh nghiệp lớn hay nhỏ, doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên các mối quan hệ, uy tín và nghiệp vụ của mình, các ngân hàng đảm bảo được lợi ích của các nhà kinh doanh tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra, hệ thống các ngân hàng còn giúp các doanh nghiệp trong việc cung cấp vốn, thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác và tiện lợi. Đồng thời, các ngân hàng cũng có thể đứng ra bảo lãnh hay cho các doanh nghiệp vay tiền với khối lượng lớn, tạo điều kiện kịp thời cho doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng thời cơ, cơ hội trong kinh doanh.
ảnh hưởng của hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận tải: như chúng ta đã biết việc thực hiện hoạt động nhập khẩu luôn gắn liền với vận chuyển và thông tin liên lạc. Việc nghiên cứu và áp dụng các công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy hoạt động nhập khẩu.
+ Hệ thống thông tin liên lạc hiện đại như Fax, Telex, dịch vụ chuyển phát nhanh DHL v.v.. sẽ giúp cho các chủ thể kinh doanh ở các quốc gia khác nhau có thể liên lạc được với nhau để đàm phán, thoả thuận và tiến hành hoạt động nhập khẩu một cách kịp thời.
+ Việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, nâng cao năng lực bốc dỡ, bảo quản v.v.. cũng làm cho quá trình nhập khẩu được nhanh chóng, an toàn và hiệu quả hơn.
Chương II
Thực trạng về việc thực hiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport
I. Tóm lược về công ty
1. Sự hình thành và phát triển của công ty
Tổng công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật hoạt động kinh doanh theo giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương mại ký ngày 22/3/1995 với những thông tin như sau:
Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật -Technoimport- có tên giao dịch đối ngoại: "The Viet Nam National Equipment and Technics Import-Export cooperation" đặt trụ sở chính tại 16-18 Tràng Thi - Hà Nội - Việt Nam với cơ quan chủ quản là Bộ thương mại.
Các giai đoạn phát triển:
Giai đoạn từ năm 1959-1989: công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport)-Bộ thương mại được thành lập vào ngày 28/01/1959. Suốt một thời gian dài trong thời kỳ bao cấp (1959-1989), Technoimport hoạt động như là một đơn vị duy nhất trong cả nước, thực hiện chức năng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Technoimport đã nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho hơn 500 công trình lớn nhỏ bằng các nguồn vốn khác nhau. Nhiều dây chuyền công nghệ mà Technoimport nhập khẩu đã và đang phát huy tác dụng cho nền kinh tế Việt Nam, trong đó một số công trình giữ vai trò nền tảng cơ bản và là động lực cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Giai đoạn từ năm 1989 đến nay: Chính Phủ chủ trương chuyển giao việc xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho tất cả các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế có đủ điều kiện trong cả nước. Trước tình hình mới đó, bản thân Technoimport một lần nữa lại phải tự khẳng định mình, nỗ lực và cố gắng để đứng vững và phát triển, thể hiện vai trò chủ đạo của mình để đảm bảo phục vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho tất cả các ngành. Cũng trong thời gian này Technoimport được Bộ Kinh tế đối ngoại nay là Bộ thương mại cho phép đổi tên thành tổng công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, thực hiện hạch toán kinh doanh toàn phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có điều tiết của nhà nước, với chức năng nhiệm vụ mở rộng và đa dạng hơn bao gồm cả sản xuất và nhập khẩu.
Hiện nay, Tecnoimport có quan hệ giao dịch hợp đồng rộng khắp trong phạm vi cả nước và với gần 60 quốc gia trên thế giới. Trong hoạt động của mình Tecnoimport luôn chú trọng tuân thủ công tác bảo mật, giữ gìn bí mật quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng cũng như thực hiện nghĩa vụ quốc phòng toàn dân một cách nghiêm túc. Bước vào giai đoạn 10 năm 2001- 2010, lấy mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước làm phương hướng kinh doanh, Technoimport tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình nhằm phục vụ tốt hơn nữa mọi nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty
Chức năng của công ty: chức năng chính của công ty là tổ chức lưu thông hàng hoá thông qua trao đổi mua bán giữa trong nước và nước ngoài. Cụ thể hơn công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu nên có thể hiểu chức năng chính là tổ chức lưu thông hàng hoá thông qua trao đổi mua bán xuất nhập khẩu giữa công ty và các đối tác trong và ngoài nước.
Nhiệm vụ của Technoimport: Nhiệm vụ chính của Công ty là nhập khẩu trong đó chủ yếu nhập khẩu thiết bị toàn bộ (chiếm 67% cơ cấu nhập khẩu của công ty- số liệu năm 2002). Mặt khác, công ty còn nhập khẩu thiết bị lẻ (14%), nguyên liệu sản xuất (18%) và hàng tiêu dùng (1%). Nhập khẩu trực tiếp và nhận uỷ thác nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ, các dây chuyền công nghệ, các máy móc thiết bị lẻ, phụ tùng, nguyên nhiên liệu v.v.. phục vụ sản xuất, xây dựng đầu tư chiều sâu, mở rộng và hiện đại hoá các công trình kinh tế văn hoá, giáo dục v.v.. và các loại hàng hoá khác phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội.
Ngoài ra, công ty còn xuất khẩu cao su, nông sản, than, hàng công nghiệp. Nhận uỷ thác xuất khẩu thiết bị toàn bộ, máy móc thiết bị lẻ, vật tư và các loại hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
Hiện nay, Technoimport thực hiện các hoạt động tư vấn về đầu tư và thương mại bao gồm việc tìm kiếm đối tác đầu tư, cung cấp thông tin, tính toán hiệu quả kinh tế công trình, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, xác định vốn đầu tư, giá thiết bị, nguyên vật liệu, soạn theo các văn bản, hợp đồng xuất nhập khẩu và đầu tư.
Mặt khác, công ty đã và đang đẩy mạnh công tác giao nhận, vận chuyển một khối lượng lớn máy móc, thiết bị và hàng hoá từ cảng lớn đến tận chân công trình cụ thể ở đây là chi nhánh Techonimport Hải Phòng
3. Cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý của công ty
Là công ty trực thuộc Bộ thương mại nên Technoimport có một tổng giám đốc. Giúp việc cho tổng giám đốc có ba phó tổng giám đốc và một kế toán trưởng. Tất cả những vị trí này do Bộ thương mại quyết định bổ nhiệm và miễn nhiệm. Hiện nay, Technoimport có:
+ Bảy phòng nghiệp vụ đây là 7 phòng xuất nhập khẩu có chức năng thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Các phòng xuất nhập khẩu chủ động hạch toán kinh doanh, tự tìm nguồn hàng bằng các biện pháp thăm dò thị trường hoặc liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu sau đó triển khai công tác xuất khẩu. Các trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về vốn và tài sản được giao.
+ Ba phòng chức năng gồm phòng kế hoạch tài chính, phòng tổ chức cán bộ và phòng hành chính quản trị.
+ Bốn đơn vị trực thuộc gồm trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại và 3 chi nhánh Technoimport đặt tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng.
Ngoài ra Technoimport còn có mạng lưới văn phòng đại diện tại rất nhiều nước trên thế giới như liên bang Nga, Pháp, Bỉ, Thụy Điển, Italia, Đức, Mỹ, Singapore, Australia v.v.. Sau đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức của Technoimport:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Technoimport
Tổng giám đốc
Các phó tổng giám đốc
Các phòng chức năng
Phòng kế hoạch tài chính
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng hành chính quản trị
Các đơn vị trực thuộc
TTTV đầu tư và & TM
Chi nhánh tại TPHCM
Chi nhánh tại Hải Phòng
Chi nhánh tại Đà Nẵng
Các VPĐD tại nước ngoài
Các phòng nghiệp vụ
Phòng XNK I
Phòng XNK II
Phòng XNK III
Phòng XNK IV
Phòng XNK V
Phòng XNK
VI
Phòng XNK
VII
4. Thị trường và mặt hàng kinh doanh của công ty
Xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu: hiện nay, Technoimport đang tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước Châu âu, Châu Phi, từng bước khôi phục lại thị trường SNG và Đông âu, thúc đẩy quan hệ thương mại với các nước Châu Mỹ và tập trung chủ yếu vào các nước Châu á.như Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản và đặc biệt công ty đã đặt văn phòng đại diện tại Mỹ để tìm hiểu cũng như nắm bắt cơ hội xâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này
Mặt hàng xuất khẩu: trong những năm gần đây, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Technoimport khá phong phú về chủng loại và dồi dào về số lượng. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm cao su tự nhiên và các chế phẩm có nguồn gốc từ cao su tự nhiên (chiếm 60% trong cơ cấu xuất khẩu của công ty), hàng nông sản thực phẩm (chiếm 19%), than đá (10%), hàng công nghiệp (6%). Ngoài ra, là các sản phẩm khác (5%). Tuy nhiên hàng xuất khẩu của công ty nhìn chung còn ở dạng nguyên liệu thô, chưa qua chế biến tinh xảo hoặc mới chỉ là hàng sơ chế cho nên giá bán sản phẩm còn thấp
Nhập khẩu
Thị trường nhập khẩu: của công ty rất rộng gồm Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản v.v.. Theo kinh nghiệm của công ty thì mỗi mặt hàng cũng nên có nhà cung cấp riêng của nó. Chẳng hạn khi nhập khẩu que hàn công ty thường gửi đơn đặt hàng đến Singapore còn khi nhập khẩu máy chế biến gỗ công ty thường gửi đơn đặt hàng đến Hà Lan, Hàn Quốc. Sau đây là một số thị trường chính của Technoimport:
Thị trường Nhật Bản: đây là thị trường nhập khẩu quan trọng của công ty. Nhật là quốc gia có nền khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, người Nhật luôn áp dụng triệt để những thành tựu, tiến bộ của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của thị trường nội địa là ưa dùng hàng có chất lượng cao, hàng ngoại đặc biệt là hàng sản xuất tại Nhật bản, Technoimport luôn duy trì việc nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp phục vụ tiêu dùng từ Nhật bản như ôtô, xe máy, thiết bị máy xây dựng, các loại nguyên vật liệu sản xuất trong nước v.v..
Thị trường Trung Quốc: là quốc gia đông dân nhất trên thế giới, tình hình chính trị ổn định và nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá đều qua nhiều thập kỷ nên Trung Quốc là một thị trường tiềm năng lớn của công ty. Mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc thường là thiết bị toàn bộ như các nhà máy xi măng lò đứng, nhà máy đường, nhà máy thuỷ điện nhỏ, nhà máy cấp thoát nước và nhà máy chè. Với thị trường này công ty lợi dụng được ưu thế về địa lý, vận chuyển tương đối rẻ và thuận lợi. Bên cạch đó, hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc rất mạnh về cạnh tranh giá cả, phù hợp với đại bộ phận dân cư có thu nhập chưa cao trong nước. Kể từ khi Hồng Kông trở về với Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng mạnh, do kim ngạch nhập khẩu từ Hồng Kông luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu nhập khẩu. Hàng nhập khẩu từ Hồng Kông chủ yếu là máy móc như các nhà máy dệt bao PP, nhà máy chế biến gỗ, máy vi tính, thiết bị điện tử, thiết bị ngành hoá chất, máy móc công cụ, máy điện thoại, máy soi bó tiền, điều hoà nhiệt độ v.v..
Thị trường Hàn Quốc: Hàn Quốc là một nước công nghiệp mới phát triển (Nics), áp dụng thành công những thành tựu khoa học kỹ thuật vào đời sống. Từ khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Technoimport đã tăng cường giao dịch với Hàn Quốc và nhanh chóng thành đối tác nhập khẩu thiết bị lẻ, máy và phụ tùng như ôtô các loại, máy xây dựng, máy cắt, máy dệt len, máy hút bùn, thang máy dân dụng, máy bơm nước, ắc quy ôtô, thiết bị điện, xe máy v.v..
Thị trường Pháp: trên cơ sở các văn bản pháp lý đã ký kết giữa hai nhà nước, Technoimport đã nhập khẩu uỷ thác nhiều dây chuyền thiết bị toàn bộ cho các công trình dưới dạng viện trợ không hoàn lại của chính phủ Pháp như hệ thống chiếu sáng đô thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, hệ thống tín hiệu giao thông Hà Nội, hệ thống quản lý cấp thoát nước quận Hai Bà Trưng-Hà Nội, thiết bị thí nghiệm, thiết bị trường học v.v..
Thị trường Đức: là thị trường mà công ty có nhiều quan hệ thương mại từ lâu. Nhóm hàng nhập khẩu từ Đức chủ yếu là thiết bị lẻ công nghiệp như các nhà máy bia, dây chuyền sản xuất bánh kẹo, các trạm trộn bê tông, trạm bơm có công suất lớn, thiết bị thông tin liên lạc, thiết bị lẻ và phụ tùng v.v.. Để mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn hàng nhập khẩu Technoimport đã đặt văn phòng đại diện tại Đức với kế hoạch tăng thị phần tại thị trường nước này.
Thị trường Mỹ: đây là một thị trường đầy triển vọng vì Mỹ là một siêu cường quốc về kinh tế trên thế giới. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký đã tạo ra rất nhiều cơ hội và thách thức mới cho doanh nghiệp ở hai nước. Kim nghạch nhập khẩu của công ty từ Mỹ đang tăng lên nhanh chóng trong thời gian ngắn với các công trình nhập khẩu như dây chuyền lò thiêu xác, nhà máy đốt rác y tế, dây chuyền sứ vệ sinh cao cấp, các thiết bị y tế công nghệ cao như máy x- quang, máy điện tâm đồ, máy nội soi, máy điện não v.v..
Mặt hàng nhập khẩu: Technoimport là công ty chuyên về nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, trước đây lại là đơn vị duy nhất được Nhà nước giao phó cho nhiệm vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho mọi ngành, mọi địa phương trong cả nước, cho nên thế mạnh của Technoimport là nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Ngoài ra, Technoimport còn nhập khẩu thiết bị lẻ, nguyên liệu sản xuất và hàng tiêu dùng cụ thể như sau:
Thiết bị toàn bộ: thiết bị toàn bộ, dây chuyền máy móc thiết bị là mặt hàng kinh doanh của yếu của công ty chiếm 67% (số liệu năm 2002) tổng kim ngạch nhập khẩu gồm
Vật liệu xây dựng: trạm trộn bê tông, nhà máy xi măng, nhà máy gạch ceramic, nhà máy sản xuất tấm lợp, nhà máy đùn ép nhôm v.v..
Công nghiệp nhẹ: nhà máy dệt bao PP, nhà máy dệt bao xi măng, nhà máy thủy tinh v.v..
Thuỷ lợi: các dự án thuỷ lợi đồng bằng Sông Hồng như trạm bơm Cẩm Hà, trạm bơm Phù Sa, trạm bơm Ninh Bình v.v..
Giao thông và thông tin liên lạc: hệ thống tín hiệu giao thông, hệ thống chiếu sáng công cộng, hệ thống viba Bắc - Nam, hệ thống thiết bị thông tin sóng ngắn v.v..
Cơ sở hạ tầng: hệ thống quản lý nước, cấp nước Hà Nội các trạm thuỷ điện nhỏ, nhà máy đốt rác y tế v.v..
Công nghiệp hoá chất: nhà máy cao su, nhà máy phân đạm v.v..
Ngân hàng: nhà in ngân hàng, nhà máy in tiền K-84 v.v..
Công nghiệp thực phẩm: nhà máy đường, nhà máy bia, nhà máy nước khoáng, dây chuyền sản xuất bánh kẹo v.v..
Thiết bị lẻ, máy và phụ tùng: trong đó thiết bị lẻ (gồm thiết bị thi công như máy đào, máy xúc, máy ủi v.v.., thiết bị nâng chuyển như cần cẩu, xe nâng hàng, băng tải v.v.. ,thiết bị y tế, thiết bị thông tin, thiết bị trường học, thiết bị văn phòng v.v.. , các loại xe như xe cứu hoả, xe trải nhựa đường, xe trộn bê tông, xe tải, ô tô chở khách). Máy và phụ tùng ( gồm máy soi kiểm tra hành lý, máy công cụ, máy cưa đá, máy nén khí, máy dệt len, máy bơm nước, máy bơm chân không, máy phun thuốc trừ sâu v.v..)
Nguyên vật liệu: trong nhiều năm qua, Technoimport kiêm luôn việc nhập khẩu uỷ thác nguyên vật liệu cho nhà máy, xí nghiệp nhằm khép kín chu trình từ nhập khẩu thiết bị đến nhập khẩu nguyên vật liệu dùng trong sản xuất. Nguyên vật liệu gồm sắt thép xây dựng, ống nước mạ kẽm, nhôm thỏi, thiếc thỏi, cáp điện, cáp thông tin, mực in, nguyên liệu nhà máy bia, hoá chất v.v..
Hàng tiêu dùng: trong thời kỳ bao cấp, nhóm hàng tiêu dùng là một thế mạnh trong lĩnh vực nhập khẩu của công ty. Tuy nhiên thời gian gần đây, tỷ trọng nhập khẩu nhóm hàng này ngày càng giảm do chất lượng hàng tiêu dùng sản xuất trong nước ngày càng cao và chiếm được cảm tình của người tiêu dùng. Dự kiến tỷ trọng nhập khẩu nhóm hàng tiêu dùng sẽ còn tiếp tục giảm trong thời gian tới.
Bạn hàng trong nước của Technoimport
Với uy tín, khả năng cạnh tranh và sự ưu đãi của mình, Technoimport đã thiết lập được nhiều mối quan hệ với các công ty ở nhiều tỉnh, thành, ngành khác nhau trong cả nước như nhà mày xi măng Hoàng Thạch, nhà máy xi măng Hoàng Mai, tổng công ty xây lắp cầu đường, công ty chiếu sáng đô thị, nhà máy bia Hà Nội, nhà máy bia Sài Gòn, nhà máy sản xuất sứ vệ sinh cao cấp v.v.. Ngoài ra, Technoimport cũng thực hiện liên doanh liên kết với các xí nghiệp trong và ngoài nước để sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu vì thế cũng tạo được nhiều mối làm ăn lâu dài vững chắc. Các liên doanh này có thể kể đến như: Liên doanh sản xuất bao PP tại thành phố HCM, liên doanh sản xuất tất xù tại cộng hoà liên bang ga v.v.. Hiện nay, Technoimport đã và đang thực hiện nhiều biện pháp, chính sách nhằm thu hút, lôi kéo khách hàng, cố gắng mở rộng thị phần của doanh nghiệp.
II. Hoạt động kinh doanh của công ty
1. Kết quả hoạt động k._.iến lược marketing của đơn vị mình.
Hoạt động marketing phải được thực hiện đầy đủ các chức năng của nó, đó là: nghiên cứu thị trường, phát hiện nhu cầu, đáp ứng nhu cầu, gợi mở nhu cầu.
Từ đó gắn liền với việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh và thiết lập các chính sách, biện pháp để vượt lên trên họ. Sử dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào việc nghiên cứu thị trường và môi trường kinh doanh của nước ngoài thông qua mạng Internet.
Ngoài ra Technoimport cần phát huy hơn nữa vai trò các văn phòng đại diện của công ty tại nước ngoài trong việc thu thập và cung cấp những thông tin về thị trường, bạn hàng, giá cả, nhu cầu... cho công ty để thông qua đó tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình. Cụ thể từng văn phòng đại diện của Technoimport bên cạnh việc thu thập, nghiên cứu và cung cấp phải thực sự trở thành đơn vị tìm kiếm, thu hút khách hàng cho công ty; đảm bảo quyền lợi của công ty tại nước sở tại, thay mặt công ty tiến hành một hoặc một số hoạt động nghiệp vụ của toàn bộ quá trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Quảng cáo
Nội dung của chiến lược quảng cáo có thể linh hoạt theo từng thời điểm, nội dung chủ yếu của nó là: đẩy mạnh tiếp thị trực tiếp nhằm củng cố lực lượng khách hàng quen thuộc và lôi kéo những khách hàng mới đến với công ty, cạnh tranh với các đối thủ khác bằng cách giảm mức phí ủy thác nhập khẩu.khuyếch trương uy tín của công ty thông qua các hình thức quảng cáo, tham gia các hội thảo, mở các hội nghị khách hàng nhằm thu thập những ý kiến phản hồi từ phía khách hàng để có sự điều chỉnh lại hoạt động của công ty cho phù hợp. Tăng cường công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút khách hàng.
2. Tổ chức đấu thầu một cách có hiệu quả
Từ những vướng mắc về quy trình tổ chức đấu thầu, kiến thức hiểu biết về công nghệ, khả năng của nhà thầu v.v.. đến những vướng mắc trong quản lí hành chính, môi trường pháp lí đã làm cho hiệu quả đấu thầu để chọn thiết bị toàn bộ nhập khẩu của Technoimport vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Do đó việc nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu là một nhiệm vụ tất yếu. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu thầu của công ty Technoimport.
Trong quá trình lập “điều kiện dự thầu” thì cần có sự cân nhắc, bên cạnh những điều kiện nhất định phải đáp ứng thì trong từng trường hợp phải có sự thay đổi để phù hợp với từng công trình và từng thời điểm. Điều này sẽ được quyết định từ phía các đơn vị của công ty và nhất là trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại phải phát huy sở trường và kinh nghiệm của mình, bên cạnh đó cán bộ công nhân viên của từng phòng nghiệp vụ cũng có thể thực hiện, điều đó phụ thuộc vào qui mô giá trị của hợp đồng hoặc sự chỉ đạo của ban giám đốc.
Công ty nên xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu xét thầu chuẩn xác và phù hợp như: chỉ tiêu kỹ thuật, chỉ tiêu giá cả, chỉ tiêu điều kiện thương mại, chỉ tiêu uy tín của nhà cung cấp. Trong chỉ tiêu điều kiện thương mại, ban xét thầu có thể chia thành các chỉ tiêu nhỏ hơn để đánh giá bao gồm: điều kiện thanh toán (thời hạn thanh toán, cơ chế thanh toán), các điều khoản tín dụng, các thu xếp tài chính v.v.. Việc xác định các hệ số quan trọng cho từng chỉ tiêu tùy thuộc vào từng đối tượng và từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, để đánh giá các đơn thầu một cách chi tiết, công ty nên dùng hệ thống thang điểm 200 thay vì 100 nhưng cũng không nên dùng thang điểm quá cao vì như vậy có thể dẫn đến việc biểu hiện xét thầu như là một bài tập máy móc, quá tỉ mỉ và không cần thiết.
Công ty phải xem xét kỹ càng các bộ hồ sơ dự thầu, trong đó có những đề xuất của phía dự thầu về kỹ thuật và phương án tài chính đối với dự án nhập khẩu thiết bị toàn bộ, sau đó cần thảo luận cụ thể với từng nhà thầu để thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật.
Sau khi đánh giá và xem xét kỹ về nhà thầu cũng như những đề xuất từ phía nhà thầu, lúc này công ty mới nên lựa chọn nhà thầu nào cho phù hợp với mình nhất, điều này cũng là để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đàm phán sau này. Nếu nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho các ngành đòi hỏi công nghệ cao như dầu khí, xây dựng, thông tin, viễn thông, điện tử v.v.. thì công ty nên lựa chọn các đối tác ở những nước có nền kỹ thuật công nghệ đã phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Italia, Mỹ. Còn đối với các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ thì nên lựa chọn các đối tác ở những nước có trình độ công nghệ kỹ thuật tiên tiến như các nước NICs.
Đối với bản thân công ty, Technoimport có những chính sách để khuyến khích cán bộ công nhân viên của tổ xét thầu như sau mỗi lần hoàn thành công việc, công ty đều có trích thưởng dành cho đội ngũ này, thường là 12% lãi ròng (lợi nhuận sau thuế ). Ngoài ra, để giải quyết tình trạng thiếu những cán bộ xét thầu kỹ thuật thực sự có chuyên môn, nhất là với các công trình lớn Technoimport cần tăng cường bổ xung về số lượng và chất lượng các cán bộ xét thầu kỹ thuật bằng các biện pháp như bổ túc kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ bằng cách cử họ đi học các lớp ngắn hạn, chuyên tu về nghiệp vụ đấu thầu ( chú trọng về xét thầu kỹ thuật), cập nhật các thông tin về thương mại, công nghệ kỹ thuật của thiết bị toàn bộ cũng như các hãng cung cấp đã và sẽ xuất hiện trên thị trường; tuyển dụng có định kỳ cán bộ mới để bổ xung cho đội ngũ cán bộ hiện thời và thay thế các cán bộ nghỉ hưu; bổ túc trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ nghiệp vụ có khả năng về ngoại ngữ
3. Quá trình kiểm tra đánh giá tính tiên tiến của thiết bị toàn bộ định nhập khẩu
Trong những năm qua, quá trình kiểm tra, đánh giá tính tiên tiến của thiết bị toàn bộ định nhập khẩu không được coi trọng dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu những thiết bị toàn bộ đã lỗi thời khiến cho không những doanh nghiệp bị thiệt thòi mà Việt Nam còn bị lạc hậu so với các nước trên thế giới về trình độ công nghệ và môi trường Việt Nam bị ảnh hưởng do các thiết bị này không xử lý được một cách hoàn hảo các chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Nhận thức được vấn đề này, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Technoimport nói riêng đã sử dụng các tiêu chuẩn của nước ngoài để đánh giá hàng hoá. Tuy nhiên, để đánh giá được chính xác một dây chuyền thiết bị có "tiên tiến " hay không, không phải là một điều đơn giản. Một dây chuyền thiết bị được coi là tiên tiến khi có đủ 3 yếu tố là " hiện đại", " an toàn" và " hiệu quả".
Để giải quyết vấn đề này công ty nên có một hệ thống tiêu chuẩn đối với thiết bị toàn bộ nhập khẩu. Cụ thể như sau:
Tiêu chuẩn đánh giá tính phù hợp của thiết bị toàn bộ:
Dây chuyền thiết bị toàn bộ có tính năng và chất lượng phù hợp với yêu cầu của công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm có số lượng và chất lượng đạt tiêu chuẩn đề ra.
Quá trình hoạt động của dây chuyền thiết bị toàn bộ phải đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo môi trường và an toàn lao động theo qui định của pháp luật.
Các thiết bị trong dây chuyền thiết bị toàn bộ phải bảo đảm khả năng thực hiện các nguyên công và tính đồng bộ trong sơ đồ công nghệ của dây chuyền thiết bị toàn bộ .
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của thiết bị toàn bộ: xuất xứ của thiết bị toàn bộ (nước sản xuất); Năm chế tạo của thiết bị toàn bộ; Các đặc tính tính năng kỹ thuật (công suất thiết bị, số vòng quay, sản lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian,...); Các yêu cầu của thiết bị toàn bộ đối với nguyên nhiên liệu; Tiêu hao nguyên liệu, năng lượng của thiết bị toàn bộ đối với một sản phẩm; Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm do thiết bị toàn bộ sản xuất ra; Đánh giá mức độ tự động hóa, cơ khí hóa, mức độ sử dụng nhân lực của dây chuyền thiết bị toàn bộ.
Tiêu chuẩn đánh giá đối với thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng: ngoài những đặc tính chung của thiết bị toàn bộ như nêu ở trên, riêng đối với những thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng phải xem xét thêm:
Các chỉ tiêu chất lượng, đặc tính kỹ thuật hiện tại của thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng so với thiết bị toàn bộ mới cùng loại.
Số giờ thiết bị toàn bộ đã hoạt động, điều kiện làm việc của thiết bị toàn bộ .
Số lần thiết bị toàn bộ đã được sửa chữa, đại tu. Các bộ phận đã được thay thế mới hoặc đảm bảo chất lượng như mới.
Các điều kiện bảo đảm bảo hành đối với thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng.
Giá của thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng so với thiết bị toàn bộ mới.
4. Nâng cao công tác đàm phán và kí kết hợp đồng
Đàm phán: gồm có chuẩn bị đàm phán và thực hiện quá trình đàm phán.
- Chuẩn bị đàm phán: trước khi đàm phán công ty nên chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đàm phán như chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu, chuẩn bị dữ liệu thông tin, chuẩn bị nhân sự đàm phán, lựa chọn thời điểm và địa điểm đàm phán, chuẩn bị chương trình đàm phán
+ Chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu: xác định chi tiết đầy đủ các nội dung cần đàm phán, trong mỗi nội dung cần xác định các phương án đàm phán, xếp thứ bậc ưu tiên của các phương án và các nội dung. Xác định các mục tiêu cần đạt được, những mục tiêu nào cần ưu tiên tối đa các nỗ lực để thương lượng, phần nào thì cần có những sự nhượng bộ cần thực hiện nếu có yêu cầu để đạt được sự thoả hiệp, những phần không thể nhượng bộ, vì nếu nhượng bộ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phương án kinh doanh đã xác lập. Kinh nghiệm cho thấy là muốn đàm phán thắng lợi thì không bao giờ bắt đầu đàm phán mà không có các phương án lựa chọn. Công ty phải lựa chọn sẵn các phương án lựa chọn khác nhau để khi bước vào đàm phán luôn luôn chủ động. Đối phương khi thấy công ty đẵ có sự chuẩn bị kỹ các phương án như vậy thì sẽ dễ phải chấp nhận một trong các phương án công ty đưa ra, khi đó công ty sẽ đạt được mục tiêu của mình.
+ Chuẩn bị số liệu thông tin: các số liệu thông tin cần chuẩn bị gồm thông tin về hàng hoá về thị trường và thông tin về đối tác
+ Chuẩn bị nhân sự đàm phán: thành phần tham gia đàm phán phải là những người có kinh nghiệm về đàm phán và có đầy đủ những kinh nghiệm về kỹ thuật, thương mại, pháp luật. Ngoài ra họ cũng phải có một số đặc tính cá nhân nổi trội về khả năng giao tiếp, có tinh thần sáng tạo và đầu óc phân tích, tổng hợp, quyết đoán và phản ứng linh hoạt trước các tình huống, có khả năng chịu đựng sự căng thẳng và đối mặt với những hoàn cảnh rắc rối, các đòi hỏi không dự đoán được. Về phần công ty thì không nên có những sức ép không cần thiết với những người tham gia đàm phán trước khi bước vào các cuộc đàm phán.
- Thực hiện đàm phán.: trong quá trình đàm phán, đối với những vấn đề còn đang bàn cãi, công ty nên có sách lược tháo dỡ dần, không nên vội vàng vì nếu không sẽ không nắm được toàn bộ vấn đề, không đủ thời gian suy nghĩ thấu đáo, có thể dẫn đến những thỏa thuận không khai thác được hết lợi thế. Tuy nhiên, người đàm phán cũng không nên có thái độ quá cứng rắn, cố chấp bảo vệ những lợi ích đẵ tính toán từ trước mà nên có những nhượng bộ nhất định.
Kí kết hợp đồng: trong phần này, tôi chỉ đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác soạn thảo hợp đồng như
+ Khi sử dụng từ ngữ, nên chọn những từ dễ hiểu tránh những từ ngữ mập mờ khó hiểu hoặc có thể hiểu theo 2 nghĩa. Nếu trong hợp đồng có thuật ngữ khoa học thì cần phải được giải thích ở phần phụ lục
+ Khi sử dụng Incoterms phải ghi rõ trong hợp đồng mua bán sự dẫn chiếu đến phiên bản nào của Incoterms để tránh sự nhầm lẫn và những khó khăn trong việc áp dụng Incoterms
Ví dụ: theo Incoterms 2000
Phải ghi chính xác kí hiệu như trong Incoterms tránh sử dụng những kí hiệu đã lỗi thời.
Ví dụ: những kí hiệu CF, C+F, C and F, CNF đã được thay đổi trong Incoterms 1990 và Incoterm 2000 là CFR
5. Để công tác hải quan có thể được thực hiện tốt
Công ty nên chọn những cán bộ am hiểu các văn bản pháp lý về thuế, các văn bản của tổng cục hải quan đi làm công tác này, đồng thời phải yêu cầu cán bộ chịu trách nhiệm về sự chính xác của tờ khai hải quan. Hiện nay, ở mỗi phòng nghiệp vụ của công ty đều có một cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm riêng về việc làm thủ tục hải quan
Ngoài ra, do thiết bị toàn bộ là mặt hàng siêu trường, siêu trọng, Technoimport nên tiến hành khai báo hải quan trước khi tàu chở hàng đến. Việc khai báo hải quan phải được tiến hành thật chính xác. Yêu cầu hải quan kiểm hoá tại chân công trình. Sau khi hoàn thành thủ tục kiểm tra hàng hóa và tính thuế cán bộ kinh doanh cần sao một tờ khai hải quan cho phòng kế hoạch tài chính giữ để phòng kế hoạch tài phối hợp và theo dõi kịp thời việc nộp thuế và thanh toán các khoản với Hải quan.
6. Nâng cao công tác giao nhận, vận chuyển
Có kế hoạch giao nhận, vận chuyển từ trước, dựa trên hợp đồng ủy thác cũng như đơn hàng của bạn hàng (qua hợp đồng ủy thác hoặc đơn hàng để biết được trách nhiệm trong giao nhận, vận chuyển của công ty đến đâu). Từ đó công ty thiết lập kế hoạch giao nhận, vận chuyển tối ưu để tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian và cắt giảm những khoản trung gian không cần thiết.
Hoàn thiện bộ phận giao nhận vận tải của công ty ở chi nhánh Technoimport Hải Phòng để vận chuyển một khối lượng lớn máy móc , thiết bị và hàng hoá từ cảng lớn đến tận chân công trình
7. Hoàn thiện công tác thanh toán
Technoimport cần tổ chức theo dõi chặt chẽ việc thanh toán, nắm vững thời hạn thanh toán cũng như tiến độ thanh toán của khách hàng trong nước đồng thời phải tích cực đôn đốc khách hàng trong nước thanh toán đúng hạn. thời hạn nộp thuế và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tránh để bị phạt do chậm thanh toán dẫn đến phát sinh thêm chi phí ( trong hoạt động nhập khẩu) và để bạn hàng dây dưa nợ nần, chiếm dụng vốn.
- Về phương thức thanh toán ngoại, công ty nên có một số thay đổi trong các điều kiện của phương thức thanh toán bằng L/C. Chẳng hạn như khi sử dụng hình thức đặt cọc có giá trị lớn, công ty có thể yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho số tiền đặt cọc đó để trách những rủi ro có thể gặp phải trong kinh doanh.
- Để tránh những khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng nội địa, Technoimport nên:
+ Nắm vững các thông tin về khả năng tài chính, nguồn vốn nhập khẩu của người uỷ thác, người mua hàng trước khi ký kết hợp đồng.
+ Chỉ nên duy trì một tỷ lệ % nhất định số khách hàng có khả năng thanh toán thấp để đảm bảo không quá giới hạn cho phép của tỷ trọng tổng các khoản phải thu có khả năng thanh toán thấp trong tổng số các khoản phải thu của công ty.
+ Tiến hành một số biện pháp nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho công ty như:
Yêu cầu người uỷ thác nhập khẩu phải có giấy bảo lãnh thanh toán của cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng, Bộ và Ngành chủ quản của người uỷ thác, Chính Phủ....)
Lập một bản giao kèo giữa Technoimport với người uỷ thác, trong đó quy định các quyền lợi mà Technoimport được hưởng khi người uỷ thác không có khả năng thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn.
Muốn làm được điều này, công ty cần lựa chọn và đánh giá khách hàng. Chỉ chấp nhận các khách hàng có khả năng thanh toán. Tuy nhiên điều này sẽ làm giảm tính cạnh tranh của công ty. Vì thế bên cạnh đó Technoimport phải áp dụng các chính sách ưu đãi khác để lôi kéo khách hàng như: Cấp tín dụng trả chậm với lãi suất thấp, mức phí dịch vụ uỷ thác hợp lý, tăng % giá trị hợp đồng mà người uỷ thác được phép giữ lại trong thời gian lắp đặt, bảo hàn v.v..
8. Giám sát việc thực hiện hợp đồng của phía đối tác
Để thực hiện việc giám sát, công ty có thể thiết lập một hệ thống nhắc nhở đối tác thực hiện nghĩa vụ của mình tại từng thời điểm thích hợp để tránh xảy ra chuyện họ quên hay thực hiện không tốt công việc đó. Qua đó cũng nắm được đối tác có thực hiện hợp đồng theo đúng thời gian biểu của hợp đồng hay không. Công ty nên sử dụng mọi biện pháp liên lạc hay phương tiện liên lạc như thư tín, điện thoại, fax, email v.v.. để gửi và nhận những thông tin liên quan đến công việc.
Ngoài ra, cũng cần thiết lập một hệ thống giám sát để giám sát các hoạt động như vận tải, bảo hiểm, thanh toán v.v.. Muốn giám sát chặt chẽ, công ty nên vạch kế hoạch rõ ràng và ghi chép lại những nội dung và kết quả nắm bắt được để sau này có cơ sở khiếu nại người bán, người vận tải hay người bảo hiểm nếu họ vi phạm hợp đồng đã kí kết với công ty. Nếu có điều kiện công ty nên cử người giám sát hợp đồng tại nước người bán (thông qua văn phòng đại diện của công ty ở nước đó) còn nếu không có thể yêu cầu người bán cung cấp thông tin chính xác bằng fax, điện thoại để công ty theo dõi các nội dung có liên quan đến hợp đồng.
III. Một số kiến nghị
1. Về phía công ty
Công tác tổ chức quản lý
Hiện nay, công tác tổ chức quản lý của công ty là quản lý trực tiếp, mọi hoạt động đều nằm dưới sự chỉ đạo của Ban giám đốc. Các phòng chức năng phụ trách từng khu vực và quản lý theo sự phân công lãnh đạo của công ty. Bộ máy hoạt động của công ty như thế là tương đối hợp lý. Tuy nhiên cũng nên có một vài thay đổi để thích ứng với điều kiện hiện nay. Cụ thể là:
Công ty nên thành lập phòng Marketing có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường để trợ giúp Ban giám đốc trong chiến lược Marketing. Công ty cần chấn chỉnh lại công tác kế hoạch tài chính cụ thể là vi tính hoá toàn bộ công tác , thiết lập chế độ báo cáo cân đối thu chi hàng ngày, theo dõi và cập nhật tình hình công nợ, mở sổ sách theo dõi cân đối thu chi từng hợp đồng, tổng hợp của đơn vị Xuất Nhập Khẩu , toàn công ty
Một vấn đề nữa là công ty cần có biện pháp giảm đến mức thấp nhất sự cạnh tranh giữa các đơn vị kinh doanh trong công ty nhưng vẫn đảm bảo thỏa đáng về lợi ích tài chính của công ty. Công ty có thể sát nhập một số phòng xuất nhập khẩu có chức năng kinh doanh tương đối giống nhau để tinh giảm bộ máy, tạo điều kiện cho việc quản lý hiệu quả hơn.
Về vấn đề quản lý đội ngũ cán bộ, công ty nên có những quy định tăng cường ý thức trách nhiệm của các cán bộ trong khi làm việc, đặc biệt là khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như:
+ Đẩy mạnh công tác tìm kiếm việc làm, tiến tới xây dựng quy chế cụ thể và chế độ đãi ngộ đối với những người tìm ra hoặc giới thiệu việc làm có hiệu quả
+ Xây dựng tiêu chuẩn viên chức chuyên môn nghiệp vụ của công ty để phục vụ cho việc nâng bậc ngạch lương. Sửa đổi, bổ xung thoả ước lao động tập thể và rà soát ký lại một số hợp đồng lao động cho phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành và thực tế công việc của công ty nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật cũng như điều hành
+ Sửa đổi, bổ xung quy chế trả lương, lên lương dựa trên cơ sở đãi ngộ tương xứng với hiệu quả kinh doanh chung của công ty và hiệu quả kinh doanh, trách nhiệm công tác của từng đơn vị, cán bộ, công nhân viên, kiên quyết không bao cấp, xác định tỷ lệ hợp lý giữa các đơn vị trực tiếp làm ra lợi nhuận và các đơn vị tham mưu quản lý, phục vụ
+ Sửa đổi phương thức giao kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm mục đích gắn liền thu nhập của đơn vị, cá nhân, cán bộ công nhân viên với hiệu quả sản xuất kinh doanh, điều tiết phần thu nhập vượt trội theo tỷ lệ thích đáng nhằm khuyến khích kinh doanh có hiệu quả
Trong quá trình tổ chức quản lý, lãnh đạo công ty cũng nên đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân để sắp xếp công việc cho phù hợp, không nên để tình trạng những người biết thì không được làm, những người không biết lại cứ phải làm.
Đối với công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
Công ty nên tổ chức cho đội ngũ cán bộ hiện nay ở công ty trau dồi thêm các kiến thức về kỹ thuật, nghiệp vụ ngoại thương, pháp lý và đặc biệt là ngoại ngữ bằng cách cấp kinh phí, tạo điều kiện về mặt thời gian cho các cán bộ đi học. Công ty cần quan tâm nhiều hơn nữa tới việc cử các cán bộ, chuyên gia đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Làm được như thế không những công ty có được những cán bộ chuyên môn có năng lực để phục vụ cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà còn thể hiện được sự quan tâm của công ty với tập thể lao động, có thể tạo được tinh thần làm việc tốt cho từng cá nhân và tạo được bầu không khí làm việc tốt cho cả tập thể lao động trong công ty.
Công ty nên có chính sách tuyển dụng lao động mới. Đối tượng của chính sách này có thể là những sinh viên tốt nghiệp đại học kinh tế hoặc kỹ thuật mới ra trường năng động nhạy bén và có nguyện vọng gắn bó lâu dài với công ty; cũng có thể là những cán bộ trẻ đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu muốn về làm việc với công ty v.v.. Những đối tượng này trong tương lai có thể là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay.
Ngoài ra, sau khi tuyển được cán bộ công nhân viên mới cần phải mở những lớp đào tạo tại công ty với mục đích đào tạo những người này để họ có thể thấm nhuần quan điểm nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty đó là:
+ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ tiên tiến, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.
+ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa trên thị trường trong và ngoài nước. Ưu tiên nhập khẩu công nghệ, thiết bị toàn bộ sử dụng nhiều lao động.
+ Nhập khẩu đảm bảo tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn.
Công tác quản lí vốn
Như đã nói ở chương trước, vốn đang là vấn đề nan giải đối với công ty.Việc tăng thêm nguồn vốn dựa vào việc cấp thêm của ngân sách Nhà nước thực sự không khả thi đối với công ty. Thực tế trong vài năm gần đây, nguồn vốn được cấp bởi ngân sách nhà nước là không thay đổi. Để khắc phục những vấn đề khó khăn về vốn hiện nay chỉ có con đường là huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn.
Công ty có thể huy động vốn cho kinh doanh bằng nhiều hình thức như: ưu tiên trích lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh; tranh thủ những nguồn vốn tín dụng ưu đãi của ngân hàng, các tổ chức tài chính trên thế giới. Công ty nên lựa chọn những đối tác trường vốn, có phương hướng kinh doanh có hiệu quả để cùng tham gia liên doanh liên kết. Ngoài ra, công ty cần đẩy mạnh xuất khẩu để tăng lượng vốn cho nhập khẩu
Bên cạnh việc tích cực huy động vốn, công ty cần có những biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, cụ thể là:
Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, chế độ hạch toán kinh doanh do Nhà nước quy định
Tính toán chi tiết khả năng lỗ, lãi, thời gian thu hồi vốn cho mỗi kế hoạch kinh doanh.
Từ đó, xây dựng phương án kinh doanh hợp lí
Lập kế hoạch phân bổ vốn, tạo ra các định mức theo từng quí cho các đơn vị kinh doanh dựa trên kế hoạch kinh doanh do các đơn vị kinh doanh lập ra
Rút ngắn hợp lý quá trình thực hiện hợp đồng để tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi an toàn, tránh tình trạng ứ đọng vốn, công nợ dây dưa.
Công ty cần thống nhất ban hành quy chế quản lý nợ, quy định trách nhiệm cá nhân, đơn vị có nợ quá hạn ,thành lập ban thu hồi công nợ
2. Về phía nhà nước
Có thể nói khi thực hiện nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thì những vướng mắc mà Technoimport gặp phải phần nhiều là từ phía Nhà nước. Những quy định chồng chéo, những thủ tục phiền hà gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của công ty, xin có một số ý kiến đối với Nhà nước về các chính sách, những quy định trong lĩnh vực nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Đối với chính sách thuế
Chính sách thuế xuất nhập khẩu của nhà nước cần nhất quán đối với mọi tổ chức kinh doanh không có những ưu tiên riêng biệt tạo nên sức cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.Thuế xuất nhập khẩu hợp lý một mặt tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu mặt khác giảm giá đối với hàng nhập khẩu để người tiêu dùng trong nước có thể lựa chọn mua hàng hóa.
Hiện nay, hệ thống thuế của nước ta còn quá phức tạp, với nhiều mức thuế khác nhau, thuế suất thì dàn trải. Giá tối thiểu tính thuế nhập khẩu thường chậm thay đổi so với thực tế gây thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nên chăng nhà nước cần nghiên cứu dỡ bỏ biểu thuế tối thiểu, cải cách cơ cấu thuế theo hướng mức thuế suất ít hơn nằm trong số lượng nhóm hàng cụ thể.
Đối với thủ tục hải quan
Các văn bản pháp quy của các cơ quan nhà nước liên quan đến ngành Hải quan phải có hiệu lực ngay sau khi ban hành chứ không phải đợi văn bản hướng dẫn của cấp trên. Hệ thống mạng thông tin của hải quan cần phải được cập nhật thường xuyên và nhanh chóng. Hải quan cần cải tiến tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu theo hướng tạo điều kiện thuận tiện cho việc khai báo và kiểm tra tính chính xác của việc khai báo của công ty.
Đối với chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại tệ
Chính sách tỷ giá hối đoái:
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định tỷ giá hối đoái. Nhà nước không nên áp đặt một tỷ giá cố định mà tỷ giá phải được điều tiết theo quan hệ cung cầu của thị trường dựa trên quy luật giá trị. Nếu tỷ giá có biến động lớn thì nên dùng các biện pháp can thiệp để giữ tỷ giá ổn định ở mức hợp lí. Hiện nay nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực về tỷ giá hối đoái như: công bố tỷ giá trên phương tiện thông tin đại chúng, hỗ trợ cho các ngân hàng kinh doanh ngoại tệ, giữ cho tỷ giá hối đoái của một số ngoại tệ mạnh ( USD, DEM v.v..) ổn định.
Chính sách quản lý ngoại tệ.
Nhà nước cần có sự quản lý ngoại tệ để đảm bảo có được đầu vào bằng việc nhập khẩu ( thiết bị toàn bộ, máy móc, nguyên vật liệu v.v.. ). Nhà nước nên xem xét lại và điều chỉnh nguyên tắc cơ chế phân bổ ngoại tệ ở các doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Nhà nước phải ưu tiên phân bổ vốn ngoại tệ thuộc các dự án lớn tốn nhiều ngoại tệ sang các việc cổ vũ, khuyến khích các mối liên kết trong nội bộ các ngành công nghiệp và cải tiến hoạt động của các doanh nghiệp theo tiêu chuẩn kinh tế.
Về việc quản lý của nhà nước trong hoạt động đấu thầu
Điều chỉnh bất hợp lý về số lượng nhà thầu tối thiểu trong qui chế đấu thầu mới ban hành để tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc lựa chọn các nhà thầu có khả năng đáp ứng tối ưu các yêu cầu của công ty.
Mở rộng đối tượng được phép áp dụng hợp đồng có điều chỉnh giá.
Thực hiện các biện pháp nhằm làm cho công tác mua sắm, đấu thầu được hiệu quả và minh bạch hơn bao gồm:
+ Ban hành pháp lệnh đấu thầu nhằm đảm bảo việc đấu thầu có tính cạnh tranh, áp dụng việc công bố bắt buộc các thông báo mời thầu trên một bản tin thầu quốc gia, sử dụng bắt buộc các tài liệu đấu thầu chuẩn, đánh giá thầu chuẩn và các hợp đồng chuẩn, xác định các hình thức vi phạm qui định và các biện pháp xử lý tương ứng.
+ Giảm các ngưỡng giá trị gói thầu được phép chỉ định thầu tự động không cần giải trình xuống những mức giá trị thường được sử dụng ở các nước khác
+ Thành lập một văn phòng quản lý mua sắm công độc lập, báo cáo trực tiếp lên cấp chính phủ cao nhất, và một hệ thống rõ ràng và tin cậy đối với khiếu nại, xử phạt trong công tác thầu
+ Xây dựng một đội ngũ chuyên gia đấu thầu thông qua đào tạo, gắn việc đào tạo và phương pháp xét thầu bằng cách cho điểm với quá trình cải cách hành chính công và qui định đấu thầu như một ngành nghề chuyên môn
+ Tách các doanh nghiệp nhà nước và các viện nghiên cứu khỏi sự quản lý trực tiếp của các bộ và các uỷ ban nhân dân như là một phần của cuộc cải cách hành chính tổng thể. Làm cho các doanh nghiệp nhà nước và các viện hoàn toàn độc lập bằng cách tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sở hữu. Từ đó thúc đẩy chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường, mở một cách công bằng và bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp khác.
Một số kiến nghị khác với chính phủ
Quản lý chặt chẽ trong việc quyết định tổng mức vốn đầu tư cho công trình, cùng với việc tiến hành giải ngân kịp thời cho các chủ đầu tư uỷ thác cho Technoimport trong việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ tránh thất thoát và thiệt hại cho công ty trong việc chậm thanh toán đối với một số công trình như hiện nay.
Ngoài ra, chính phủ cần tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lí nhà nước, áp dụng tin học vào quản lí nhằm tăng tốc độ giải quyết công việc.
Hoàn thiện và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Các văn bản pháp quy có liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ phải được sửa chữa theo hướng chính xác, không chồng chéo và rườm rà gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của công ty.
.
Kết luận
Qua 45 năm lao động và sáng tạo, công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật đã khẳng định được vị trí, uy tín và tầm vóc của mình trong hoạt động xuất nhập khẩu góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Những thành quả từ hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Technoimport thực sự là thành công của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty và một lần nữa cho ta thấy thế mạnh của Technoimport ở thị trường trong nước cũng như ngoài nước.
Tuy nhiên cũng giống như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung ở Việt Nam, Technoimport vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần khắc phục trong việc thực hiện qui trình nhập khẩu.
Muốn khắc phục được những tồn tại, vướng mắc này, công ty cần phải nghiên cứu, xem xét lại chặng đường đã qua, đánh giá những tồn tại, nguyên nhân và những thành tựu đã đạt được, kết hợp với việc đúc rút kinh nghiệm để rút ra giải pháp hữu hiệu nhất. Công ty cần chú trọng đến yếu tố " con người " vì đây chính là yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Với mong muốn đóng góp ý kiến của mình nhằm hoàn thiện hơn qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport, em đã viết bài luận văn này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Tiến Sỹ Nguyễn Quốc Thịnh và tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty đặc biệt là các cô chú, anh chị phòng xuất nhập khẩu 5 đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp của mình.
Hà Nội ngày tháng năm
Sinh viên
Lê Trung Kiên
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình kỹ thuật thương mại Quốc tế
Trường Đại Học Thương Mại - TS Chủ biên Đào Thị Bích Hòa
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động kinh doanh XNK
Nhà xuất bản lao động xã hội 2002
Marketing thương mại quốc tế
Trường Đại Học Thương Mại - Chủ biên PGS - TS Nguyễn Bách Khoa
Kinh doanh quốc tế
PGS. TS Phạm Vũ Luận - Hoàng Kình
100 phán quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VCCI) xuất bản năm 2002
Incoterms 2000 và hướng dẫn sử dụng Incoterms 2000
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Báo cáo của Technoimport các năm 2000, 2001, 2002
Tài liệu đấu thầu dự án thoát nước của Technoimport
Báo chí, tạp chí thương mại, ngoại thương, hải quan các năm 2002 - 2003
Thông tin trên mạng Internet
Muc lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0475.doc