Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội từ các Doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn

Lời mở đầu Sự cần thiết nghiên cứu đề tài. Từ khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì bộ mặt nước ta đã có nhiều thay đổi. Từ một nước nhập siêu trên tất cả các lĩnh vực thì nay đã có nhiều lĩnh vực có mặt hàng xuất khẩu. Đời sống nhân dân ngày càng ấm no, sản xuất ngày càng phát triển. Đảng và Nhà nước luôn đặt mục tiêu xã hội công bằng dân chủ văn minh. Chính vì vậy, bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách được quan tâm hàng đầu. Bảo hiểm xã

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội từ các Doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội thể hiện sự quan tâm của nhà nước tới người lao động, đảm bảo cho người lao động yên tâm hơn trong quá trình lao động sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế thì chỉ có những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, công nhân viên chức nhà nước mới được tham gia BHXH một cách đầy đủ. Còn phần lớn người lao động làm việc ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì không được chủ doanh nghiệp đóng BHXH, hoặc bằng cách này, cách khác vi phạm quyền lợi của người lao động. Giống như tình hình chung trong cả nước, BHXH huyện Sóc Sơn cũng gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn”. Mục đích nghiên cứu của đề tài: - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người lao động. - Phân tích đánh giá để thấy được quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu ổn định cuộc sống cho người lao động. - Đề suất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trong thời gian tới. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu chủ yếu về quyền lợi BHXH của người lao động, trách nhiệm tham gia BHXH của chủ doanh nghiệp và vai trò của cơ quan BHXH, cán bộ thu bảo hiểm với người lao động. Phạm vi nghiên cứu: - Thực trạng thu BHXH các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn. - Nghiệp vụ quản lý thu BHXH. Phương pháp nghiên cứu: - Thu thập dữ liệu thứ cấp về quản lý, quản lý thu BHXH, các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH. - Phương pháp phân tích thống kê số liệu. - Phương pháp so sánh, tổng kết thực tiễn trên cơ sở các báo cáo tổng kết của BHXH huyện Sóc Sơn từ năm 2000-2004. Nội dung nghiên cứu: Nội dung được thể hiện trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Chương 2: Thực trạng quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn. Chương 3: Hoàn thiện một số giải pháp quản lý nhằm tăng thu BHXH các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ quản lý thu BHXH huyện Sóc Sơn và đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Huyền. Em xin chân thành cảm ơn. Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thu Bảo hiểm xã hội từ các doanh nghiệp ngoài nhà nước I. Bảo hiểm xã hội Việt Nam 1. Bảo hiểm xã hội và chức năng của Bảo hiểm xã hội 1.1. Khái niệm BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động hay gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội. “Nguồn: Bảo hiểm xã hội-Những điều cần biết” Đặc trưng của BHXH: - Trong và sau quá trình lao động người lao động được bảo hiểm: Người lao động trong quá trình làm việc bên cạnh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội thì sẽ được hưởng các chế độ BHXH như khi ốm đau, tai nạn bất ngờ…Còn khi về già sẽ được hưởng lương hưu. - Các rủi ro của người lao động như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất sức lao động, già yếu, chết…Do những rủi ro này mà người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập. Họ cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng rất cơ bản của BHXH. - Người lao động được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thì phải có nghĩa vụ đóng BHXH. Người chủ sử dụng lao động phải có nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Người lao động đóng 5% thu nhập hàng tháng của mình, người sử dụng lao động phải đóng 15% tổng quỹ tiền lương. - Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ BHXH cũng do luật định, nhà nước bảo hộ các hoạt động của BHXH. 1.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội. Thực chất của BHXH là sự đền bù hậu quả của những rủi ro xã hội. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khác khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết. Vì vậy, thực chất của BHXH là thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của minh cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một khoản kinh phí đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. BHXH thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen vào nhau. Dưới góc độ kinh tế, bản chất của BHXH chính là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Dưới góc độ chính trị, bản chất của BHXH là sự liên kết của những người lao động, xuất phát từ lợi ích chung của họ. Dưới góc độ xã hội, bản chất của BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, ổn định trật tự xã hội. 1.3. Chức năng cơ bản của BHXH - Chức năng đảm bảo: Bảo hiểm xã hội đảm bảo thay thế hay bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hay mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. - Chức năng phân phối: Bảo hiểm xã hội thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập. - Chức năng kích thích: Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất. Để có thể tồn tại con người phải lao động, để có thể lao động con người cần có sức khỏe và một năng lực nhất định. Tuy nhiên trong cuộc sống không phải ai cũng có đủ điều kiện về sức khẻo, không phải ai cũng có thể hoàn thành công việc hoặc tạo ra cho mình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Không phải ai cũng có thể tránh khỏi những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, già yếu…do những ảnh hưởng của tự nhiên, của điều kiện sống và các nhân tố khác. Khi không may rơi vào một trong những trường hợp đó, các nhu cầu cơ bản không những không mất đi mà còn xuất hiện thêm nhiều chi phí mới. Muốn tồn tại con người phải tìm cách để giải quyết. Để khắc phục những khó khăn cho bản thân, con người phải không ngừng nỗ lực, đồng thời cần phải được sự giúp đỡ của cộng đồng, của cơ quan, của các tổ chức khác. Sự giúp đỡ này phải bằng những nguồn vật chất cần thiết nhằm nhanh chóng phục hồi sức khỏe, duy trì sức lao động và góp phần làm giảm bớt những khó khăn về kinh tế cho gia đình người lao động. Người lao động muốn mình được tham gia BHXH, người chủ sử dụng lao động vì mục tiêu lợi nhuận nên muốn hạ thấp chi phí xuống, chính vì vậy họ không muốn tham gia BHXH cho người lao động. Nếu để tình trạng này kéo dài thì sẽ thiệt thòi lớn cho người lao động. Do đó, Nhà nước phải trực tiếp quản lý BHXH bằng các chính sách và pháp luật. Đối với nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từng thời kỳ với tình hình thực tiễn của Nhà nước ta đã đề ra từng chiến lược kinh tế - xã hội cụ thể. Đồng thời, thể hiện rõ quan điểm về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Trong sự thống nhất hài hòa đó, Nhà nước ta cũng xác định rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội: “nhằm phát huy mọi khả năng của con người và lấy con người làm đích cao nhất của mọi hoạt động”. Đây chính là xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về “con người là vốn quý nhất”. Từ đó chính sách xã hội phải là một tổng thể những biện pháp và phương tiện của Nhà nước nhằm không ngừng nâng cao điều kiện sống, lao động và luôn tạo sự an toàn trong cuộc sống của nhân dân. Với việc xác định nêu trên, BHXH là một nội dung quan trọng của chính sách xã hội. Nó được Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện trong suốt quá trình xây dựng công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thực tiễn đã chứng minh chính sách BHXH đã được thực hiện ở nước ta vào loại sớm nhất khu vực. Bằng sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 của chính phủ ấn định những chế độ BHXH đối với công nhân và từ đó cơ chế BHXH dần được bổ xung, cải cách và hoàn thiện phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Chỉ thị 15/CT-TW của bộ chính trị đã ghi: “BHXH là chính sách lớn của nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Từ đó Nhà nước ta cũng phải tăng cường vai trò lãnh đạo BHXH một cách toàn diện. Trong đó hoàn tất một số nhiệm vụ: Hoàn thiện một số nội dung trong chính sách BHXH cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội đang trên đà phát triển. Bổ xung, xửa đổi một số nhiệm vụ, quyền hạn hiện hành đối với hệ thống BHXH Việt Nam, ban hành luật BHXH để đảm bảo cho bất cứ người lao động ở bất cứ ngành nghề nào cũng đều có nghĩa vụ tham gia và hưởng mọi quyền lợi về BHXH. 2. Đối tượng của BHXH 2.1. Đối tượng của BHXH Theo quy định của bộ luật lao động, BHXH Việt Nam bao gồm các đối tượng sau: - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước có thời hạn ký hợp đồng làm việc từ 3 tháng trở lên. - Người lao động Việt Nam lamà việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể. - Người lao động làm việc trong doanh nghiệp, các tổ chức thuộc lực lượng vũ trang. - Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể từ trung ương dến cấp huyện. - Công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. - Và các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện khác. 2.2. Các mối quan hệ bên trong của BHXH BHXH dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: - Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động, nhà nước. + Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình. + Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Khi tham gia BHXH người sử dụng lao động còn vì lợi ích của chính bản thân họ, để đảm bảo cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát sinh nhu cầu BHXH. + Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, nhà nước còn định ra những chế độ chính sách định hướng cho các hoạt động BHXH. - Bên BHXH, đó là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH thường là một tổ chức do nhà nước lập ra, nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động lập nên quỹ BHXH. BHXH có trách nhiệm chi tả BHXH khi phát sinh nhu cầu BHXH. - Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi phát sinh nhu cầu BHXH theo quy định của pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, bên tham gia bảo hiểm có thể đồng thời được BHXH. 3. Các chế độ BHXH ở Việt Nam 3.1. Các chế độ BHXH trên thế giới Theo công ước 102 tháng 6/1952 tại Giơnevơ, hiện tại trên thế giới có sử dụng 9 chế độ BHXH: - Trợ cấp hưu trí. - Trợ cấp ốm đau. - Trợ cấp thất nghiệp. - Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Chăm sóc y tế. - Trợ cấp gia đình. - Trợ cấp thai sản. - Trợ cấp khi tàn phế. - Trợ cấp cho người còn sống. Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo tình hình mà mỗi nước thực hiện các chế độ khác nhau. Nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ là: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống. 3.2. Các chế độ BHXH ở Việt Nam Căn cứ vào quy định của công ước quốc tế, BHXH Việt Nam thực hiện 6 chế độ BHXH là: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất, chi phí khám chữa bệnh. - Một là: Chi phí khám chữa bệnh, năm 2002 BHYT sát nhập BHXH làm xuất hiện thêm chế độ này. Khi người lao động đi khám chữa bệnh ở các bệnh viện thì BHXH sẽ chịu trách nhiệm chi trả mọi chi phí. Chi phí khám chữa bệnh sẽ nằm ngoài trợ cấp ốm đau, thay cho phần bảo hiểm y tế. -Hai là: Chế độ trợ cấp ốm đau, BHXH sẽ chi trả khi người lao động bị mất thu nhập do bị ốm hoặc tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp đã được giám định. + Theo tiêu chuẩn của ILO quy định thì tỷ lệ hưởng trợ cấp là 45% (1952), 60% (1969). + Thời gian hưởng chế độ: thời gian chờ đợi tối đa là 3 ngày đối với mỗi thời kỳ bị ốm. Thời gian chi trả tối thiểu phải là 26 tuần hoặc 13 tuần nếu có ngoại lệ. + Thời gian định lượng: thường được sử dụng để chứng tỏ thời gian gần đây đi làm có đóng BHXH. Thời gian đó là 4 tháng đóng BHXH trong 6 tháng đi làm gần đây nhất. + Ngừng hưởng bảo hiểm: bị ngừng BHXH khi cố tình lừa dối, hoặc không tuân thủ lời khuyên y tế, hoặc bị giữ trong các cơ sở công cộng hay nhà tù. + Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, gặp phải một số khó khăn như: không quy định thời gian dự bị trước khi hưởng BHXH, thời gian hưởng tối đa chưa rõ, cần bổ xung một số bệnh mới… - Ba là: Chế độ trợ cấp thai sản, BHXH sẽ chi trả khi người phụ nữ bị mất thu nhập do không làm việc vì sinh con. BHXH sẽ chi trả: + Chi phí chăm sóc y tế trước khi sinh, trước khi sinh và sau khi sịnh. + Nghỉ phép hưởng lương trong thời gian tối thiểu là 12 tuần, trong đó ít nhất 6 tuần là thời gian nghỉ trước khi sinh. Lương được hưởng trong thời kỳ này không dưới 66%, tức 2/3 so với mức lương trước khi nghỉ. Chế độ thai sản phụ thuộc chặt chẽ vào thời gian tham gia bảo hiểm, thời gian đó là khoảng hơn 12 tháng tham gia đóng bảo hiểm, sau đó mới bắt đầu hưởng chế độ. Tuy nhiên chế độ này còn có một số điểm cần khắc phục: còn đan xen giữa chính sách BHXH với chính sách dân số, thời gian dự bị trước khi hưởng cũng chưa có… - Bốn là: Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, “Tai nạn lao động” gồm những tai nạn và bệnh nghề nghiệp gồm việc mất sức lao động trong một thời gian ngắn, tàn tật và các chế độ tử tuất. + Bệnh nghề nghiệp có thể đợc xác định như sau: tự cá nhân đánh giá, có thể được xác định bằng danh mục bệnh nghề nghiệp, hoặc có thể kết hợp cả hai phương pháp. + Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thường được chi trả định kỳ theo mức độ tai nạn của người lao động: mất sức lao động tạm thời, mất sức lao động vĩnh viễn, chết. Chế độ mất sức tạm thời có thể cao hơn chế độ ốm đau và được chi trả trong thời gian người lao động bị mất sức lao động tạm thời hoặc trả trong 1 năm. Chế độ mất sức lao động vĩnh viễn: tỷ lệ chi trả được căn cứ vào danh mục bệnh và nghề. Có thể chi trả cho những người này chế độ dài hạn trừ phi họ mất sức lao động ở mức độ thấp (20 – 30%). Đối với những người chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì thân nhân của họ có quyền được hưởng chế độ định kỳ bàng một phần trong thu nhập gần nhất của người chết hoặc theo tỷ lệ lương hưu. Tuy nhiên rất khó khăn trong việc xác định tai nạn trên đường từ nhà tới nơi làm việc và ngược lại, có một số bệnh mới phát sinh chưa được đưa vào danh sách bệnh nghề nghiệp… - Năm là: Chế độ hưu trí, BHXH sẽ chi trả một phần thu nhập người lao động không được nhận do phải về hưu. + Để được hưởng chế độ hưu trí cần phải thông qua 3 điều kiện: đến tuổi về hưu, nghỉ hưu đối với một việc làm có nhiều lợi, kết thúc thời gian định lượng. Tuổi hưu trí là yếu tố quan trọng nhất đối với chi phí, tuổi về hưu phải đặt cao ngang bằng ngang điều kiện kinh tế xã hội cho phép. + Điều kiện cần có về mặt bảo hiểm thường là 15-20 năm đối với chế độ hưu trí cơ bản, có thể thêm một tỷ lệ phần trăm cho mỗi năm tăng thêm. Bình quân thu nhập phải được thực hiện công bằng với tất cả mọi bên có thu nhập, thường là 3 năm trong 10 năm cuối là tốt nhất. + Tuy nhiên chế độ này vẫn tồn tại một số nhược điểm là: tuổi về hưu giữa các ngành nghề, các nhóm lao động chưa hợp lý, những người hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ này là chưa đúng vì những người này vừa chưa đủ tuổi vừa không đủ tích luỹ cần thiết để hưởng trợ cấp… - Sáu là: Chế độ tử tuất, BHXH sẽ cung cấp thu nhập thay thế cho thành viên gia đình người lao động được hưởng bảo hiểm. + Căn cứ vào tỷ lệ hưu trí của người chết, trong đó người chồng hoặc vợ goá có quyền nhận được 40% và con cái được nhận 20% mỗi người, tất cả tối đa được hưởng 100%. + Điều kiện cần có về mặt đóng bảo hiểm: người chết phải là người hưởng chế dộ hưu trí hay dài hạn. + Những thân nhân khác như bố mẹ có thể được hưởng 10%. Nếu con cái vượt quá giới hạn, con cái lập gia đình thì sẽ không được hưởng. + Tuy nhiên còn có vấn đề chưa hợp lý là bao gồm cả bố mẹ bên vợ được hưởng. Vì bố mẹ vợ còn có thân nhân của cả hai bên chịu trách nhiệm. Điều này phải căn cứ vào tình hình cụ thể để thống nhất quy định… II. Quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài nhà nước 1. Quản lý Nhà nước về BHXH 1.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước về BHXH là một loạt các biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng như các cơ quan BHXH, các doanh nghiệp, người lao động và các ban ngành, đoàn thể có liên quan nhằm thực hiện tốt chính sách BHXH mà Nhà nước đã đặt ra. 1.2. Các chức năng quản lý nhà nước về BHXH 1.2.1. Theo quá trình quản lý - Lập kế hoạch: BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc trợ cấp. Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này bằng các công việc sau: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm ta, trong đó việc hoạch định chính sách BHXH là khâu quan trọng nhất. Chính sách BHXH phải xác định được đối tượng BHXH, bao gồm các dạng lao động nào: viên chức, quân nhân hay tất cả người lao động. Phạm vi BHXH bao gồm những chế độ nào: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, chi phí khám chữa bệnh. Sau đó là mức độ hình thức đảm bảo bằng vật chất: Bao gồm người đóng góp, đóng góp bao nhiêu, quỹ quản lý như thế nào ? Những nội dung này liên quan trực tiếp đến chính sách về quản lý, sử dụng lao động, về thu nhập, về thuế, về đảm bảo xã hội. Mặt khác việc hoạch định chính sách này và xây dựng các chế độ BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Do đó, nhà nước phải quản lý thống nhất hệ thống BHXH trong phạm vi quốc gia. - Tổ chức: Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện tại ở trung ương và địa phương, thuộc hệ thống Lao động và thương binh xã hội và Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam quản lý, để giúp thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chính sách, chế độ BHXH theo pháp luật của Nhà nước. BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao Động và thương binh xã hội, các cơ quan Nhà nước về lĩnh vực có liên quan và sự giám sát của các tổ chức công đoàn. BHXH Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương theo cơ cấu sau: + ở trung ương là cơ quan BHXH Việt Nam. + ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. + ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là các BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam là hội đồng quản lý BHXH Việt Nam. Các thành viên hội đồng quản lý là đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động và thương binh xã hội, Bộ tài chính và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, ủy viên hội đồng quản lý và Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Các thành viên Hội đồng quản lý do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng, trưởng ban tổ chức- Cán bộ Chính phủ. Nhà nước chính là người thứ ba đứng ra can thiệp cân bằng mối quan hệ giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Nhà nước tổ chức các công việc để hoạt động BHXH được tiến hành. Tất cả các công việc đó đều liên quan đến các quan hệ kinh tế - xã hội khác, do đó rất cần sự quản lý của nhà nước. Nhà nước hỗ trợ vật chất cho hoạt động BHXH.. Vai trò này phụ thuộc chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Nhà nước bảo hộ cho quỹ BHXH trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, tránh những rủi ro, bất trắc được những biến động kinh tế - xã hội tạo điều kiện để chính sách BHXH thực hiện có hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những nước kinh tế chưa phát triển, lạm phát cao. Tuy nhiên, sự bảo trợ của nhà nước là chính sách để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ mà không phải là sự bao cấp, bù đắp thất thoát. - Chỉ đạo thực hiện kế hoạch: Sự quản lý nhà nước bằng chính sách được thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, văn bản pháp quy về BHXH và ban hành việc thực hiện chúng trong phạm vi toàn quốc gia. Quản lý nhà nước về BHXH còn là việc hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách BHXH. - Kiểm tra: Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, kiểm soát các hoạt động BHXH trong pham vi pháp luật quy định, xử lý các tranh chấp về BHXH theo quy định. 1.2.2. Theo mối quan hệ giữa các nguồn lực. - Quản lý thu BHXH: Quản lý thu BHXH đối với lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài Nhà nước, hành chính sự nghiệp… theo quy định của bộ luật lao động. - Quản lý chi BHXH: Thực hiện việc chi trả BHXH cho người lao động khi người lao động thuộc các chế độ BHXH đã quy định. 2. Quản lý thu BHXH 2.1. Khái niệm Quản lý thu BHXH là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều hành và kiểm tra các hoạt động liên quan đến hoạt động thu BHXH nhằm thực hiện tốt những mục tiêu về thu BHXH đã đặt ra. 2.2. Chức năng của quản lý thu BHXH 2.2.1. Lập kế hoạch - Xác định các mục tiêu về BHXH như: + Số doanh nghiệp tham gia BHXH: bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, khối hành chính sự nghiệp thì việc xác định số doanh nghiệp ngoài Nhà nước tham gia BHXH là vấn đề rất quan trọng. Mục tiêu là làm sao cho tất cả các doanh nghiệp ngoài Nhà nước tham gia BHXH cho người lao động. Đây là mục tiêu cao nhất của chính sách BHXH mà Nhà nước đặt ra. + Số lao động được tham gia BHXH: Khi các doanh nghiệp tham gia BHXH thì họ có tham gia đầy đủ cho tất cả lao động của mình hay không ? Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước thì đương nhiên được tham gia BHXH, còn lao động trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì người lao động chưa chắc được tham gia BHXH. Vì vậy, việc xác định đúng, đủ số lao động được đóng BHXH có ý nghĩa quyết định đến số tiền BHXH thu được. + Số tiền BHXH thu được: hàng năm, BHXH thành phố thường đặt ra các chỉ tiêu về số tiền thu BHXH cho các quận, huyện. Vì vậy, mục tiêu là phải thu đầy đủ để có thể đáp ứng kế hoạch và vượt mức kế hoạch giao. Có như vậy thì quỹ BHXH mới có thể đáp ứng được các yêu cầu về chi trả cho các chế độ. - Lựa chọn các phương thức để hoàn thành mục tiêu thu BHXH: Quỹ BHXH phải được quản lý tập trung, thống nhất sẽ thực hiện việc chi trả nhanh, gọn và đầy đủ cho người lao động, làm cho họ yên tâm hơn khi tham gia BHXH. Quỹ BHXH nhàn rỗi có thể mang đầu tư để sinh lợi. - Căn cứ để lập kế hoạch: + Căn cứ vào các chỉ tiêu, các định hướng và chính sách BHXH của cơ quan BHXH cấp trên. + Căn cứ vào thực trạng tình hình thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước còn gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên việc thu BHXH một cách đầy đủ, kịp thời từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước là vấn đề rất cần thiết. 2.2.2. Tổ chức - Phân công cán bộ thu BHXH: xác định năng lực của từng cán bộ, bố trí công việc sao cho phù hợp với từng người. - Phối hợp chặt chẽ các phòng nghiệp vụ để cho hoạt động thu được liên tục, chính xác và kịp thời. - Phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, công đoàn cơ sở và công đoàn của toàn huyện để nắm được tình hình doanh nghiệp một cách đầy đủ. - Kết hợp với Huyện ủy, ủy ban nhân dân các xã để thiết lập một hệ thống thu BHXH vững chắc. 2.2.3. Chỉ đạo cán bộ thu BHXH thực hiện - Tuyên truyền phổ biến chế độ chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, đơn vị sử dụng lao động, cơ quan BHXH trong việc thực hiện các quy định của nhà nước về BHXH. - Hướng dẫn và đôn đốc các đơn vị kê khai, ghi chép các mẫu biểu về thu nộp BHXH. - Kiểm tra, đối chiếu để thu đúng, thu đủ số phải thu BHXH từng tháng, quý, năm của đơn vị sử dụng lao động. - Hướng dẫn đơn vị làm thủ tục kê khai cấp sổ BHXH lần đầu, ghi chép bổ sung trên sổ BHXH khi có thay đổi điều chỉnh của người lao động về chức danh, nghề nghiệp, mức lương, nơi làm việc, tỷ lệ tham gia, di chuyển đơn vị, nghỉ việc… - Hướng dẫn đơn vị thiết lập hồ sơ thanh toán các chế độ nghỉ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, kiểm tra mức kinh phí nghỉ dưỡng sức được thanh toán, và thời gian đóng BHXH, điều kiện làm việc của từng người lao động trong hồ sơ đề gnhị thanh toán của đơn vị sử dụng lao động khi có phát sinh. - Kiểm tra trước khi trình lãnh đạo ký xác nhận trên sổ BHXH khi có yếu tố thay đổi, xác định thời gian làm việc có đóng BHXH của người lao động khi di chuyển, hưởng chế độ chính sách theo phân cấp. - Kiểm tra việc xếp lương, nâng bậc, nâng ngạch cho người lao động tham gia bảo hiểm của đơn vị sử dụng lao động áp dụng hệ thống thang bảng lương nhà nước ban hành theo đúng chế độ đã quy định. - Sử dụng thành thạo chương trình quản lý thu trên máy, xác định kịp thời số phải thu hàng tháng, đôn đốc việc đối chiếu kết quả đóng BHXH, tổng hợp các số liệu phục vụ công tác ứng quỹ BHXH và thanh quyết toán từng quý. - Quan hệ thường xuyên với đơn vị sử dụng lao động. Phối hợp chặt chẽ với các bộ phận nghiệp vụ có liên quan. Chấp hành nghiêm túc các chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của thành phố. Trường hợp có vướng mắc trong thực hiện phải kịp thời báo cáo để thống nhất cách xử lý. - Căn cứ vào kết quả đã kiểm tra các đơn vị có lao động tăng thêm hoặc mới nộp BHXH lần đầu. BHXH sẽ cấp tờ khai cấp sổ BHXH cho đơn vị. Lúc này, người lao động sẽ phải ghi vào tờ khai toàn bộ quá trình công tác, đóng BHXH và hưởng các chế độ BHXH để cơ quan BHXH xét duyệt. - Căn cứ vào những lời khai trong tờ khai cấp sổ BHXH, BHXH sẽ cấp sổ BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm lưu giữ, bảo quản sổ BHXH cho người lao động trong suốt quá trình lao động. Khi người lao động di chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác, hoặc chấm dứt hợp đồng lao động mới được quyền quản lý sổ BHXH. Khi chuyển đến chỗ làm việc mới, người lao động phải nộp sổ BHXH cho người chủ mới để tiếp tục theo dõi. - Hồ sơ gốc về thu BHXH các đối tượng bắt buộc bao gồm các bản danh sách đăng ký tham gia BHXH, các bản danh sách điều chỉnh mức thu nộp hàng tháng, các bản đối chiếu thu hàng quý, các bản đăng ký, cam kết, điều chỉnh do đơn vị sử dụng lao động lập khi đính chính các yếu tố thu nộp BHXH của đơn vị. Theo quy định hiện hành, hồ sơ gốc do đơn vị sử dụng lao động lập phải được cơ quan BHXH quản lý đối chiếu thu theo phân cấp kiểm tra, xác nhận trước khi đưa vào lưu trữ. Hồ sơ gốc về thu BHXH được lưu trữ tại 3 nơi: + Đơn vị sử dụng lao động. + BHXH quận, huyện. + Phòng thu BHXH thành phố. Cán bộ thu có trách nhiệm hướng dẫn đơn vị lưu trữ và tổ chức việc lưu trữ tại cơ quan mình đầy đủ, ngăn nắp, khoa học, không được tùy tiện hủy bỏ hồ sơ. Đối với các đơn vị đã di chuyển, sát nhập, giải thể phải lưu trữ biên bản, lập danh mục riêng để theo dõi và khai thác khi có phát sinh yêu cầu. Việc chuyển giao hồ sơ tài liệu về thu, phát hành sổ chỉ thực hiện sau khi có ý kiến thống nhất của lãnh đạo BHXH thành phố. Các đơn vị giao nhận hồ sơ phải lập biên bản và mở sổ sách theo dõi có xác nhận giữa các bên làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm khi có tranh chấp. 2.2.4. Kiểm tra - Kiểm tra danh sách đăng ký của đơn vị sử dụng lao động khi thu BHXH lần đầu hoặc khi tăng lao động. Đối với các đơn vị lần đầu tham gia BHXH, căn cứ vào đối tượng diện bắt buộc tham gia BHXH theo quy định quản lý thu, yêu cầu khai đúng, đầy đủ số lao động của doanh nghiệp, lập tờ khai đăng ký tham gia BHXH theo mẫu, cung cấp hồ sơ chứng minh tính pháp lý để thực hiện thu theo quy định bao gồm: + Quyết định thành lập hay cho phép thành lập đơn vị. + Giấy phép đăng ký kinh doanh (nếu có). + Quyết định tuyển dụng hay hợp đồng lao động hợp pháp của người lao động, hồ sơ về thân nhân của người lao động do đơn vị đang quản lý. + Giấy khám sức khỏe khi tuyển dụng theo đúng quy định của bộ y tế. Đối với các đối tượng tăng mới, đơn vị chỉ cần kê khai, bổ xung theo mẫu và cung cấp hồ sơ về người lao động để kiểm tra xác định đối tượng theo quy định. Cán bộ thu phải kiểm tra, đối chiếu danh sách lao động đăng ký tham gia BHXH của đơn vị đảm bảo đúng đối tượng, mức lương, thời điểm tham gia, đủ cơ sở pháp lý mới trình lãnh đạo ký xác nhận. - Kiểm tra đơn vị kê khai số phải thu BHXH hàng tháng Hàng tháng, đơn vị sử dụng lao động phải kê khai chính xác số lao động, tổng quỹ lương, số phải đóng BHXH với cơ quan BHXH theo mẫu, cách ghi theo mẫu đã hướng dẫn. Cán bộ thu có trách nhiệm kiểm tra báo cáo của đơn vị trước khi trình lãnh đạo xác nhận. Cơ sở để thực hiện kiểm tra gồm có: + Quyết định nâng lương, điều chỉnh mức lương hay điều chỉnh hợp đồng lao động hợp p._.háp, hợp lệ của đơn vị sử dụng lao động. + Bảng chấm công hoặc bảng thanh toán lương trong tháng. + Quyết định nghỉ việc, thuyên chuyển, chấm dứt hợp đồng lao động. + Các biểu kê khai về thu BHXH trước đó. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước 3.1. Các yếu tố thuộc về chủ thể quản lý - Năng lực của cán bộ quản lý thu BHXH: Cán bộ quản lý thu BHXH có vai trò quyết định trong việc thu BHXH cho người lao động. Nếu trình độ của cán bộ quản lý thu BHXH cao thì việc thực hiện các chức năng thu BHXH dễ dàng hơn, sẽ giám sát việc tham gia BHXH của các doanh nghiệp được chặt chẽ hơn. Trình độ cao sẽ làm cho thích nghi được với những biến động của môi trường, với các thủ đoạn của người sử dụng lao động…Và ngược lại nếu không có trình độ sẽ không thể làm tốt công tác thu BHXH. Đồng thời, khi áp dụng các biện pháp khác thì cũng cần có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về phẩm chất chính trị thì mới có thể đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của chính sách BHXH. - Luật và chính sách của nhà nước về BHXH: để cho người sử dụng lao động phải tham gia BHXH không thể thiếu pháp luật về BHXH, nó là công cụ cưỡng chế buộc người chủ sử dụng lao động phải tham gia BHXH cho người lao động của mình. Luật BHXH chưa ra đời nhưng hiện nay đã có rất nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao động đối với người lao động và chủ sử dụng lao động như: luật lao động, luật doanh nghiệp, luật dân sự. Hơn nữa chính sách BHXH của Nhà nước cũng có vai trò tích cực trong việc khuyến khích người lao động hăng hái tham gia sản xuất. - Sự giúp đỡ của hệ thống máy tính và công nghệ thông tin: Với mức độ phức tạp ngày càng tăng của nghiệp vụ BHXH cùng với số lượng lao động tham gia ngày càng nhiều thì không thể không sử dụng các phần mềm quản lý. Sử dụng các phần mềm quản lý sẽ làm cho việc quản lý nhanh chóng, gọn nhẹ, chính xác hơn rất nhiều. Cần phải triển khai nối mạng toàn bộ hệ thống BHXH, khi đó sẽ tạo điều kiện quản lý thu, chi, quản lý quỹ được chặt chẽ, hạn chế thất thoát, đồng thời mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH. 3.2. Các yếu tố thuộc về đối tượng quản lý - Sự hiểu biết của người lao động về BHXH: Người lao động là người trực tiếp chịu ảnh hưởng của chính sách BHXH, có vai trò quyết định trong việc hưởng các chế độ BHXH. Trước đây, chỉ có người lao động trong biên chế Nhà nước mới được tham gia BHXH, còn người lao động các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì không được tham gia. Chính vì vậy, tư tưởng này còn ảnh hưởng rất lớn đến tận bây giờ. Mặc dù Nhà nước đã đề ra các chính sách bắt buộc tham gia BHXH cho mọi người lao động khi ký hợp đồng từ 3 tháng trở lên, nhưng tư tưởng phân biệt giưa người lao động trong biên chế và ngoài biên chế vẫn còn tồn tại. Điều này gây ra nhiều thiệt thòi cho người lao động. Làm thế nào đểcho người lao động thực sự hiểu về chính sách BHXH của Nhà nước hiện nay để họ dám đấu tranh cho quyền lợi của mình là một vấn đề hết sức quan trọng. - Thái độ và trách nhiệm nộp BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động: Khi nộp BHXH cho người lao động thì chi phí sản xuất tăng lên rất nhiều, nếu giá thành sản phẩm không tăng lên thì lợi nhuận của chủ sử dụng lao động giảm. Còn nếu tăng giá lên thì hàng hóa không cạnh tranh được. Chính vì vậy mà người sử dụng lao động luôn tìm cách trốn nộp BHXH cho người lao động. - Công đoàn tại các doanh nghiệp: Công đoàn là cơ quan đấu tranh, bảo vệ cho quyền lợi của người lao động. Công đoàn có vai trò khá tích cực trong việc thúc đẩy sự đấu tranh đòi quyền lợi của người lao động. Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, tuyên truyền nhằm tạo chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của người lao động và chủ sử dụng lao động. Được thành lập trong doanh nghiệp nên công đoàn có thể nắm rõ được tình hình cụ thể trong doanh nghiệp mình, sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong việc giám sát việc tham gia BHXH cho người lao động. Tuy nhiên, do sản xuất nhỏ nên tại các doanh nghiệp hầu như không có tổ chức công đoàn cho riêng mình. Còn công đoàn cấp huyện thì không thể nắm được tình hình cụ thể ở từng doanh nghiệp để có biện pháp kịp thời. III. Kinh nghiệm quản lý BHXH của một số nước trong khu vực 1. Kinh nghiệm quản lý BHXH ở Malaisia - Lập kế hoạch: năm 1951 xác định chế độ đóng góp cho tuổi già, mất sức và tử tuất, được thực hiện bằng quỹ tiết kiệm lao động thuộc Bộ Tai Chính, năm 1969 BHXH cho tai nạn lao động và mất sức lao động, cùng với chế độ tử tuất, được thực hiện bởi Tổ chức BHXH thuộc Bộ nguồn nhân lực. Các luật khác về ốm đau, thai sản và trợ cấp thôi việc được chi trả trực tiếp thông qua trách nhiệm của chủ sử dụng lao động. Các hệ thống đóng góp bảo vệ xác định: Chế độ đóng góp bắt buộc vào quỹ tiết kiệm lao động bao gồm mọi người làm công ăn lương trừ giáo viên, cán bộ nhà nước và quân đội. Tỷ suất đóng góp là người lao động 11%, chủ 12% tiền lương. Mỗi thành viên có 3 tài khoản cá nhân: + Trong đó 60% tổng số đóng góp chuyển vào tài khoản 1, số tiền đóng góp và lãi suất trong tài khoản này chỉ được rút ra khi người lao động đủ 55 tuổi. + 30% được chuyển sang tài khoản 2 dùng để rút ra cho chi tiêu xây dựng nhà cửa cho đến 50 tuổi, khi đó tài khoản có thể đóng lại. + 10% được chuyển vào tài khoản 3 cho các chi phí y tế trong các trường hợp ốm đau nặng của bản thân người lao động hay gia đình họ. - Tổ chức: BHXH chịu sự quản lý trực tiếp của Thủ tướng chính phủ, có quan hệ chặt chẽ với Bộ Tài chính và được tổ chức 3 cấp theo chiều dọc. - Chỉ đạo thực hiện: Hệ thống BHXH: hệ thống tổ chức BHXH bảo hiểm cho mọi người làm công ăn lương có thu nhập dưới 2000đôla Mã lai/tháng. Đối với chế độ mất sức tỷ suất đóng của người sử dụng và người lao động đều bằng 0,5%, đối với chế độ tai nạn lao động thì chỉ có chủ phải đóng với tỷ suất 1,25% quỹ tiền lương. Tỷ suất hưởng hàng tháng bằng 50% tiền lương cộng với 1% cho mỗi năm sau 2 năm đóng góp, tỷ suất tối đa hưởng là 65% tiền lương. Chế độ tuất được chi trả cho các trường hợp chế trước tuổi 55 hoặc những người chế khi đang hưởng chế độ hàng tháng, với tỷ suất hưởng 60% số tiền mất sức hàng tháng cho người góa bụa, và 40% cho các con dưới 21 tuổi nếu đang đi học phổ thông hoặc đại học. Tổng số tiền tuất một gia đình được hưởng bằng 100% số tiền mất sức được lĩnh hàng tháng. Các mức hưởng về tai nạn lao động bằng 80% tiền lương đối với người mất khả năng lao động tạm thời và 90% đối với người mất sức lao động vĩnh viễn. Những thân nhân có thể hưởng 100% số tiền hưởng hàng tháng trước đó của người chết. - Kiểm tra: việc thực hiện được theo dõi sát sao bởi một hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương. Kết quả từng tháng phải báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên. - Các vấn đề còn tồn tại: - Hệ thống đóng góp xác định không có khả năng cung cấp tài chính cho chế độ già vì hệ thống này là chế độ chi trả một lần, và đang xem xét khả năng chuyển đổi các đóng góp vào tài khoản 1 sang hệ thống bảo hiểm các chế độ dài hạn trong thời gian tới. - Tài khoản dành cho y tế của quỹ tiết kiệm lao động thiếu tính chia sẻ rủi ro và không đáp ứng đủ nhu cầu bảo vệ cho từng cá nhân trong BHYT. - Đối tượng hiện nay cũng được xem xét là chưa đầy đủ và đang tiến hành nghiên cứu đưa vào chính sách bảo vệ người tự tạo việc làm, bao gồm cả những người thuộc khu vực nông thôn, đặc biệt là nông dân và ngư dân. 2. Kinh nghiệm quản lý BHXH ở Philipin - Lập kế hoạch: luật đầu tiên năm 1954 làm cơ sở cho một hệ thống BHXH toàn diện. Các chế độ bao gồm: Hưu trí và các chế độ dài hạn, ốm đau, thai sản, chăm sóc y tế và tai nạn lao động. Đối tượng: mọi người lao động làm công ăn lương, tự tạo việc làm với thu nhập hàng tháng tối thiểu là 1500 Pêsô (tương đương 28,5 đô la). Có một hệ thống riêng cho công chức chính phủ, kể cả quân đội. - Tổ chức: quản lý hệ thống chính là BHXH dưới sự điều hành của hội đồng 3 bên và chịu trách nhiệm báo cáo trước văn phòng tổng thống. Hệ thống BHXH chịu trách nhiệm quản lý tài chính và đầu tư quỹ một cách hiệu quả. Chế độ tai nạn lao động và BHYT được quản lý riêng rẽ nhưng hệ thống BHXH chịu trách nhiệm phần thu các đóng góp. Hệ thống bảo hiểm công chức được tổ chức riêng cho công chức, quân đội và các cán bộ khác của chính phủ. - Chỉ đạo thực hiện: Tỷ suất đóng góp cho người lao động: Đơn vị: Đô la Mỹ Người lao động Chủ Tổng số Trần Chế độ dài hạn và ốm đau 3,33 4,67 8 10.000(285đôla Thai sản 0,4 0,4 10.000(285đôla Bảo hiểm y tế 1,25 1,25 2,5 3.000(85đôla) Tai nạn lao động 1 1 1.000(28,5đôla) Tổng số 4,58 7,32 11,9 Tỷ suất đóng góp đối với người tự tạo việc làm: + Các chế độ dài hạn và chế độ ốm đau: 8% + Bảo hiểm y tế: 2,5%. Chế độ dài hạn: + Tuổi hưu là 60 nếu đã đóng góp 120 tháng mà nay không làm việc. + Tỷ suất tiền hưu bằng 300 Pêsô cộng 20% tiền lương trung bình cộng 2% cho mỗi năm trên 10 năm đóng góp. + Chi trả 13 tháng mỗi năm. + Hưởng bảo hiểm y tế không mất tiền. Chế độ BHYT hiện nay được tổ chức lại trong BHYT thống nhất trong cả nước. 3. Kinh nghiệm quản lý Bảo hiểm xã hội ở Thái Lan. - Lập kế hoạch: những điều luật đầu tiên-1972 cho Bảo hiểm tai nạn lao động, 1990 về một hệ thống BHXH toàn diện. Các chế độ BHXH hiện hành: tai nạn lao động, ốm đau, thai sản, mất sức lao động và chăn sóc y tế. Các chế độ có kế hoạch đưa vào luật: Hưu trí và các chế độ dài hạn, thất nghiẹp và các phụ cấp gia đình. Đối tượng: Lao động trong các doanh nghiệp từ 10 lao động trở lên. - Tổ chức: Quản lý thực hiện nghiệp vụ do cơ quan BHXH thuộc Bộ lao động và phúc lợi xã hội. Tổ chức 3 bên tư vấn hệ thống. - Chỉ đạo thực hiện: + Tỷ suất đóng góp: Đối với tai nạn lao động, chủ đóng góp từ 0,2-2% tổng quỹ tiền lương cho các rủi ro. Các chế độ khác chủ, người lao động và chính phủ đều đóng 1,5% tiền lương. Trần đóng góp là 15000 Bạt (tương đương 375 đôla). - Các vấn đề hiện hành và còn tồn tại: + Ban hành bảo hiểm thất nghiệp. + Ban hành chế độ hưu trí và các chế độ dài hạn. + Mở rộng BHYT đến các thành viên trong gia đình. + Mở rộng đối tượng BHXH đến các thành viên trong gia đình. 4. Bài học kinh nghiệm cho quản lý BHXH ở Việt Nam. Qua kinh nghiệm quản lý BHXH của một số nước trong khu vực và những vấn đề còn tồn tại của họ, Nhà nước và cơ quan BHXH Việt Nam nên thực hiện một số vấn đề nhằm hoàn thiện quản lý BHXH của đất nước ta: - Kế hoạch: + Đẩy mạnh hơn nữa chế độ hưu trí và tử tuất vì đây là hai chế độ quan trọng và cần thiết nhất đối với người lao động. Các nước trong khu vực trước đây thực hiện vấn đề này chưa chặt chẽ thì nay đã dần khắc phục những yếu kém và tập trung nhiều vào 2 chế độ này. + Tiếp tục thực hiện các chương trình, chính sách về khuyến khích các hình thức tham gia BHXH tự nguyện của học sinh, sinh viên và đặc biệt là BHXH của người lao động khu vực nông nghiệp. + Thực hiện bình đẳng về quyền lợi BHXH giữa người lao động ở khu vực Nhà nước và ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Đây là một trong những yêu cầu cấp thiết trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. - Tổ chức: + BHXH Việt Nam được tổ chức theo chiều dọc: BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh, thành phố, BHXH quận, huyện. Cơ cấu này đã phát huy được tính hiệu quả của nó. Nhưng cần phải tập trung hơn nữa vào việc phối hợp thực hiện giữa cơ quan BHXH cấp trên và cơ quan BHXH cấp dưới. Cần tổ chức thống nhất, tránh chồng chéo. + BHXH không nên hoạt động độc lập. BHXH có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa…Vì vậy, việc phối hợp giữa BHXH với các cơ quan khác như Bộ Tài chính, Bộ lao động và thương binh xã hội, Bộ y tế, các cơ quan của Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương như Huyện ủy, ủy ban nhân dân xã, công đoàn huyện. - Chỉ đạo thực hiện: Nên thực hiện các hoạt động BHXH dưới một cơ chế thống nhất. BHXH Việt Nam sẽ định ra các chương trình, chính sách, BHXH tỉnh, thành phố sẽ trực tiếp chỉ đạo các quận, huyện thực hiện, sẽ đặt ra các kế hoạch, chỉ tiêu. Trên cơ sở đó, BHXH quận, huyện sẽ thực hiện tùy theo điều kiện thuận lợi nhất của mình dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan BHXH cấp trên. - Kiểm tra: + BHXH Việt Nam sẽ trực tiếp kiểm tra việc thực hiện các chương trình, chính sách của mình thông qua các báo cáo tổng hợp cuối năm của BHXH tỉnh, thành phố. Còn cơ quan BHXH tỉnh, thành phố lại kiểm tra các báo cáo từng tháng, từng quý, từng năm của cơ quan BHXH cấp quận, huyện. Trên cơ sở các báo cáo để đánh giá tình hình thực hiện BHXH như thế nào? + Nên thành lập các bộ phận giám sát việc thực hiện BHXH ở từng địa phương. Có như vậy mới có thể nắm bắt kịp thời những sai lệch để có thể điều chỉnh kịp thời. chương 2: Thực trạng quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn I. Thực trạng thu Bảo hiểm xã hội từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn 1. Kết quả thu Bảo hiểm xã hội theo số lượng doanh nghiệp tham gia Bảng 1: Kết quả thu BHXH theo số doanh nghiệp. Đơn vị: Doanh nghiệp STT Loại đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 1 Doanh nghiệp NN 27 28 27 28 28 2 Doanh nghiệp ngoài NN 6 6 10 13 14 3 Hành chính sự nghiệp 96 100 99 100 101 4 Khối xã 26 26 26 26 26 Nguồn: BHXH huyện Sóc Sơn Từ bảng trên ta thấy: trên địa bàn huyện Sóc Sơn chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp và khối xã, còn doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì số lượng ít. Hàng năm số doanh nghiệp Nhà nước, khối hành chính sự nghiệp, khối xã tăng không đáng kể, thậm chí có năm còn giảm bớt. Doanh nghiệp Nhà nước và hành chính sự nghiệp chỉ tăng thêm một đơn vị, trong khi khối xã không tăng. Doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng nhanh hơn, tuy số lượng tăng chỉ là 5 doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do chủ trương của Nhà nước cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Nguyên nhân nữa là do sản xuất phát triển, các hình thức tổ chức sản xuất nhỏ xuất hiện ngày càng nhiều, ngày càng nhiều các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã được thành lập. 2. Kết quả thu BHXH theo số lao động tham gia. Bảng 2: Kết quả thu BHXH theo số lao động tham gia. Đơn vị: Lao động STT Loại đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 1 Doanh nghiệp NN 7.823 8.021 8.299 8.389 8.672 2 Doanh nghiệp ngoài NN 476 477 618 643 796 3 Hành chính sự nghiệp 4.558 4.699 5.057 4.668 4.769 4 Khối xã 445 464 501 505 729 Nguồn: BHXH huyện Sóc Sơn Lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước, khối hành chính sự nghiệp, khối xã khi ký hợp đồng lao động thì đương nhiên sẽ được tham gia BHXH. Chính vì vậy mà số lao động trong các khu vực này được tham gia BHXH nhiều hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Còn lao động các doanh nghiệp ngoài Nhà nước khi ký hợp đồng lao động thì chưa chắc đã được tham gia BHXH, thậm chí còn không ký hợp đồng lao động. Các doanh nghiệp Nhà nước, khối hành chính sự nghiệp, khối xã tuy số lượng đơn vị tăng ít nhưng số lao động tăng lại nhiều, do quy mô của các đơn vị lớn, sử dụng nhiều lao động. Còn các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì số đơn vị tăng nhanh hơn nhưng số lượng lao động được tham gia BHXH tăng không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là khu vực này sản xuất nhỏ, sử dụng ít lao động, chủ sử dụng lao động không muốn tham gia BHXH cho người lao động của mình. Pháp luật về BHXH còn chưa đầy đủ, còn nhiều kẽ hở. Do vậy, người lao động các doanh nghiệp ngoài Nhà nước phải chịu thiệt thòi. 3. Kết quả thu BHXH theo số tiền thu được. Bảng 3: Kết quả thu BHXH theo số tiền thu được. Đơn vị: Tỷ đồng STT Loại đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 1 Doanh nghiệp NN 4.87 10,06 12.34 13,52 16.91 2 Doanh nghiệp ngoài NN 0,34 0,53 0,87 0,93 1,26 3 Hành chính sự nghiệp 4,02 5,8 6,71 7,9 9,69 4 Khối xã 0,17 0,29 0,34 0,45 0,57 Nguồn: BHXH huyện Sóc Sơn Do số lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, khối hành chính sự nghiệp, khối xã nhiều nên số tiền BHXH thu được nhiều hơn hẳn so với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Từ năm 2000-2005, các khối này được điều chỉnh hệ số lương nên số tiền BHXH thu được cũng tăng lên. Các doanh nghiệp ngoài Nhà nước số lượng lao động được tham gia BHXH ít nên số tiên thu được không nhiều. Số tiền thu được vẫn tăng nhanh, nhưng vẫn còn bỏ sót nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là khi ký hợp đồng lao động, người sử dụng lao động thường hạ mức lương xuống tối thiểu. II. Thực trạng quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước 1. Cơ cấu tổ chức của BHXH huyện Sóc Sơn Bảo hiểm xã hội huyện Sóc Sơn được tổ chức theo cơ cấu hình tháp Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy bảo hiểm xã hội huyện Sóc Sơn. Giám Đốc PGĐ1 PGĐ2 Nghiệp vụ thu Nghiệp vụ chế độ chính sách Nghiệp vụ Kế Hoạch Tài chính Nghiệp vụ giám định chi Nghiệp vụ theo dõi khám chữa bệnh Giám đốc. - Chịu trách nhiệm chung về mọi mặt của tổ chức. - Phụ trách trực tiếp công tác tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính và chính sách. - Chịu trách nhiệm ký những quyết định được hưởng chế độ theo phân cấp. - Chịu trách nhiệm toàn bộ chứng từ chi lương hưu, trợ cấp, ốm đau, thai sản. Phó giám đốc 1. - Chịu trách nhiệm thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm Y Tế. - Chịu trách nhiệm ký danh sách các đơn vị đăng ký danh sách lao động, quỹ tiền lương trích nộp bảo hiểm xã hội, trích nộp bảo hiểm xã hội và tăng giảm số lao động hàng quý. Phó giám đốc 1 quản lý 3 phòng nghiệp vụ: Phòng nghiệp vụ thu: + Thu bảo hiểm xã hội 15% của doanh nghiệp, 5% của người lao động. + Thu bảo hiểm y tế 2% của doanh nghiệp, 1% của người lao động. Phòng nghiệp vụ chế độ chính sách: + Đăng ký tiếp nhận hưu trí, giải quyết chế độ tử tuất. Có hai loại là trợ cấp tử tuất hàng tháng hoặc giải quyết 1 lần và chi phí mai táng, tử tuất từ nơi khác chuyển đến. + Thanh toán hai chế độ ốm đau và thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe. + Duyệt tờ khai cấp sổ bảo hiểm xã hội: căn cứ vào hồ sơ gốc của chủ sử dụng lao động cung cấp, trên cơ sở đó bảo hiểm xã hội huyện Sóc Sơn hướng dẫn đơn vị lập tờ khai cấp sổ bảo hểm. + Cấp phiếu khám chữa bệnh: Cấp phiếu khám chữa bệnh cho các đối tượng thuộc loại hình bảo hiểm bắt buộc và loại hình bảo hiểm tự nguyện. ư Loại hình bắt buộc: Danh sách lao động, quỹ tiền lương đăng ký của các đơn vị sử dụng lao động. Các đối tượng chính sách thuộc pháp lệnh ưu đãi người có công (Nghị định 28/CP). Đối tượng người nghèo. Thân nhân sĩ quan (Nghị định 63/CP). Đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng. ư Loại hình tự nguyện: Bảo hiểm học sinh, sinh viên hàng năm (TTLT 77/2003-BTC-BYT ngày 7/8/2003. Bảo hiểm y tế tự nguyện toàn dân nếu được phát động. - Nghiệp vụ về kế hoạch tài chính: Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Phó giám đốc 2. - Chịu trách nhiệm ký chứng từ thanh toán trực tiếp, quyết toán quỹ 5% chăm sóc sức khỏe ban đầu của các đơn vị có y tế cơ sở. - Chịu trách nhiệm nội vụ cơ quan. Phó giám đốc 2 quản lý hai phòng nghiệp vụ: - Phòng nghiệp vụ giám định chi: Thanh toán trực tiếp các đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế thuộc phạm vi quản lý đã đi khám chữa bệnh nhưng chưa được hưởng quyền lợi do điều trị trái tuyến hoặc suất trình thẻ muộn sau 48 giờ hoặc khám chữa bệnh tự chọn. - Phòng theo dõi khám chữa bệnh: Theo dõi toàn bộ số thẻ có đăng ký khám chữa bệnh tại trung tâm y tế sóc sơn (kể cả khám chữa bệnh nội trú và ngoại trú. 2. Nguồn nhân lực quản lý thu BHXH Từ khi BHXH Việt Nam tách ra khỏi Bộ Lao động và thương binh- Xã hội thì một phần lớn cán bộ quản lý ngành BHXH được chuyển từ đó sang. Do vậy, họ không thể nắm được tất cả những kiên thức về BHXH, họ chưa được đào tạo sâu về nghiệp vụ chuyên môn. Ngành BHXH đã có rất nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng trên như đào tạo bổ xung, đào tạo mới và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, đặc biệt là cán bộ quản lý thu BHXH. Chính vì vậy, trong một thời gian ngắn trình độ của cán bộ ngành BHXH đã được nâng cao, khắc phục được những khó khăn khi tách khỏi Bộ Lao động và thương binh - Xã hội. Nhiều cán bộ đã có trình độ cao đẳng, đại học, hoặc được cử đi học tập kinh nghiệm về BHXH của các tỉnh khác. Tuy nhiên, do yêu cầu ngày càng cao về nghiệp vụ quản lý cũng như tính chất phức tạp của BHXH, nhiều cán bộ quản lý đã tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Cơ chế thị trường đòi hỏi luôn phải có những xử lý linh hoạt để thích nghi được với những biến động không ngừng của môi trường, mà nhiều cán bộ lại quen với tác phong trong thời kỳ kế hoạch tập trung trước đây nên hay mắc lỗi, đặc biệt là trong khâu quản lý thu BHXH. Quản lý thu BHXH đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có quan hệ chặt chẽ với các đơn vị sử dụng lao động, đặc biệt là với Huyện ủy, Thành ủy và các tổ chức công đoàn, cơ quan thuế để nắm rõ hơn về tình hình của các doanh nghiệp, về tình hình tham gia BHXH cho người lao động. Nhưng trên thực tế mối quan hệ này lại ít được thực hiện. Nó chỉ được quan tâm khi BHXH không đạt được kết quả thu như cấp trên giao. Phòng nghiệp vụ thu mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong công tác quản lý, đặc biệt đã rất chú trọng đối với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, nhưng do không nắm bắt được tình hình nên không thể có những báo cáo chính xác, đầy đủ cho cơ quan quản lý cấp trên để kịp thời có biện pháp xử lý. 3. Tình hình thực hiện nghiệp vụ quản lý 3.1. Quản lý việc kiểm tra chấp nhận danh sách đăng ký của đơn vị sử dụng lao động Đây là việc làm hết sức khó khăn và phức tạp. Vì người sử dụng lao động luôn tìm cách tránh né nộp BHXH cho người lao động. Bằng các thủ đoạn như: sản xuất theo mùa vụ, lao động không ổn định, tiền lương dưới mức tối thiểu phải đóng bảo hiểm xã hội, thời gian ký hợp đồng dưới 3 tháng. Danh sách lao động tham gia BHXH luôn biến động, rất khó cho công tác quản lý, công tác thu BHXH. Cán bộ kiểm tra thì một phần do thiếu năng lực không thể kiểm tra một cách chặt chẽ, một phần chưa phối hợp với cơ quan thuế và huyện ủy trong công tác theo dõi tình hình của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp thường khai man số lao động, không tham gia đầy đủ BHXH cho mọi người mà chỉ tham gia BHXH cho bạn bè, người thân của mình. 3.2. Quản lý cấp tờ khai cấp sổ BHXH Tờ khai cấp sổ BHXH là tài liệu mang tính pháp lý ghi nhận quá trình lao động, tham gia và đóng BHXH, là tài liệu gốc để xem xét việc cấp sổ BHXH. - Theo báo cáo 2/2004 của phòng thu BHXH thì hiện tại huyện Sóc Sơn có: + 102 công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó: Ngừng kinh doanh: 8 Không tìm thấy:14 Lao động thời vụ: 13 Doanh nghiệp đang chuyển đổi: 2 Chưa hoạt động: 4 Dưới 10 lao động: 21 + Có 31 công ty cổ phần, trong đó: Không hoạt động: 5 Giải thể: 2 Không có trụ sở: 3 Lao động không ổn định: 7 + Có 17 hợp tác xã, trong đó: Đã bỏ kinh doanh: 4 Không có việc thường xuyên:1 Dưới 10 lao động: 4 + Doanh nghiệp tư nhân: 23 Đã bỏ kinh doanh: 1 Dưới 10 lao động:7 Khó khăn trong việc xác định địa điểm của doanh nghiệp, số lượng lao động trong từng doanh nghiệp, và có phải là doanh nghiệp hoạt động theo mùa vụ hay không đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xem xét số lao động được đóng BHXH, và do đó việc quản lý cấp tờ khai cấp sổ BHXH cũng gặp nhiều khó khăn. Theo tổng hợp số liệu báo cáo của BHXH huyện Sóc Sơn từ năm 2000 đến năm 2004 việc quản lý cấp tờ khai cấp sổ BHXH cho khu vực ngoài quốc doanh như sau: Bảng 4: Kết quả cung cấp tờ khai cấp sổ BHXH. Đơn vị: Tờ khai 2000 2001 2002 2003 2004 DN ngoài quốc doanh 73 82 91 97 102 Số DN tham gia BHXH 6 6 10 13 14 Tổng số lao động tăng lên 129 348 475 664 855 Số lao động được cấp tờ khai thêm hàng năm 98 151 179 198 205 Nguồn: BHXH huyện Sóc Sơn Tuy số tờ khai cấp sổ BHXH cho lao động khu vực ngoài quốc doanh ngày càng tăng lên, nhưng vẫn còn nhiều đơn vị trốn nộp BHXH, nhiều đơn vị kê khai không chính xác số lao động hoặc tham gia không đầy đủ... 3.3. Quản lý cấp sổ BHXH Trên cơ sở số lao động đã được tham gia BHXH và số lao động được cấp tờ khai cấp sổ BHXH hàng năm tăng lên, Công tác quản lý cấp tờ khai cấp sổ BHXH được thực hiện hàng năm như sau: - Thực hiện duyệt hồ sơ cấp sổ BHXH thường xuyên đáp ứng yêu cầu cho đơn vị sử dụng lao động, năm 2000, BHXH huyện Sóc Sơn đã cấp tổng số 1446 sổ BHXH cho 77 đơn vị, đồng thời đã ký để chuẩn bị cấp sổ BHXH cho một số người lao động mới được cấp tờ khai trong năm. Hơn nữa, được sự quan tâm của BHXH thành phố Hà Nội, huyện Sóc Sơn đã duyệt tờ khai cấp sổ BHXH cho cán bộ xã, thị trấn thực hiện theo NĐ 09/1998/NĐ-CP đã xong ở 23/26 xã, thị trấn. - Tính đến năm 2001, huyện Sóc Sơn đã có 160 đơn vị đăng ký với tổng số 13.657 lao động tham gia BHXH. Số lao động đã được cấp sổ BHXH là 11.581 sổ. Trong đó năm 2001 cấp thường xuyên 74 đơn vị được 1.250 sổ. Số còn lại trên địa bàn 2.071 hồ sơ thiếu các yếu tố đang được các đơn vị hoàn thiện để cấp tiếp. - Thực hiện đối chiếu tờ khai cấp sổ BHXH, giải quyết tồn tại ở các đơn vị có số lao động có thời gian công tác trước 1/1/1995 được tính là thời gian đã đóng BHXH theo quy định. Năm 2002 huyện Sóc Sơn đã có 2.976 lao động đăng ký đối chiếu tờ khai cấp sổ BHXH. Trong đó số lao động có thời gian công tác trước 1/1/1995 là 1.712 lao động, số lao động có thời gian công tác trước 1/1/1995 là 1.084 lao động. BHXH huyện Sóc Sơn cùng các đơn vị đã đối chiếu hồ sơ gốc với tờ khai cấp sổ BHXH được 2.536 hồ sơ đạt 100% kế hoạch được giao. Cùng với công tác cấp sổ BHXH, huyện Sóc Sơn đã xác nhận di chuyển sổ BHXH theo phân cấp là 396 sổ ở 89 đơn vị, trong đó di chuyển đến quận, huyện khác là 215 lao động. - Công tác cấp sổ BHXH đã đáp ứng thường xuyên cho các đơn vị sử dụng lao động. Sáu tháng đầu năm 2003 đã đối chiếu hồ sơ gốc với tờ khai cấp sổ BHXH ở 23 đơn vị chuyển về thành phố duyệt cấp 919 sổ BHXH cho người lao động, đồng thời di chuyển sổ BHXH cho người lao động 240 trường hợp, ghi bổ xung chốt sổ BHXH ở 33 đơn vị có 518 lao động nâng lương. - Để đáp ứng kịp thời quyền lợi cho người lao động giải quyết chế độ trên cơ sở có sổ BHXH. BHXH huyện Sóc Sơn đã đối chiếu hồ sơ gốc với tờ khai cấp sổ BHXH ở 31 đơn vị và đã cấp 317 sổ BHXH, đồng thời ký xác nhận 758 sổ BHXH để giải quyết chế độ hưu trí, di chuyển, hưởng chế độ một lần và giải quyết tuất. Tuy nhiên trong công tác quản lý cấp sổ BHXH cũng gặp phải một số khó khăn là: Các đơn vị đăng ký tham gia cho người lao động nhưng lại thường ở mức lương tối thiểu, đồng thời rất nhiều tờ khai cấp sổ BHXH không đạt yêu cầu khi xét duyệt để cấp Sổ BHXH, mà chủ yếu là ở khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, theo quyết định số 139/2002 QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của thủ tướng chính phủ về việc sát nhập BHXH với BHYT, đã làm cho công tác quản lý cấp sổ BHXH và cấp sổ BHYT đan xen rất phức tạp. 3.4. Quản lý thu BHXH Bảng 5: Kết quả thu BHXH. Đơn vị: Tỷ đồng STT Loại đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 1 Doanh nghiệp nhà nước 4.87 10,06 12.34 13,52 16.91 2 Doanh nghiệp NQD 0,34 0,53 0,87 0,93 1,26 3 Hành chính sự nghiệp 4,02 5,8 6,71 7,9 9,69 4 Khối xã 0,17 0,29 0,34 0,45 0,57 5 Ngoài công lập 0,21 0,27 0,4 0,55 0,61 6 HĐND xã 0,1 0,13 0,2 0,24 0,29 7 Nhiễm chất độc HH 0,05 0,051 0,063 0,065 0,067 Nguồn: BHXH huyện Sóc Sơn Thực hiện nghị định số 175/1999/NĐ-CP ngày 15/12/1999, NĐ số 10/2000NĐ-CP về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 144.000đ/Thg lên 180.000đ/Thg và quyết định số 2902/1999/QĐ-BHXH ngày 23/11/1999 của tổng giám đốc BHXH Việt Nam về việc quản lý thu BHXH. Huyện Sóc Sơn đã hướng dẫn 155 đơn vị có danh sách lao động quỹ tiền lương đăng ký trích nộp BHXH theo mẫu (C45) kể từ 01/01/2000 với 13.302 lao động với tổng với tổng quỹ tiền lương 62.516.046.673đ/năm. Trong đó khối doanh nghiệp có 33 đơn vị khối hành chính sự nghiệp, 96 đơn vị, xã, thị trấn. Số tiền thu được tính đến ngày 7/11/2000 là 9.411.153.072đ đạt 74% kế hoạch được giao. Công tác thu BHXH của huyện Sóc Sơn còn tồn tại ở 6 đơn vị doanh nghiệp: Việc làm thiếu ổn định do vậy nợ kéo dài trong nhiều năm, tính đến 31/12/2000 còn nợ 946.000.000Đ đó là đơn vị: công ty cơ khí 121, Lâm trường huyện Sóc Sơn, công ty dịch vụ nông nghiệp, công ty lương thực, công ty kinh doanh nhà Sóc Sơn, công ty phát triển nông lâm ngư. Vừa qua liên đoàn lao động huyện Sóc Sơn cùng với BHXH đến từng đơn vị kiểm tra đôn đốc. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động đúng, đủ, kịp thời, BHXH huyện Sóc Sơn đã đối chiếu xong quý 3 năm 2000 và có những biện pháp tích cực đôn đốc thu BHXH quý 4/2000. Thực hiện NĐ77/2000 NĐ-CP về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu 180.000đ lên 210.000đ/Thg. Nhờ có sự hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời của BHXH thành phố Hà Nội đối với các đơn vị doanh nghiệp, vì vậy công tác quản lý thu BHXH có nhiều thuận lợi. Danh sách lao động quỹ tiền lương đăng ký được các đơn vị sử dụng lao động lập kịp thời, đây là cơ sở đóc thu BHXH. Năm 2001 BHXH huyện Sóc Sơn có 160 đơn vị đăng ký cho 13.661 lao động so với cuối tháng12/2000 tăng 1 đơn vị và 201 lao động. Kết quả thu đến ngày 31/12/2001 BHXH huyện Sóc Sơn thu được 16.696.592.544đ đạt 99,3% kế hoạch được giao, vượt 131,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Năm 2002 BHXH huyện Sóc Sơn có 162 đơn vị đăng ký quỹ tiền lương trích nộp BHXH cho 14.475 lao động so với cùng kỳ năm ngoái tăng 2 đơn vị ngoài quốc doanh và số lao động tăng thêm là 700 lao động. Song quỹ tiền lương tăng không cao vì số lao động ngành giáo dục đóng cho giáo viên mầm non theo NĐ 73/1999NĐ-CP và khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước mức đăng ký đóng BHXH cho người lao động chỉ theo mức lương tối thiểu. Kết quả thu từ đầu năm đến 31/12/2002 là 16.379.744.000đ đạt 100% kế hoạch được giao, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước. Vì năm 2002 không có truy thu của năm trước. Có được kết quả trên là nhờ có sự chỉ đạo tích cực của BHXH thành phố Hà Nội, sự lãnh đạo trực tiếp của huyện ủy-HĐND-UBND huyện, cùng với sự phối kết hợp các ngành chức năng làm công tác tuyên truyền, kiểm tra các đơn vị thực hiện theo bộ luật lao động bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Nhìn chung việc đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đã thấy rõ trách nhiệm và quyền lợi để thực thi theo luật song vẫn còn những tồn tại đáng quan tâm. Khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước còn một số đơn vị cố tình nợ đọng BHXH kéo dài thêm 6 tháng đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu BHXH đồng thời gây thiệt hại đến quyền lợi của người lao động. Thự._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36233.doc