MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đi lên đều phải nhờ nhân tố con người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội và được coi là nguồn lực năng quan trọng nhất trong mọi nguồn lực. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá là tất yếu của thời đại. Nếu kinh tế tri thức là sản phẩm của giáo dục còn toàn cầu hoá là tất yếu của thời đại thì toàn cầu hoá tựa như một dòng thác đặt các quốc gia vào sự lựa chọn là sẽ b
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý sử dụng ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị nhấn chìm, hoặc là hội nhập để tạo thêm sức mạnh. GD trở thành sự hưng vong của mỗi quốc gia. Chính vì điều đó, Hiến pháp năm 1992 nước ta quy dịnh rõ: Sự nghiệp GD - ĐT là sự nghiệp của toàn xã hội, nhưng vai trò chủ đạo thuộc về Nhà Nước, Nhà Nước phải có trách nhiệm ưu tiên, đầu tư về vốn cho sự phát triển của GD. Và Đảng ta đã khẳng định: “ GD - ĐT cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”.
Xác định được vai trò và tầm quan trọng của GD - ĐT, những năm qua Đảng và Nhà Nước luôn coi trọng sự nghiệp GD - ĐT. Hàng năm, NSNN đầu tư một khoản kinh phí khá lớn cho GD - ĐT nhưng thực ra nguồn kinh phí đó vẫn còn khiêm tốn so với yêu cầu cho đào tạo không ngừng gia tăng như hiện nay. Do đó, hoàn thiện việc sử dụng và đổi mới về tổ chức quản lý kinh phí GD - ĐT là vấn đề vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Nhận thức được vấn đề đó, qua quá trình học tập, nghiên cứu ở trường và thời gian thực tập ở phòng Kế hoạch ngân sách thuộc Sở Tài chính Hưng Yên, em đi sâu nghiên cứu “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý sử dụng NSNN cho sự nghiệp giáo dục THPT trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.” với mong muốn góp một vài ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN cho sự nghiệp GD THPT ở Hưng Yên.
Đề tài gồm 3 chương
Chương I : Tổng quan về NSNN cho sự nghiệp GD THPT ở nước ta hiện nay.
Chương II : Thực trạng quản lý sử dụng NSNN cho sự nghiệp GD THPT trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Chương III : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý sử dụng NSNN cho sự nghiệp GD THPT trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Đề tài được viết dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, TS. Đỗ thị Hải Hà và các thầy, cô bộ môn của khoa “Khoa học quản lý” trường Đại học Kinh tế Quốc dân và sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ phòng “Kế hoạch ngân sách” thuộc Sở Tài chính Hưng Yên. Nhưng với tư cách là một sinh viên, trình độ nhận thức chưa được sâu, rộng, trong khi thời gian thực tập còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cùng các cán bộ trong phòng để bài chuyên đề thêm phong phú về lý luận và sát với thực tế hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NSNN CHO SỰ NGHIỆP GD THPT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. GD THPT trong quá trình phát triển KT – XH nước ta hiện nay
1.1.1. Khái quát về GD, GD THPT
Trong quá trình phát triển của nhân loại thì con người luôn là nhân tố quyết định đến mọi hoạt động, sự phát triển trong xã hội. Do đó, nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, đặc biệt với nước ta khi nguồn lực tài chính còn hạn hẹp. Nguồn lực ở đây là những con người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt, được đào tạo, bồi dưỡng bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với nền khoa học công nghệ hiện đại.Trong giai đoạn hiện nay, bước vào thời kỳ CNH – HĐH cần phải phát triển một cách mạnh mẽ nền giáo dục.
Giáo dục được coi là hoạt động sản xuất đặc biệt trong tất cả các hoạt động bởi đầu vào và đầu ra đều là con người. Nhưng con người đầu ra khác với con người đầu vào ở trí thức khoa học và những phẩm chất tốt đẹp. Những trí thức và phẩm chất đó không chỉ là kiến thức, năng lực, mà còn bao gồm cả sự xã hội hoá về lao động, ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm. Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì Giáo dục trước hết là sự tác động của nhân cách này đến nhân cách khác, tác động của nhà giáo với những người được GD và thông qua các hoạt động của người học thực hiện trong các mối quan hệ xã hội mà nhân cách người học được hình thành và phát triển.
Giáo dục xuất hiện cùng với đời sống xã hội của loài người. Các nhà nghiên cứu lịch sử GD, xã hội học và các nền văn minh trước đây đều khẳng định con người luôn sống trong các trình độ xã hội nhất định. Khi đó con người được xem là “ con người xã hội” mà xã hội thì phát triển và tiến bộ không ngừng. Xưa nay, muốn xã hội có thể tồn tại và phát triển, Giáo dục luôn tồn tại như là một nhân tố đảm bảo cho sự phát triển, điều này có nghĩa là không thể tách rời GD ra khỏi đời sống xã hội. Nói cách khác, không có GD đứng ngoài xã hội, không có xã hội nào có thể phát triển đi lên mà không gắn liền với vai trò lịch sử của GD.
Sự nghiệp GD không thể thực hiện trong một thời gian ngắn, một sớm một chiều mà là cả một quá trình diễn ra trong nhiều năm liên tục theo các bậc học khác nhau từ Mầm Non, Tiểu học đến THCS, THPT. Từ đó cho thấy GD THPT là một bộ phận rất quan trọng – là bộ phận cuối cùng của toàn bộ quá trình GD Phổ thông. Quá trình GD THPT được thực hiện trong 3 năm học liên tục từ lớp 10 đến lớp 12. Đây là bậc học chuyển tiếp từ nâng cao dân trí ( THCS ) lên một bước phát triển cao hơn là đào tạo nhân tài ( ĐH, CĐ, THCN...) nên nó chiếm một vị trí vô cùng quan trọng và rất cần được quan tâm và phát triển hơn nữa.
1.1.2. Vai trò của GD THPT trong quá trình phát triển KT – XH cuả nước ta
GD và ĐT có vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, phát triển và truyền bá văn minh nhân loại. Khi nói đến lịch sử loài người, lịch sử văn hoá văn minh của nhân loại, nói đến văn hoá dân tộc cuối cùng cũng phải từ GD mới có, nó không phải là tự phát. GD theo nghĩa rộng là GD xã hội, GD nhà trường, tự GD trong đó có môi trường văn hoá, chuẩn mực xã hội, và định hướng giá trị xã hội. Chúng ta cần phải GD con người có văn hoá, và văn hoá của con người phải mang tính dân tộc sâu sắc, đồng thời có cá tính rõ nét, có sáng tạo và tích cực đóng góp cho toàn xã hội.
Trải qua hàng nghìn năm dưới ách đô hộ của bọn thực dân phong kiến, nhân dân ta đã sống khổ cực lầm than, không được đi học đầy đủ. Ngay sau khi đất nước ta giành được độc lập năm 1945, Bác Hồ đã kêu gọi “ Toàn dân tham gia diệt giặc dốt”. GD là cái cốt lõi căn bản cho chúng ta dựa vào đó để dựng nước, giữ nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV BCH TWĐ ( khoá VII),và Nghị quyết Hội nghị lần thứ II BCH TWĐ ( khoá VIII ),Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã noi : “ GD - ĐT cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Để đánh giá sự tiến bộ về văn hoá - xã hội và sự phát triển kinh tế của một quốc gia, người ta phải dựa trên 3 chỉ tiêu cơ bản đó là thu nhập, tuổi thọ và trình độ GD. Nước nào càng có nền GD hiện đại và phát triển có nghĩa là nước đó có tầng lớp trí thức đông đảo, tạo điều kiện tiến sâu vào một nền khoa học – kỹ thuật đang phát triển của thế giới, và không ngừng đưa nền kinh tế phát triển. Đặc biệt là trong khi nền kinh tế thị trường, xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá đang mở ra trước mắt, nền kinh tế trí thức đang hình thành và phát triển ngày càng đòi hỏi phải có những con người có trình độ hiểu biết thực sự, dám nghĩ, dám làm và đó chính là kết quả của một nền GD hiện đại. Nhất là đối với một đất nước như nước ta, dân số chủ yếu sống bằng nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, nền khoa học – kỹ thuật kém phát triển thì GD cần phải được quan tâm chú trọng nhiều hơn nữa. Văn kiện Đại hội Đảng VII đã nêu rõ: “ GD đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.
GD THPT có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Do đó GD THPT phải giúp học sinh củng cố và phát huy những kết quả của GD THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học tiếp lên ĐH, CĐ, THCN hoặc là đi vào cuộc sống lao động. Vì vậy, có thể nói GD THPT không thể thiếu được trong tiến trình phát triển KT – XH của đất nước.
Chính vì tầm quan trọng đặc biệt của GD mà chúng ta cần phải phát triển GD trên cả ba mặt: Một là: mở rộng quy mô. Hai là: nâng cao chất lượng. Ba là: phát huy hiệu quả. Điều đó đòi hỏi phải đưa được sự nghiệp GD phát triển trong toàn xã hội, vào mọi ngành mọi lĩnh vực, mọi địa phương, mọi vùng miền và áp dụng cho mọi lứa tuổi, mọi trình độ. Và một trong những nguồn lực chiếm vị trí then chốt đó là sự đầu tư vốn bằng tiền, cơ sở vật chất từ Nhà Nước. Ở nước ta hiện nay nguồn vốn NSNN chi cho GD luôn chiếm tỷ trọng lớn ( trong đó có GD THPT ) và là một khoản chi quan trọng của NSNN.
Chiến lược GD của Đảng & Nhà Nước ta những năm tới
Đảng và Nhà Nước ta luôn coi trọng sự nghiệp “ trồng người”, và luôn xác định “ GD là quốc sách hàng đầu”, đầu tư nguồn lực một cách thoả đáng nhằm phát triển GD theo đúng địng hướng XHCN. Các quan điểm mà Đảng & Nhà Nước ta đưa ra là:
- Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp GD - ĐT, trong các chính sách nhất là các chính sách tạo công bằng xã hội. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của nhân loại để hình thành lý luận về định hướng phát triển của đất nước, con đường đi lên XHCN.
- Coi GD là quốc sách hàng đầu: Đây là quan điểm đã được nêu lên từ Đại Hội Đảng khóa VII đến nay và đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, chủ trương của Nhà Nước, bằng các biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện đi sâu, sát của các ngành, các cấp. Thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD, đặc biệt là các chính sách đầu tư vào tiền lương, các chính sách đãi ngộ.
- GD là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân: Đây chính là quan điểm về mặt xã hội hoá giáo dục, tức là “ Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân cùng góp sức xây dựng nền giáo dục dưới sự quản lý của Nhà Nước”. Hay nói cách khác là toàn dân học tập, toàn dân chăm lo giáo dục, toàn dân làm giáo dục.
- Phát triển GD gắn với nhu cầu thực tế KT – XH, những tiến bộ KHCN và củng cố QP – AN: tất cả các mặt này đều được coi trọng, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện GD kết hợp với sản xuất, lý luận với thực tiễn, nhà trường gắn với gia đình và xã hội.
- Thực hiện công bằng trong GD: Đây là một trong những mục tiêu xây dựng XHCN nói chung và trong GD nói riêng. Nhà Nước tạo điều kiện cho mọi người dân đều được đi học, người nghèo được Nhà Nước và cộng đồng cùng giúp đỡ để học tập, phát triển tài năng.
1.2 NSNN cho hệ thống GD THPT
1.2.1. Khái niệm NSNN
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
1.2.2 Vai trò của NSNN cho sự nghiệp GD THPT
Đầu tư cho GD THPT hiện nay bao gồm các nguồn:
- Nguồn từ NSNN.
- Nguồn vốn đóng góp của nhân dân:
+ Tiền học phí
+ Tiền XDCB: là khoản tiền đóng góp để xây dựng trường lớp, sửa chữa bàn ghế, nhà cửa... ngoài những khoản mà Nhà Nước đầu tư
Các khoản viện trợ: viện trợ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước, tiền ủng hộ xây dựng trường lớp, trang bị phương tiện vật chất kỹ thuật của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước...
Các nguồn khác bao gồm: Các khoản được biếu tặng bằng hiện vật như SGK, máy vi tính, đồ dùng thí nghiệm, bàn ghế... của các tổ chức kinh tế, đoàn thể, các tổ chức xã hội...
Mặc dù sự nghiệp GD THPT được phát triển từ nhiều nguồn vốn khác nhau nhưng nguồn vốn từ NSNN vẫn chiếm vị trí quan trọng và tỷ trọng lớn nhất. Vai trò của NSNN được thể hiện cụ thể qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất: NSNN có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển GD THPT theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà Nước ta. Thông qua định mức, cơ cấu thu, chi NSNN cho GD THPT, chúng ta thực hiện việc điều phối cơ cấu GD THPT giữa các địa phương, giữa cấp bậc GD THPT và các cấp bậc khác, tạo nên sự phát triển đồng đều cho GD THPT trong cả nước nhằm tạo một hệ thống GD THPT toàn diện, đạt hiệu quả cao.
Thứ hai: Chi NSNN cho GD THPT là một khoản đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất tạo ra cơ sở vật chất, mua sắm, và sửa chữa trang thiết bị đồ dùng giảng dạy. Đây là khoản chi hết sức cần thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng GD THPT.
Thứ ba: Đầu tư của NSNN tạo điều kiện để khuyến khích nhân dân cùng đóng góp xây dựng, tăng cường cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác giảng dạy được tốt hơn, thu hút các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội cùng tham gia chăm lo cho sự nghiệp GD THPT.
Thứ tư: NSNN là nguồn tài chính cơ bản đảm bảo đời sống cho đội ngũ cán bộ giáo viên giảng dạy, đội ngũ cán bộ quản lý hành chính của toàn hệ thống GD THPT. NSNN ngoài việc đảm bảo tiền lương hàng tháng cho cán bộ, giáo viên còn dành một phần ưu đãi riêng cho như: phụ cấp giảng dạy, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp dạy thêm giờ. Việc đảm bảo vật chất cho cán bộ, giáo viên chính là việc bù đắp và tái sản xuất sức lao động của họ.
1.2.3. Nội dung chi NSNN cho hệ thống GD THPT
Theo điều 1 Luật NSNN thì: “ NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà Nước trong dự toán được các cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà Nước”. Nó phản ánh tổng thể các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà Nước với các chủ thể trong xã hội phát sinh khi Nhà Nước tham gia phân phối các nguồn lực tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà Nước theo những nguyên tắc nhất định. bao gồm:
+ Chi thường xuyên.
+ Chi đầu tư phát triển.
+ Chi khác.
Trong đó chi thường xuyên là khoản chi rất quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất bao gồm:
- Chi cho các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa
- Chi cho các hoạt động thuộc sự nghiệp kinh tế của Nhà Nước.
- Chi cho các hoạt động thuộc quản lý hành chính Nhà Nước.
- Chi cho quốc phòng – an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
- Chi khác.
Chi NSNN cho sự nghiệp GD THPT nếu xét về lâu dài là khoản chi có tính chất tích luỹ đặc biệt bởi vì khoản chi này là một trong những nhân tố quyết định tới tỷ lệ thất nghiệp cũng như tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Xét trên góc độ chi thường xuyên thì chi NSNN cho sự nghiệp GD THPT bao gồm 4 nhóm chính sau:
Nhóm 1: Chi cho con người
Đây là khoản chi cho các nhu cầu về đời sống vật chất, sinh hoạt cho cán bộ, giáo viên trực tiếp giảng dạy nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà trường. Các khoản chi của NSNN thuộc nhóm chi này bao gồm các khoản chi sau: Lương; phụ cấp lương; BHXH; BHYT; tiền thưởng; phúc lơị cho giáo viên, cán bộ công nhân viên của nhà trường; học bổng cho học sinh; tiền y tế – vệ sinh. Nhóm chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi NSNN cho hệ thống GD THPT.
Nhóm 2: Chi cho chuyên môn nghiệp vụ
Nhóm chi này bao gồm các khoản chi về giảng dạy học tập: mua sắm trang thiết bị, đồ dùng giảng dạy như: sách giáo khoa, tài liệu tham khảo cho giáo viên, đồ dùng học tập, vật liệu, hoá chất thí nghiệm, phấn viết bảng... Đây là khoản chi hết sức cần thiết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng GD THPT, do đó cần phải hết sức chú trọng đến nhóm chi này. Số chi cho nhóm này được dự kiến kỳ kế hoạch là tổng số chi dự kiến của các nhóm mục chi kể trên.
Nhóm 3: Chi quản lý hành chính
Đây là khoản chi nhằm đảm bảo nhu cầu vật chất phục vụ cho hoạt động của nhà trường. Thuộc nhóm chi này gồm có các khoản chi:
+ Chi trả tiền điện, nước tại các trường.
+ Chi phí văn phòng phẩm tại các phòng làm việc.
+ Chi trả dịch vụ bưu điện, điện thoại…
+ Chi công tác phí, hội phí, công vụ phí…
Các khoản chi này phục vụ chung cho công tác quản lý hành chính của các trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, giáo viên trong việc tổ chức quản lý trường lớp. Mức độ chi nhiều hay ít cho mỗi trường sẽ phụ thuộc vào quy mô và công tác quản lý hành chính kèm theo của mỗi trường.
Nhóm 4: Các khoản chi mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản và xây dựng nhỏ
Các khoản chi cho nhóm này phụ thuộc vào tình trạng nhà cửa, trang thiết bị của các truờng. Hàng năm do nhu cầu hoạt động, và sự xuống cấp của các tài sản cố định dùng cho các hoạt động HCSN nên sẽ phát sinh nhu cầu về kinh phí cần có để mua sắm, trang bị thêm hoặc là phải phục hồi giá trị của tài sản cố định ở các trường THPT. Mỗi năm các đơn vị sẽ dành một phần trong tổng số HMKP được cấp để trang trải cho những chi phí này ( còn xây dựng nhỏ được cấp từ nguồn NSNN ).
1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng tới mức độ, cơ cấu, nội dung chi của NSNN cho hệ thống GD THPT
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị sản phẩm mới mà nền kinh tế sáng tạo ra trong một năm. Việc tạo ra nguồn giá trị sản phẩm mới nhiều hay ít là một nhân tố quyết định đến quy mô nguồn thu NSNN trong từng thời kỳ, từ đó ảnh hưởng tới nội dung, cơ cấu, mức độ thu, chi NSNN trong các lĩnh vực trong đó có GD THPT.
Thu NSNN bao gồm rất nhiều các khoản thu khác nhau, trong quản lý NSNN người ta phân loại thu của NSNN theo 2 nhóm chính sau: những khoản thu thường xuyên và không thường xuyên trong đó thu thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn và mang tính chất quyết định. Các khoản thu thường xuyên luôn luôn gắn liền với các hoạt động kinh tế, kể cả trên góc độ sản xuất và tiêu dùng .
Tốc độ tăng dân số, số lượng và cơ cấu dân cư trong xã hội.
Khi dân số tăng nhanh thì nhu cầu học tập cũng tăng lên, do đóđòi hỏi quy mô GD cũng phải mở rộng để đáp ứng nhu cầu . Đồng thời cơ cấu dân số già hay trẻ cũng ảnh hưởng tới quy mô GD THPT, do vậy đòi hỏi chi NSNN cho GD cũng phải tăng lên để đảm bảo sự phát triển của xã hội.
Mạng lưới tổ chức cho hoạt động sự nghiệp GD THPT cũng có ảnh hưởng tới chi NSNN cho GD THPT.
Thực trạng thiết bị, phương tiện và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động giảng dạy và học tập tại các trường.
Chiến lược phát triển sự nghiệp GD THPT của Nhà Nước ta trong từng thời kì, từng giai đoạn.
Phạm vi, mức độ bao cấp của Nhà Nước trong lĩnh vực GD THPT.
1.3. Quản lý sử dụng NSNN cho sự nghiệp GD THPT ở cấp tỉnh
1.3.1. Khái niệm
Quản lý sử dụng NSNN cho sự nghiệp GD THPT được hiểu là tổng thể quá các quá trình lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN cho GD THPT.
Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
1.3.2. Quy trình quản lý sử dụng NSNN cho sự nghiệp GD THPT ở cấp tỉnh
Sơ đồ quy trình quản lý sử dụng NSNN cho GD THPT ở tỉnh Hưng Yên
Hội đồng nhân dân
Dự toán thu chi ngân sách địa phương
Quyết định phân bổ dự toán ngân sách địa phương
Phê chuẩn quyết toán, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách
Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định
Ủy ban nhân dân
Lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương
Dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợ cần thiết trình HĐND cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên.
Sở Tài Chính
Xây dựng các văn bản quy định về việc thu phí, lệ phí.
Lập phương án phân bổ dự toán Ngân sách cho GD THPT trình UBND tỉnh xem xét để trình HĐND tỉnh quyết định
Quản lý, xem xét, kiểm tra về mặt tài chính đối với Ngân sách đã được quyết định
Tạm ngừng cấp phát và xuất toán những khoản chi không đúng mục đích, sai nguyên tắc
Thông báo hạn mức kinh phí cho các trường THPT
Kho bạc Nhà nước
Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện hạch toán kế toán ngân sách nhà nước; định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán thu, chi ngân sách cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước hữu quan.
Quản lý nhà nước về các khoản quỹ, NSNN
Kiểm soát và thực hiện việc nhập, xuất quỹ tài chính
Sở GiáoDục và Đào Tạo
Dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh về lĩnh vực giáo dục và đào tạo do phòng phụ trách.
Chỉ đạo xây dựng tiêu chuẩn trường chuẩn Quốc gia, dự trù kinh phí cho cơ sở vật chất, đồ dùng, dụng cụ giảng dạy….đào tạo chuyên môn.
Các trường THPT
Nhận thông báo hạn mức kinh phí từ Sở Tài Chính
Nhận kinh phí từ kho bạc huyện, thành phố ( trực thuộc tỉnh).
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng
- Hiện nay các khỏan thu chi NSNN chưa đựợc phản ánh tòan diện và đầy đủ
- Còn nhiều khỏan thu nằm ngòai NS như học phí gây áp lực lên cân đối NSNN.
- Việc thẩm tra và phê chuẩn còn chú trọng nhiều đến các con số dự tóan và quyết tóan và chưa quan tâm đúng mực đến việc phân tích xác lập các ưu tiên chính sách tiền dự tóan
- Quy trình quản lý còn rườm rà, hệ thống quản lý chưa thật sự gắn kết hài hòa giữa các khâu
- Hiện tại hệ thống các trường THPT dân lập ngày càng được mở rộng khiến cho việc thẩm tra, thanh tra tài chính còn gặp nhiều khó khăn.
.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ SỬ DỤNG NSNN CHO SỰ NGHIỆP GD THPT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN
Khái quát đặc điểm tự nhiên, KT - XH và tình hình hoạt động của hệ thống GD THPT trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua
2.1.1 Khái quát về đặc điểm tự nhiên, KT – XH
Hưng Yên là một tỉnh mới được tái thành lập từ 01/ 01/ 1997 sau gần 30 năm sáp nhập với tỉnh Hải Dương. Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hưng Yên có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển KT – XH.
Toàn tỉnh hiện có 10 huyện, thành phố với 161 xã, phường, thị trấn; có tổng diện tích tự nhiên là 923 km2, trong đó 100% là đồng bằng. Hưng Yên nằm ở vùng châu thổ sông Hồng nên đất đai phì nhiêu, mầu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng như nhãn, đay, lạc, ngô, mía, khoai, sắn...
Dân số của tỉnh là 1.128.702 người với mật độ dân số trung bình khoảng 1.223 người/ km2, số lao động trong độ tuổi lao động là trên 600.000 người, chiếm gần 50% dân số toàn tỉnh trong đó lao động ngành nông nghiệp chiếm 70%. Hưng Yên là một tỉnh thuần nông, trình độ dân trí còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao nên nguồn thu NSNN trên địa bàn còn thấp, cơ sở hạ tầng và các thiết chế văn hoá - xã hội đã xuống cấp nghiêm trọng nên phải đầu tư lớn cho XDCB.
Song từ năm 1997 – 2009, cùng với sự phát triển chung của đất nước, Hưng Yên trong những năm vừa qua được sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ- HĐND – UBND tỉnh và sự cố gắng nỗ lực của các ngành, các địa phương trong tỉnh đã phấn đấu đạt được những thành tích đáng kể:
Về kinh tế: Hàng năm mục tiêu phát triển kinh tế bình quân đã đạt kế hoạch đặt ra: Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân 7,5%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp – công nghiệp xây dựng – dịch vụ là 27,06% - 42,36% - 30,58%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009 là 860 USD
Về công tác tài chính:Tổng thu ngân sách trên địa bàn 2.381 tỷ đồng (trong đó có 199,7 tỷ đồng Trung ương trả địa phương khoản chi những năm trước cho đường 39A đoạn Km31-Km36), đạt 114,3% KH tỉnh giao, tăng 26,1% so cùng kỳ; trong đó: Thu xuất, nhập khẩu 500 tỷ đồng, đạt 79,3% KH, giảm 20,1% so CK; thu nội địa 1.450 tỷ đồng, đạt KH, tăng 10,81% so CK (có 290 tỷ thu tiền sử dụng đất); Thu xổ số kiến thiết 5 tỷ đồng, đạt KH năm.
Chi ngân sách đảm bảo đúng dự toán, đảm bảo phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; xử lý kịp thời các nhiệm vụ phát sinh
Về sự nghiệp GD – ĐT: Sự nghiệp giáo dục và đào tạo ổn định và phát triển. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn tăng trên 20% so với năm 2008. Công tác xã hội hoá giáo dục có bước phát triển tốt. Thành lập mới 02 trường cao đẳng, 2 trường THPT và chuyển đổi 5 trường THPT dân lập sang tư thục. 100% tre em 5 tuổi vào lớp 1, 100% học sinh lớp 5 vào lớp 6; tốt nghiệp THCS đạt 97,7%, tốt nghiệp THPT đạt 97%, xếp thứ 16 so với cả nước (tăng 6 bậc so với 2008), tỷ lệ học sinh thi đỗ vào đại học và cao đẳng đạt 37,1%; số điểm bình quân thi vào đại học xếp thứ 2 cả nước. Toàn tỉnh hiện có 153 trường chuẩn quốc gia; học sinh giỏi quốc gia năm 2009 đạt 39 giải, trong đó 2 em đạt giải nhất môn hoá và tin, một học sinh đạt giải Olimpic hoá quốc tế. Cơ sở vật chất cho giáo dục được tăng cường, tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng ở bậc Mầm non 53,38%, Tiểu học 78,41%, THCS 84,87%, THPT 77,62%, GDTX 74,38%. Đã có 258 phòng học được xây mới hoàn thành đưa vào sử dụng. Đang tích cực triển khai thực hiện đề án kiên cố hoá trường, lớp học giai đoạn 2008-2012 bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và ngân sách địa phương;
Công tác đào tạo nghề được quan tâm; đã thành lập mới 1 trường trung cấp nghề (trường trung cấp nghề Việt Thanh), đang trình duyệt thành lập 2 trường cao đẳng nghề (trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghệ LOD và trường cao đẳng Bách nghệ). Ngành nghề đào tạo đa dạng hơn, đã triển khai dạy 51 nghề cho người lao động. Đã giới thiệu được việc làm cho trên 85% lao động sau đào tạo. Năm 2009 đã đào tạo cho 43,5 nghìn lao động (ngắn hạn 38,4 nghìn, dài hạn 5,1 nghìn), nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 37,5%.
Về y tế : Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Tổ chức tốt công tác khám, chữa bệnh cho người nghèo, đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi. Triển khai thực hiện tốt các dự án đầu tư xây dựng theo quyết định số 47/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh. Công tác phòng chống HIV/AIDS được quan tâm, đảm bảo trên 80% số người nhiễm HIV/AIDS được quản lý tại cộng đồng.
Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được quan tâm, mở rộng các hoạt động truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, duy trì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 0,95%.
Về văn hoá - xã hội : cũng phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Tỉnh có nhiều di tích lịch sử, đặc biệt khu di tích lịch sử như đền thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão đời nhà trần thế kỷ 13 ( huyện Ân Thi ), hay đền thờ Nguyên Phi ỷ Lan ( huyện Văn Lâm ), đền thờ Chử Đồng Tử – Tiên Dung ( huyện Khoái Châu ) hàng năm thu hút khá nhiều khách thập phương.
2.1.2. Vài nét về hoạt động GD THPT trên địa bàn Hưng Yên trong thời gian qua
Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự nghiệp GD đối với sự phát triển KT - XH của tỉnh, đặc biệt là GD THPT – là cấp bậc kết thúc của việc nâng cao dân trí ( THCS ) và là bước chuyển tiếp lên việc nâng cao nhân lực (THPT ), làm cơ sở cho việc đào tạo nhân tài ( ĐH, CĐ, THCN...) sau này nên các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân toàn tỉnh đã khắc phục mọi khó khăn, cùng nhau đầu tư sức người, sức của vào sự nghiệp GD THPT. Tỷ lệ chi cho con người trong GD THPT là tương đối cao trong những năm gần đây, vào khoảng 80 – 85%. Chính vì được sự quan tâm hết mình của các ngành, các cấp mà GD THPT đã đạt được những kết quả đáng kể, điều đó thể hiện rõ ở chất lượng, quy mô và các hình thức GD THPT phong phú.
Trước hết nói về hệ thống trường lớp: Hiện nay ở Hưng Yên đang tồn tại 2 loại hình GD THPT , đó là các trường công lập và dân lập trong đó hệ thống trường công lập luôn giữ vai trò nòng cốt, luôn đảm bảo về chất lượng giảng dạy – học tập và ngày càng phát triển về quy mô.
Các trường dân lập là loại hình mới mẻ, chỉ xuất hiện trong khoảng hơn chục năm trở lại đây nhưng qua các năm hoạt động thì số lượng ngày càng tăng. Cụ thể: năm học 2009 – 2010 có 11 trường THPT dân lập với 152 lớp và 7341 học sinh
Đối với trường công lập: Hiện nay tỉnh Hưng Yên có 26 trường THPT. Quy mô phát triển sự nghiệp GD THPT ở Hưng Yên thể hiện rõ qua mạng lưới trường lớp ngày càng mở rộng và số lượng học sinh cũng không ngừng tăng lên qua các năm học, cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 1 : Quy mô GD THPT ở Hưng Yên trong các năm học
Năm học
2007- 2008
2008 - 2009
2009 – 2010
Số trường
35
35
37
Số lớp
1008
1008
910
Số học sinh
46.657
39.531
40.584
Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch – tài vụ. Sở GD - ĐT Hưng Yên
Qua bảng số liệu ta thấy năm học 2007 – 2008 số trường học là 35 và năm học 2009 – 2010 tăng thêm 2 trường. Số học sinh năm 2008 – 2009 tăng so với năm học trước là 1053 học sinh, số lượng học sinh trong các trường công lập ngày càng tăng lên, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân.
Cùng với quy mô trường, lớp tăng lên thì tương ứng với nó phải có sự tăng lên của đội ngũ giáo viên. Ngoài số giáo viên trẻ mới vào nghề thì phần lớn giáo viên dạy tại trường dân lập là giáo viên ở các trường công lập về hưu, hoặc là giáo viên vừa dạy ở trường công lập, vừa nhận dạy thêm tại các trường dân lập. Số lượng giáo viên dạy công lập được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2 : Đội ngũ giáo viên THPT trong các năm học
Năm học
2007 - 2008
2008 - 2009
2009 – 2010
Số giáo viên
2234
2357
2519
Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch – tài vụ. Sở GD - ĐT Hưng Yên.
Qua bảng số liệu ta thấy số giáo viên năm 2008 –2009 tăng 123 người so với năm học trước, năm 2009 – 2010 tăng 162 người so với 2001 – 2002 . Đội ngũ giáo viên hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng giảng dạy, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao thông qua việc các cấp lãnh đạo tạo điều kiện cho giáo viên của các trường đi học nâng cao chuyên môn dưới nhiều hình thức như bồi dưỡng thường xuyên, học cao học, thi giáo viên dạy giỏi. Đội ngũ giáo viên luôn tâm huyết với nghề, cống hiến và luôn nỗ lực hết mình cho sự nghiệp GD THPT. Đến năm 2009, số giáo viên đạt chuẩn hoá là 95%, đạt trên chuẩn là 8.8%.
Về chất lượng GD THPT : Phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm: chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên, nền tảng cơ sở và chất lượng giáo dục ở các cấp bậc dưới ( Tiểu học và THCS ), phụ thuộc vào sự quan tâm đầu tư của các ngành các cấp đối với công tác GD THPT... Để đánh giá được chất lượng GD THPT là cao hay thấp, người ta thường xem xét trên các tiêu chí sau:
+ Tỷ lệ học sinh xếp loại học lực, xếp loại văn hoá.
+ Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp tú tài.
+ Tỷ lệ học sinh đỗ ĐH, CĐ, THCN.
Chất lượng GD THPT được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Chất lượng GD THPT năm học 2007 – 2008 và 2008 – 2009
Năm học
Xếp loại văn hoá
Xếp loại hạnh kiểm
Giỏi
( % )
Khá
( % )
TB
( %)
Y- K
( % )
Tốt
( %)
Khá
( %)
TB
( % )
Y-K
( % )
2007 - 2008
2,54
30,54
58,75
8,17
50,86
36,74
10,86
1,54
2008 - 2009
2,73
29,75
57,37
10,15
50,75
36,73
10,2
2,32
Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch - tài vụ. Sở GD - ĐT Hưng Yên.
Qua bảng số liệu trên ta thấy chất lượng GD THPT của Hưng Yên có xu hướng phát triển mặt văn hoá xong vấn đề hạnh kiểm đạo đức lại đang có chiều hướng đi xuống.Tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng lên, đặc biệt là ở các trường THPT chuyên Hưng Yên, THPT Khoái Châu, THPT thành phố Hưng Yên...chất lượng chung tương đối ổn định, đồng đều giữa các trường; xong tỷ lệ học sinh yếu kém có xu hướng tăng 1,98% so với năm học 2007 – 2008
Về tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT: năm học 2007 – 2008 tỷ lệ này là 96,9%; đến năm họ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26890.doc