Lời mở đầu
Ngày nay, trong xu hướng quốc tế hoá toàn cầu của nhân loại, hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng mạnh mẽ, trở thành một lĩnh vực quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế trong nước nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Song khi nền kinh tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa người mua và người bán càng trở nên phức tạp, đa dạng, với tư cách là chất xúc tác cho thương mại quốc tế, công tác thanh toán quốc tế đã
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không ngừng đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế
Là một nước nằm trong khu vực Đông Nam á, một khu vực có nền kinh tế sôi động đã thu hút được nhiều sự quan tâm và đầu tư của nước ngoài, Việt Nam đã không ngừng tự đổi mới mình để có thể tham gia vào quá trình hợp tác quốc tế, thành quả đạt được của chúng ta trong những năm qua là sự đền đáp cho những nỗ lực đó, trong thời gian tới, các doanh nghiệp trong nước được khuyến khích xuất khẩu nhằm tăng cường nguồn lực kinh tế trong nước. Đây cũng là giai đoạn giao thời với hệ thống pháp luật và kiến thức về kinh tế thị trường còn chưa theo kịp với nhịp độ phát triển kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các ngân hàng thương mại đang phải tự tìm cách khẳng định mình trong nước và trên trường quốc tế.
Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng rộng rãi nhất trong các phương thức thanh toán bởi sự tiện lợi, cũng như sự an toàn và nhanh chóng của nó. Kể từ khi nền kinh tế nước ta mở cửa, tạo được uy tín với bạn hàng trên khắp thế giới thì phương thức này cũng được sử dụng chủ yếu trong thanh toán xuất nhập khẩu của nước ta. Tuy nhiên, vì còn là một nước ít kinh nghiệm trong hoạt động thanh toán quốc tế nên các Ngân hàng Thương mại Việt nam vẫn thường xuyên gặp phải những rủi ro trong thanh toán với nước ngoài; đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán bằng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ của Ngân hàng. Ngân hàng Công thương Việt nam nói chung và Ngân hàng Công thương chi nhánh Thanh Xuân nói riêng hiện nay là một trong những NHTM quốc doanh uy tín hàng đầu trong thanh toán quốc tế hiện nay ở Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ hiện nay, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân” nhằm đưa ra một số giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả của công tác này tại NHCT chi nhánh Thanh Xuân. Tuy nhiên, do trình độ có hạn nên đề tài không khỏi còn có những chỗ thiếu sót, em kính mong các thầy, cô xem xét, điều chỉnh để đề tài có tính khả thi hơn.
Em xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo, đặc biệt cho em gửi lời cám ơn tới T.S Nguyễn Thị Chiến đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề kết cấu làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về thanh toán quốc tế và thanh toán tín dụng chứng từ.
Chương 2: Thực trạng công tác thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Thanh Xuân.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Chương 1
tổng quan về thanh toán quốc tế và thanh toán
tín dụng chứng từ.
1.1.kháI niệm:
Khái niệm về thanh toán quốc tế:
Nền kinh tế thế giới phát triển dựa trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của sự hợp tác và phân công lao động quốc tế. Phân công lao động quốc tế đi cùng với sự phân bố không đồng đều các nguồn lực tạo nên lợi thế tương đối của các quốc gia. Từ đó, nảy sinh giao lưu hàng hoá qua biên giới của các quốc gia, và đi theo đó là dòng thanh toán.
Thanh toán quốc tế với sự tham gia của hệ thống các Ngân hàng thương mại đã ngày càng đa dạng và được áp dụng hết sức linh hoạt nhằm mục đích là phục vụ một cách nhanh chóng nhất và thuận lợi nhất các giao dịch thương mại quốc tế.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại, tài chính, tín dụng và các dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại bằng cách chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế xét từ góc độ kinh tế được chia làm 2 lĩnh vực: thanh toán mậu dịch và thanh toán phi mậu dịch.
Các đồng tiền được sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế là: tiền tệ quốc tế (SDR, EURO…) và tiền tệ của các nước phát triển (USD, GBP, JPY…). Việc sử dụng đồng tiền nào để thanh toán đã được các bên tham gia thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.
Hệ thống giao dịch sử dụng trong thanh toán quốc tế hiện nay chủ yếu là hệ thống SWIFT (Society worldwide interbank financial telecommunication) ước tính chiếm khoảng 72%, phần còn lại thực hiện thông qua điện tín, thư dưới các hình thức uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ lẫn nhau giữa các Ngân hàng, tỷ lệ tiền mặt chiếm không đáng kể.
Bên cạnh yếu tố tiền tệ, một yếu tố không kém phần quan trọng trong hoạt động thanh toán quốc tế là các chứng từ. Chứng từ là cơ sở để người thụ hưởng có quyền được đòi tiền và là căn cứ để người trả tiền chấp nhận nợ hoặc từ chối nghĩa vụ chi trả của mình. Các chứng từ được tạo lập theo các luật lệ, tập quán của mỗi quốc gia và phù hộ với thông lệ quốc tế, chúng có thể trở thành đối tượng chuyển nhượng, mua bán giữa các Ngân hàng. Số lượng, loại và cách tạo lập chứng từ phụ thuộc vào phương thức thanh toán mà các bên thoả thuận.
Do đặc tính thuận lợi và nhanh chóng của phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cùng với sự phát triển của công nghệ Ngân hàng, nên hình thức thanh toán quốc tế không dùng tiền mặt được sử dụng là chủ yếu. Hình thức được áp dụng chủ yếu trong thanh toán không dùng tiền mặt là chuyển khoản. Và do vậy các Ngân hàng liên quan phải ký kết với nhau bản “Thoả ước Ngân hàng”. Đây là một trong những khâu đầu tiên xúc tiến quan hệ thanh toán quốc tế. Thoả ước này cho phép các Ngân hàng thiết lập quan hệ thanh toán quốc tế. Thoả ước này cho phép các Ngân hàng thiết lập quan hệ đại lý, quy định cụ thể về việc mở tài khoản, trao đổi mẫu chữ ký, mã điện tín, hạn ngạch thanh toán…
Có thể thấy thanh toán quốc tế là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Thanh toán quốc tế là khâu kết thúc của giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ; là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua chi trả lẫn nhau trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế . Thanh toán quốc tế góp phần giải quyết mối quan hệ hàng hoá tiền tệ quốc tế, tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá trên phạm vi quốc tế.
1.1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu:
Trong thanh toán quốc tế việc lựa chọn phương thức thanh toán có ý nghĩa quan trọng, nó quyết định tới hiệu quả cũng như tránh được rủi ro trong kinh doanh cho các bên tham gia thanh toán. Phương thức thanh toán là chỉ việc người bán dùng cách nào để thu tiền, người mua trả tiền như thế nào. Có nhiều loại phương thức thanh toán khác nhau, phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa người mua và người bán, đặc điểm của hàng hoá cũng như sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường mà người ta sử dụng phương thức thanh toán cho thích hợp. Mỗi phương thức có những ưu nhược điểm riêng và chứa đựng nhân tố rủi ro đối với cả bên mua cũng như bên bán. các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu được sử dụng hiện nay bao gồm:
Phương thức Chuyển tiền;
Phương thức thanh toán Nhờ thu;
Phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ
A/ Phương thức Chuyển tiền:
Chuyển tiền là phương thức thanh toán, theo đó người trả tiền yêu cầu Ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi ở một địa điểm nhất định.
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền.
NH trả tiền
NH chuyển tiền
(3)
(2) (4)
Người thụ hưởng
Người yêu cầu CT
(1)
Trong đó:
Người xuất khẩu chuyển giao hàng và bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu
Người nhập khẩu sau khi kiểm tra hàng hoá (hoặc bộ chứng từ hàng hoá), nếu thấy phù hợp yêu cầu theo thoả thuận đôi bên, lập giấy uỷ nhiệm chuyển tiền (lệnh chuyển tiền) gửi tới ngân hàng phục vụ mình
Ngân hàng chuyển tiền lập thủ tục chuyển tiền qua Ngân hàng đại lý (hoặc chi nhánh) – ngân hàng trả tiền.
Ngân hàng trả tiền thanh toán cho người thụ hưởng.
Chuyển tiền là phương thức thanh toán trực tiếp giữa người mắc nợ và chủ nợ. Phương thức này rất đơn giản, ở đây Ngân hàng chỉ giữ vai trò trung gian thực hiện thanh toán theo uỷ nhiệm hưởng hoa hồng, không bị ràng buộc gì về trách nhiệm. Khi áp dụng phương thức này thì giữa hai bên mua và bán phải có tín nhiệm nhau rất cao. Vì vậy, chuyển tiền rất ít được sử dụng trong thanh toán hàng hoá ngoại thương mà thường được sử dụng trong quan hệ trả nợ, tiền đặt cọc, tiền ứng trước, trả tiền thừa, tiền bồi thường và thanh toán những chi phí phi mậu dịch.
Có hai hình thức chuyển tiền là:
Chuyển tiền bằng thư – Mail Transfer (M/T)
Chuyển tiền bằng điện- Telegraphic Transfer (T/T)
Hình thức chuyển tiền bằng điện nhanh hơn nên có lợi cho nhà xuất khẩu nhưng chi phí lại cao; còn hình thức chuyển tiền bằng thư thì chậm nhưng chi phí thấp. Hiện nay, việc chuyển tiền qua mạng SWIFT nhanh, an toàn mà lại rẻ.
B/ Phương thức thanh toán Nhờ thu:
Phương thức Nhờ thu là phương thức thanh toán, trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, lập bộ chứng từ thanh toán, uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua trên cơ sở chứng từ thanh toán do mình lập ra.
Các bên tham gia phương thức Nhờ thu gồm:
Người xuất khẩu là người phát hành hối phiếu (Drawer)
Ngân hàng xuất khẩu là Ngân hàng nhận sự uỷ thác của người bán và làm thủ tục chuyển chứng từ tới Ngân hàng nhà nhập khẩu (Remitting bank)
Ngân hàng đại lý của Ngân hàng xuất khẩu là Ngân hàng ở nước người mua làm nhiệm vụ thu hộ tiền (Collecting Bank)
Người nhập khẩu là người trả tiền (Drawer)
Các loại nhờ thu:
Nhờ thu phiếu trơn – Clean Collections:
Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền người nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu.
Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ nhờ thu trơn.
NH xuất trình
NH nhận uỷ thác thu
(3)
(6)
(2) (7) (4) (5)
Người nhập khẩu (NK)
Người xuất khẩu (XK)
(1)
Quy trình nhờ thu trơn gồm:
(1) Bên XK chuyển giao hàng hoá, đồng thời chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá cho bên NK
(2) Bên XK lập hối phiếu đòi tiền bên NK và thư uỷ nhiệm gởi ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền ở người NK.
(3) Ngân hàng phục vụ bên XK chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên NK để nhờ thu tiền người NK
(4) Ngân hàng phục vụ người NK đòi tiền người NK (hoặc yêu cầu ký chấp nhận hối phiếu)
Bên NK thanh toán tiền hoăc ký chấp nhận Hối phiếu
Chuyển tiền qua ngân hàng phục vụ bên XK hoặc chuyển trả Hối phiếu
NH phục vụ bên XK thanh toán tiền cho bên XK hoặc chuyển trả HP
Đặc trưng cơ bản của thanh toán nhờ thu phiếu trơn là việc trả tiền không căn cứ vào chứng từ hàng hoá mà chỉ dựa vào hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát. Việc nhà xuất khẩu có nhận được giá trị hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện hay không phụ thuộc vào thiện chí và khả năng tài chính của nhà nhập khẩu. Rủi ro đối với nhà xuất khẩu là rất lớn. Vì vậy, nhờ thu phiếu trơn thường chỉ áp dụng trong những trường hợp mà nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thật sự tin tưởng lẫn nhau; hoặc cùng một công ty mẹ; hoặc khi thanh toán dịch vụ có liên quan tới xuất khẩu hàng hoá như cước phí vận tải, bảo hiểm, phạt bồi thường.v.v…
Nhờ thu kèm chứng từ – Documentary Collection:
Là một hình thức thanh toán nhờ thu, trong đó bên XK uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người NK, không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo, với yêu cầu là ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ hàng hóa cho người NK sau khi họ đã thanh toán tiền hoặc ký chấp nhận trả tiền trên hối phiếu có kỳ hạn.
Sơ đồ 1.3: Quy trình nghiệp vụ Nhờ thu kèm chứng từ (D/A và D/P)
(3)
NH nhận uỷ thác thu
NH xuất trình
(7)
(2) (8) (6) (5) (4)
Người xuất khẩu (XK)
Người nhập khẩu (NK)
(1)
Trong đó:
Bên XK xuất chuyển hàng hoá cho bên NK
Bên XK lập bộ chứng từ thanh toán (gồm chứng từ hàng hoá và hối phiếu) gửi tới ngân hàng nhờ thu hộ tiền ở người NK
Ngân hàng nhận uỷ thác thu chuyển bộ chứng từ thanh toán qua ngân hàng xuất trình, nhờ thu hộ tiền ở người NK
Ngân hàng xuất trình thu tiền ở người NK (hoặc yêu cầu người NK ký chấp nhận hối phiếu)
Người NK trả tiền (hoặc ký chấp nhận hối phiếu)
Ngân hàng xuất trình trao bộ chứng từ hàng hoá để người NK đi nhận hàng
Chuyển tiền qua ngân hàng nhận uỷ thác thu
Thanh toán tiền cho người XK
Nhờ thu kèm chứng từ được thực hiện dưới 2 hình thức: Trả tiền đối với chứng từ (Documents against Payment –D/P) và chấp nhận thanh toán đổi chứng từ (Documents against Acceptance – D/A).
C/ Phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ (Documentary Credit):
Phương thức Tín dụng chứng từ là một cam kết của Ngân hàng phát hành thanh toán có điều kiện. Đầy đủ hơn, Tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết của một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng – Issuing Bank) cho người bán (hoặc người hưởng lợi –Beneficiary) theo yêu cầu của người mua (Applicant) để trả ngay hoặc tới một thời điểm xác định trong tương lai và căn cứ vào các chứng từ đã quy định phù hợp với các điều khoản trong thư tín dụng (Letter of Credit – L/C)
Các bên tham gia trong phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ:
Người nhập khẩu, là người làm đơn yêu cầu mở thư tín dụng (The Applicant)
Người xuất khẩu, là người thụ hưởng L/C ( The Beneficiary)
Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank)
Ngân hàng thông báo L/C (Advising Bank)
Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank) (nếu có)
Ngân hàng hoàn trả (Reimbursing Bank) (nếu có)
Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): tuỳ trường hợp cụ thể, Ngân hàng được chỉ định có thể là : ngân hàng trả tiền, Ngân hàng chấp nhận hay Ngân hàng chiết khấu.
Sơ đồ 1.4: Quy trình nghiệp vụ thanh toán Tín dụng chứng từ
NH thông báo
NH phát hành
(8)
(7)
(2)
(10) (9) (1) (3) (5) (6)
Người yêu cầu mở L/C
Người thụ hưởng
HĐTM
(4)
Trong đó:
(1) Trên cơ sở hợp đồng thương mại, người nhập khẩu viết đơn yêu cầu mở L/C cho người xuất khẩu hưởng .
(2) Ngân hàng nhập khẩu phát hành L/C gửi tới Ngân hàng thông báo.
(3) NH thông báo sẽ thông báo và chuyển giao L/C cho người xuất khẩu
(4) Người xuất khẩu giao hàng trên cơ sở L/C
(5) Người NK lập và xuất trình bộ chứng từ hàng hoá theo quy định của L/C
(6) Ngân hàng được chỉ định thanh toán trên cơ sở bộ chứng từ hàng hoá phù hợp với điều kiện của L/C
(7) NH thanh toán chuyển bộ chứng từ đòi tiền NH phát hành
(8) Ngân hàng phát hành trả tiền đối với bộ chứng từ hoàn hảo
NH phát hành thông báo bộ chứng từ hàng hoá tới người nhập khẩu
Người NK làm thủ tục thanh toán để nhận bộ chứng từ hàng hoá
Trong phương thức Tín dụng chứng từ, Ngân hàng không đóng vai trò bị động như phương thức Chuyển tiền và Nhờ thu mà Ngân hàng phát hành là người đưa ra cam kết đồng thời phải chịu trách nhiệm (hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng khác) thực hiện cam kết thanh toán. L/C là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến và áp dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế nhờ rất nhiều ưu điểm của nó, bởi lẽ phương thức thanh toán L/C tạo khả năng tài trợ cho cả người xuất khẩu và người nhập khẩu, cung cấp hành lang pháp lý cho thương mại quốc tế, công bằng nhất cho cả hai bên mua và bán. Hình thức này được sử dụng rộng rãi ở các thị trường đang phát triển như thị trường Việt Nam.
1.1.3 Thư tín dụng – công cụ quan trọng của phương thức thanh toán L/C:
1.1.3.1 Nội dung của Thư tín dụng (L/C):
Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C) là một cam kết trả tiền có điều kiện của Ngân hàng phát hành đối với người xuất khẩu với điều kiện họ xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C.
L/C được hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại thương đã ký tuy nhiên khi ra đời thì nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. L/C có các nội dung chủ yếu như sau:
Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C: Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng của nó để phân biệt giữa L/C này với L/C khác. Địa điểm và ngày mở L/C để xác định thời điểm hiệu lực của L/C, và còn để xác định hệ thống pháp luật áp dụng khi có tranh chấp xảy ra.
Tên, địa chỉ của các bên liên quan đến L/C: gồm có các thương nhân (người nhập khẩu và người xuất khẩu) và các ngân hàng có liên quan. Tất cả đều đã được hai bên thoả thuận trước và quy định trong hợp đồng.
Số tiền của L/C: Số tiền này phản ánh giá trị của lô hàng. Số tiền bằng chữ và số tiền bằng số phải khớp nhau, tên của đơn vị tiền tệ để tính toán phải đúng như trong hợp đồng.
Thời hạn hiệu lực, thời hạn xuất trình chứng từ, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng: thời hạn giao hàng và thời hạn trả tiền thường được các bên quy định trước trong hợp đồng, còn thời hạn hiệu lực và thời hạn xuất trình chứng từ là do Ngân hàng phát hành quy định trong L/C. Người xuất khẩu phải giao hàng và xuất trình chứng từ trong thời hạn hiệu lực và thời hạn xuất trình thì mới hợp lệ.
Những nội dung về hàng hoá: Tên hàng, số lượng, trọng lượng, quy cách phẩm chất, ký mã hiệu, bao bì...phải được quy định trong L/C
Những nội dung về vận tải và giao nhận hàng hoá: Các điều kiện về cơ sở giao hàng (CIF, FOB, DDU, DDP, EXW, CNF...- theo Incoterms 2000), nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận chuyển và cách giao hàng.
Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình: Đây là nội dung then chốt của L/C, bởi vì bộ chứng từ thanh toán quy định cụ thể trong L/C là bằng chứng để người xuất khẩu chứng minh là đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo đúng điều khoản của L/C. Đó là căn cứ để Ngân hàng phát hành L/C thanh toán tiền hàng.
Sự cam kết trả tiền của Ngân hàng mở L/C: Đây là nội dung quan trọng của L/C, bởi lẽ, điều khoản này xác định sự ràng buộc trách nhiệm của Ngân hàng mở L/C đối với L/C này, tức là Ngân hàng mở L/C cam kết sẽ trả tiền bằng uy tín và trách nhiệm của mình đối với khách hàng.
Những điều khoản khác: Ngoài những nội dung nêu trên, khi cần thiết, Ngân hàng phát hành và nhà nhập khẩu có thể thêm vào các nội dung khác như cho phép đòi hoàn trả bằng điện, quy định thêm về đóng gói...
Chữ ký trên L/C hay mã khoá: L/C thực chất là một cam kết trả tiền có điều kiện của Ngân hàng phát hành. Vì vậy, nếu L/C được mở và gửi cho người xuất khẩu bằng thư thì người ký nó phải là người có chữ ký uỷ quyền. Nếu L/C được gửi bằng điện telex thì L/C phải có mã khoá đúng với quy định giữa hai bên thì L/C mới có giá trị thực hiện.
1.1.3.2. Tính chất của L/C:
Điều 3 trong “Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ” bản sửa đổi số 500 năm 1993 của Phòng thương mại quốc tế (UCP 500), quy định:
“Các thư tín dụng về bản chất là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương mại và các loại hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở cho thư tín dụng, nhưng các ngân hàng bất luận trong trường hợp nào cũng không liên quan đến, hoặc không hề ràng buộc bởi những hợp đồng đó, ngay cả khi thư tín dụng có dẫn chiếu đến hợp đồng đó.”
Như vậy, L/C có tính chất sau: L/C được hình thành trên cơ sở hợp đồng thương mại nhưng khi ra đời, L/C trở nên hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại.
Quả vậy, những điều khoản về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao nhận hàng,thời hạn trả tiền, nơi bốc và dỡ hàng...trong hợp đồng mua bán ngoại thương là căn cứ duy nhất để người nhập khẩu làm đơn mở L/C và cũng là căn cứ để người bán kiểm tra nội dung của L/C để giao hàng. Nhưng vì L/C là cam kết trả tiền của Ngân hàng phát hành đối với người xuất khẩu nên sau khi được mở, L/C trở nên hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Tính chất độc lập của L/C được thể hiện ở nghĩa vụ của Ngân hàng mở đối với người hưởng lợi của L/C (người xuất khẩu) không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người mua và người bán. Ngân hàng mở L/C chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu mở L/C của người mua chứ không căn cứ vào hợp đồng và chỉ căn cứ vào nội dung của L/C và chứng từ của người xuất khẩu xuất trình để thanh toán. Việc thanh toán của ngân hàng không căn cứ vào thực trạng của hàng hoá. Nếu thực trạng của hàng hoá không đúng như quy định của hợp đồng thì hai bên mua bán phải tự giải quyết với nhau, không liên quan đến ngân hàng. Ngoài ra, cho dù người mua không chấp nhận thanh toán nhưng người bán thực hiện đúng theo quy định của L/C thì Ngân hàng mở L/C vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Tính chất nêu trên của L/C đã tạo cho L/C đặc thù riêng và những lợi thế mà các phương thức khác không có được.
1.1.3.3. Các loại L/C:
Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C): Là loại L/C mà Ngân hàng mở có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần sự đồng ý của các bên liên quan. Tuy nhiên, chỉ có thể hủy ngang khi người xuất khẩu chưa giao hàng. Thư tín dụng có thể huỷ ngang chứa đựng nhiều rủi ro cho người hưởng lợi, loại này hiện nay chỉ còn tồn tại trên lý thuyết.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): Là loại L/C mà sau khi đã mở và người xuất khẩu chấp nhận thì Ngân hàng mở không được sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của L/C, trừ khi có sự thoả thuận khác của các bên tham gia. Một L/C không ghi chữ “Irrevocable” thì vẫn được coi là không hủy ngang. Và hiện nay, do quyền lợi của người xuất khẩu được bảo đảm hơn, do đó loại này được sử dụng phổ biến nhất.
Thư tín dụng không huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C): Là loại L/C không thể huỷ bỏ, ngoài ra, theo yêu cầu của Ngân hàng mở, một Ngân hàng khác xác nhận trả tiền cho L/C này. Trong thực tế, Ngân hàng xác nhận thường là Ngân hàng thông báo, nhưng cũng có thể là Ngân hàng khác theo yêu cầu của người xuất khẩu. Trách nhiệm trả tiền của Ngân hàng xác nhận là giống như Ngân hàng phát hành, Ngân hàng phát hành phải ký quỹ tại Ngân hàng xác nhận, tỷ lệ ký quỹ có khi lên tới 100% giá trị L/C xác nhận.
Thư tín dụng huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C): Là loại L/C không huỷ ngang, ngoài ra, sau khi nhà xuất khẩu đã được trả tiền thì Ngân hàng chiết khấu không có quyền đòi lại tiền nhà xuất khẩu trong bất kỳ trường hợp nào. Khi dùng L/C này, trong L/C và trên hối phiếu phải ghi rõ “miễn truy đòi người ký phát” (without recourse to drawer).
Trên đây là một số loại L/C được sử dụng khá phổ biến trong thanh toán quốc tế. Ngoài ra, còn có một số loại L/C đặc biệt như: L/C chuyển nhượng (Transferable L/C); L/C tuần hoàn (Revolving L/C); L/C giáp lưng (Back to back L/C); L/C dự phòng (Standby L/C); L/C đối ứng (Reciprocal L/C)...
1.2. quy trình xử lý chứng từ trong phương thức thanh toán l/C theo quy định chuẩn quốc tế.
1.2.1. Bộ chứng từ trong thanh toán L/C:
Theo quy định, việc thanh toán trong phương thức L/C chỉ dựa trên bộ chứng từ mà không căn cứ vào hàng hoá. Vì thế, bộ chứng từ có ý nghĩa rất quan trọng với các bên liên quan bao gồm người xuất khẩu, người nhập khẩu và ngân hàng. Tuỳ theo từng loại L/C mà các chứng từ cụ thể trong bộ chứng từ, số lượng từng loại là khác nhau. Thông thường, một bộ chứng từ được sử dụng trong thương mại quốc tế bao gồm:
Hối phiếu (Bill of Exchange – B/E)
Séc (Cheque)
Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice)
Vận đơn đường biển (Bill of lading – B/L)
Chứng chỉ chất lượng (Certificate of quality – C/Q)
Chứng chỉ số lượng (Certificate of quantity – C/Q)
Phiếu đóng gói (Packing list)
Hợp đồng bảo hiểm (Insuarance Policy)
Chứng chỉ bảo hiểm (Insuarance Certificate)
Chứng nhận xuất xứ / nguồn gốc (Certificate of Origin – C/O).....
Một vấn đề quan trọng nữa liên quan đến bộ chứng từ là: ngân hàng chỉ thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Bộ chứng từ hoàn hảo, theo UCP 500, là bộ chứng từ mà thể hiện trên bề mặt của nó là hoàn toàn phù hợp với các điều khoản và điều kiện quy định trong L/C và bản thân các chứng từ không mâu thuẫn với nhau. Các chứng từ trong Bộ chứng từ hoàn hảo cần phải phù hợp với nhau, nghĩa là chúng phải có những nội dung cơ bản được kê khai phải phù hợp với nhau, nhằm đảm bảo tính trung thực và chính xác của chứng từ. Các nội dung nhất thiết không được khác nhau giữa các chứng từ trong một Bộ chứng từ hoàn hảo thường bao gồm:
Tên người xuất, nhập khẩu, số điện thoại và điện tín của họ
Số hiệu hợp đồng, số hiệu L/C, điều kiện cơ sở giao hàng
Tên hàng hoá, số lượng, chất lượng, quy cách phẩm chất, ký mã hiệu... của hàng hoá được sử dụng trong giao dịch.
Số tiền liên quan đến giao dịch
Các thông tin về hành trình chuyên chở, số hiệu vận đơn...v.v...
Một Bộ chứng từ có thể được phân thành nhiều nhóm chứng từ khác nhau theo những cách khác nhau. Thông thường, một Bộ chứng từ được phân thành những nhóm chứng từ quan trọng sau: chứng từ tài chính (Hối phiếu, Séc), chứng từ hàng hoá (Hoá đơn thương mại, Phiếu đóng gói, Giấy chứng nhận phẩm chất, chứng nhận số lượng, chứng nhận xuất xứ...), chứng từ vận tải (Vận đơn đường biển, hàng không...), chứng từ bảo hiểm ( Đơn hoặc Hợp đồng bảo hiểm); hoặc cũng có thể được phân loại thành Chứng từ thương mại và Chứng từ tài chính.
Bộ chứng từ hoàn hảo có ý nghĩa rất quan trọng đối với các bên tham gia trong thanh toán. Đối với người xuất khẩu, bộ chứng từ là cơ sở để họ có thể thu được tiền hàng; đối với người nhập khẩu, bộ chứng từ giúp họ trở thành người sở hữu lô hàng và thực hiện trách nhiệm trả tiền của mình; còn với các ngân hàng, bộ chứng từ hoàn hảo là phương tiện và cũng là phương thức để các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ đã cam kết một cách đúng đắn và hưởng phí dịch vụ. Chính vì ý nghĩa quan trọng của bộ chứng từ, do đó, đòi hỏi người xuất khẩu khi lập bộ chứng từ phải có sự hiểu biết đầy đủ về L/C cũng như các thông lệ và quy tắc quốc tế về nó.
1.2.2. Xử lý chứng từ:
Xử lý chứng từ, với các ngân hàng chiết khấu, thuộc bước 6 trong quy trình thanh toán thư tín dụng. Công tác xử lý chứng từ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng, và trong các điều kiện bình thường, thì hầu hết các rủi ro xảy ra đối với các ngân hàng trong phương thức tín dụng chứng từ thường xảy ra ở khâu này. Vì nếu ngân hàng xử lý không tốt thì sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro xảy ra.
Xử lýchứng từ, theo UCP là công việc của ngân hàng để kiểm tra, đối chiếu từng chứng từ với L/C, xem có phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C hay không, và bản thân các chứng từ có mâu thuẫn với nhau hay không hay với UCP hay không. Thông thường, các ngân hàng sẽ kiểm tra sự phù hợp giữa các chứng từ với nhau về:
Số tiền
Ngày phát hành chứng từ (Vận đơn biển, Hối phiếu, Bảo hiểm đơn...)
Các nội dung mô tả về hàng hoá
Đối với ngân hàng phục vụ người xuất khẩu:
Sau khi lập và kiểm tra bộ chứng từ, người XK sẽ xuất trình bộ chứng từ cho NH để được thanh toán tiền. NH sẽ cấp giấy biên nhận chứng từ và tiến hành kiểm tra. Một số trường hợp như sau:
Nếu bộ chứng từ là hoàn toàn hợp lệ, NH sẽ tiến hành chiết khấu truy đòi cho khách hàng (nếu có yêu cầu), với tỷ lệ chiết khấu thường là 90% giá trị Invoice
Nếu bộ chứng từ có bất hợp lệ, NH sẽ kê khai các bất hợp lệ và đưa lại bộ chứng từ để khách hàng sửa lại những chỗ bất hợp lệ đó. NH kiểm tra lại, nếu thấy hoàn toàn hợp lệ, tiến hành chiết khấu cho khách hàng.
Tiếp theo, NH thông báo sẽ gửi bộ chứng từ cho NH phát hành, kèm theo thông báo bộ chứng từ hoàn toàn hợp lệ.
• Trường hợp L/C cho phép đòi tiền bằng điện thì Hối phiếu sẽ được gửi kèm với bộ chứng từ cho NH phát hành, kèm thông báo bộ chứng từ hoàn toàn hợp lệ. Khi nhận được tiền chuyển trả từ NH phát hành, NH thông báo sẽ tiến hành ghi Có và thông báo Có cho khách hàng.
Nếu L/C không cho phép đòi tiền bằng điện, thì Hối phiếu sẽ được gửi kèm bộ chứng từ đến NH phát hành. Trường hợp này, NH thông báo sẽ tính lãi chiết khấu đối với số tiền chiết khấu (nếu có nghiệp vụ này). Khi nào nhận được số tiền thanh toán từ NH phát hành, NH thông báo sẽ ghi Có phần còn lại cho khách hàng, sau khi đã trừ đi phần tiền lãi chiết khấu.
Đối với NH phát hành:
Sau khi tiếp nhận bộ chứng từ thanh toán, NH phải thông báo ngay cho khách hàng biết để họ có kế hoạch chuẩn bị thanh toán và nhận hàng. Bộ chứng từ sẽ chỉ được trao cho khách hàng sau khi nó đã được kiểm tra, kể cả khi NH nước ngoài đã tuyên bố phù hợp L/C.
Tiêu chuẩn quy định cho bộ chứng từ thanh toán:
Đầy đủ chứng từ cả về số loại và số lượng của mỗi loại
Hoàn chỉnh về mặt hình thức bề ngoài của bộ chứng từ xuất trình
Không mâu thuẫn về cả nội dung và hình thức
Xuất trình bộ chứng từ phải đúng thời gian quy định của L/C
Nguyên tắc kiểm tra bộ chứng từ:
Ngân hàng chỉ kiểm tra với sự cẩn trọng thích đáng để đảm bảo hình thức này có phù hợp với những quy định trong L/C chứ không thể kiểm tra được tính xác thực của bộ chứng từ. Việc kiểm tra được tiến hành theo cách đối chiếu với L/C, đối chiếu giữa các chứng từ với nhau và thường thông qua nhiều bộ phận (thanh toán viên; kiểm soát viên; cán bộ phụ trách bộ phận thanh toán).
Xử lý chứng từ sau khi kiểm tra
Trường hợp bộ chứng từ bất hợp lệ:
Đối với những sai sót do lỗi chính tả không ảnh hưởng tới việc hiểu sai nghĩa, thì ngân hàng thường không bắt lỗi bất hợp lệ trừ trường hợp sai lỗi chính tả trong mô tả hàng hoá
Đối với những bất hợp lệ khác, như: thiếu tên người XK, NK; sai ngày phát hành; số tiền trên các chứng từ không phù hợp với L/C. Nói chung, với những bất hợp lệ lớn, NH sẽ lập một thông báo bất hợp lệ, trong đó ghi đầy đủ bất hợp lệ, gửi cho người NK và đề nghị họ cho biết ý kiến trong vòng 5 ngày, kể từ ngày NH nhận được bộ chứng từ; nếu không có phản hồi, NH sẽ thông báo từ chối thanh toán.
Nếu chấp nhận những bất hợp lệ này, nhà NK phải gửi công văn chấp nhận bất hợp lệ đến NH và tiến hành làm thủ tục thanh toán.
Đối với những bộ chứng từ đòi tiền và đã trả tiền bằng điện:
Đối với những bộ chứng từ nước ngoài thông báo phù hợp, khi kiểm tra, nếu có phát hiện sai sót, NH sẽ yêu cầu bằng điện với nước ngoài, yêu cầu họ hoàn trả lại số tiền đã thanh toán; đồng thời thông báo để khách hàng biết.
Đối với bộ chứng từ nước ngoài thông báo không phù hợp, sau khi kiểm tra, nếu phát hiện thêm những sai sót khác, NH điện báo ngay cho nước ngoài biết và tiếp tục từ chối thanh toán, chờ sự định đoạt của họ; đồng thời thông báo cho khách hàng biết.
Đối với bộ chứng từ đòi tiền bằng thư :
Thông báo ngay cho khách hàng bằng văn bản, trong đó chỉ rõ các bất hợp lệ và yêu cầu khách hàng trả lời trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của NH.
Nếu người NK không chấp nhận bất hợp lệ, NH sẽ thông báo ngay cho nước ngo._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0042.doc