Một số giải pháp nhằm hoàn thiện & nâng cao hiệu quả nghiệp vụ Kế toán cho vay tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

Lời mở đầu Với một nền kinh tế đang ngày càng phát triển không ngừng và cùng hội nhập với nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi mỗi một thành phần trong xã hội phải cố gắng để khơi dậy được những tiềm năng, những nguồn lực cùng tham gia vào mọi hoạt động làm sao để tiến kịp các nước trên thế giới thoát khỏi được cảnh trì trệ, chậm phát triển. Hoà cùng nhịp đập của nền kinh tế thì ngành Ngân hàng cũng góp một phần không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh Ngân

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện & nâng cao hiệu quả nghiệp vụ Kế toán cho vay tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng. Làm thế nào để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh, nhất là kinh doanh tiền tệ, luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà lãnh đạo Ngân hàng. Không một Ngân hàng nào lại muốn mình tồn tại trong tình trạng thua lỗ. Hoạt động kinh doanh là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. Nó có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế quốc dân, đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mỗi NHTM. Trong đó nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tài sản có của Ngân hàng. Đây là nguồn vốn huy động chủ yếu của khách hàng nên Ngân hàng phải có trách nhiệm sử dụng nó có hiệu quả. Vì như chúng ta đã biết lợi nhuận thu được qua hoạt động này thường chiếm từ 80% -> 90% lợi nhuận thu được của Ngân hàng. Là một đơn vị không thể thiếu trong hệ thống NHNo & PTNT VN. Từ khi thành lập đến nay SGDI NHNo & PTNT đã tập trung vốn cho vay theo những mục tiêu kinh tế lớn của đất nước góp một phần không nhỏ vào thành tích chung của toàn hệ thống. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của nghiệp vụ tín dụng và tính pháp lý cao của các khoản vay nên kế toán cho vay tại SGDI cũng rất phức tạp và một số bất cập ít nhiều có ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó đòi hỏi phải có biện pháp trong kế toán cho vay thì mới có thể nâng cao được chất lượng tín dụng và chất lượng nghiệp vụ kế toán. Nhận thức được tầm quan trọng và mức độ phức tạp của kế toán cho vay, trong thời gian thực tập tại SGDI em đã chọn đề tài : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kế toán cho vay tại SGDI làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Đề tài được kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương I: Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hệ thống Ngân hàng. Chương II: Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Kế toán cho vay là lĩnh vực rất phức tạp, nguồn tài liệu tham khảo không nhiều và khả năng có hạn, khoá luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị phòng kế toán để khoá luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn. Khoá luận được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Hương Giang. Giáo viên Khoa Kế toán - Kiểm toán, các anh chị phòng kế toán nơi em đã thực tập. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2003 Chương I lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hệ thống Ngân hàng 1.1. Tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 1.1.1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng. Không chỉ đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng hoá mà ở thời kỳ quan liêu bao cấp cũng vậy, nhu cầu của con người ngày càng đòi hỏi mình phải được thoả mãn nhiều hơn nữa, nhưng mình lại không thể thoả mãn nhiều hơn nữa, nhưng mình lại không thể thoả mãn trong khi đó lại có một số người có thể đáp ứng được nhu cầu của mình. Bắt buộc người có nhu cầu đó phải tìm đến người có thể đáp ứng yêu cầu đó, tất nhiên sau này sẽ trả cả gốc và lãi. Quan hệ như vậy gọi là quan hệ tín dụng, có nghĩa là vay mượn lẫn nhau trên cơ sở trả gốc và lãi. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng nhưng chung quy lại thì nó đều thể hiện hai nội dung chính sau đây: Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất đinhj. Thứ hai: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở hữu với một giá trị lớn hơn khi đến hạn. Và ta co thể định nghĩa tín dụng một cách đầy đủ như sau: tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Qua đó ta có thể thấy được bản chất của tín dụng là như thế nào, nó chính là quan hệ tin tưởng giữa người đi vay như thế nào, nó chính là quan hệ tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay thông qua sự vận động của giá trị. Quan hệ tín dụng có những đặc trưng sau: Một: Là quan hệ đảm bảo tính hoàn trả giá trị mang tính chất tạm thời. Hai: Là đảm bảo tính hoàn trả về thời gian và giá trị. Ba: Là quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay. Nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có của quá trình tái sản xuất xã hội, đó là: cùng một lúc có chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn đang nằm im ở các chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tiến hành liên tục. Nhưng thực tế hai chủ thể kinh tế này khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm, nên để thoả mãn được nhu cầu của cả hai chủ thể này thì cần thiết phải có một người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, đầu tư kiếm lãi. Trên cơ sở số vốn tập trung được phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai khác chính là các tổ chức tín dụng trong đó chủ yếu là các Ngân hàng thương mại. Việc các Ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối dưới hình thức cho vay gọi là tín dụng Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động tín dụng không ngừng phát triển và hoàn thiện trở thành hình thức tín dụng Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng là trung gian tín dụng giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa người đi vay và người cho vay. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng có tác động qui định đến sự phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển góp phần đưa đất nước mình ngày càng phát triển và tiến kịp các nước trên thế giới. 1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng. Với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nền kinh tế thị trường trong nước và Quốc tế đòi hỏi nền sản xuất hàng hoá phải phát triển mạnh mẽ để thâm nhập được vào thị trường Quốc tế. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng hoàn thiện hơn phải nói đến vai trò của tín dụng Ngân hàng. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự sống còn của nền kinh tế. Và như chúng ta đã biết bản chất của tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay. Nên nó không những có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mà còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với bản thân Ngân hàng. Thứ nhất: nói đến vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế. a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng yêu cầu vốn cho nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng là trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. ở các doanh nghiệp, trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc thừa vốn hay thiếu vốn tạm thời là chuyện bình thường, thông thường người có vốn và người cần vốn không biết nhau, không cùng thời gian và không có điều kiện gặp nhau. Chính vì vậy việc phân phối lại vốn tín dụng của Ngân hàng đã góp phần cung ứng vốn và tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được tiến hành một cách đều đặn và phát triển, ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư nó là động lực kích thích tiết kiệm nói chung và tiết kiệm vốn nói riêng, đồng thời là phương tiến đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Mặt khác trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn cố định và nhất là vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng góp phần đưa vật tư hàng hoá vào sản xuất tạo ra nhứng hàng hoá mới thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào quá trình sản xuất xã hội. Đồng thời tín dụng Ngân hàng còn góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. b. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng về cơ bản nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp tiến hành tái sản xuất và mở rộng sản xuất. Khi mà các doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, muốn vậy phải đổi mới công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, tìm kiếm môi trường kinh doanh mới, đồng thời quan hệ tín dụng ngữa Ngân hàng với các doanh nghiệp có sự ràng buộc trách nhiệm vay trả, do đó buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn của mình sao cho vừa làm ăn có lãi vừa có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho Ngân hàng. Hay nói cách khác Ngân hàng đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển. c. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế chiến lược mũi nhọn. Một trong các hoạt động quan trọng của Ngân hàng là tập trung huy động mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng nằm ngoài quá trình sản xuất kinh doanh, phân tán ở mọi thành phần kinh tế như nằm trong dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức , cơ quan Nhà nước để từ đó phân phối lại vốn vay đối với các thành phần kinh tế, rải đều cho mọi chủ thể kinh tế có nhu cầu. Tuy nhiên quá trình đầu tư tín dụng không phải rải đều cho mọi chủ thể kinh tế có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung có mục đích chủ yếu cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có hiệu quả. Đầu tư tập trung là một quá trình tất yếu, đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hạn chế rủi ro. Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp, trình độ kỹ thuật còn thấp, sản xuất trong nước đang cố gắng đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết cho xã hội. Do đó nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu làm cơ sở để phát triển công nghiệp. Chính vì vậy Nhà nước cần phải tập trung đầu tư vốn để phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác phát triển. Bên cạnh đó phải tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn bởi vì việc phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở để tăng nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước. d. Tín dụng Ngân hàng góp phần điều triết khối lượng tiền trong lưu thông và chống lạm phát. Nền kinh tế hàng hoá luôn chuyển động theo hai chiều hướng phát triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát, cả hai trường hợp đó đều ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Khi Nhà nước hoạch định một chiến lược kinh tế đúng đắn đều phải sử dụng phát huy tối đa vai trò và ưu thế của công cụ tài chính tiền tệ tín dụng Ngân hàng trên các phương diện thì chiến lược kinh tế mới trở thành hiện thực. Chúng ta không thể dùng hình thức huy động vốn bằng việc phát hành tiền. Vì như vậy sẽ dẫn đến khối lượng tiền tệ tăng lên trong lưu thông gây nên lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến gía cả và đời sống xã hội. Như vậy, để thu hút được nguồn vốn đủ lớn để đầu tư vào công trình trọng điểm do chiến lược kinh tế đề ra thì hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Với hình thức này không làm tăng thêm khối lượng lưu thông nên không ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ, giá cả. Như vậy, tín dụng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân công lao động xã hội. e. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Mỗi một quốc gia muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải quan hệ với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế đóng trước kia bây giờ đã nhường chỗ cho nền kinh tế mở phát triển. Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có nền kinh tế chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường Quốc tế. Tín dụng Ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau, bằng các hoạt động tín dụng Quốc tế như các hoạt động tín dụng giữa các Chính phủ, giữa các tổ chức, cá nhân. Sự phát triển ngày càng cao trong hoạt động kinh tế ngoại thương và một số thành viên tham dự hoạt động ngày càng lớn, làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, việc tạo điều kiện thuận lợi về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ thương mại. Hoạt động thương mại ngày càng phát triển thì các hình thức thanh toán trải qua Ngân hàng ngày càng đa dạng. Quản lý kinh tế đối ngoại hoạt động tín dụng thuận lợi bao nhiêu thì mối quan hệ thương mại càng được mở rộng. Thứ hai: là nói đến vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với bản thân Ngân hàng. Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng. Vì như chúng ta biết bản chất của tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay, một mặt đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền sản xuất xã hội, mặt khác đây là nghiệp vụ thu lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng. Kết quả kinh doanh Ngân hàng tốt hay xấu phụ thuộc vào kết quả hoạt động tín dụng Ngân hàng. Do vậy khi tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng từ giai đoạn xét duyệt cho vay đến giai đoạn thanh lý hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo an toàn cho Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng có vai trò qui định đến sự tồn tại của một Ngân hàng từ việc huy động vốn đến việc khi thông sử dụng vốn đó một cách hiệu quả nhất. Nói tóm lại, tín dụng Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với bản thân Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. 1.1.3. Các phương thức cho vay. Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phương thức cho vay. - Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. - Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. - Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó: Có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo qui định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. - Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. - Cho vay theo hạn mực tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các qui định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các qui định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. - Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với qui định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Tuỳ vào đặc điểm của mỗi khách hàng vay vốn và tuỳ vào khả năng đáp ứng nhu cầu của Ngân hàng mà mỗi khách hàng và Ngân hàng lực chọn một phương thức cho vay. Nhưng hiện nay các Ngân hàng áp dụng phổ biến nhất vẫn là hai phương thức cho vay đó là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Sau đây em xin đi sâu vào hai phương thức cho vay này. 1.1.3.1. Phương thức cho vay từng lần. Cho vay từng lần là hình thức cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Đối tượng áp dụng cho phương thức cho vay từng lần là: - áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên. - áp dụng đối với khách hàng có vòng quay vốn lưu động thấp hoặc ít tín nhiệm với Ngân hàng. - áp dụng cho vay đối với cá thể. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi đến cho Ngân hàng hồ sơ tín dụng gồm: Đơn xin vay, những tài liệu thuyết minh cho đơn xin vay: Hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, tài liệu về thế chấp cầm cố tài sản. Sau khi nhận được hồ sơ vay vốn cán bộ tín dụng tiến hành khảo sát, thu thập và phân tích thông tin, để đánh giá những mặt sau: + Tư cách và điều kiện của người vay vốn. + Tính hợp pháp hợp lệ của các loại giấy tờ trong hồ sơ xin vay. + Tiềm năng tài chính của khách hàng. + Mục đích vay vốn và hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ Ngân hàng khi đến hạn. + Tài sản thế chấp, cầm cố. Hay nói cách khác là cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thẩm định, nếu thấy khả thi thì xét duyệt mức cho vay (căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng và nguồn vốn của Ngân hàng, mức vốn tự có của khách hàng). Sau đó trình giám đốc ký duyệt để biết được có cho khách hàng vay hay không. Sau khi đã đi đến quyết định Ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết. Những đơn xin vay đã được Giám đốc Ngân hàng phê duyệt sẽ được chuyển cho cán bộ tín dụng để cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hợp đồng tín dụng nhận nợ. Sau đó đơn xin vay và hợp đồng tín dụng vay tiền được cán bộ tín dụng chuyển cho bộ phận kế toán để cán bộ kế toán tiến hành phát tiền vay. Tuỳ theo mục đích của việc sử dụng vốn vay, trên cơ sở các nhu cầu hợp lý của khách hàng thì Ngân hàng có thể cho vay chuyển khoản để trả thẳng vào tài khoản thư tín dụng, séc bảo chi, cho vay tiền mặt. Thời hạn cho vay của mỗi lần vay được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Sự thoả thuận này căn cứ vào nhu cầu vốn của khách hàng trong bao lâu, đặc điểm của ngành nghề kinh doanh, tính chất nguồn vốn của Ngân hàng. Sau khi thoả thuận xong về thời hạn cho vay thì cán bộ tín dụng ghi vào hợp đồng tín dụng vay tiền. Hầu hết các món vay đều được Ngân hàng phân kỳ hạn nợ và quyết định mức trả nợ mỗi lần. Tuy nhiên đối với các món vay mà khách hàng không có thu nhập thường xuyên hoặc thời hạn vay của khách hàng quá ngắn thì Ngân hàng không phân kỳ hạn nợ mà ghi trên hợp đồng là thời hạn trả nợ cuối cùng. Trong suốt quá trình khách hàng sử dụng vốn vay Ngân hàng phải kiểm tra thường xuyên xem khách hàng sử dụng đúng mục đích không. Thông thường trước ngày đến hạn trả lãi cũng như trả gốc, cán bộ Ngân hàng phải lập và gửi thông báo về khoản nợ đến hạn cho khách hàng biết và chuẩn bị trả tiền. Khách hàng có thể trả trực tiếp bằng tiền mặt cho Ngân hàng hoặc là lập uỷ nhiệm chi đề nghị Ngân hàng trích tài khoản tiền gửi thanh toán của họ để thu nợ. Còn nếu khách hàng không trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ tự động trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ. Số tiền khách hàng không trả cho Ngân hàng sẽ tự động trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ. Số tiền khách hàng không trả cho Ngân hàng thì tuỳ vào từng thời hạn nợ và tuỳ vào từng nguyên nhân mà Ngân hàng có thể cho gia hạn nợ hoặc là chuyển sang nợ quá hạn. Vì những lý do khách quan muốn gia hạn nợ cũng phải làm đơn xin gia hạn nợ trước khi khoản muốn vay đến hạn. Phương thức cho vay từng lần hiện đang được các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam áp dụng rộng rãi nhưng không phải vì thế mà nó không có nhược điểm bên cạnh ưu điểm. + Nhược điểm: - Thủ tục rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người vay. - Có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên hoặc tuỳ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp có nhu cầu vốn trong khi đó phương thức này không đáp ứng được. - Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay nhanh từ doanh nghiệp sẽ sử dụng món vay đó vào nhiều mục đích mà Ngân hàng không kiểm soát được điều này nên tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ, ảnh hưởng đến nguồn vốn Ngân hàng. + Ưu điểm: - Phương thức cho vay này rất linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của Ngân hàng. - Ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ được từng món vay, tính được hiệu quả kinh tế của từng đối tượng cho vay. Từ đó đảm bảo được an toàn vốn cho Ngân hàng. Giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả và tạo được uy tín cao trong lòng khách hàng. 1.1.3.2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay mà Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức cho vay nhất định duy trì trong thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đối tượng áp dụng đối với phương thức cho vay này là: + Các doanh nghiệp mà trong quá trình hoạt động kinh doanh họ thường xuyên có nhu cầu vay trả. + Khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên với Ngân hàng. + Khách hàng có tốc độ luân chuyển vốn tín dụng nhanh khi khách hàng lần đầu có nhu cầu vay vốn Ngân hàng, thì khách hàng phải làm đơn xin vay vốn gửi đến Ngân hàng kèm với kế hoạch vay vốn nhưng chú ý rằng kế hoạch vay vốn này phải được lập dựa trên kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính của họ, sau đó gửi đến nhmf trước kỳ kế hoạch để Ngân hàng xem xét và tính toán cho vay đối với khách hàng. Tuy nhiên có thể xét duyệt được đòi hỏi trong kế hoạch vay vốn mà khách hàng lập gửi cho Ngân hàng phải xác định rõ nhu cầu vay trong quý. Yếu tố này được xác định bằng công thức sau: Nhu cầu vay vốn Nhu cầu sản xuất kinh doanh Vốn lưu động = - Quý kế hoạch Doanh bình quân quý kế hoạch Tự có và tự huy động Trong đó: + Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh bình quân quý kế hoạch và nhu cầu vốn cần thiết để phục vụ cho mọi nhu cầu trong sản xuất kinh doanh từ khâu vật tư hàng hoá nguyên vật liệu cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. + Vốn lưu động tự có và tự huy động: Đó là vốn lưu động do Ngân sách cấp, vốn tự bổ sung, vốn liên doanh, các khoản tạm thời sử dụng như các loại quỹ, các khoản nộp nhưng chưa nộp, lãi chưa phân phối, các khoản vay của cán bộ công nhân viên… Sau khi nhận được các kế hoạch vay vốn do doanh nghiệp gửi đến Ngân hàng, cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định lại để xác định nhu cầu vốn vay đó sao cho chính xác, hợp lý. Mặt khác Ngân hàng tự cân đối nguồn vốn của mình xem xét nguồn vốn Ngân hàng có thể phân bổ cho doanh nghiệp là bao nhiêu. Trên cơ sở nhu cầu vốn vay và khả năng nguồn vốn của Ngân hàng có thể đáp ứng thì khách hàng cùng n hf thoả thuận với nhau về hạn mức tín dụng. Sau khi xác định được hạn mức cho vay thì Ngân hàng và khách hàng xác định thời hạn cho vay theo kế hoạch. Thời hạn cho vay theo hạn mức trung và dài hạn là số ngày của một vòng luân chuyển vốn vay. Thời hạn cho vay được xác định theo công thức sau: TCV = 90 Số vòng quay vốn vay Trong đó: Thời hạn cho vay là TCV Số vòng quay vốn vay TCV Ttđ KH = Doanh số trả nợ kế hoạch Dư nợ bình quân kế hoạch quý Sau khi đã xác định được hạn mức tín dụng và thời hạn cho vay Ngân hàng và khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng cho quý kế hoạch. Khi đã ký kết hợp đồng tín dụng xong, Ngân hàng mở một tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng mang tên doanh nghiệp đó. Hàng ngày khi có phát sinh các khoản chi trả tiền mua vật tư, hàng hoá thanh toán các chi phí sản xuất và lưu thông, dịch vụ… mà trên tài khoản tiền gửi không còn tiền thì doanh nghiệp có thể xuất trình cho Ngân hàng các hồ sơ xin vay vốn sau đây: + Bảng kê giấy tờ thanh toán xin vay vốn (séc, uỷ nhiệm chi….) và xuất trình các chứng từ hoá đơn kèm theo (nếu có). + Hợp đồng mua bán vật tư, hàng hoá (nếu có). Ngân hàng phải xem xét kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ, xem xét mục đích, đối tượng và tính hợp lý của việc xin vay để quyết định số tiền vay phát ra. Phải chú ý là số tiền Ngân hàng giải quyết cho vay từng lần nằm trong phạm vi hạn mức tín dụng được duyệt. Nó được xác định theo công thức sau: Mức cho vay Hạn mức tín Dư nợ thực tế trước = - còn lại dụng quý khi cho vay Khi phát tiền vay, Ngân hàng qui định hướng sử dụng tiền vay dựa trên nguồn gốc phát sinh của các khoản phải trả. Nếu khoản tiền vay là để thanh toán các khoản nợ của những người cung cấp không có tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng thì số tiền cho vay được phát ra bằng tiền mặt. Nếu tiền vay là để thanh toán các khoản nợ vật tư hàng hoá, nhận cung cấp dịch vụ… đối với những đơn vị có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ chuyển thẳng số tiền cho vay cho đơn vị thụ hưởng. Thu nợ thì khác với phương thức cho vay từng lần, phương thức này yêu cầu khi nào doanh nghiệp có thu nhập thì toàn bộ số tiền thu bán hàng và các khoản thu khác thuộc vốn lưu động, doanh nghiệp thông thường phải nộp trực tiếp vào tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng để trả nợ vào hàng ngày trong quý. Nhưng ưu và nhược điểm của phương thức này. + Ưu điểm: - Thủ tục cho vay đơn giản, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời các nhu cầu về vốn vay cho khách hàng, đồng thời có thể vay gộp chung nhiều đối tượng. Vì thế, phương thức cho vay này rất thuận lợi cho khách hàng có nhu cầu vốn thường xuyên. - Phương thức này tiết kiệm vốn tối đa cho người vay vì khi mua nguyên vật liệu hàng hoá thì người vay, khi bán được hàng hoá thì ghi thẳng vào bên có để trả nợ không phải vừa vay vừa đọng tiền gửi như cho vay từng lần. - Ngân hàng dễ nắm tình hình đơn vị vay vì doanh số cho vay thể hiện doanh số mua vào, doanh số thu nợ thể hiện doanh số bán ra. Từ đó biết được hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. + Nhược điểm: - Do Ngân hàng và khách hàng cùng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định nên Ngân hàng luôn phải duy trì một số vốn nhất định để sẵn sàng giải ngân cho người vay làm cho Ngân hàng bị ứ đọng vốn sử dụng. - Về phía khách hàng cũng không muốn Ngân hàng quản lý các khoản thu nhập của mình. Đặc biệt trong trường hợp khách hàng dùng hai tài khoản: Tài khoản cho vay theo hạn mức và tài khoản tiền gửi thanh toán mà trả nợ theo phương pháp trực tiếp. Nếu khách hàng có nhu cầu sử dụng một phần thu nhập vào mục đích tạm thời, khách hàng phải thoả thuận với Ngân hàng lúc này lại rườm rà phức tạp. Điều này không những gây khó khăn cho khách hàng mà còn gây phiền hà cho Ngân hàng. Mỗi một phương thức thì đều có những ưu nhược điểm riêng của nó nhưng hiện nay các Ngân hàng vẫn thường áp dụng phương thức cho vay từng lần. Coi đây là biện pháp tối ưu để đảm bảo an toàn vốn và tạo thế chủ động cho mình. Cả hai phương thức cho vay này còn nhiều điểm chưa phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế thậm chí còn mang nặng tính nguyên tắc cứng nhắc như áp dụng một phương thức cho vay mối đối tượng. Do đó tất yếu ảnh hưởng dây chuyền không tốt cho hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động của Ngân hàng nói chung. Vì thế cần bổ sung một số điểm của để hoàn thiện hoặc tìm ra một phương thức thanh toán mới phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế hấp dẫn khách hàng, đảm bảo án toàn vốn cho Ngân hàng, trên cơ sở đó tăng nhanh vòng quay vốn và thu nhập cho Ngân hàng. Mỗi một phương thức thì đều có những ưu nhược điểm riêng của nó nhưng hiện nay các Ngân hàng vẫn thường áp dụng phương thức cho vay từng lần. Coi đây là biện pháp tối ưu để đảm bảo an toàn vốn và tạo chủ động cho mình. Cả hai phương thức cho vay này còn nhiều điểm chưa phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế, thậm chí còn mang nặng tính nguyên tắc cứng nhắc như áp dụng một phương thức cho vay mọi đối tượng. Do đó tất yếu ảnh hưởng dây chuyền không tốt cho hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động của Ngân hàng nói chung. Vì thế cần bổ sung một số điểm yếu để hoàn thiện hoặc tìm ra một phương thức thanh toán mới phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế hấp dẫn khách hàng, đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng, trên cơ sở đó tăng nhanh vòng quay vốn và thu nhập cho Ngân hàng. 1.2. Tổng quan về kế toán cho vay. 1.2.1. Một số nét chung về kế toán Ngân hàng. Xã hội loài người ngày càng phát triển kéo theo hoạt động sản xuất ngày càng tăng, một số vấn đề quan tâm hàng đầu đặt ra cho con người là làm sao để đạt được lợi nhuận tối đa có nghĩa là hiệu quả đạt cao trong khi đó thì chi phí bỏ ra là ít. Muốn đạt được điều đó, quá trình sản xuất cần phải được định hướng và tổ chức thực hiện theo những định hướng đã định. Từ đó xuất hiện nhu cầu tất yếu phải thực hiện chức năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Và để tiến hành hoạt động quản lý cần phải có thông tin, trong đó quan sát, đo lường, thanh toán và ghi chép các hoạt động là một phương pháp đó chính là hạch toán kế toán. Vậy có thể nói: “Hạch toán kế toán là việc quan sát, đo lường, tính toán, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế”. Như vậy có thể kết luận rằng sự ra đời của hạch toán nói chung và hạch toán kế toán nói riêng là một tất yếu khách quan, do nhu cầu của sản xuất và quản lý đòi hỏi. Như chúng ta đã biết, kế toán Ngân hàng là khoa học và cũng là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp và giải thích các nghiệp vụ tác động đến tình hình tài chính của các Ngân hàng bằng thước đo tiền tệ, nhằm cung cấp thông tin về tình hình và kết quả hoạt động của Ngân hàng, làm cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế liên quan đến mục tiêu quản lý kinh doanh và đánh giá hoạt động của Ngân hàng. Thông thường, kế toán được xác định theo đối tượng phục vụ chủ yếu của nó là: + Các quản trị viên của Ngân hàng: Các quản trị viên của Ngân hàng sử dụng thông tin tài chính do kế toán cung cấp nhằm mục tiêu chủ yếu là giúp cho việc hình thành các quyết định bên trong Ngân hàng, do đó những thông tin này mang tính chất nội bộ, và vì vậy các báo cáo của kế toán có thể không cần phải tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận. + Các nhà đầu ._.tư, cơ quan tài chính, cơ quan luật pháp, thị trường chứng khoán và một số chủ thể khác bên ngoài Ngân hàng. Trong nền sản xuất xã hội, Ngân hàng cũng được xác định là ngành kinh tế tổng hợp và bảo quản một lượng tài sản rất lớn của bản thân Ngân hàng cũng như toàn xã hội gửi tại Ngân hàng. Để quản lý tốt khối lượng tài sản này ngành Ngân hàng dùng công cụ kế toán để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tài sản trong quá trình hoạt động theo chức năng nhiệm vụ của mình. Ngân hàng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác nhau mang tính chất sống còn. ở kế toán là nơi phản ánh tất cả các số liệu liên quan đến hoạt động của Ngân hàng mang lại hiệu quả co đòi hỏi người quản lý phải nhận thức được vai trò của kế toán. 1.2.1.1. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán Ngân hàng. Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế vì nó có tác dụng to lớn trong việc kiểm tra việc thực hiện các chủ tiêu kế hoạch, việc sử dụng vốn, tiền tệ, bảo vệ an toàn tài sản, củng cố và tăng cường chế độ hạch toán kinh tế. Kế toán Ngân hàng là một bộ phận trong hệ thống kế toán của nền kinh tế nên nó cũng phát huy vai trò của kế toán nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động Ngân hàng nên vai trò của kế toán Ngân hàng có khác với vai trò kế toán của các ngành khác: vai trò của kế toán Ngân hàng ở những điểm sau: + Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị Ngân hàng: Hạch toán kế toán cung cấp cho các nhà Ngân hàng biết được tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động trong quá trình sử dụng vốn, huy động vốn, phản ánh và giám sát một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống các loại tài khoản phản ánh nguồn vốn có việc sử dụng vốn trong Ngân hàng. Từ thông tin mà kế toán Ngân hàng cung cấp giúp cho người quản lý đề ra những quyết định điều hành, chỉ đạo kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Trên cơ sở đó đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển. + Cung cấp thông tin tổng hợp để phục vụ quản lý nền kinh tế. Kế toán Ngân hàng có quan hệ mật thiết với hoạt động của nền kinh tế. Mọi hoạt động về kinh tế, tài chính của doanh nghiệp đều được phản ánh thông qua các tài khoản mở tại Ngân hàng. Vì vậy số liệu ghi chép của kế toán Ngân hàng vừa phản ánh được hoạt động nghiệp vụ của ngành và phản ánh được các hoạt động của các ngành khác về tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động của vật tư , lao động, tiền vốn, thu nhập, chi phí, lợi nhuận… Từ đó các đơn vị có đầy đủ thông tin để đề ra các quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính. Do khả năng phản ánh một cách tổng hợp nên kế toán Ngân hàng đã giúp Đảng và Nhà nước nắm được tình hình hoạt động của nền kinh tế, từ đó đề ra được phương hướng phát triển kinh tế một cách sát thực và đúng đắn. + Bảo vệ an toàn tài sản. Ngoài việc bảo vệ an toàn tài sản cho bản thân Ngân hàng thì Ngân hàng còn phải bảo vệ tài sản của khách hàng gửi tại Ngân hàng. Do đó kế toán Ngân hàng phải ghi chép, kiểm soát một cách chặt chẽ mọi loại tài sản để tránh mất mát về mặt số lượng và nâng cao hiệu quả của mọi tài sản về mặt sử dụng. Mặt khác kế toán Ngân hàng có một số chứng từ rất lớn, rất đa rạng đáp ứng nhu cầu của các mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường. Để làm được điều này. Phải tổ chức quy trình luân chuyển chứng từ sao cho có khoa học, có như vậy thì mới đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và khách hàng để phát huy vai trò của mình, kế toán Ngân hàng có các nhiệm vụ sau: + Ghi chép, phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn Ngân hàng theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước. Và theo thể lệ của kế toán hiện hành, trên cơ sở đó để đảm bảo an toàn tài sản (vốn) của bản thân Ngân hàng và của khách hàng, của xã hội được bảo quản tại Ngân hàng. 1.2.1.2. Vai trò nhiệm vụ của kế toán cho vay. Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khh một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Và có thể nói đây là nghiệp vụ cung ứng khối lượng vốn lớn cho nền kinh tế để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, mặt khác là nghiệp vụ sinh lời lớn nhất của các Ngân hàng thương mại. Kế toán cho vay là công việc tính toán, ghi chép một cách đầy đủ chính xác các khoản thu nợ, thu lãi, theo dõi dư nợ tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó bảo vệ an toàn vốn cho vay của Ngân hàng và cung cấp các thông tin cần thiết cho việc quản lý và điều hành hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Do tính chất phức tạp của nghiệp vụ tín dụng và tính pháp lý cao của các khoản vay nên kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh toàn bộ các khoản cho vay cũng trở nên phong phú, phức tạp. Trong quá trình tổ chức hạch toán đòi hỏi phải rất khoa học và chính xác. Một mặt phải tuân thủ các nguyên tắc, chế độ của nghiệp vụ kế toán, mặt khác phải đảm bảo các quy định của chế độ tín dụng. Trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của Ngân hàng thị nghiệp vụ kế toán cho vay có vị trí rất quan trọng vì nó quản lý một bộ phận tài sản rất lớn của mỗi Ngân hàng. Cho nên vai trò của kế toán cho vay cũng gop một phần không nhỏ vào sự thành công của nghiệp vụ tín dụng nói riêng và của cả Ngân hàng nói chung. Sau đây là một số vai trò cơ bản của kế toán cho vay. + Kế toán cho vay giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của Ngân hàng, nó được xác định là nghiệp vụ kế toán phức tạp bở lẽ trong bảng câu đối cho thấy hoạt động cho vay chiếm phần lớn trong tổng tài sản có của Ngân hàng nghĩa kế toán cho vay tham gia vào quá trình sử dụng vốn hoạt động cơ bản của Ngân hàng. + Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp cơ bản, quan trọng và là nghiệp vụ hàng đầu của các Ngân hàng thương mại. Để cho nghiệp vụ này có hiệu quả, năng suất và chất lượng thì công tác kế toán cho vay góp phần không nhỏ qua việc phản ánh một cách rõ ràng, chính xác các nghiệp vụ cho vay, đối tượng khách hàng vay, thời hạn cho vay và phản ánh rõ ràng chất lượng tín dụng để bảo vệ tốt hơn nguồn vốn của Ngân hàng. + Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong công việc chỉ đạo chấp hành chính xác tín dụng tiền tệ của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường với cơ chế tín dụng hiện nay, cụ thể là Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện triển khai áp dụng khung lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế chủ động về vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện tốt công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế cũng như giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân. + Kế toán cho vay tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức kinh tế nhận và hoàn trả vốn nhanh chóng, kịp thời, chính xác trên cơ sở đó để phát triển sản xuất kinh doanh. Và mở rộng lưu thông hàng hoá. + Kế toán cho vay phản ánh tình hình đầu tư vốn vào các ngành kinh tế quốc doanh, các thành phần kinh tế. Thông qua kế toán cho vay có thể biết được phân vị phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư của Ngân hàng vào các thành phần kinh tế đó. + Kế toán cho vay theo dõi hiệu quả sử dụng vốn vay của từng đơn vị, khách hàng, qua đó tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế cho vay. Để phát huy tốt các vai trò trên của mình, ngoài việc phải thực hiện các nhiệm vụ của kế toán Ngân hàng nói chung, kế toán cho vay còn phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: + Kiểm soát chặt chẽ hồ sơ chứng từ cho vay để đảm bảo đầy đủ tính pháp lý của khoản vay, bảo đảm cho vay phù hợp với thể lệ chế độ tín dụng nhằm bảo đảm an toàn tài sản vốn cho vay, bảo đảm khả năng thu hồi đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của kế toán Ngân hàng. Ví dụ: Ngân hàng không kiểm soát chứng từ cho vay chặt chẽ, giá trị tài sản của khách hàng thấp nhưng cho vay cao vượt quá giá trị tài sản của khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro lớn. + Phản ánh kịp thời đầy đủ chính xác mọi nghiệp vụ cho vay, thu nợ đối với từng đơn vị khách hàng. Quản lý hồ sơ cho vay, theo dõi chặt chẽ kỳ hạn nợ để thu hồi nợ kịp thời khi nơn đến kỳ hạn thu, hạch toán thu nợ, chuyển nợ quá hạn kịp thời để tránh thất thoát vốn, bảo vệ tài sản của Ngân hàng đồng thời có tác động tích cực tới đơn vị khách hàng trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Đồng thời kế toán cho vay phải tính, hạch toán thu lãi cho vay kịp thời chính xác. + Giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng thông qua hoạt động của tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay. Phát hiện kịp thời những hợp đồng kinh tế không lành mạnh của khách hàng trên cơ sở đó tham mưu cho cán bộ tín dụng để có biện pháp xử lý kịp thời. + Phân loại tổng hợp số liệu về nghiệp vụ tín dụng để cung cấp thông tin kịp thời cần thiết cho lãnh đạo giúp lãnh đaoj Ngân hàng có kế hoạch phương hướng đầu tư tín dụng một cách có hiệu quả. Tóm lại, kế toán cho vay phản ánh tình hình đầu tư vốn vào các ngành kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế các khu vực kinh tế nên thông qua số liệu kế toán cho vay có thể biết được phạm vi, phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư của tổ chức tín dụng. Mặt khác thông qua số liệu cho vay có thể biết được những khách hàng có tài chính tốt, sản xuất kinh doanh tốt, uy tín tốt, đồng thời cũng phản ánh được những khách hàng sản xuất kinh doanh kém, tình hình tài chính kém từ đó có định hướng khuyến khích cho vay và hạn chế cho vay đối với khách hàng cụ thể. 1.2.2. Chứng từ và tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay. 1.2.2.1. Chứng từ phản ánh nghiệp vụ cho vay. Chứng từ kế toán Ngân hàng là văn bản, vật mang tin chứng minh về mặt pháp lý việc phát sinh và thực sự hoàn thành một nghiệp vụ kinh tế làm căn cứ để hạch toán vào các loại sổ sách kế toán Ngân hàng. Chứng từ dùng trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ có giá trị về mặt pháp lý để xác định số tiền Ngân hàng cho người vay vay và người vay nhận nợ với Ngân hàng nên từ khâu lập đến khâu kiểm soát, tổ chức bảo quản phải đảm bảo đúng chế độ. Khi thực hiện kế toán máy thì không dùng chứng từ điện tử thay thế mà vẫn phải dùng chứng từ giấy. Chứng từ kế toán cho vay chia làm hai loại đó là chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ. + Chứng từ gốc: là chứng từ có giá trị ly trong quan hệ tín dụng xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên đi vay và cho vay. Chứng từ gốc bao gồm: - Giấy đề nghị vay vốn - Hợp đồng tín dụng - Biên bản phản ánh tài sản thế chấp, cầm cố, phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh… - Một số loại giấy tờ khác theo quy chế cho vay. + Chứng từ ghi sổ: là chứng từ làm thủ tục kế toán, là căn cứ được lập trên cơ sở chứng từ gốc. Chứng từ ghi sổ gồm: - Nếu cho vay bằng tiền mặt: Dùng giấy xin lĩnh tiền mặt. - Nếu cho vay bằng chuyển khoản (tiền vay chuyển thẳng vào tài khoản của người cung cấp) thì dùng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán. - Trường hợp Ngân hàng chủ động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu nợ, thu lãi thì dùng phiếu chuyển khoản và bảng kê tính lãi hàng tháng. Cần lưu ý rằng, đối với phương thức tín dụng theo hạn mức tín dụng, khi cho vay không phải khế ước vay tiền mà chỉ phải ký kết hợp đồng tín dụng thì tính chất pháp lý của khoản cho vay thể hiện ngay trên các chứng từ phát tiền vay như séc lĩnh tiền mặ, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu cũng như hàng tháng tiến hành đối chiếu xác nhận nợ theo số dư các tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng trên cơ sở hạch toán chi tiết. 1.2.2.2. Tài khoản sử dụng. Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của Ngân hàng, nó dùng để ghi chép, phả ánh toàn bộ số tiền cho vay của Ngân hàng đối với người đi vay, đồng thời cũng ghi chép, phản ánh số tiền người vay trả nợ Ngân hàng theo những kỳ hạn nhất định. a. Tài khoản nội bảng. + Tài khoản cho vay phản ánh nợ trong hạn bằng VND ngoại tệ. Khách hàng vay vốn Ngân hàng có thể trong thời gian ngắn hoặc cũng có thể trung và dài hạn. Do vậy, tài khoản cho vay trong hạn được bố trí thành tài khoản cho vay ngắn hạn, tài khoản cho vay trung và dài hạn. Để quản lý đồng tiền cho vay các tài khoản cho vay được bố trí thành tài khoản cho vay bằng đồng Việt Nam và tài khoản cho vay bằng ngoại tệ. Bao gồm các tài khoản: - Tài khoản 2111: Cho vay ngắn hạn bằng VND - Tài khoản 2121: Cho vay trung hạn bằng VND - Tài khoản 2131: Cho vay dài hạn bằng VND. Tất cả các tài khoản cho vay đều được mở chi tiết cho các tổ chức cá nhân có quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Kết cấu của các tài khoản cho vay: Bên nợ: - Số tiền cho vay Bên có: - Số tiền thu nợ - Số tiền chuyển nợ quá hạn. Số dư nợ: phản ánh số tiền người vay còn nợ Ngân hàng. + Tài khoản phản ánh nợ quá hạn. Dùng để theo dõi nợ quá hạn của người vay. Để theo dõi các mức độ của nợ quá hạn, tài khoản nợ quá hạn được bố trí: - Tài khoản 2112: nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi. - Tài khoản 2113: nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi. - Tài khoản 2118: nợ khó đòi. Kết cấu của tài khoản nợ quá hạn: Bên nợ : - Số tiền chuyển nợ quá hạn. Bên có: - Số tiền thu nợ quá hạn. - Số tiền chuyển sang tài khoản nợ quá hạn cao hơn. Dư nợ: Phản ánh số dư nợ quá hạn chưa trả. + Nhóm tài khoản lãi cộng dồn dự thu: 217. Kết cấu của tài khoản: Bên nợ: - Phản ánh số tiền lãi cộng dồn dự thu. Bên có: - Phản ánh số tiền lãi mà Ngân hàng thu được. - Số tiền lãi đến kỳ mà Ngân hàng không thu được phải chuyển sang tài khoản lãi chưa thu được. Dư nợ: Phản ánh số lãi mà NHTM còn phải thu nhưng chưa thu được. Tài khoản này mở chi tiết theo từng khách hàng vay. Cũng như hạch toán tài khoản lãi cộng dồn dự trả thì người ta căn cứ vào bảng tính lãi hàng tháng để hạch toán mà không quan tâm đến việc có thu được hay không. + Tài khoản dự phòng phải thu khó đòi (219). Tài khoản này dùng để phản ánh việc lập dự phòng và xử lý quỹ dự phòng khi có rủi ro vào cuối niên độ kế toán khoản dự phòng này được hạch toán từ chi phí theo qui định của Ngân hàng Nhà nước. Kết cấu tài khoản: Bên có: - Phả ánh số tiền trích lập dự phòng theo qui định. Bên nợ: - Phản ánh các khoản nợ phải thu khó đòi, không thu được phải xử lý xoá nợ. - Kết chuyển số chênh lệch về dự phòng phải thu khó đòi đã lập không sử dụng còn lại ở cuối niên độ kế toán. Dư có: - Phản ánh số dự phòng phải thu khó đòi còn lại ở cuối kỳ. Hạch toán chi tiết: Mở một tài khoản chi tiết duy nhất. Theo qui định số 488 NHNN ban hành 08/02/1999 về phân loại tài sản có để trích lập dự phòng rủi ro. - Nhóm tỷ lệ trích 0%: * Khoản vay chưa đến hạn trả nợ (kể cả khoản vay được gia hạn nợ). * Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán. * Những khoản cho thuê tài chính nhưng chưa đến hạn trả tiền thuê. - Nhóm tỷ lệ trích lập 20 %. * Những khoản cho vay có đảm bảo và đã hạch toán vào tài khoản nợ quá hạn 180 ngày. * Những khoản cho vay không có đảm bảo và đã quá hạn trong 90 ngày. * Những khoản chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG ngắn hạn và đã quá hạn thanh toán dưới 30 ngày. * Số tiền trả cho người được bảo lãnh chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày. * Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê trong thời gian dưới 180 ngày. - Nhóm tỷ lệ trích 50 %: Nội dung giống như nhóm 2. * Những khoản cho vay có đảm bảo và đã hạch toán vào tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến dưới 360 ngày. * Những khoản cho vay không có đảm bảo và đã quá hạn từ 90 đến 180 ngày. * Những khoản chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG ngắn hạn và đã từ 30 đến 90 ngày. * Số tiền trả cho người được bảo lãnh chưa thu hồi được trong thời gian từ 30 đến 90 ngày. * Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê trong thời gian từ 181 ngày đến 360 ngày. - Nhóm tỷ lệ trích 100%: Nội dung giống như nhóm 2 nhưng khác về thời hạn. Tất cả đều từ 360 ngày trở lên. b. Các tài khoản ngoại bảng. + Tài khoản 94: Lãi cho vay chưa thu được. Tài khoản này dùng để phản ánh số lãi cho vay đã được tính toán nhưng người vay không có khả năng thanh toán. - Tài khoản 941: Lãi cho vay chưa thu được = VND. - Tài khoản 942: Lãi cho vay chưa thu được = ngoại tệ. Kết cấu của tài khoản: Bên nhập: Phản ánh số lãi chưa thu được Bên xuất: Phản ánh số lãi đã thu được. Số còn lại phản ánh số lãi chưa thu được đến một thời điểm nào đó. Kế toán mở sổ theo dõi chi tiết cho từng khách hàng. + Tài khoản 97: “Nợ khó đòi chờ xử lý” Tài khoản này dùng để hạch toán các khoản nợ bị tổn thất và đã đáp dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp và trong thời gian theo dõi để tiếp tục thu hồi dần. Thời gian theo dõi trên tài khoản này theo qui định của NHNN hết thời gian qui định. Nếu không thu được tài khoản này sẽ bị huỷ bỏ. Tài khoản 971: Nợ bị tổn thất đang trong thời gian theo dõi. Bên nhập: Phản ánh nợ tổn thất đã được xử lý bù đắp và đã chuyển sang thu đã ngoại bang theo qui định. Bên xuất: Nợ tổn thất đã thu hồi được. Nợ bị tổn thất hết thời hạn theo dõi. Số còn lại: Nợ tổn thất đã được bù đắp nhưng vẫn tiếp tục theo dõi. Mở tài khoản chi tiết cho từng khách hàng. + Tài khoản 994: “Tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng” Tài khoản này dùng để phản ánh các tài khoản thế chấp, cầm cố của các tổ chức cá nhân vay vốn tín dụng theo chế độ cho vay qui định. Tài khoản này có kết cấu: Bên nhập: Giá trị tài sản thế chấp, cầm cố giao cho tổ chức tín dụng quản lý để đảm bảo nợ vay. Bên xuất: Giá trị tài sản thế chấp cầm cố được đem phát mại để trả nợ vay tổ chức tín dụng. Số còn lại: Phản ánh giá trị tài sản thế chấp cầm cố tổ chức tín dụng đang quản lý. + Tài khoản 995: Bên nhập: Giá trị tài sản tổ chức tín dụng tạm giữ chờ xử lý. Bên xuất: Giá trị tài sản tổ chức tổ chức tạm giữ đã được xử lý. Số còn lại: Phản ánh giá trị tài sản của công thức, cá nhân vay vốn đang được tổ chức tín dụng tạm giữ chờ xử lý do thiếu đảm bảo nợ vay tổ chức tín dụng. + Tài khoản 996: Các giấy tờ có giá củ khách hàng đưa cầm có kết cấu của tài khoản này giống 994. 1.2.3. Quy trình kế toán cho vay. 1.2.3.1. Quy trình kế toán cho vay, thu nợ, thu lãi theo phương thức cho vay từng lần. + Kế toán giai đoạn cho vay. Hồ sơ cho vay sau khi đã được cán bộ tín dụng thẩm định và Giám đốc Ngân hàng qui định cho vay sẽ được chuyển xuống kế toán cho vay kiểm soát lại và hướng dẫn khách hàng làm thủ tục nhận tiền vay. - Giải ngân một lần hạn mức cho vay: Khách hàng sẽ lập các chứng từ kế toán thích hợp. Theo nguyên tắc cho vay có mục đích. Căn cứ vào chứng từ kế toán hạch toán. Nợ: Tài khoản cho vay thông thường. Có: Tài khoản thích hợp. * Tài khoản tiền mặt tại quỹ (nếu cho vay bằng tiền mặt). * Tài khoản gửi của người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển khoản). Đối với khoản cho vay có tài sản thế chấp cầm cố thì kế toán căn cứ vào các chứng từ có giá trị pháp lý của tài sản cầm cố để ghi nhập vào tài khoản bằng 994 “Tài khoản thế chấp, cầm cố của khách hàng”. Giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ lập mỗi loại 02 bản trả cho khách hàng 01 bản, bản còn lại sẽ được kế toán cho vay lưu giữ để theo dõi thu nợ. Kế toán sẽ theo dõi sắp xếp hồ sơ của khách hàng theo trật tự kỳ hạn trả nợ. Cuối định kỳ kế toán cho vay tiến hành sao kê số dư các hợp đồng tín dụng để đối chiếu với số dư các tài khoản cho vay, để phát hiện chênh lệch nếu có. Nếu có chênh lệch phải tìm hiểu để điều chỉnh sao tổng dư nợ bằng tổng các khoản vay tương ứng. - Giải ngân nhiều lần: Thì kế toán căn cứ vào các chứng từ nhận tiền vay của khách hàng sau khi kiểm soát thì thực hiện việc hạch toán. + Kế toán giai đoạn phát tiền vay: Hàng tháng căn cứ vào bảng kê tính lãi để hạch toán: Nợ: Tài khoản lãi cộng dồn dự thu. Có: Tài khoản thu lãi cho vay. Nếu khách hàng trả gốc cộng lãi khi đến hạn và Ngân hàng adu hạch toán lãi cộng dồn dự thu. Còn nếu khách hàng trả lãi từng tháng thì hạch toán: Nợ: Tài khoản tiền mặt tại quỹ, tài khoản được chỉ định. Có: Tài khoản thu lãi cho vay. + Kế toán giai đoạn thu nợ: Trước ngày đến hạn thì kế toán phải thông báo cho cán bộ tín dụng và để gửi thông báo cho khách hàng chuẩn bị trả nợ. Đến hạn thì khách hàng phải chủ động trả nợ Ngân hàng cả gốc và lãi. Nếu khách hàng không chủ động thì Ngân hàng có quyền trích trên tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ… Trường hợp trên tài khoản tiền gửi của khách hàng không đủ số dư, khoản cho vay không được gia hạn thêm thì kế toán lập chứng từ để chuyển nợ quá hạn. Có 2 cách thu nợ: Cách 1: Đến kỳ hạn khách hàng trả cả gốc và lãi, Ngân hàng hạch toán dự thu. Nợ: Tài khoản tiền gửi của khách hàng, tài khoản thích hợp: G + L. Có: Tài khoản cho vay: G Có: Tài khoản lãi cộng dồn dự thu: L Cách 2: Nếu Ngân hàng đã thu từng tháng. Nợ: Tài khoản tiền gửi của khách hàng, tài khoản thích hợp: G Có: Tài khoản cho vay: G + Kế toán chuyển nợ quá hạn: Đến hạn trả nợ nếu khách hàng không có khả năng trả nợ và cũng không được Ngân hàng gia hạn nợ. Kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển nợ quá hạn. - Về nội bảng: Chuyển gốc: Nợ: Tài khoản nợ quá hạn dưới 180 ngày. Có: Tài khoản cho vay tương ứng. Nếu Ngân hàng đã hạch toán dự thu rồi thì phải tái thu. Nợ: Tiền lãi cho vay: L Có: Tài khoản lãi vay đã dự thu tiền vay: L Nếu khách hàng đã trả lãi từng tháng khi chuyển nợ quá hạn chỉ chuyển gốc. Sau khi chuyển nợ quá hạn kế toán cho vay và cán bộ tín dụng phải tìm các biện pháp để tiến hành thu nợ. Sau khi chuyển nợ quá hạn kế toán cho vay và cán bộ tín dụng phải tìm các biện pháp để tiến hành thu nợ. Lãi suất áp dụng trong thời gian quá hạn. Hạch toán và tài khoản nợ quá hạn bằng 150% lãi cho vay loại tương ứng. Hàng tháng căn cứ vào phân loại tài sản có để trích lập dự phòng phải thu khó đòi. Nợ: Chi phí. Có: Dự phòng phải thu khó đòi số tiền tính được. Nếu không thu được trong vòng 360 ngày thì kế toán cho vay lập chứng từ chuyển sang nợ quá hạn cao hơn. Còn nếu khách hàng có tiền trả nợ: Hạch toán. Nợ tài khoản thích hợp. Có tài khoản nợ quá hạn tương ứng: Gốc. Có tài khoản thu lãi cho vay: L + L’ Xuất 94 “lãi chưa thu được”. Trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ thì hết thời hạn qui định thì Ngân hàng phải chuyển sang nợ không có khả năng thu hồi. các Chi nhánh Ngân hàng làm tờ trình để xử lý. Xử lý các tài sản cầm cố thế chấp nếu có. Nếu giá trị sau khi xiết nợ lớn hơn giá trị gốc cộng lãi thì hạch toán thu gốc và lãi bình thường, phần thừa sẽ trả cho khách hàng. Còn nếu tài sản sau khi xiết nợ không đủ để thanh toán gốc cộng lãi thì sẽ làm tờ trình để xin được sử dụng dự trữ phải thu khó đòi để xoá nợ. Sau khi thực hiện xoá nợ thì kế toán nhập ngoại bảng tài khoản 971. Nợ bị tổn thất đang trong thời gian theo dõi. Trường hợp sau khi đã xử lý xoá nợ mà vẫn thu được nợ thì Ngân hàng sẽ lập phiếu và hạch toán vào thu khác và suất 971. Hết thời hạn theo dõi trên tài khoản 971 theo qui định thì kế toán cũng làm thủ tục xuất 971. 1.2.3.2. Quy trình kế toán cho vay, thu nợ, thu lãi đối với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. + Kế toán giai đoạn cho vay: Theo phương thức cho vay này căn cứ để phát tiền là hạn mức tín dụng mà Ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Như vậy mỗi lần rút tiền vay khách hàng chỉ cần đặt giấy nhận nợ kèm chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn vay. Do đó trách nhiệm của kế toán cho vay không được vượt hạn mức tín dụng đã ký trong hợp đồng. Sau khi đã kiểm soát trích hợp lệ, hợp pháp của chứng từ xin vay và đối chiếu với hạn mức tín dụng nếu đủ điều kiện thì kế toán căn cứ vào chứng từ để hạch toán và giải ngân. Nợ: Tài khoản cho vay theo hạn mức. Có: Tài khoản thích hợp. Nếu cho vay có thể thế chấp thì lần đầu tiên phát tiền vay kế toán cho vay phải làm thủ tục. Nhập tài khoản ngoại bảng: “Tài khoản thế chấp, cầm cố”. + Kế toán giai đoạn thu nợ, thu lãi: Trong phương thức cho vay theo hạn mức việc trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc có thể trả nợ hàng tháng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Người vay phải nộp tiền bán hàng cũng như khoản thu nhập khác vào bên có của tài khoản cho vay để trả nợ Ngân hàng. Nếu hết tháng người vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ và không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp thì kế toán cung cấp số tiền còn nợ đó sang tài khoản nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn. Khi thu nợ gốc: Hạch toán thu nợ gốc theo số tiền bán hàng của người vay nộp vào Ngân hàng. Nợ: Tài khoản thích hợp. Có: Tài khoản cho vay theo hạn mức. Về nguyên tắc Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi số tiền mà Ngân hàng đã cho vay nên đối với đơn vị vay theo hai tài khoản thì Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi thu nợ của tài khoản cho vay này thì số tiền bán hàng của đơn vị nộp và được ghi có tài khoản thanh toán. Khi tài khoản vốn lưu động dư có tức là đơn vị gửi vốn lưu động vào Ngân hàng, lúc này Ngân hàng sẽ tính và trả lãi cho đơn vị theo lãi suất tiền gửi phù hợp. Tính và thu lãi: Đối với khách hàng vay 2 tài khoản thì việc thu lãi được tiến hành tháng theo phương pháp trích số, có thể thu từ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc bằng tiền mặt và được hạch toán như sau: Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản tiền mặt. Có: Tài khoản thu nhập của Ngân hàng. + Kế toán chuyển nợ quá hạn: Hết kỳ hạn nợ người vay chưa hoàn thành kế hoạch trả nợ Ngân hàng và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở kỳ tiếp theo, kế toán sẽ làm thủ tục chuyển số tiền còn nợ sang tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày. Nợ: Tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày. Có: Tài khoản cho vay của người vay. Khi đã chuyển sang nợ quá hạn đến 180 ngày. Ngân hàng phản bàn bạc với người vay để tính mọi biện pháp có tiền trả nợ Ngân hàng trường hợp sau 180 ngày người vay không có khả năng trả nợ thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển sang tài khoản nợ quá hạn ở cấp cao hơn. Nợ: tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày. Có: Tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày. Đối với nợ khó đòi thì xử lý theo hai trường hợp. Nếu đã chuyển sang nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày khi có quyết định giám đốc chuyển sang nợ khó đòi thì kế toán làm thủ tục để hạch toán. Nợ: Tài khoản nợ khó đòi. Có: Tài khoản nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày. Nếu chưa chuyển sang nợ quá hạn thì không phải chuyển sang tài khoản nợ qúa hạn mà chuyển thẳng vào tài khoản nợ khó đòi. Nợ: Tài khoản nợ khó đòi. Có: Tài khoản cho vay. Hợp đồng cùng một số loại giấy tờ khác của nợ quá hạn được lưu riêng trong hồ sơ nợ quá hạn của người vay. Chương II Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 2.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Với xu hướng đổi mới nền kinh tế đất nước yêu cầu thiết lập SGDI tại Hà Nội làm nhiệm vụ điều hoà vốn và trực tiếp hoạt động kinh doanh trên một số lĩnh vực như tiền tệ và tín dụng, bão lãnh vay vốn nước ngoài, kinh doanh ngoại tệ. Vì vậy 06/3/1991 SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ra đời theo quyết định 15/NHNo & PTNT tại số 4 - Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội. Là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nhưng lại được hạch toán độc lập, có bản báo cáo riêng và phải chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Có thể nói ngay từ ngày đầu mới thành lập hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là huy động vốn và cho vay. Còn các dịch vụ khác phục vụ khách hàng đang còn ít, sơ sài lạc hậu. Mặc dù nằm trên địa bàn Hà Nội là nơi có đông dân cư thu nhập cao nhưng kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không tiến triển do không thu hút được khách hàng về với Ngân hàng mình, một mặt là họ đã quen với các Ngân hàng bạn, mặt khác là chất lượng dịch vụ chưa tốt, chưa có chế độ khuyến khích, ưu tiên khách hàng nhất là khách hàng truyền thống. Bên cạnh các khó khăn trên thì Ngân hàng có những thuận lợi đó là cơ sở vật chất khang trang lại nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội là nơi có nhiều công ty, doanh nghiệp hoạt động thêm vào đó lại được sự ủng hộ nhiệt tình của Ngân hàng Nhà nước của ban lãnh đạo nên lãnh đạo và cán bộ công nhân viên SGDI đã cố gắng khắc phục khó khăn , trước mặt vươn lên thành một đơn vị tiên tiến như ngày hôm nay, và trở thành thành viên của thanh toán liên hàng, là đơn vị tổ chức thanh toán bù trừ. Bây giờ không chỉ là huy động vốn và cho vay nữa mà số lượng dịch vụ Ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng phong phú cho chất lượng cao đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Hoạt động của SGDI từ khi thành lập đến nay ngoài việc thực hiện chức năng chung của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam còn thực hiện chức năng theo uỷ quyền trực tiếp kinh doanh đa năng trên địa bàn Hà Nội đó là: + Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng VND và ngoại tệ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kỳ phiếu Ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo qui định của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước khi Tổng Giám đốc cho phép. + Cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cá nhân và hộ giao dịch thuộc mọi thành phần kinh tế. + Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn, cho vay, mua bán ngoại tệ, thanh toán Quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hội theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. + Đầu tư dưới nhiều hình thức: Hùn vốn, mua cổ phần, liên doanh với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Ngoài các chức năng và nhiệm vụ chính trên thì SGDI còn thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác nữa. Tính đến nay thì SGDI mới hoạt động được 12 năm, với một thời gian không phải là quá dài nhưng SGDI đã đạt được những kết quả đáng kể như là: Cung cấp một khối lượng vốn lớn cho ._.oanh nghiệp thì có thể ghép đơn xin vay vốn và phương án trả nợ vào chung một mẫu còn đối với khách hàng là cá nhân thì có thể ghép đơn xin vay kiêm hợp đồng tín dụng. - Về hồ sơ vay vốn đối với các doanh nghiệp đã giao dịch với Ngân hàng nhiều năm, có uy tín trong hoạt động vay trả đúng hạn., làm ăn phát đạt, có doanh số hoạt động tiền gửi cao. Ngân hàng chỉ nên yêu cầu doanh nghiệp cung cấp báo cáo những cái cần thiết của một số năm và trong quá trình chovay cán bộ tín dụng cũng như cán bộ kế toán theo dõi chặt chẽ việc sử dụng vốn vay và theo dõi chặt chẽ doanh số hoạt động trên tài khoản tiền gửi để biết được tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của doanh nghiệp nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc duy trì quan hệ tín dụng với khách hàng. - Đối với các tờ đơn xin vay vốn của tư nhân (vợ hoặc chồng) thế chấp bằng các giấy tời có giá hoặc tài sản, đề nghị phải cả chữ ký của cả vợ hoặc chồng, nếu người chưa lập gia đình phải có chữ ký của bố hoặc mẹ để tránh các tranh chấp xảy ra nếu có kiện tụng sau này khi mà khách hàng không trả nợ được, Ngân hàng buộc phải xiết nợ tài sản, các giấy tờ có giá. 3.2.2. Thực hiện đôn đốc thu nợ và thu lãi. Như ta đã biết trước khi trao quyền sử dụng vốn cho khách hàng, Ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng đã phải trải qua quá trình thẩm định rất kỹ càng do vậy việc thu nợ và thu lãi là điều không phải lo. Nhưng trong thực tế thì không phải bao giờ cũng đúng như mong muốn mà thật ra mỗi một khoản vay bên cạnh chịu tác động của yếu tố chủ quan thì còn chịu tác động của môi trường xung quanh. Chính vì điều đó mà SGDI nên dựa trên kết quả công tác kiểm tra, quản lý để phân loại chất lượng từng khoản vay để từ đó có biện pháp thu nợ và thu lãi cho phù hợp với thực trạng từng khoản vay cụ thể: - Đối với các khoản vay có chất lượng tốt: đảm bảo khả năng thu hồi vốn đúng hạn thì chỉ cần chú ý đôn đốc trả nợ khi gần đến hạn. - Đối với các khoản vay có dấu hiệu rủi ro khó có khả năng trả nợ khi đến hạn do có những khó khăn phát sinh từ những điều kiện khách quan thì cần có những biện pháp điều chỉnh kỳ hạn nợ, giảm nợ phù hợp nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn phát sinh. Sau đây là một số biện pháp xử lý: + Cán bộ Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp, cùng doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn hoặc mỗi chuyên gia tư vấn cho họ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng giải quyết được các vấn đề tồn tại để thanh toán được nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. + Giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp bằng cách đề ra các biện pháp thu hồi các hoá đơn bán hàng chậm trả, giúp họ tiêu thụ hàng tồn kho hoặc giảm dự trữ quá mức hoặc sử dụng để vay thế chấp, vay cầm cố. + Kết cấu lại khoản nợ: SGDI có thể kết cấu lại khoản cho vay bằng việc kéo dài kỳ hạn và rút bớt mức chi trả hàng tháng hay thậm chí huỷ bỏ sự trả vốn gốc trong một khoảng thời gian SGDI cũng có thể giới thiệu một người cho vay dài hạn hay cộng tác với một người cho vay khác và như vậy giảm bớt rủi ro cho SGDI. + Gia tăng khối lượng của khoản cho vay: Đây là một giải pháp dễ dàng và hấp dẫn nhưng các Ngân hàng không muốn tăng thêm vốn. Nó chỉ được thực hiện sau khi tất cả các điều kiện do Ngân hàng ấn định đã được đáp ứng và rõ ràng doanh nghiệp đó có khả năng trả nợ. + Đối với khách hàng có sự vi phạm hợp đồng tín dụng một cách nghiêm trọng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong kinh doanh dẫn đến khả năng thu hồi nợ vay rất khó khăn, trường hợp này SGDI nên tìm cách thu hồi nợ trước hạn. 3.2.3. Thực hiện kế toán dự thu, dự trả trong Ngân hàng. Như ta đã biết, kế toán quản trị Ngân hàng là nghệ thuật ghi chép, phân loại tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế bằng thước đo tiền tệ, kết hợp với các phương pháp nghiệp vụ nhằm cung cấp thông tin chi tiết, đa dạng làm cơ sở cho việc ra quyết định liên quan đến mục tiêu quản trị kinh doanh và nếu thông tin không đầy đủ, các nhà quản trị Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý điều hành hiệu quả hoạt động kinh doanh, nhưng nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trị sẽ đưa ra quyết định kinh doanh sai lầm làm ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của Ngân hàng. Vậy để kế toán quản trị phát huy hiệu quả trong việc phân tích hiệu quả kinh doanh, đánh giá chất lượng kinh doanh theo từng nghiệp vụ cũng như giúp cho Hội đồng quản trị và ban Giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh sát sao, cụ thể thì việc thực hiện kế toán dự thu, dự trả là vô cùng cần thiết, chuẩn mực kế toán về doanh thu chi phí cũng được ban hành. Chính vì vậy, SGDI cần triển khai thực hiện công tác kế toán dự thu, dự trả không phải đến từng năm mà còn phải đến từng tháng, thậm chí đến từng ngày. Do đó, chương trình vi tính cần được đáp ứng nhu cầu cuối mỗi ngày phải tính được lãi dự thu của ngày đó thông qua mức dư nợ tín dụng của khách hàng, lãi suất vay cũng như lãi dự thu của các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản hùn vốn liên doanh, liên kết, lãi thu được từ việc mua trái phiếu, tín phiếu. Song song với nó là việc tính lãi dự trả cho các khoản tiền huy động từ tiết kiệm, từ các khoản tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn của khách hàng, phát hành tín phiếu. Điều quá trình nhất là phải tính toán được tương đối chính xác các khoản chi phí thường xuyên của Ngân hàng như chi lương, chi phí quản lý, chi mua sắm, khấu hao tài sản… Để từ đó cuối mỗi ngày nhà lãnh đạo Ngân hàng có thể biết được hiệu quả kdỏc ngày hôm đó ra sao lỗ hay lãi: để từ đó nhà quản trị Ngân hàng có thể đưa ra được các quyết định kinh doanh một cách kiến thức, nhằm giảm thiểu các khoản lỗ. Bên cạnh đó việc hạch toán dự thu, dự trả, số dư cuối niên đã phản ánh được năng lực quản trị tín dụng, đầu tư tài chính của Ngân hàng. 3.2.4. Giải pháp về vấn đề thu lãi và lãi chưa thu tại SGDI a. Thu lãi: Như đã trình bày ở chương II, việc thu lãi hàng tháng ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động kinh doanh của các đơn vị vay vốn nhất là đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh theo mùa vụ có vòng quay vốn chậm. Trước tình hình thực tế đó, để đảm bảo tính linh hoạt trong thu lãim, phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho từng loại hình đơn vị vay vốn em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau: - Đối với những đơn vị hay cá nhân có vòng quay vốn nhanh có số thu nhập thường xuyên ổn định thì vẫn áp dụng tính và thu lãi hàng tháng theo phương pháp tích số như hiện nay. Việc thu lãi hàng tháng với những khách hàng này vừa có lợi cho SGDI vì nó đảm bảo thu nhập ổn định cho SGDI hàng tháng, hạn chế một phần rủi ro. Hạn chế khách hàng sử dụng tiền sai mục đích, vừa có lợi cho khách hàng vì số tiền trả lãi được trả dần trong từng tháng. - Đối với những đơn vị hay cá nhân có vòng quay vốn chậm, sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì không áp dụng thu lãi hàng tháng, mà sẽ thu cùng ngày khi người vay trả nợ gốc. - Đối với những món vay có giá trị nhỏ, nến số lãi hàng tháng mà khách hàng phải trả cho Ngân hàng cũng không đáng kể. Nên có thể quy định thu lãi vào ngày cuối cùng của kỳ hạn nợ khi thu gốc khách hàng mới cần đến Ngân hàng để trả số lãi đó. Bình thường hàng tháng khi tính lãi, thì kế toán cho vay vẫn phải hạch toán vào tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu” nay chỉ khi nào đến kỳ hạn nợ cuối cùng kế toán cho vay mới phải hạch toán và theo dõi. Như vậy không những đem lại lợi ích cho Ngân hàng như: giảm các chi phí, thủ tục hành chính cần thiết, mà vẫn không ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng nói chung và của phòng kế toán nói riêng. Đồng thời còn giúp khách hàng hàng tháng không phải đến Ngân hàng để trả lãi, giảm được chi phí không cần thiết trong quá trình đi lại giao dịch với Ngân hàng. b. Lãi chưa thu: Như đã phân tích ở chương II: tình trạng lãi chưa thu xảy ra khá phổ biến tại các Ngân hàng Thương mại. Hiện nay, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước lãi này chiếm tỷ lệ cao, từ đó ít nhiều ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng. Để thực hiện nhanh hơn và tốt hơn nữa việc thu nợ, thu lãi, hạn chế phần nào những thiệt hại mà SGDI phải chịu bởi những khoản lãi chưa thu này. Em xin đưa ra ý kiến là nên áp dụng hình thức phạt chậm trả từ đó tạo động lực thúc đẩy khách hàng trả nợ cũng như trả nợ đúng hạn và đầy đủ. Theo em khoản “Lãi chưa thu” phải được coi như là một khoản nợ mới phát sinh nên lãi suất tính phạt được áp dụng như lãi suất tiền gửi không kỳ hạn ở thời điểm có phát sinh lãi chưa thu và thời gian phạt tính từ ngày ghi nhập vào tài khoản ngoại bảng “Lãi chưa thu” đến khi người vay hoàn trả. Sau khi tính toán xong sẽ hạch toán: Xuất tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu”. Đồng thời hạch toán nội bảng: Nợ: Tài khoản tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt): lãi + phạt. Hoặc tài khoản tiền gửi người vay (nếu trả bằng chuyển khoản). Có: Tài khoản thu nhập của SGDI: Lãi + phạt. Tiểu khoản thu lãi do vay: Số lãi thu được. Tiểu khoản thu khác: Số tiền phạt. Như vậy, việc tính phạt khoản lãi mà khách hàng vi phạm cam kết hoặc có ý chiếm dụng sẽ tránh cho SGDI những thiệt hại do không được sử dụng số tiền này trong kinh doanh và mất ổn định trong thu nhập. Đồng thời nó cũng tác động đến khách hàng vay tiền phải có ý thức trong việc nhanh chóng trả lãi Ngân hàng đúng kỳ hạn, nếu càng chậm trễ thì số tiền phạt càng cao. Đây cũng là biện pháp tích cực nhằm mục đích đôn đốc khách hàng phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng, thể hiện sự công bằng giữa SGDI và khách hàng vì lợi ích của khách hàng cũng là vì lợi ích của Ngân hàng. 3.2.5. Giải quyết vấn đề trả nợ gốc trước hạn. Như đã phân tích ở chương II, kế hoạch về nguồn vốn và sử dụng vốn của SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi việc trả nợ trước hạn của một số món vay. Để hạn chế phần nào những tổn thất về việc trả nợ trước hạn ngoài khâu đánh giá kiểm tra một cách chặt chẽ vòng quay của từng món vay thì SGDI nên áp dụng một tỷ lệ phạt hay gọi là phí trả trước hạn trên tổng số tiền trả trước hạn của khách hàng để giảm bớt những thiệt hại. Việc tính trả trước hạn có thể được tính toán như sau: Số tiền phí trả trước hạn = Số tiền trả nợ trước hạn x Tỷ lệ phí trả trước hạn (tính theo ngày) x Số ngày trả nợ trước hạn Tuy nhiên, SGDI cần quy định mức phí hợp lý bởi nếu không sẽ dẫn đến việc khách hàng sẽ không trả nợ ngay mà dùng số tiền đó quay vòng vốn tiếp theo và chắc chắn sẽ dẫn tới hiện tượng nợ quá hạn vì doanh nghiệp sẽ không kịp thu hồi vốn để trả nợ SGDI. Nếu vậy, SGDI sẽ là người chịu thiệt thòi nhiều nhất, vừa bị ứ đọng vốn, vừa dẫn tới tình trạng mất cân đối nặng nề hơn. Hoặc khách hàng sẽ dùng chính số tiền trả nợ đó để gửi vào SGDI để hưởng lãi. Tuy số tiền lãi không đáng kể nhưng vẫn có lợi hơn là phải trả phí cho Sở. Rủi ro hơn nữa cho SGDI là khách hàng dùng số tiền đó cho vay ra ngoài để hưởng lãi. Tình trạng “nợ khó đòi” sẽ xuất hiện và nguy cơ mất vốn sẽ xảy ra. Do đó, SGDI cần thiết phải áp dụng một mức phí hợp lý vừa bù đắp được phần nào thiệt hại SGDI, vừa không gây ra những phản ứng từ khách hàng như trường hợp trên. Như vậy, việc áp dụng tỷ lệ phạt đối với trường hợp trả nợ trước hạn ngoài mục đích giúp SGDI giảm bớt thiệt hại còn giúp cho khách hàng có ý thức hơn trong việc tính toán nhu cầu vay vốn. 3.2.6. Chuyển nợ quá hạn kịp thời, tránh tình trạng tồn đọng nhiều nợ quá hạn tiềm ẩn: Như trong phần thực trạng đã nêu, nợ quá hạn ở SGDI đang là một vấn đề cần giải quyết. Mặc dù trong năm qua, tính đến 31/12/2002 tổng dư nợ là 11.805.579 triệu đồng trong đó dư nợ quá hạn 23.916 triệu đồng. Thực tế dư nợ quá hạn tại SGDI là nhỏ so với tổng dư nợ. Tuy nhiên tỷ lệ này chưa hoàn toàn chính xác vì còn nhiều món nợ, vì nhiều lý do mà chưa được chuyển sang tài khoản nợ quá hạn kịp thời dẫn đến không phản ánh thực chất nợ quá hạn, phần theo dõi thu hồi nợ quá hạn của kế toán cũng không thực hiện được. Để giải quyết vấn đề này theo em có 2 cách: + Về phía lãnh đạo và cán bộ tín dụng: phải kiên quyết chỉ đạo, khi có nợ quá hạn thì phải hạch toán chuyển ngay sang các tài khoản nợ quá hạn. Tất nhiê công việc này sẽ làm cho kế toán thêm việc nhưng đây là nhiệm vụ của kế toán nói chung và kế toán cho vay nói riêng. 3.2.7. Vấn đề xử lý nợ quá hạn và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. a. Vấn đề xử lý nợ quá hạn: Để tiện cho việc theo dõi và quản lý tài khoản nợ quá hạn, đồng thời tiết kiệm chi phí để ghi chép như sổ sách, chứng từ và đặc biệt là giảm bớt nhiều tài khoản phát sinh trong bảng cân đối thì trong hệ thống tài khoản của tổ chức tín dụng các tài khoản nợ quá hạn không nên đánh thành nhiều cấp mà chỉ nên có hai tài khoản là tài khoản nợ quá hạn áp dụng đối với các khoản vay chưa trả được dưới một năm (360 ngày). Đây là khoảng thời gian cần thiết để các doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh có thể tìm biện pháp tháo gỡ, củng cố hoạt động kinh doanh của mình hoặc sử dụng các nguồn vốn khác để trả nợ cho Ngân hàng. Thứ hai là tài khoản nợ khó đòi áp dụng đối với các khoản vay trên một năm (> 306 ngày) các khoản nợ này là căn cứ cho Ngân hàng tiện trong việc theo dõi và đôn đốc sát sao các doanh nghiệp trả nợ cho Ngân hàng. Mặc dù việc sử dụng tiêu trí thời gian để đánh giá một món vay chưa thu được là đúng, tuy nhiên nếu tài khoản phân chia thời gian quá nhỏ thì sẽ bất tiện cho công tác kế toán cũng như việc lập báo cáo tiền vay như trong thời gian ngắn, cứ 6 tháng kế toán lại phải thực hiện chuyển nợ quá hạn một lần, và khi cần thiết lại phải xem tổng dư nợ thì lúc đó phải cộng qua hàng loạt các tài khoản chi tiết. Do vậy, nên áp dụng 2 tài khoản nợ quá hạn là thuận tiện và hợp lý. b. Vấn đề trích lập dự phòng rủi ro: theo quyết định số 488/2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000 chỉ được lập dự phòng dựa trên cơ sở định hướng tức là dựa trên các báo cáo tuổi nợ khoản cho vay. Với căn cứ này sẽ giúp Ngân hàng chủ động hơn trong việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng không làm giảm thu nhập hay vốn tự có của Ngân hàng. 3.2.8. Vấn đề ứng dụng tin học trong kế toán cho vay: Như đã trình bày ở chương II, mặc dù SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã và đang áp dụng tin học trong các nghiệp vụ kế toán nhưng chưa hoàn chỉnh nhất là đối với kế toán cho vay. Điều này không những gây trở ngại cho kế toán cho vay trong việc phục vụ khách hàng, theo dõi thời hạn trả nợ, trả lãi và công việc tính lãi của từng món vay mà còn trở ngại cho khách hàng trong việc xin gia hạn trả nợ, trả lãi và công việc tính lãi của từng món vay. Mà còn trở ngại cho khách hàng trong việc xin gia hạn nợ các món vay. Từ những tồn tại đó, em xin đưa ra một số giải pháp về việc áp dụng tin học trong kế toán cho vay như sau: Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện và nâng cấp hệ thống máy tính, đặc biệt là phần cứng của máy tính được đổi mới hiện đại, những máy tính hay trục trặc thì cần thanh lý và thay mới. Thứ hai, đưa vào chương trình máy tính ngày trả nợ gốc và mức trả nợ mỗi lần đối với từng khách hàng. Việc thực hiện theo dõi trả lãi, trả gốc sẽ được kế toán cho vay trực tiếp thực hiện, hàng tháng định ra một ngày nhất định kế toán cho vay in ra hai bản phiếu những khách hàng trong tháng đến hạn trả nợ hoặc chuẩn bị đến hạn (một bản lưu kế toán, một bản gửi cho cán bộ tín dụng). Nếu thực hiện những công việc này thì mang lại cho SGDI những lợi thế sau: - Các món nợ sắp đến hạn sẽ được thông báo kiến thức, vừa tạo điều kiện cho khách hàng biết trước thời gian để thu xếp trả nợ Ngân hàng, vừa tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng bố trí công việc sao cho có hiệu quả nhất. - Thay vì tìm trên sao kê khế ước, kế toán cho vay chỉ việc thực hiện bằng cách tìm kiếm trên bảng danh sách các món nợ đến hạn một cách chính xác, kịp thời. Mặt khác, thông qua bảng danh sách này kế toán cho vay có thể rà soát được kỳ hạn trả nợ, số tiền trả của từng khách hàng trong những tháng sau: - Việc đưa chương trình tin học vào việc thu nợ, thu lãi trực tiếp trên máy vi tính không những giảm bớt được các công việc hạch toán, lập sổ sách, chứng từ thủ công mà còn có thể phối hợp chặt chẽ với cán bộ tín dụng để theo dõi khoản vay một cách đúng nguyên tắc và khoa học. - Thuận lợi cho việc kiểm tra vào bất cứ thời gian nào từ đó làm cơ sở cho lãnh đạo Ngân hàng lập kế hoạch và hoạt động sử dụng vốn trong thời gian sắp tới. Mặt khác, khi sử dụng trên máy vi tính có thể quán triệt một số nhược điểm mà làm việc thủ công phải mất nhiều thời gian. Chúng ta cần hiểu rằng máy tính là công cụ trợ giúp cho kế toán cho vay trong việc ghi chép, tính toán, tổng hợp và in sẵn những thông tin, liên quan đến kỳ hạn nợ, mức dư nợ, số lãi phải thu, số nợ khó đòi… phản ánh những món nợ trong hạn và sắp xếp đến hạn theo sự điều khiển của kế toán viên. Do đó sẽ đảm bảo mối quan hệ đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, chỉ cần nhập số liệu một lần vào máy là máy sẽ tự động xử lý và cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho người sử dụng máy tính. Đồng thời đảm bảo thuận tiện cho việc sửa đổi, chữa sổ theo dõi thu nợ nếu có trong trường hợp ghi sai trên chứng từ hoặc nhập dữ liệu sai, nhầm. Ngoài ra việc áp dụng tin học trong công tác kế toán cho vay sẽ đảm bảo an toàn cho các khoản vay trước những tác động tiêu cực bởi vì các chương trình phần mềm trên máy tính đã được khoá mã bảo mật, chỉ có người sử dụng máy mới biết mật mã sử dụng. Việc áp dụng tin học vào công tác kế toán cho vay còn giúp cho hoạt động kinh doanh của SGDI thuận lợi rất nhiều, một mặt nó thắt chặt thêm mối quan hệ nhịp nhàng công việc theo dõi hạn nợ của cán bộ tín dụng và kế toán cho vay được thực hiện một cách khoa học và chính xác, tạo điều kiện cho SGDI có những biện pháp kịp thời đối với những khoản nợ có hiện tượng khó đòi. 3.2.9. Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên Ngân hàng để đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường. Ngân hàng Thương mại với vị thế là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đòi hỏi trình độ cao không chỉ quản trị, điều hành mà cả kỷ luật công nghệ. Trong xu thế hướng tới nền kinh tế tri thức, hội nhập khu vực và thế giới, để tồn tại và phát triển và hơn thế nữa là tạo được hình ảnh tốt đẹp của CGDI trong lòng khách hàng. Như vậy, đòi hỏi các Ngân hàng Thương mại phải có đội ngũ cán bộ, kế toán, tin học. Do vậy, việc tổ chức đào tạo nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt, trình độ sau đại học, trên đại học là một yêu cầu cấp thiết. Đối với cán bộ kế toán cho vay không ngừng trau dồi kiến thức về chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ, sử dụng thành thạo máy vi tính, phải nắm bắt tình hình thực tế và quan sát, theo dõi để chủ động xử lý các nghiệp vụ một cách nhanh chóng kịp thời, chính xác. Hơn nữa, cán bộ kế toán cho vay cần có sự linh hoạt, năng động và sáng tạo trong công việc, biết phối hợp tốt với cán bộ tín dụng trong quá trình cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn trả nợ của khách hàng, mặt khác cán bộ kế toán cho vay cần phải có đạo đức nghề nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt và có trách nhiệm cao trong công việc bởi vì người ghi chép, phản ánh đầy đủ chính xác mọi nghiệp vụ phát sinh mà còn có nhiệm vụ quản lý hồ sơ cho vay của khách hàng. Đó chính là quản lý một khối lượng tài sản lớn của SGDI. Bên cạnh đó cán bộ kế toán cho vay phải có trách nhiệm trong công việc, khi tiếp xúc giao dịch với khách hàng phải có thái độ niềm nở, văn minh, lịch sự, phục vụ tận tình và tác phong nhanh nhẹn để tạo được niềm tin và uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng. Ngoài ra, phải kiểm tra đánh giá lại việc sử dụng lực lượng cán bộ tin học tạiSGDI và tiếp tục mở các lớp đào tạo cán bộ tin học. 3.3. Một số kiến nghị: Để các giải pháp trên có tính khả thi, chúng tôi kiến nghị: 3.3.1. Về phía Nhà nước và Ngân hàng Trung ương - Kế toán cho vay là một nghiệp vụ kế toán quan trọng không những đối với quá trình kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động của Ngân hàng ngoài chức năng kinh doanh còn thể hiện việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó Nhà nước cần ban hành các luật lệ, chính sách nhằm tạo ra hành lang, pháp lý ổn định cho sự hoạt động của các doanh nghiệp, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Cần cải tiến các chính sách tài chính, thuế để Nhà nước có thể kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp một cách chặt chẽ trên cơ sở tôn trọng pháp luật mà vẫn đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh và khả năng tự thích nghi trong kinh tế thị trường. - Môi trường pháp lý phải vừa phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc hội nhập quốc tế, các chuẩn mực, và thông lệ quốc tế về kế toán. Đó là tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý đã ban hành, đặc biệt là các hệ thống tài khoản kế toán; rà soát lại các văn bản hướng dẫn, chỗ nào không còn phù hợp phải loại bỏ, bổ sung những điểm mới, những quy định mới phù hợp với cơ chế quản lý mới và chuẩn mực, nguyên tắc chung được thừa nhận. Nhanh chóng ban hành luật kế toán và công bố đầy đủ các chuẩn mực kế toán để tạo ra môi trường hoạt động và kiểm soát các hoạt động kế toán. - Phải tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng Thương mại trong và ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời kiến nghị Nhà nước quan tâm đầu tư đến các dự án hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh để có thể hội nhập tài chính Ngân hàng với các nước trong khu vực và trên thế giới. - Nhà nước cần có chính sách để tăng vốn điều lệ cho các NHTM để tạo cho họ một nguồn lực nhằm cạnh tranh với các Ngân hàng lớn trong nước và quốc tế, tăng tổng dư nợ đối với mỗi khách hàng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam sớm hoàn thiện phần mềm chương trình giao dịch để cạnh tranh được với các Ngân hàng Thương mại trên cùng địa bàn. - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cần có các lớp đào tạo lại đội ngũ cán bộ về tin học, quản trị, nghiệp vụ … cho phù hợp với xu thế hội nhập. - Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền quảng cáo nâng cao vị thế của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. - Cần có quy chế ưu đãi về ngoại tệ, đối với các doanh nghiệp trong định mức thuộc Tổng công ty 90 - 91. 3.3.3. Kiến nghị với SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. - SGDI cần nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị thêm máy móc, các công cụ lao động cho các phòng, ban. - SGDI cần tạo điều kiện về thời gian và kinh phí, cho cán bộ bổ sung thêm kiến thức xã hội và chuyên môn, nhanh chóng tiếp cận với công nghệ hiện đại. - Hiện đại hoá phần mềm giao dịch để theo kịp Ngân hàng Thương mại khác trên địa bàn, trang bị máy rút tiền tự động ATM tại nhiều địa điểm giao dịch. - Sớm ban hành cơ chế về chính sách, chế độ thể lệ làm việc, nghiệp vụ quyền lợi của đội ngũ cán bộ tín dụng, có chính sách ưu đãi đối với cán bộ tín dụng về thu nhập, phương tiện đi lại, bảo đảm an toàn, thường xuyên quan tâm đến đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ kế toán giỏi để có cơ sở đề nghị xét chọn, khen thưởng hàng năm. - Tiếp thu những ý kiến của cán bộ công nhân viên, quan tâm đến tâm tư tình cảm và gia đình của từng cán bộ Ngân hàng để cán bộ càng ngày đoàn kết hơn, phấn khởi làm việc. - Việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội là cần thiết nhưng không nên quá nhiều lần trong năm ảnh hưởng tới tâm lý người gửi tiền, đặc biệt không huy động được vốn dài hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng nói chung và kế toán cho vay nói riêng. - Có chính sách quan tâm đến tâm tư tình cảm cũng như những góp ý của khách hàng để từ đó thu hút được thêm nhiều khách hàng hơn và phục vụ được tốt hơn cho khách hàng. Kết luận Ngân hàng giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Các hoạt động của nền kinh tế. Thành tựu to lớn mà ngành Ngân hàng đã đạt được trong những năm qua là đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, điều hành hiệu quả chính sách tiền tệ. SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cùng các Ngân hàng Thương mại khác đã tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân phát triển kinh tế sản xuất kinh doanh. Hoạt động kế toán Ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng là một công cụ đắc lực để quản lý vốn tín dụng - tài sản lớn nhất của Ngân hàng. Ngoài nhiệm vụ ghi chép, phản ánh để quản lý chặt chẽ tài sản, kế toán cho vay còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, công tác tín dụng Ngân hàng tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh trong ngành Ngân hàng. Do vậy, hoàn thiện kế toán cho vay là mục đích và điều kiện cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh của SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Qua thời gian thực tập tại SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được sự giúp đỡ của các anh chị trong SGDI cũng như sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa kế toán - kiểm toán. Học viện Ngân hàng và nhất là sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Nguyễn Hương Giang giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kế toán cho vay tại SGDI”. Những kiến nghị của khoá luận là hoàn toàn có cơ sở lý luận và thực tiễn và đều mang tính khách quan. Hy vọng những giải pháp và kiến nghị của khoá luận sẽ góp phần nhỏ bé trong việc thúc đẩy nghiệp vụ tín dụng nói chung và kế toán cho vay nói riêng tại SGDI đạt hiệu quả cao, tạo được sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng tăng của xã hội. Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đặc biệt là cô giáo Nguyễn Hương Giang và toàn thể các anh chị của SGDI đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. danh mục tài liệu tham khảo 1. Tài liệu giảng dạy môn lý thuyết tiền tệ Ngân hàng Học viện Ngân hàng 2. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng, NXB Thống kê Hà Nội - 2000. 3. Lý thuyết kế toán Ngân hàng - Học viện Ngân hàng 4. Cẩm nang tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam , năm 2002. 5. Tạp chí Ngân hàng năm 2000, 2001, 2002. 6. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 2001, 2002. 7. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT, NXB tài chính Hà Nội 2000. 8. Quyết định 1627/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001. 9. Quyết định 72/QĐ - HĐQT - TD ngày 31/03/2002. 10. Một số tài liệu khác Mục lục Trang Lời mở đầu. 1 Chương I: Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hệ thống Ngân hàng. 3 1.1. Tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 3 1.1.1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng . 3 1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng. 4 1.1.3. Các phương thức cho vay. 8 1.1.3.1 Phương thức cho vay từng lần. 10 1.1.3.2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. 12 1.2. Tổng quan về kế toán cho vay. 16 1.2.1. Một số nét chung về kế toán Ngân hàng. 16 1.2.1.1. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán Ngân hàng 17 1.2.1.2. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán cho vay. 19 1.2.2. Chứng từ và tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay. 22 1.2.2.1. Chứng từ phản ánh nghiệp vụ cho vay. 23 1.2.2.2. Tài khoản sử dụng. 27 1.2.3. Quy trình kế toán cho vay. 27 1.2.3.1. Quy trình kế toán cho vay, thu nợ, thu lãi đối với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. 30 Chương II: Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng công nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 33 2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 33 2.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam. 33 2.1.2. Những tác động của kinh tế xã hội đến tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 35 2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 36 2.1.4. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI. 39 2.1.4.1. Hoạt động nguồn vốn. 39 2.1.4.2. Hoạt động sử dụng vốn. 42 2.1.4.3. Công tác kế toán thanh toán. 47 2.1.4.4. Công tác ngân quỹ. 47 2.1.4.5. Công tác thanh toán Quốc tế. 48 2.1.4.6. Kết quả hoạt động kinh doanh. 48 2.2. Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 49 2.2.1. Thủ tục hồ sơ trong kế toán cho vay. 50 2.2.2. Nghiệp vụ kế toán giai đoạn phát tiền vay. 51 2.2.3. Kế toán nghiệp vụ thu nợ, thu lãi. 52 2.2.4. Hạch toán kế toán cho vay khi thực hiện gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn. 58 2.2.5. Vấn đề trả nợ gốc trước hạn. 59 2.2.6. Vấn đề lưu giữ và bảo quản hồ sơ cho vay. 61 2.2.7. Dự phòng phải thu kho đòi và sử dụng dự phòng phải thu khó đòi. 61 2.2.8. Vấn đề ứng dụng tin học trong kế toán cho vay SGDI. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 63 2.3. Đánh gía chung. 64 2.3.1. Những kết quả đạt được. 64 2.3.2. Những khó khăn tồn tại. 65 Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 67 3.1. Phương hướng và nhiệm vụ của SGDI trong năm 2003 và trong những năm tới. 67 3.2. Các giải pháp để giải quyết các tồn tại nhằm hoàn thiện kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 68 3.2.1. Giải pháp về chứng từ vay vốn. 68 3.2.2. Thực hiện đôn đốc thu nợ và thu lãi. 70 3.2.3. Thực hiện kế toán dự thu, dự trả trong Ngân hàng SGDI. 71 3.2.4. Giải pháp về vấn đề thu lãi và lãi chư thu tại SGDI. 72 3.2.5. Giải quyết vấn đề trả nợ gốc trước hạn. 74 3.2.6. Chuyển nợ quá hạn kịp thời, tránh tình trạng tồn đọng nhiều nợ quá hạn tiềm ẩn. 75 3.2.7. Vấn đề xử lý nợ quá hạn và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. 76 3.2.8. Vấn đề ứng dụng tin học trong kế toán cho vay. 76 3.2.9. Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên Ngân hàng. Để đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường. 78 3.3. Một số kiến nghị. 79 3.3.1. Về phía Nhà nước và Ngân hàng Trung ương. 79 3.3.2. kiến nghị với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 80 3.3.3. Kiến nghị với SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 81 tài liệu tham khảo 82 Kết luận 83 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0337.doc
Tài liệu liên quan