Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, có lẽ không ai phủ nhận vai trò của xuất khẩu, của xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá đối với sự phát triển mọi mặt của một quốc gia. Việc hội nhập với nền kinh tế quốc tế đối với Việt Nam càng trở nên quan trọng hơn, bởi so với rất nhiều nước trên thế giới, chúng ta vẫn là một nước nghèo và đang trên đường thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá. Với điều kiện của nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc đang là một xu hướng tất yếu góp phần phát triển kinh

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi danh sách các nước nghèo trên thế giới. Thị trường EU là một thị trường có nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc rất lớn, được đánh giá là một thị trường quan trọng và đầy tiềm năng của hàng may mặc Việt Nam. Là một doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc, trong nhiều năm qua thị trường EU vẫn luôn được coi là một trong những thị trường truyền thống và quan trọng đối với việc xuất khẩu hàng may mặc của Công ty may Chiến Thắng. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này lại có xu hướng giảm, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, trong thời gian tới, thị trường này cần phải được coi trọng hơn nữa trong chiến lược xuất khẩu của Công ty nhằm khai thác hết tiềm năng của thị trường này. ý thức được điều này, sau một thời gian thực tập tại Công ty, em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng". Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu của Công ty sang thị trường EU để đưa ra các giải pháp trong việc duy trì và mở rộng xuất khẩu sang thị trường này. Kết cấu của đề tài gồm ba chương: Chương 1. Lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Chương 2. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty may Chiến Thắng sang thị trường EU Chương 3. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty may Chiến Thắng sang thị trường EU Chương 1 lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng may mặc 1.1. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam 1.1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng may mặc Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hóa và dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Xuất khẩu hàng may mặc là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng may mặc được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Kinh doanh xuất khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. Hàng may mặc là một trong những mặt hàng đầu tiên tham gia vào lĩnh vực thương mại quốc tế, do đặc điểm của ngành cũng như do nhu cầu của người dân trên thế giới về mặt hàng nhạy cảm này. Việc thực hiện các hoạt động xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc có thể sử dụng được những khả năng vượt trội cũng như những lợi thế của họ. Mặt khác, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất, góp phần nâng cao được lợi nhuận cho doanh nghiệp mình đồng thời giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu. Tiến hành hoạt động xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc tiếp cận nhanh hơn với nền kinh tế thị trường, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tìm kiếm, mở rộng thị trường. Chính vì vậy, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc hiện nay được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có lợi thế về nhân lực và nguyên liệu. Hoạt động xuất khẩu này mang lại những lợi ích rất lớn, đặc bịêt là với một nước đang phát triển như nước ta. 1.1.2. Đặc điểm của hàng may mặc xuất khẩu Với mỗi người, ba nhu cầu “ăn, mặc, ở” là những nhu cầu thiết yếu và không thể thiếu. Đáp ứng nhu cầu “mặc”, không thể có ngành nào thay thế được ngành sản xuất hàng may mặc. Nhu cầu của người tiêu dùng hiện nay là “mặc đẹp” chứ không phải là “mặc ấm” như trước kia; chính vì vậy việc phát triển hàng may mặc là một tất yếu. Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, hàng may mặc không chỉ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở rất nhiều nước khác. Trong kinh doanh quốc tế, mặt hàng may mặc là một trong những mặt hàng có quan hệ đối ngoại sớm nhất. Hàng may mặc xuất khẩu có những đặc trưng cơ bản sau: Sản phẩm may mặc là sản phẩm không thể thay thế được Sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp khác đều là những sản phẩm có thể thay thế được, như thay vì sử dụng xe máy, người ta sử dụng xe đạp, xe buýt,.. thay vì sử dụng ti vi, người ta sử dụng radio,...Nhưng đối với ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc, người ta chỉ có thể lựa chọn chất liệu vải, màu sắc, kiểu dáng khác nhau của các sản phẩm may mặc nhưng không thể không sử dụng các sản phẩm này. Đây là một đặc điểm cơ bản của hàng may mặc, nhờ đó mà sản phẩm may mặc trở thành một trong những sản phẩm thiết yếu không thể thiếu của người tiêu dùng. Sản phẩm may mặc là sản phẩm có yêu cầu phong phú, đa dạng về chủng loại và chất liệu Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về hàng may mặc ngày càng phong phú và đa dạng, tuỳ thuộc vào đặc điểm về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khí hậu, tuổi tác, giới tính... Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này cần phải không ngừng nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu của từng nhóm đối tượng khách hàng để thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu này. Sản phẩm may mặc mang tính thời trang cao Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu làm đẹp của mỗi người càng được quan tâm nhiều hơn. Sản phẩm may mặc hiện nay không chỉ đơn thuần là một công cụ để che thân mà công dụng chủ yếu của nó hiện nay là giúp tôn thêm vẻ đẹp, cá tính... của mỗi người. Vì vậy, việc nắm bắt được xu hướng thời trang quốc tế là công cụ hữu hiệu để phát triển xuất khẩu hàng may mặc. Sản phẩm may mặc mang tính thời vụ cao. Đối với mỗi mùa khác nhau, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm may mặc là khác nhau. Vì vậy, trong buôn bán hàng may mặc cần căn cứ vào sự thay đổi của thời tiết trong năm ở từng khu vực, từng thị trường để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Điều này còn có liên quan trực tiếp đến thời hạn giao hàng xuất khẩu, mặt hàng may mặc cần phải được giao đúng thời hạn nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Công nghiệp sản xuất hàng may mặc là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ Lao động trong ngành may mặc không đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật. Mặt khác, lao động trong lĩnh vực sản xuất hàng may mặc đòi hỏi sự cần cù và khéo léo, vì vậy, ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc thu hút rất nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ. Đây là ngành công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển, các nước đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá như nước ta. Ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc đã diễn ra nhiều lần dịch chuyển sản xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới và trong nội bộ từng nước. Công nghiệp sản xuất hàng may mặc là ngành công nghiệp sớm tham gia vào thị trường hàng hoá quốc tế và nó cũng đã trải qua nhiều lần dịch chuyển sản xuất giữa các nước và các khu vực trên thế giới. Có thể nói, ngành công nghiệp này xuất hiện đầu tiên ở Anh từ thế kỷ XVIII, sau đó được dịch chuyển sang các nước châu Âu khác, rồi đến châu á (đặc biệt là các nước Nics) và hiện nay, ngành công nghiệp này đang trong quá trình dịch chuyển đến các nước kém phát triển hơn như Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Philippin... và có xu hướng dịch chuyển sang các nước kém phát triển hơn nữa, và có giá nhân công rẻ hơn. Ngay trong nội bộ một nước, công nghiệp sản xuất hàng may mặc cũng có xu hướng dịch chuyển từ các đô thị đến các vùng nông thôn có giá nhân công rẻ. Thu nhập bình quân và cơ cấu tiêu dùng chi cho hàng may mặc là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc xác định xu hướng tiêu thụ mặt hàng này. Đối với các thị trường có mức thu nhập bình quân cao thì yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng... sẽ quan trọng hơn giá cả. Ngược lại, đối với các thị trường có mức thu nhập khá hoặc trung bình thì giá cả lại có ý nghĩa rất quan trọng trong quyết định mua hàng của khách. Đặc điểm này có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp khi quyết định tính chất mặt hàng kinh doanh trên từng khu vực thị trường và khách hàng. Về đặc điểm thị trường: Hàng may mặc là một mặt hàng nhạy cảm, sản phẩm của nó được bảo hộ mạnh mẽ ở hầu hết các thị trường thế giới bằng những thể chế, chính sách đặc biệt. Hiệp định về hàng dệt may là kết quả quan trọng của vòng đàm phán urugoay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm may mặc đều được điều chỉnh theo các thể chế thương mại này. Nhờ đó, phần lớn các nước nhập khẩu có những biện pháp hạn chế đối với việc nhập khẩu sản phẩm may mặc. Mức thuế nhập khẩu với hàng may mặc thường cao hơn so với các mặt hàng công nghiệp khác. Những thể chế nhằm bảo hộ hàng may mặc trong nước và hạn chế nhập khẩu đã làm ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất và tiêu thụ mặt hàng này trên thế giới. 1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản và quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc mở rộng xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là việc xuất khẩu những mặt hàng mà chúng ta có thế mạnh như hàng may mặc. Vai trò của việc xuất khẩu hàng may mặc đối với nền kinh tế nước ta là rất to lớn và không thể phủ nhận, thể hiện ở chỗ: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu để phát triển kinh tế Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một bước đi tất yếu để phát triển kinh tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Muốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả thì cần một lượng vốn rất lớn để nhập khẩu những máy móc, thiết bị hiện đại và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật. Nguồn vốn phục vụ nhập khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng có thể lấy từ nhiều nguồn như viện trợ, đi vay, xuất khẩu… Nhưng các nguồn viện trợ, đi vay…thường rất khó khăn và khi sử dụng các nguồn vốn này cần phải gắn liền với trách nhiệm trả nợ. Vì vậy, nguồn vốn thu từ hoạt động xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ mật thiết với nhau, xuất khẩu tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu; nhập khẩu tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu phát triển… Xuất khẩu quy định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Do đó, trong kinh doanh phải luôn kết hợp xuất khẩu và nhập khẩu. Đã từ nhiều năm nay, hàng may mặc nói riêng và dệt may nói chung luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, và trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may luôn đứng ở vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế đất nước và tạo ra một lượng ngoại tệ lớn để đầu tư vào trang thiết bị máy móc và xây dựng cơ sở hạ tầng của đất nước, thể hiện ở những chỉ tiêu sau: - Năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt và may mặc đạt 1.975 triệu USD, tăng 8,8% so với năm 2000, chiếm tỷ trọng 13,1% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước (dầu thô là 20,8%). - Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt và may mặc đạt 2.752 triệu USD, tăng 39,3% so với năm 2001, chiếm tỷ trọng 16,5% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước (dầu thô là 19,6%). - Năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt và may mặc ước đạt 3630 triệu USD, tăng 31,9% so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 18,3% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước (dầu thô là 19%). Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu may mặc của Việt Nam vượt ngưỡng 3 tỷ USD. Có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta trong những năm gần đây tăng lên khá nhanh, khoảng cách giữa tỷ trọng xuất khẩu dệt may và dầu thô trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta ngày càng được rút ngắn, thể hiện qua bảng sau: Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm gần đây Chỉ tiêu 2001 2002 02/01 tăng (%) 2003 03/02 tăng (%) Lượng (Tr. USD) Tỷ trọng (%) Lượng (Tr.USD) Tỷ trọng (%) Lượng (Tr.USD) Tỷ trọng (%) Tổng KNXK 15.027 100 16.705 100 11,20 19.880 100 19,0 Dệt may 1.975 13,1 2.752 16,5 39,34 3.630 18,3 31,9 * Nguồn: Niên giám thống kê 2002, thời báo kinh tế VN Góp phần thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển Nhu cầu của con người phát triển ngày càng cao và luôn luôn biến đổi. Nhu cầu của người dân ở mỗi nước lại có sự khác biệt đáng kể, chỉ dựa vào khả năng sản xuất của một nước thì nhu cầu của người dân nước đó sẽ không được thoả mãn một cách tốt nhất và hiệu quả kinh doanh mang lại không cao. Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người dân trên toàn thế giới. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, một nước có thể chuyên môn hóa vào việc sản xuất mặt hàng nào mà nước đó có lợi thế hơn, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước theo hướng chuyên môn hoá, nhờ đó cơ cấu vật chất của sản phẩm sản xuất ra có sự thay đổi. Ngành may mặc là một ngành mà nước ta có thế mạnh rất lớn, vì vậy việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc đã được Chính phủ quan tâm từ nhiều năm nay. Khi ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu phát triển, nó sẽ kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành có liên quan Để sản xuất ra một sản phẩm may mặc phục vụ xuất khẩu, người ta cần phải dùng đến nhiều nguyên phụ liệu khác như bông, vải sợi, và các ngành công nghiệp khác như in, nhuộm, sản xuất nhựa polyme để bao gói, hoàn thiện sản phẩm, sản xuất giấy để phục vụ cho việc cắt xén, tạo bản mẫu hay các thùng bìa các-tông để đóng gói sản phẩm… Hơn nữa, khi ngành công nghịêp này phát triển ngày càng cao thì đòi hỏi càng nhiều những máy móc thiết bị tiên tiến để phục vụ việc sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao và giảm bớt những chi phí cho phế liệu, phế phẩm. Từ đó kéo theo sự phát triển của các ngành cơ khí, chế tạo máy phát triển. Hàng may mặc xuất khẩu của chúng ta thường xuất khẩu với số lượng lớn, nên thường chọn phương tiện vận chuyển đường biển vì xuất khẩu bằng đường biển tốn kém ít chi phí vận chuyển và có thể vận chuyển những khối lượng hàng hoá lớn, do vậy đòi hỏi phải có sự phát triển của ngành hàng hải. Góp phần giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân Để tạo ra các sản phẩm phục vụ xuất khẩu, không thể không có sự đóng góp của lực lượng lao động. Nhờ có sự phát triển của hoạt động xuất khẩu mà rất nhiều người lao động có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và giảm bớt được các tai tệ nạn xã hội. Trong số các ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động nhất. Mặt khác, đặc điểm của người lao động Việt Nam rất phù hợp cho việc lao động trong ngành này. Chính vì vậy, ngành công nghiệp này đã tạo ra hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động trên khắp cả nước. Đặc điểm của ngành sản xuất hàng may mặc là cần những lao động khéo tay và cần cù, do đó những lao động nữ rất phù hợp cho những công việc của ngành này. Số lượng lao động nữ trong các doanh nghiệp may mặc nước ta thường chiếm trên 80%. Lao động trong lĩnh vực may mặc không đòi hỏi có tay nghề cao, vì vậy, để góp phần đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc đầu tư phát triển ngành công nghiệp này là một việc làm rất cần thiết. Xuất khẩu hàng may mặc tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại và quảng bá thương hiệu của mặt hàng này trên thị trường thế giới Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế có tác động qua lại, phụ thuộc vào nhau, xuất khẩu cũng chính là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc, như đã nói ở trên, là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của nước ta, do vậy việc thúc đẩy phát triển xuất khẩu mặt hàng này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Mặt khác, hiện nay việc xuất khẩu mặt hàng này hầu hết mới chỉ dừng lại ở phương thức gia công cho nước ngoài, vì vậy bên cạnh việc xúc tiến xuất khẩu trực tiếp thì việc tiếp tục xuất khẩu theo phương thức gia công cũng cần phải được chú trọng, vì nó tạo ra những tiền đề thuận lợi về các mối quan hệ kinh tế quốc tế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp. Thông qua phương thức gia công xuất khẩu, chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của các bạn hàng và có thể khai thác thông tin từ họ, khiến cho việc quảng bá thương hiệu hàng may mặc Việt Nam được thực hiện có hiệu quả hơn. 1.2. Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc Trong buôn bán quốc tế hiện nay tồn tại khá nhiều hình thức xuất khẩu, trong đó các hình thức xuất khẩu chủ yếu sau đây thường được áp dụng trong việc xuất khẩu hàng may mặc: 1.2.1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp cũng có thể là việc nhà xuất khẩu mua từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình thông qua các tổ chức của mình. Trong phương thức này, các doanh nghiệp trong nước sẽ tự mua nguyên liệu đầu vào cần thiết thay vì được cung cấp miễn phí bởi người mua nước ngoài. Do đó theo phương thức này, doanh nghiệp trong nước được thanh toán toàn bộ sản phẩm may mặc xuất khẩu. Có thể phân thành ba loại xuất khẩu trực tiếp như sau: * Loại 1: Doanh nghiệp trong nước mua nguyên vật liệu đầu vào để gia công từ nhà cung cấp do người mua nước ngoài chỉ định. Theo phương thức hợp đồng này, người mua nước ngoài không chỉ lựa chọn nhà cung cấp mà còn mô tả chính xác chủng loại, màu sắc và phụ kiện mà doanh nghiệp trong nước phải mua. Thêm vào đó, những vấn đề liên quan đến quy mô sản xuất, giá cả và thời hạn giao hàng cũng được người mua quy định trước. Thường phát sinh trường hợp doanh nghiệp trong nước phải kê khai giá cả nguyên vật liệu do người mua quy định và trong giá thành xuất khẩu của sản phẩm may mặc. Hình thức hợp đồng theo phương thức xuất khẩu này, cả rủi ro về sản xuất lẫn rủi ro về marketing đều do người mua nước ngoài gánh chịu. * Loại 2: Doanh nghiệp trong nước nhận mẫu hàng từ người mua nước ngoài. Dựa trên những mẫu này, họ sản xuất sản phẩm tương tự, sử dụng nguyên vật liệu do họ tự mua mà không có gợi ý hay cam kết gì của người mua từ trước. Nếu mẫu tương ứng được chấp nhận, họ sẽ nhận được đơn đặt hàng may mặc dựa trên những quy cách của sản phẩm mẫu đã sản xuất. *Loại 3: Theo phương thức này, doanh nghiệp trong nước tiến hành sản xuất hàng may mặc dựa trên thiết kế riêng của họ, không có cam kết từ trước dưới bất kỳ hình thức nào từ phía người mua nước ngoài. Doanh nghiệp trong nước sản xuất mẫu hàng may mặc và đưa ra giới thiệu tới các khách hàng tiềm năng, chẳng hạn như, tại các cuộc triển lãm. Sau đó họ nhận được những đơn hàng từ phía khách hàng và xuất khẩu sản phẩm dựa trên phương thức bán FOB, nếu cuộc triển lãm đó thành công. Các doanh nghiệp hoạt động theo phương thức này hoặc phải có thương hiệu riêng, hoặc phải sản xuất hàng may mặc theo thương hiệu đã được đăng ký với thiết kế riêng của họ. Hình thức này tạo khả năng lớn nhất để tăng giá trị gia tăng, tuy nhiên các rủi ro cả về sản xuất lẫn thị trường lại là lớn nhất. Việc xuất khẩu hàng hoá theo phương thức xuất khẩu trực tiếp mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều so với phương thức gia công, giảm được các chi phí trung gian và mang lại sự chủ động cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu các sản phẩm may mặc Tuy nhiên, xuất khẩu theo phương thức này dễ xảy ra những rủi ro, sai lầm khi kinh doanh trên các thị trường mới, do đó muốn xuất khẩu có hiệu quả cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng và hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp định kinh doanh. Điều này là rất khó cho các doanh nghiệp may mặcViệt Nam hiện nay, vì hầu hết các doanh nghiệp đều chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường. Song trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu theo phương thức này, để giúp cho các doanh nghiệp có sự năng động cần thiết trong kinh doanh quốc tế. 1.2.2. Xuất khẩu gián tiếp (Xuất khẩu qua trung gian) Xuất khẩu gián tiếp là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập (trung gian) đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu theo phương thức này có rất nhiều ưu điểm, trong đó những ưu điểm nổi bật phải kể đến là: - Những người trung gian thường là những người hiểu biết rất rõ về thị trường, luật pháp và tập quán địa phương. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc xuất khẩu hàng may mặc, vì những tập quán, thói quen tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng thời trang và phong cách ăn mặc. Do vậy, nó giúp cho các nhà kinh doanh trong lĩnh vực này có thể tránh bớt được những rủi ro và đẩy mạnh hoạt động mua bán. - Trung gian thường là những người có vốn, có cơ sở vật chất, vì vậy việc sử dụng những trung gian sẽ giúp cho những nhà kinh doanh trong lĩnh vực may mặc đỡ phải đầu tư vốn trực tiếp ra nước ngoài. Đây là một ưu điểm lớn của hình thức xuất khẩu này và rất phù hợp với các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc của nước ta, khi điều kiện của các doanh nghiệp này còn hạn chế về vốn và thông tin thị trường. - Những trung gian có thể thực hiện việc tuyên truyền, quảng cáo hộ các nhà kinh doanh. Nhờ vậy, các nhà kinh doanh có thể giảm bớt được những chi phí cho quảng cáo sản phẩm, những chi phí trong việc tập trung hàng hóa, lựa chọn, phân loại, đóng gói hàng hoá... nhờ những dịch vụ của các trung gian. Hình thức xuất khẩu này có khá nhiều ưu điểm và rất phù hợp với những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường cũng như các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc của nước ta trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại khá nhiều nhược điểm đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu cần phải cân nhắc trước khi quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình, những nhược điểm đó là: Nhà kinh doanh không được gặp trực tiếp đối tác, nên sẽ bị tách khỏi thị trường, do vậy khó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường và thường phải đáp ứng những yêu sách của các trung gian. Một nhược điểm khác của hình thức xuất khẩu này là nhà kinh doanh bị chia xẻ lợi nhuận với các trung gian. Thông qua những ưu, nhược điểm của hình thức xuất khẩu này mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc cần phải cân nhắc kỹ các điều kiện của đơn vị mình để lựa chọn cho phù hợp với chiến lược kinh doanh trên từng thị trường. 1.2.3. Xuất khẩu theo nghị định thư Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm là đảm bảo được thanh toán (do Nhà nước là người thanh toán cho doanh nghiệp). Tuy nhiên, hình thức xuất khẩu này hiện nay chưa được áp dụng rộng rãi trong kinh doanh hàng may mặc. 1.2.4. Xuất khẩu tại chỗ Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó mang lại. Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá và dịch vụ chưa vượt khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí về bao bì, đóng gói, bảo quản, vận chuyển..., tránh được những rắc rối hải quan, thu hồi vốn nhanh. Hình thức này tuy có rất nhiều ưu điểm, song nó cũng chưa được phổ biến rộng rãi trong kinh doanh hàng may mặc. 1.2.5. Gia công quốc tế Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh xuất khẩu theo đó một bên nhập nguyên liệu và bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên kia (bên đặt gia công) để chế biến thành thành phẩm rồi giao cho bên đặt gia công và nhận thù lao (tiền phí gia công). Xuất khẩu theo hình thức gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu được áp dụng phổ biến ở các quốc gia có lợi thế về nhân công nhưng thiếu nguồn nguyên vật liệu, thương hiệu và uy tín về sản phẩm trên thị trường quốc tế chưa có hoặc không phổ biến. Mặt khác, xuất khẩu theo phương thức này, bên nhận gia công có thể tiêu thụ được một số nguyên vật liệu phụ đi kèm, có cơ hội tiếp cận với những công nghệ mới và học tập được những kinh nghiệm quản lý. Chính vì vậy, hình thức xuất khẩu này được áp dụng rất rộng rãi trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt Nam. Cho tới nay, xuất khẩu hàng may mặc theo phương thức gia công quốc tế chiếm tới trên 60% lượng hàng may mặc xuất khẩu của nước ta, trong đó xuất khẩu vào EU theo phương thức này chiếm tới trên 80%. Xuất khẩu theo phương thức gia công có thể giúp cho bên đặt gia công tranh thủ được nguồn lao động rẻ của nước ngoài, nhờ đó có thể hạ được giá thành sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường; mặt khác họ có thể dễ dàng thay đổi cơ cấu ngành nghề để có lợi cho nước mình. Dựa vào các căn cứ khác nhau, có thể chia thành rất nhiều các hình thức gia công, đó là: * Theo quyền sở hữu nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, có các hình thức sau: - Hình thức nhận nguyên phụ liệu, giao thành phẩm: Bên gia công chịu trách nhiệm bảo đảm toàn bộ nguyên phụ liệu cho bên nhận gia công, bên nhận gia công chỉ phải lo tổ chức sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công. Quyền sở hữu nguyên, phụ liệu thuộc bên đặt gia công, bên nhận gia công chỉ có quyền quản lý và sử dụng nguyên phụ liệu đã nhận đưới sự giám sát của bên đặt gia công. - Hình thức mua nguyên phụ liệu, bán thành phẩm: Bên nhận gia công sử dụng vốn lưu động của mình để mua những nguyên phụ liệu chủ yếu từ bên nhận gia công và tiến hành sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công theo hợp đồng đã ký kết. - Hình thức hỗn hợp: Bên nhận gia công sẽ mua một số nguyên phụ liệu từ bên đặt gia công, số còn lại có thể mua từ các chủ thể kinh tế khác ở trong và ngoài nước, sản phẩm sản xuất ra được bán lại toàn bộ cho bên đặt gia công. * Theo số lượng chủ thể kinh tế tham gia vào quan hệ gia công có: - Gia công hai bên: Bên nước ngoài đặt hàng gia công cho một doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp này đảm nhận toàn bộ qúa trình sản xuất sản phẩm. - Gia công nhiều bên: Một doanh nghiệp nhận gia công cho một hãng nước ngoài và giao lại một phần việc cho doanh nghiệp khác thực hiện. Trong trường hợp này, mọi biệc giao dịch với hãng nước ngoài do doanh nghiệp nhận thầu chính đảm nhận và cũng chính doanh nghiệp đó phải chịu trách nhiệm với hãng nước ngoài về những cam kết trong hợp đồng gia công. Hình thức này gọi là gia công chuyển tiếp. * Theo cách tính giá: - Hợp đồng thực chi, thực thanh (thanh toán theo thực tế phát sinh): Bên nhận gia công yêu cầu bên đặt gia công thanh toán toàn bộ chi phí phát sinh thực tế và thù lao gia công. - Hợp đồng khoán: là loại hình gia công mà theo đó, hai bên xác định một giá định mức cho mỗi sản phẩm. Giá này bao gồm chi phí định mức và thù lao. Bên đặt gia công sẽ thanh toán cho bên nhận gia công theo giá đó. 1.2.6. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời cũng là người mua, lượng hàng hoá, dịch vụ trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích của việc xuất khẩu theo hình thức này không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị tương đương giá trị của lô hàng đã xuất. Xuất khẩu theo hình thức này cần quan tâm đến những sự cân bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về tổng giá trị hàng hóa và cân bằng về điều kiện cơ sở giao hàng. Hình thức xuất khẩu này trước đây được áp dụng khá phổ biến, song ngày nay, do điều kiện thương mại quốc tế phát triển nên nó đã trở nên ít được áp dụng, đặc biệt là trong việc xuất khẩu các sản phẩm may mặc. 1.3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Xuất khẩu hàng may mặc là một hoạt động rất phức tạp, đòi hỏi phải được thực hiện theo một quy trình kinh doanh tổng hợp và chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Quy trình kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc phải được thực hiện theo từng bước, các bước này có quan hệ mật thiết và không thể tách rời nhau. Quy trình này thường được tiến hành theo các bước sau: 1.3.1. Nghiên cứu, tiếp cận thị trường hàng may mặc Vấn đề nghiên cứu thị trường là việc làm đầu tiên và hết sức quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc nào khi muốn tiếp cận với thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh hàng may mặc có nghĩa là việc điều tra, tìm hiểu thị trường để tìm triển vọng bán hàng cho sản phẩm may mặc và phương pháp tiếp cận thị trường để thực hiện mục tiêu bán hàng. Quá trình nghiên cứu thị trường trong kinh doanh hàng may mặc thực chất là quá trình thu thập các thông tin, số liệu về thị trường, từ đó so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận.Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt sẽ giúp cho các nhà kinh doanh hàng may mặc đưa ra được những quyết định đúng đắn để lập kế hoạch marketing. Công tác nghiên cứu thị trường trong kinh doanh hàng may mặc nhằm trả lời các câu hỏi như: xuất khẩu mặt hàng nào? trên thị trường nào? khả năng bán được hàng trên thị trường đó như thế nào?… Để trả lời được những câu hỏi đó, các nhà kinh doanh hàng may mặc cần phải thực hiện các công việc trong khâu nghiên cứu thị trường, bao gồm: a. Thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu Đây là công việc đầu tiên của hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm thu thập được những thông tin cần thiết về thị trường, về khách hàng và về mặt hàng cần quan tâm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu. Có thể thu thập những thông tin này bằng nhiều cách khác nhau và có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau như thông qua báo, tạp chí, Internet, thông qua những văn phòng đại diện ở nước ngoài, qua bạn hàng... hay trực tiếp khảo sát tại hiện trường. Do đặc điểm của hàng may mặc là có nhu cầu luôn biến đổi, nên phương pháp thu thập thông tin tại hiện trường tỏ ra có ưu thế hơn cả, vì những thông tin được thu thập theo cách này thường kịp thời và chính xác; tuy nhiên việc thu thập thông tin theo phương pháp này đòi hỏi chi phí cao, nên không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện đ._.ược. Thông qua những thông tin đã thu thập được, các doanh nghiệp có thể lựa chọn được mặt hàng mà mình cần đưa vào kinh doanh trên thị trường đó cũng như việc thay đổi các mặt hàng kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên thị trường đó. Một điều quan trọng khác khi nghiên cứu thông tin về thị trường là các nhà kinh doanh hàng may mặc cần phải tìm hiểu về dung lượng thị trường. Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi một thị trường nhất định, trong một thời kỳ nhất định. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thực của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của cầu trong từng thời điểm. Thông qua những thông tin về dung lượng thị trường, các nhà kinh doanh có thể xác định được lượng sản phẩm để sản xuất và bán ra trên thị trường dó cho kịp với thời vụ, đảm bảo cho việc xuất khẩu có hiệu quả. b. Phân tích thông tin về thị trường xuất khẩu Trên cơ sở các thông tin về thị trường đã thu thập được, các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc cần phải phân tích các thông tin đó một cách đầy đủ và chính xác để đưa ra những quyết định kinh doanh phù hợp. Các thông tin mà doanh nghiệp cần phân tích là: * Phân tích thông tin về môi trường xuất khẩu Môi trường xuất khẩu có tác động liên tục đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, những yếu tố về môi trường xuất khẩu vừa tạo điều kiện thuận lợi, nhưng cũng gây ra không ít những khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường đó. Những thông tin về môi trường mà các doanh nghiệp cần phân tích là những thông tin về môi trường kinh tế, môi trường văn hoá, chính trị, luật pháp, môi trường cạnh tranh… để có những chiến lược kinh doanh phù hợp trên thị trường này. * Phân tích thông tin về giá cả hàng hoá Giá cả hàng hóa trên thế giới là một yếu tố rất quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nào. Đây là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc trên thế giới. Thông tin về giá cả hàng hoá nếu bị sai lệch sẽ gây ra những tổn thất rất lớn cho các doanh nghiệp. Vì vậy, những thông tin này cần phải được cập nhật và phân tích một cách chính xác để các doanh nghiệp có thể đưa ra một chiến lược giá phù hợp. * Phân tích thông tin về nhu cầu thị trường Thông tin về nhu cầu của thị trường có ảnh hưởng quan trọng đến các hoạt động marketing xuất khẩu, vì những nhu cầu của thị trường có ý nghĩa quyết định đến mọi công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc thu thập và phân tích những thông tin này là một hoạt động cần thiết và quan trọng đối với các doanh nghiệp khi kinh doanh trên thị trường quốc tế. c. Lựa chọn thị trường xuất khẩu và các đối tác kinh doanh Dựa trên những kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần tiến hành bước tiếp theo, đó là lựa chọn thị trường xuất khẩu và các đối tác kinh doanh. Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu cần phải xác định dựa trên những tiêu chuẩn mà thị trường cần phải đáp ứng được, đó là: - Tiêu chuẩn chung: Các tiêu chuẩn chung cần nhắc tới ở đây là các tiêu chuẩn về chính trị, luật pháp, địa lý, dân số, kinh tế, kỹ thuật.. - Các tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ: Đó là những biện pháp bảo hộ mậu dịch như thuế quan, hạn ngạch..; tiêu chuẩn về tình hình tiền tệ như tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái; hay những tiêu chuẩn về sự cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh việc lựa chọn thị trường kinh doanh thì các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc còn cần phải lựa chọn được đối tác kinh doanh cho phù hợp. Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi. Những nội dung cần thiết để nghiên cứu và lựa chọn đối tác bao gồm: - Các quan điểm kinh doanh của đối tác - Lĩnh vực kinh doanh của đối tác - Khả năng về vốn và cơ sở vật chất của đối tác - Những người được uỷ quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của đối tác với nghĩa vụ của Công ty. Có nhiều cách để lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu, nhưng cách tốt nhất là nên chọn những người nhập khẩu trực tiếp, hạn chế hoạt động trung gian để giảm bớt những chi phí không cần thiết và có điều kiện quảng bá thương hiệu sản phẩm của Công ty mình trên thị trường nước ngoài. Kinh doanh trong lĩnh vực may mặc thì việc lựa chọn các đối tác trực tiếp càng trở nên có hiệu quả hơn. Sau khi tìm kiếm được đối tác và lựa chọn được mặt hàng kinh doanh cũng như một số nghiệp vụ khác thì giai đoạn đầu tiên của công tác nghiên cứu thị trường lúc này có thể tạm thời chấm dứt. 1.3.2. Công tác xúc tiến xuất khẩu hàng may mặc Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường và tìm kiếm được bạn hàng kinh doanh, các doanh nghiệp cần tiến hành việc xúc tiến xuất khẩu để chuẩn bị giao dịch xuất khẩu. Có nhiều phương tiện khác nhau để thực hiện việc xúc tiến xuất khẩu, nhưng phương tiện hữu hiệu nhất để xúc tiến xuất khẩu trên thị trường nước ngoài là quảng cáo. Quảng cáo là sự tuyên truyền, giới thiệu về hàng hoá và dịch vụ nhằm gây sự chú ý của những khách hàng tiềm năng, gây sự thích thú cho họ để họ trở thành khách hàng thực tế của doanh nghiệp. Quảng cáo giúp cho khách hàng biết đến sản phẩm và nhãn hiệu của doanh nghiệp, từ đó việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường này đạt được hiệu quả cao hơn. Đây là bước quan trọng với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt đối với các thị trường khó tính, quan tâm nhiều đến tên tuổi, uy tín và nhãn hiệu hàng hoá. Xúc tiến xuất khẩu mở ra cơ hội cho hàng may mặc của Việt Nam tham gia vào thị trường nước ngoài, xúc tiến xuất khẩu không chỉ giúp khách hàng biết đến hàng hoá của Việt Nam mà còn giúp các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt Nam nắm bắt được thông tin về thị trường, chủ động tìm kiếm bạn hàng và đối tác kinh doanh. 1.3.3. Công tác tổ chức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu hàng may mặc Uy tín của các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện đúng hợp đồng, đặc biệt là điều khoản thời gian giao hàng. Để thời gian giao hàng đúng hẹn, chất liệu, mẫu mã… sản phẩm đúng với hợp đồng đã ký kết thì việc tổ chức thu mua và tạo nguồn hàng ổn định đóng một vai trò quan trọng và là một hoạt động không thể thiếu. Đối với doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc thì việc chủ động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng của hàng hoá và hiệu quả kinh doanh. Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuỳ theo tình hình riêng của mỗi doanh nghiệp mà có những hình thức thu mua, tạo nguồn hàng xuất khẩu khác nhau. 1.3.4. Công tác giao dịch, thương lượng trong kinh doanh xuất khẩu Để tiến tới ký kết hợp đồng xuất khẩu, các bên thường phải trải qua quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch. Quá trình này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như thông qua thư tín, điện thoại, hay đàm phán trực tiếp… Mỗi hình thức giao dịch này có những ưu nhược điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ với đối tác, tiềm lực của doanh nghiệp cũng như chiến lược xâm nhập thị trường mà các doanh nghiệp lựa chọn cho mình phương thức giao dịch kinh doanh phù hợp. Quá trình giao dịch trong buôn bán quốc tế bao gồm những bước chủ yếu sau: Bước 1: Chào hàng (phát giá): là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong bước giao dịch này, người xuất khẩu phải nêu rõ tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng hàng hoá cùng các điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán, bao bì ký mã hiệu… Bước 2: Hoàn giá (mặc cả): trong trường hợp người nhận nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn với những điều kiện đã được đưa ra mà họ đưa ra một lời đề nghị mới thì đề nghị mới này được gọi là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng trước coi như không còn hiệu lực. Bước 3: Chấp nhận giá: là sự đồng ý hoàn toàn với mọi điều kiện có liên quan đến việc mua bán hàng hóa. Đến giai đoạn này, về cơ bản gần như việc thoả thuận mua bán giữa hai bên đã thực hiện xong. Bước 4: Xác nhận giá: là sự khẳng định những điều mà hai bên đã thỏa thuận để phân biệt với những điều kiện mua bán được đưa ra ban đầu. Việc xác nhận giá phải được thể hiện bằng văn bản. 1.3.5. Công tác ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng. Hợp đồng trong buôn bán quốc tế là văn bản trong đó ghi rõ các điều khoản hai bên đã thoả thuận, có chữ ký và con dấu của hai bên, thể hiện đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia ký kết. Hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế là rất cần thiết bởi các nước khác nhau có sự khác biệt về ngôn ngữ, chính trị, văn hoá, tôn giáo, tập quán…và hợp đồng chính là sự biểu hiện cho sự thoả thuận đã đi đến thống nhất. Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu phụ thuộc vào các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết giữa các bên, đặc biệt là các điều khoản về hình thức hợp đồng và cách thức giao hàng. Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu thông thường tiến hành qua các bước sau: Xin hạn ngạch Ký kết HĐXK Kiểm tra L/C Xin giấy phép XK Chuẩn bị hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Mua bảo hiểm Giao hàng lên tàu Làm thủ tục hải quan Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại 1.3.6. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu Hiệu quả hoạt động xuất khẩu là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, nó là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu rất quan trọng vì nó cho phép doanh nghiệp đánh giá được hiệu quả của của một hợp đồng xuất khẩu. Qua việc đánh giá hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ biết được những mặt làm được và chưa làm được của mình, từ đó rút ra được ưu và nhược điểm để kịp thời sửa chữa những khiếm khuyết và phát huy những ưu điểm. Chính vì vậy, việc đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc càng trở nên quan trọng, vì thông qua đó, các doanh nghiệp có thể rút ra được những kinh nghiệm kinh doanh và lựa chọn cho mình phương thức xuất khẩu phù hợp. 1.4. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang thị trường EU Kinh doanh trên thị trường quốc tế đòi hỏi các donah nghiệp phải luôn nhạy bén và thường xuyên nắm bắt được những nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu cũng như đến hàng hoá mà mình kinh doanh. Hàng may mặc, như đã nói ở trên, là một mặt hàng nhạy cảm và có nhu cầu luôn biến động. Hơn nữa, kinh doanh trên thị trường EU - một thị trường khó tính – thì việc nghiên cứu các nhân tố tác động đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng này. Nhóm những nhân tố tác động đến việc xuất khẩu hàng may mặc của nước ta sang thị trường EU là: 1.4.1. Các nhân tố khách quan Nhóm các nhân tố khách quan kể ra ở đây là những yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh quốc tế. Nhóm các nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn và có tính chất quyết định đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam thông qua các tác động của chúng về tiềm năng thị trường ở mọi thời điểm với định hướng hiện thực hoá thị trường. Các nhân tố phải kể đến là: 1.4.1.1. Nhân tố về xu hướng phát triển thị trường hàng may mặc thế giới Trên thế giới, việc sản xuất hàng may mặc đang có xu hướng tiếp tục chuyển dịch sang các nước có lợi thế hơn về giá nhân công và chi phí sản xuất. Trước đây, việc sản xuất hàng may mặc được chuyển từ các nước phát triển sang các nước NICs và hiện nay có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển. Hiện nay, việc sản xuất lương thực gặp nhiều khó khăn đã gây ra nhiều cản trở cho sự phát triển của các khu vực trồng bông và các loại cây có sợi cũng như các khu vực chăn nuôi. Việc sản xuất hàng may mặc từ sợi bông, len, sợi xenlulô tăng chậm hơn so với sản xuất sợi hoá học trong khi nhu cầu tiêu thụ hàng may mặc từ nguyên liệu có nguồn gốc hữu cơ đang có xu hướng tăng lên ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ và EU. Ngoài ra, những định chế trong buôn bán hàng may mặc thế giới cũng có những tác động không nhỏ tới việc xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang thị trường EU. Những thoả thuận của WTO về sợi bông và Hiệp định Đa sợi MFA (Multi Fibre Arangement) đã khiến cho quá trình tự do buôn bán hàng may mặc trên toàn cầu tăng lên đáng kể. Xu hướng tiêu thụ hàng sợi bông tăng lên cũng tạo điều kiện không nhỏ cho Trung Quốc và các nước Asean trong việc xuất khẩu các sản phẩm may mặc từ sợi bông mà trước kia bị hạn chế bởi MFA, mang lại nhiều lợi thế cho các nước này so với các nước phát triển vốn có ưu thế về xuất khẩu các sản phẩm sợi bông tổng hợp nhờ công nghệ cao. Tuy nhiên, hàng may mặc của các nước nước phát triển vẫn có xu hướng được bảo hộ dưới nhiều hình thức như luật về xuất xứ hàng hoá, các quy định về chống bán phá gía, các quy định về môi trường, về luật lao động, mức thuế cao... tạo ra những rào cản đáng kể với xuất khẩu của các nước đang phát triển, làm hạn chế những tác động tích cực mà ATC có thể mang lại. 1.4.1.2. Nhân tố về xu hướng tự do hoá mậu dịch Cùng với những nỗ lực tham gia vào AFTA, thực hiện tiến trình CEPT, hàng may mặc Việt Nam sẽ có rất nhiều những điều kiện thuận lợi khi xuất khẩu sang thị trường EU. Tuy nhiên, điều này cũng khiến cho việc bảo hộ hàng may mặc Việt Nam gặp phải những thách thức rất lớn, đó là từ năm 2006, hàng may mặc nước ta chỉ đươc bảo hộ ở mức 5%. Mặt khác, theo Hiệp định ATC/WTO, bắt đầu từ năm 2005, các nước phát triển sẽ bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt và may mặc cho các nước là thành viên của WTO. Điều này khiến cho việc nỗ lực gia nhập WTO là việc làm cần thiết của Việt Nam hiện nay để được hưởng những ưu đãi trong việc xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU, tăng khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực có tiềm năng xuất khẩu hàng may mặc. 1.4.1.3. Nhân tố các đối thủ cạnh tranh Những đối thủ cạnh tranh gần gũi nhất trên thị trường EU của hàng may mặc Việt Nam phải kể đến là các nước thành viên khác của Asean, đặc biệt là 6 nước thành viên cũ. Các nước này vốn có những điều kiện thuận lợi hơn Việt Nam rất nhiều trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc; những điều kiện thuận lợi đó là họ sẵn có thị trường tiêu thụ, chi phí sản xuất và giá nhân công không cao và những điều kiện khác phục vụ sản xuất có ưu thế hơn nước ta. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, đồng tiền bản địa mất giá đã khiến cho cá sản phẩm may mặc của nước ta trở nên đắt hơn do chi phí nhân công của ta tăng lên so với các nước khác trong khu vực. Một điều kiện thuận lợi khác là các nước này hầu hết đã tự túc được những nguyên phụ liệu có chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng may mặc xuất khẩu nên giá thành sản phẩm của họ càng được giảm tương đối. Hơn nữa, hàng may mặc của các nước Asean đã tạo dựng được nhiều nhãn hiệu quen thuộc, có uy tín trên thị trường EUvà thế giới. Hầu hết uy tín của các nước này được tạo ra nhờ sản phẩm có chất lượng cao, thời gian giao hàng đúng hẹn, giá cả cạnh tranh. Một đối thủ cạnh tranh rất lớn khác đối với hàng may mặc Việt Nam là Trung Quốc. Trung Quốc được coi là một trong những nước có lợi thế cạnh tranh lớn nhất về hàng may mặc trên thế giới. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành may mặc Trung Quốc thấp hơn, nên hàng lậu Trung Quốc tràn ngập ngay cả tại thị trường Việt Nam, làm cho hàng hoá Việt Nam khó có thể cạnh tranh ngay cả trên sân nhà. Là thành viên của WTO, Trung Quốc có lợi thế hơn Việt Nam rất nhiều trong việc được hưởng những ưu đãi do những quy định của Hiệp định ATC/WTO đem lại. Theo tính toán của các nhà kinh tế, chỉ là thành viên của WTO đã làm cho kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Trung Quốc tăng thêm 24 tỷ USD trong 4 năm tới. Trước kia, các nước Nics cũng là một trong những đối thủ cạnh tranh lớn trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc trên thế giới, nhưng hiện nay do giá đất, giá nhân công đắt hơn nên xu hướng chung là chuyển về những nước có chi phí nhân công thấp hơn như Trung Quốc, Asean... Như vậy, đối với ngành may mặc, các doanh nghiệp Việt Nam có quá nhiều những đối thủ cạnh tranh nặng ký; nếu không được đầu tư đúng mức về mọi phương diện thì ngành may mặc Việt Nam khó lòng trụ được một cách vững vàng trên thị trường EU và các thị trường khác trên thế giới. 1.4.1.4. Quan hệ kinh tế – Thương mại giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu (EU) Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng XHCN, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng sâu rộng thì quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và đặc biệt quan hệ thương mại Việt Nam với Liên minh Châu Âu (EU) nói riêng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự hợp tác này chính là cầu nối quan trọng tạo điều kiện cho Việt Nam củng cố tiềm lực và tranh thủ sự hỗ trợ nhằm khai thác thế mạnh của các nước thành viên EU, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế trên thương trường quốc tế. Với EU, Việt Nam không chỉ là bạn hàng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế mà với vị trí địa lý, chính trị và những tiềm năng to lớn về tài nguyên, con người, kinh tế, văn hoá,…Việt Nam còn là cửa ngõ quan trọng giúp EU mở rộng mối quan hệ với các nước Asean. Cho tới nay, quan hệ giữa Việt Nam – EU đã có một quá trình phát triển trên 13 năm kể từ khi thiết lập mối quan hệ ngoại giao chính thức ngày 22 tháng 10 năm 1990. Sau khi mối quan hệ ngoại giao này được thiết lập, Việt Nam và EU luôn coi trọng mối quan hệ hợp tác này. Hiệp định khung về hợp tác được ký kết ngày 17/7/1995 tại Brusels và việc nỗ lực trong triển khai thực hiện có thể coi là bằng chứng và là nền tảng thúc đẩy mối quan hệ trên tất cả các lĩnh vực phát triển, mở ra một giai đoạn hợp tác toàn diện và có hiệu quả giữa hai bên. Tiếp theo sự khởi đầu tốt đẹp đó, quan hệ thương mại hai bên đã có những bước tiến triển đáng khích lệ: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng trung bình 37,6%/năm thời kỳ 1990 – 2000. Nếu năm 1990, Việt Nam mới xuất khẩu được 147 triệu USD thì đến năm 2000 đã đạt 2875,7 triệu USD; năm 2002 là 3149,9 triệu USD tăng 4,9%; năm 2003 là 3.796,2 triệu USD, Chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU trong những năm gần đây cũng tăng đáng kể: Năm 1999 là 1052,8 triệu USD; Năm 2000 là 1302,6 triệu USD, tăng 23.7% so với năm 1999; Năm 2001 là 1527,4 triệu USD, tăng 17,2% so với năm 2000; Năm 2002 là 1842,1 triệu USD, tăng 20,5% so với năm 2001. Đến nay, Việt Nam đã mở rộng mối quan hệ với tất cả các nước EU, đặc biệt là Đức, Anh, Pháp, Hà Lan với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hàng may mặc, giày dép, thuỷ sản, nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ.. Ngày 1/5/2004, 10 quốc gia thuộc Trung Đông và Ba Lan chính thức trở thành thành viên của EU, điều này tạo ra những thuận lợi đối với Việt Nam trong việc mở rộng thâm nhập thị trường này, vì các quốc gia mới hầu hết là các nước XHCN trước đây, mặt khác Việt Nam cũng đã có mối quan hệ thương mại với các nước này, song nó cũng tạo ra không ít những khó khăn mà phía Việt Nam cần phải quan tâm và nỗ lực hơn nữa nhằm thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao Việt Nam – EU+10 ngày càng phát triển. 1.4.1.5. Các hiệp định về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU Theo đà phát triển về quan hệ ngoại giao giữa Vịêt Nam – EU, các hiệp định thương mại nói chung và hiệp định về hàng dệt may nói riêng giữa Việt Nam và EU cũng không ngừng được cải thiện. Các hiệp định có tính chất quan trọng chi phối kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang EU có thể kể đến như: Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1993 Có thể nói rằng hiệp định này đã mở ra một trang mới cho xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang EU. Trước khi hiệp định này được ký kết, thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng may mặc Việt Nam những năm 90-91 là các nước trong khối Hội đồng tương trợ kinh tế. Nhưng do tác động của những thay đổi về chính trị, xã hội ở các nước này nên xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam suy giảm nghiêm trọng. Từ sau khi hiệp định này được ký kết, may mặc Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới từ năm 1992, kim ngạch xuất khẩu may mặc nước ta tăng lên nhanh chóng, đưa hàng may mặc trở thành nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai sau dầu thô. Hiệp định khung hợp tác giữa Việt Nam và EU ký kết ngày 17/7/95 tạo điều kiện thuận lợi để thương mại Việt Nam và EU phát triển mạnh và đa dạng Đồng thời với việc ký kết Hiệp định khung, hai bên cũng đã ký kết những hiệp định thoả thuận chuyên ngành về may mặc. Những hiệp định hợp tác này là khuôn khổ pháp lý giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu vào EU. Nội dung của hiệp định này chủ yếu đề cập đến chế độ áp dụng cho buôn bán hàng may mặc xuất từ Việt Nam sang EU, như các quy định về phương thức xuất nhập khẩu các mặt hàng theo hạn ngạch của các bên. Việc xếp loại các mặt hàng được căn cứ trên cơ sở biểu thuế thống kê của EU. Theo như hiệp định này, hạn ngạch về hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang EU được tăng lên đáng kể so với hiệp định được ký kết năm 1992: tăng hạn ngạch ở 23 Cat nóng từ 20% đến 25%, giảm số Cat có hạn ngạch từ 105 xuống còn 54. Hiệp định khung năm 1995 được ký kết đã tạo ra một cơ hội mới thúc đẩy hàng may mặc Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh hơn trước. Việt Nam được tự do chuyển đổi Quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn và dễ dàng hơn, đồng thời EU cũng dành cho phía Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc trọn vẹn. Hiệp định buôn bán hàng may mặc Việt Nam – EU giai đoạn 1998 – 2000 được ký kết tháng 11/1997 cho phép nâng hạn ngạch may mặc từ Việt Nam sang EU tăng 40% so với giai đoạn 1993 – 1997 với mức tăng trưởng 3-6%/năm. Như vậy, đến Hiệp định này, EU đã nâng mức tăng trưởng hạn ngạch từng năm từ 1,5-2,5% thời gian trước đó lên 3-6%/năm . Quan trọng hơn, EU đã giảm bớt các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch từ 54 Cat xuống còn 29 Cat, trong đó có 13 Cat tăng từ 36-116%. Hiệp định mới này đã đưa 25 loại hàng ra khỏi danh mục quản lý bằng hạn ngạch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu tự do các mặt hàng này vào EU. Tháng 3 năm 2000, Việt Nam đã ký kết với EU Hiệp định song phương về hàng may mặc và giày dép, theo đó EU sẽ tăng hạn ngạch hàng may mặc của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này lên 27%. Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực từ 15-06-2000 và kéo dài đến hết năm 2002. Năm 2003, EU đã dành cho Việt Nam mức tăng các Cat nóng từ 50-70% và tăng hạn ngạch hàng may mặc của Việt Nam vào EU đạt tới 800- 850 triệu USD, so với mức 600-700 triệu USD trong 3 năm gần đây và mức tăng hạn ngạch cao nhất từ trước tới nay chỉ là gần 30%; Ngoài ra nếu trước đây, mức tăng trưởng hạn ngạch hàng năm thông thường EU chỉ dành cho Việt Nam từ 1,5-3,5%, thì lần này EU đã cam kết cho Việt Nam mức tăng trưởng 6%, gấp đôi mức thông thường các lần trước. Kết quả của lần đàm phán này là bước đột phá để Việt Nam tăng xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU. Nếu như các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam khẩn trương tiếp cận thị trường, khẩn trương xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa hạn ngạch mà EU đã dành cho thì con số kim ngạch xuất khẩu sang EU sẽ ngày càng tăng lên đáng kể. 1.4.1.6. Đặc điểm thị trường EU EU là một thị trường khá rộng lớn gồm 15 quốc gia với 386 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU là một thị trường mang tính thống nhất, cho phép tự do lưu thông hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động. Hiện nay, EU chiếm tới 1/5 giá trị thương mại toàn cầu và là thành viên chủ chốt của WTO. Thị trường EU có những đặc điểm chính sau: a. Thị hiếu và thói quen tiêu dùng Mỗi quốc gia thành viên trong EU có đặc điểm tiêu dùng riêng, do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hóa, dịch vụ. Người châu Âu có sở thích và thói quen tiêu dùng các loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng những nhãn hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên khi dùng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Vì vậy, những sản phẩm ít danh tiếng rất khó tiêu thụ ở thị trường này. Điều này chứng tỏ chiến lược cạnh tranh về giá không phải là giải pháp tối ưu khi thâm nhập thị trường này. Ngược lại, việc đầu tư để quảng bá và khuyếch trương thương hiệu là việc làm trước mắt và tối quan trọng đối với các nhà xuất khẩu của Vịêt Nam. b. EU là một thị trường khó tính Không biết có phải do tuổi tác quy định hay không, nhưng so với Mỹ, EU là một thị trường “già”. “Già’ ở đây cả với nghĩa là châu Âu đã có lịch sử phát triển hàng nghìn năm, những phong tục tập quán đã ăn sâu trong lòng người dân so với mấy trăm năm của nước Mỹ, cũng như về kết cấu dân số. Thị trường EU là một thị trường khó tính, chọn lọc kỹ lưỡng. Các nhà nhập khẩu EU luôn có xu hướng đòi hỏi cao đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào và họ thường tỏ ra thận trọng và bảo thủ hơn so với người Mỹ đầy thực dụng. c. EU là một thị trường bảo vệ người tiêu dùng Do là một thị trường phát triển vào bậc nhất trên thế giới nên những yếu tố liên quan đến sức khoẻ và sự an toàn của người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. Để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, EU kiểm tra sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống báo động giữa các thành viên khi có hiện tượng độc hại, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra sản phẩm tại biên giới. EU đưa ra các quy định chuẩn quốc gia hoặc Châu Âu để cấm buôn bán các sản phẩm được sản xuất ra ở các nứơc có những điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang với tiêu chuẩn của châu Âu. Trong hệ thống quy định bảo vệ người tiêu dùng có quy định các thành phần của sản phẩm, cách bảo quản. Việc làm sai những quy định này bị xử lý rất nghiêm. d. Kênh phân phối của EU Hệ thống phân phối của EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân phối này là các Công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các Công ty bán lẻ độc lập… Hình thức tổ chức phổ biến nhất của kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này, mà không cung cấp cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Kênh phân phối không theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của tập đoàn này ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống cửa hàng và siêu thị trong tập đoàn của mình, còn cung cấp cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Hệ thống phân phối của EU đã hình thành nên một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là dễ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, các nhà xuất khẩu của ta muốn tiếp cận được các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường EU, phải tiếp cận được các nhà nhập khẩu EU thông qua 2 cách sau: Một là, tìm hiểu các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp. Việc tìm kiếm các nhà nhập khẩu này nên được tiến hành thông qua các thương vụ của Việt Nam tại EU; Phái đoàn EC tại Hà Nội; các đại sứ quán EU tại Việt Nam. Hai là, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam có tiềm lực kinh tế nên liên doanh với các Công ty xuyên quốc gia EU để trở thành Công ty con 1.4.1.7. Ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc của EU a - Đặc điểm của ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc EU Như chúng ta đã biết, may mặc đã trở thành một trong những ngành công nghiệp quan trọng trong những năm gần đây, dòng thương mại trong lĩnh vực này gia tăng hàng năm trên thế giới. Có thể nói rằng, công nghiệp sản xuất hàng may mặc được phát triển rộng khắp các nước trên thế giới, song ở mỗi nước khác nhau ngành công nghiệp này lại có những đặc thù riêng, chúng mang lại nhiều lợi thế, song cũng có không ít những bất lợi đối với sự phát triển của ngành. Ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc của EU có những đặc điểm nổi bật sau: Ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc Liên minh châu Âu có sự ra đời và phát triển từ lâu đời, châu Âu vốn nổi tiếng với những nhà thiết kế, tạo mẫu và những trung tâm thời trang hàng đầu thế giới. Song hiện nay, xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương maị đã đặt ngành công nghiệp này của EU đứng trước sự cạnh tranh gay gắt với các quốc gia khác trên thế giới, chủ yếu trong chi phí lao động ở các quốc gia này (đặc biệt là các nước châu á) Ví dụ: chi phí lao động trong may mặc ở Đức là 18 USD /giờ. Balan 2,77 USD/giờ,…trong khi đó chi phí lao động trong may mặc ở Việt Nam là 0,22 USD/giờ và ở Trung Quốc là 0,43 USD/giờ. Tuy chi phí lao động thấp, nhưng chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của các quốc gia này so với EU là tương đương. Mặc dù có sự khác nhau về chi phí lao động đó, nhưng hàng may mặc của EU vẫn duy trì sức cạnh tranh về sản phẩm đối với các quốc gia khác, thể hiện ở chất lượng, sự sáng tạo, mẫu mã hay thời trang. Các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc EU có ưu thế về công nghệ, vì vậy, những nhu cầu của thị trường luôn được đáp ứng kịp thời và vẫn có thể quản lý, kiểm soát được chất lượng hàng hóa. Một đặc điểm khác của ngành công nghiệp này là dựa vào các yếu tố doanh thu, nhân công và sự phân bố địa lý. Italia là quốc gia sản xuất hàng may mặc quan trọng trong EU, chiếm 31% tổng lượng hàng may mặc của EU, tiếp theo là Anh 15%, Đức 14%, Pháp 13%, Tây Ban Nha 9%, Bồ Đào Nha 6%, Bỉ 4%, Hy Lạp, áo, Hà Lan mỗi quốc gia chiếm 2%, các nước còn lại mỗi nước chiếm 1%. Năm quốc gia hàng đầu chiếm 89% tổng sản lượng của ngành và ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc EU tập trung ở phía Nam nhiều hơn so với phía Bắc. b – Thực trạng ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc EU Về sản lượng: Trong những năm vừa qua, giá cả và sản lượng trong lĩnh vực may mặc ở Liên minh châu Âu đều giảm, nguyên nhân là do xu hướng của nền kinh tế EU tác động, do nhu cầu nội địa không cao, và nguyên nhân quan trọng hơn cả là việc hàng may mặc nhập khẩu với giá thấp từ các nước đang phát triển đang tăng lên về thị phần trong EU. Về năng suất lao động và đầu tư trong lĩnh vự._.ớc thành viên mới của EU Như đã nói ở trên, công tác xúc tiến xuất khẩu của Công ty hiện nay còn khá yếu; do đó, ngay cả ở thị trường 15 nước thành viên cũ của EU thì sản phẩm của Công ty cũng ít được biết đến. Chính vì vậy, để xâm nhập vào thị trường 10 nước thành viên mới của EU thì việc đẩy mạnh công tác xúc tiến càng trở nên quan trọng. Công ty có thể đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu bằng cách quảng cáo trên mạng, trên báo chí hay trên đài truyền hình của các nước EU. Công ty cũng cần đẩy mạnh việc tham gia vào các hội chợ, triển lãm hay trưng bày hàng hoá ở kho ngoại quan của Việt Nam tại EU. Những hoạt động này tuy tốn kém nhưng hiệu quả mà chúng mang lại rất cao, đó sẽ là các trung tâm thu hút và cung cấp các thông tin kịp thời về thị trường và khách hàng cho Công ty, khắc phục tình trạng thiếu thông tin như hiện nay, từ đó góp phần thúc đẩy phương thức xuất khẩu trực tiếp phát triển nhanh chóng và có hiệu quả. 3.3.1.7.. Các giải pháp khác Ngoài những giải pháp nêu trên, Công ty có thể áp dụng một số giải pháp khác để tăng hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU như: * Đẩy mạnh áp dụng ISO 9000, ISO 14000, và hệ thống tiêu chuẩn SA8000 Kinh doanh trên thị trường EU, các doanh nghiệp sẽ gặp phải những yêu cầu khắt khe của hệ thống quản lý chất lượng; hàng hóa từ bên ngoài muốn vào được thị trường này cần vượt qua được các rào cản kỹ thuật, đó là những quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU. Hàng hoá xuất khẩu vào EU phải tuân thủ các tiêu chuẩn của sản phẩm như: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Với hàng may mặc, cần phải đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, bảo vệ môi trường và an toàn cho người lao động. - Đối với tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là bắt buộc với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU. ISO 9000 do tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế đặt ra nhằm giúp các đơn vị đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm, để duy trì một dạng sản phẩm có chất lượng đồng nhất, phù hợp với giá thành. Vì vậy khi xuất khẩu vào EU, những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập dễ hơn nhiều so với những hàng hóa của doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. - Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, ký mã hiệu hàng hóa trở nên quan trọng số một trong lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Vì vậy, Công ty cần phải chú ý tới vấn đề gắn ký mã hiệu cho hàng hoá . Đây cũng là yếu tố bắt buộc đối với hàng hoá nhập khẩu vào EU. - Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 ngày càng trở nên quan trọng với các doanh nghiệp may mặc Việt Nam khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Chứng chỉ ISO 14000 sẽ là phương tiện, là thước đo để khách hàng EU có thể an tâm về phương diện bảo vệ môi trường của sản phẩm và là tiêu chí để duy trì khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường EU. - SA 8000, như đã nói ở trên, là hệ thống tiêu chuẩn về quản trị trách nhiệm xã hội, nó không mang tính pháp lý bắt buộc nhưng lại được ủng hộ của đông đảo các doanh nhân; coi đó như là một bằng chứng khẳng định giá trị đạo đức gắn với các doanh nghiệp nước ta khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU. Như vậy, có thể nói ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 chính là chìa khoá để Công ty may Chiến Thắng và các doanh nghiệp may mặc Việt Nam khác mở rộng cánh cửa cho hàng xuất khẩu sang thị trường EU. Để thực hiện được các giải pháp đó, trong thời gian tới Công ty cần làm những việc cụ thể sau: - Đầu tư tài chính và nhân lực cho phòng Kinh doanh tiếp thị trong công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường và khách hàng Phòng Kinh doanh tiếp thị của Công ty đảm nhận trách nhiệm chính là tìm kiếm và ký kết các đơn hàng, kể cả gia công và xuất khẩu, do vậy có điều kiện để tiếp xúc với khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay phòng chỉ có 4 cán bộ, nên việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu thị trường là rất khó khăn. Hầu hết các đơn hàng được ký kết của Công ty là do khách hàng tự tìm đến, do vậy trên thực tế phòng vẫn chưa hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của mình. Sở dĩ như vậy cũng một phần lớn là do nguồn vốn mà Công ty cấp cho phòng để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ chưa nhiều, nên trong thời gian tới, để có thể thực hiện được mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp thì trước hết, Công ty nên đầu tư cho phòng về tài chính và nhân lực để hoạt động nghiên cứu thị trường được đẩy mạnh, dần dần hình thành một bộ phận riêng biệt chuyên nghiên cứu thị trường và thực hiện các hoạt động Marketing. - Chủ động tiếp cận với những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật Trong kinh doanh, một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu là trình độ của máy móc thiết bị mà doanh nghiệp sử dụng. Với ngành may mặc, máy móc thiết bị hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, từ đó tăng khả năng cạnh tranh về giá. Vì vậy, để đẩy mạnh phương thức xuất khẩu trực tiếp, ngoài việc đầu tư cho nghiên cứu thị trường thì việc đầu tư cho trang thiết bị để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cũng đóng góp một phần không nhỏ cho Công ty. Muốn vậy, Công ty cần chủ động tiếp cận với các máy móc thiết bị tiên tiến, thông qua việc sử dụng máy móc của bên đặt gia công cung cấp, thông qua đầu tư mua máy móc thiết bị của các nước bạn. - Sử dụng các khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động Muốn người lao động cống hiến hết mình trong công việc để sản xuất ra những sản phẩm tốt, giảm tỷ lệ phế phẩm...thì trước hết đời sống vật chất và tinh thần của họ phải được quan tâm chăm sóc đầy đủ. Để làm được điều này, Công ty nên đưa ra một quy chế thưởng, phạt rõ ràng để khuyến khích người lao động sáng tạo trong công việc và loại bỏ dần các thói quen xấu của người lao động. Công ty nên khuyến khích sự sáng tạo của cán bộ cũng như Công nhân bằng cách trao phần thưởng định kỳ cho những người có sáng kiến hay, thiết thực cho công việc. Làm được điều này sẽ khích lệ rất lớn cho người lao động hoàn thành và sáng tạo trong công việc. Để khuyến khích đời sống tinh thần cho người lao động, Công ty có thể tổ chức những hội thi văn nghệ, hội thi tay nghề giỏi, hay trao phần thưởng cho con em cán bộ, công nhân viên có thành tích cao trong học tập. Làm được những điều đó, chắc chắn rằng người lao động sẽ phấn khởi hơn rất nhiều, nhờ đó làm việc có hiệu quả hơn, kết quả và hiệu quả kinh doanh của Công ty nhờ đó cũng tăng cao. Ngoài những cách nói trên, để thực hiện mục tiêu cơ bản là đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp thì Công ty cũng nên rà soát lại phòng kinh doanh nội địa, bộ phận thiết kế, sáng tác mẫu để tiến tới chủ động hơn trong việc thiết kế mẫu phục vụ nhu cầu xuất khẩu trực tiếp. 3.3.2. Những kiến nghị đối với Nhà nước nhằm tạo tiền đề để thực hiện các giải pháp của Công ty Đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới là quy luật tất yếu của xu hướng quốc tế hoá hiện nay. Đặc biệt với một nước đang phát triển như Việt Nam, xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ chủ yếu, là yếu tố thúc đẩy Công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng. Các biện pháp đó cần được tiếp tục duy trì, cải tiến và phát triển trong tương lai. Như chúng ta đã biết, nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường EU là rất lớn, đặc biệt khi EU kết nạp thêm 10 quốc gia mới vào khối liên minh thống nhất của mình thì nhu cầu về mặt hàng này lại càng trở nên đa dạng hơn rất nhiều.Vì vậy trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường này, Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện các giải pháp sau: a. Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại * Về chính sách đầu tư: Có thể nói, đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất để phát triển bất kỳ một ngành nào. Việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam cần có sự đầu tư đồng bộ từ khâu nguyên liệu, sản xuất, tìm kiếm thị trường và xuất khẩu hàng hóa. Do vậy, vấn đề đầu tư càng trở nên quan trọng. Ngành dệt may Việt Nam hiện có sự phát triển không đều giữa ngành dệt và ngành may, chính vì vậy một mặt nó đã khiến cho hiệu quả xuất khẩu hàng may mặc giảm đi đáng kể, mặt khác nó khiến cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam kém chủ động về nguồn hàng, phải phụ thuộc lớn vào nước ngoài. Do đó, quan điểm chung của việc đầu tư cho ngành dệt may là phải tính trên phạm vi toàn ngành, trong đó tập trung vào ngành dệt và phụ liệu may mặc để ngành này có thể phát triển theo kịp ngành may. Tiếp theo đó, tập trung đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị; khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhất là cho ngành dệt; ưu tiên các dự án sản xuất các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được và các sản phẩm không bị áp dụng hạn ngạch. Muốn làm được như vậy, cần thu hút các nguồn đầu tư thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại. - Về môi trường đầu tư: Cần hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật, đồng thời xem xét lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy luật không còn phù hợp hoặc chưa được rõ. Với luật thương mại, cần bổ xung rõ ràng về các biện pháp quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu. Với luật đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia về đầu tư trong lĩnh vực thương mại và chế độ cấp phép đầu tư. Hiện nay, việc thu hút được các nguồn vốn đầu tư đang là biện pháp cần thiết đối với may Chiến Thắng nói riêng và các doanh nghiệp may mặc Việt Nam nói chung để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vốn đầu tư có thể khai thác từ các nguồn ở trong và ngoài nước. Để tăng cường khai thác các nguồn vốn đầu tư này, Nhà nước cần hoàn thiện việc quản lý các chính sách đầu tư: + Với chính sách đầu tư trong nước, Nhà nước nên tập trung vào một số doanh nghiệp Nhà nước có năng lực, có khách hàng, làm ăn có hiệu quả. Tiến hành cổ phần hóa, tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Cổ phần hóa, tư nhân hoá các doanh nghiệp may không chỉ là giải pháp quan trọng nhằm thu hút đầu tư trong nước mà còn góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp may. + Với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, cần khuyến khích đầu tư dưới mọi hình thức: Liên doanh, cổ phần hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tập trung đầu tư sản xuất những mặt hàng mới, phức tạp mà doanh nghiệp chưa có khả năng sản xuất. Ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, tăng cường khai thác quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh châu Âu để phát triển doanh nghiệp may mặc. Đặc biệt, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”, vì hiện nay các doanh nghiệp đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt – nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Muốn thu hút được đầu tư nước ngoài cần nâng cấp cơ sở hạ tầng, giữ vững ổn định chính trị. Một nhà đầu tư không thể mạo hiểm đầu tư vào một nước luôn có sự biến động về chính trị, vì vậy sự ổn định về chính trị của một nước là điều kiện đầu tiên tối quan trọng trong quyết định đầu tư. - Về môi trường thương mại: Trước hết, cần cải cách các thủ tục hành chính, nhất là thủ tục Hải quan; áp dụng công nghệ thông tin vào kê khai và tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu. Thay đổi về căn bản phương thức nhập khẩu, giảm dần tỷ trọng thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách; sửa đổi biểu thuế và cải cách việc thu thuế theo giá tối thiểu. Với phương thức quản lý nhập khẩu hợp lý, chúng ta có thể đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, từ đó mở rộng hợp tác với EU, góp phần thúc đẩy xuất khẩu vào EU. Việc cải thiện môi trường thương mại là giải pháp hết sức cơ bản nhưng lại mang tính chất tổng hợp cao, vì vậy cần có sự phối hợp của chính phủ, các bộ, ngành chức năng và các định chế xã hội, văn hoá... b. Chính sách về nguyên vật liệu và phát triển sản phẩm Hiện nay, phần lớn các nguyên phụ liệu của ngành may mặc Việt Nam như bông, xơ, sợi tổng hợp, hoá chất, thuốc nhuộm, vải chất lượng cao phục vụ cho may xuất khẩu vẫn phải nhập khẩu. Khuyến khích sản xuất các mặt hàng nói trên là việc làm cần thiết vừa để giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại, chủ động trong sản xuất kinh doanh, vừa để nâng cao lợi nhuận, hiệu quả xuất khẩu. Quy hoạch vùng trồng bông trên cơ sở bố trí lại cơ cấu cây trồng thích hợp để tăng diện tích trồng bông. Muốn vậy, Nhà nước phải có những biện pháp quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu tự nhiên, đồng thời đặt cơ sở cho hình thành và sản xuất sợi hoá học. - Về sản xuất sợi tự nhiên: Hiện nay, hầu hết các khu vực có thể trồng bông đang trồng các loại câu khác nên lượng bông cung cấp cho ngành dệt là khá ít ỏi (chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu). Quy hoạch khu vực trồng bông và hỗ trợ người trồng bông là giải pháp cần thiết trước mắt. Vì vậy, cần đẩy mạnh triển khai chương trình phát triển cây bông vải của Chính phủ, cụ thể là: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: thuỷ lợi, giao thông cho các vùng trồng bông để tăng diện tích trồng bông và hiệu quả trồng bông. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, khuyến nông áp dụng kỹ thuật mới, các giống bông cho chất lượng cao, đổi mới kỹ thuật chế biến bông. - Về sản xuất sợi hoá học: khi công nghiệp lọc dầu phát triển sẽ là cơ sở để ta đầu tư cây dựng một số nhà máy sản xuất tơ sợi tổng hợp, sản xuất hoá chất thuốc nhuộm...để thay thế một phần các nguyên phụ liệu mà ta đang phải nhập khẩu để phục vụ may xuất khẩu. Khuyến khích các cá nhân, các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất nguyên phụ liệu thông qua việc đầu tư vốn, thiết bị kỹ thuật và công nghệ. Đồng thời, cũng phải xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở may mặc sử dụng nguồn nguyên phụ liệu sản xuất trong nước, cụ thể là: chính sách thuế, thưởng hạn ngạch... - Đối với vấn đề phát triển sản phẩm: Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích trong khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, tổ chức đào tạo đội ngũ thiết kế mẫu mã. Thành lập trung tâm tạo mốt Việt Nam, gắn trung tâm này với các trung tâm tạo mẫu của EU và trung tâm khác. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam trong việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, đưa hàng may mặc Việt Nam ra thị trường thế giới với tên hiệu của mình. c. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU và EU+10 Cơ hội để hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU là rất lớn, song hiện nay may Chiến Thắng cũng như các doanh nghiệp may mặc khác của Việt Nam đều chưa khai thác được hết những cơ hội này do còn một số hạn chế về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, nhãn mác, chủng loại...chưa phong phú và chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe từ phía thị trường EU. Do vậy, muốn cho việc xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào thị trường EU được phát triển suôn sẻ, cần có những biện pháp để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU. Hiện nay, việc xúc tiến xuất khẩu chưa được các doanh nghiệp coi trọng một cách đúng mức. Một số doanh nghiệp cũng đã chú ý tới hoạt động này, song do hạn chế về tài chính và thiếu những nguồn thông tin cần thiết về thị trường và thiếu kinh nghiệm nên hiệu quả thu được chưa cao.Việc xúc tiến xuất khẩu là một hoạt động khá khó khăn, phức tạp, vì vậy cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Khi thị trường EU được mở rộng thì việc xúc tiến xuất khẩu càng trở nên quan trọng hơn rất nhiều, vì các nước thành viên mới này hầu như chưa biết đến sản phẩm may mặc của Việt Nam. Trong thời gian tới, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU và EU+10, Nhà nước cần có các chính sách hôc trợ và nên thưc hiện một số hoạt động để trợ giúp các doanh nghiệp: * Về chính sách tín dụng: Đại bộ phận các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao. Vì vậy, để mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần phải hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thông qua một số biện pháp: - Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết những khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư để đổi mới trang thiết bị. - Đảm bảo quan hệ tín dụng thật sự bình đẳng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và tổ chức tín dụng. - Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Mục đích của quỹ này là giúp đỡ các doanh nghiệp có khả năng phát triển, cần vay vốn nhưng không có đủ tài sản thế chấp. - Thực hiện lãi suất ưu đãi với các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu sang EU có hiệu quả. - Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết vấn đề khó khăn về vốn trung và dài hạn. Phát triển mạnh hình thức thuê mua tài chính với các thiết bị dây truyền sản xuất. - Thông qua ngân hàng, linh hoạt mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu, hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thiếu vốn. Hạ lãi suất chiết khấu kéo theo giá hàng hoá hạ, khả năng cạnh tranh và khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu nhờ đó sẽ tăng lên. - Chính phủ nên bảo lãnh các doanh nghiệp Nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài. - Doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh phát triển nhanh cần được cấp vốn lưu động phù hợp với tốc độ phát triển. Tóm lại, mục tiêu cơ bản của chính sách tín dụng là giúp đỡ cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam có vốn cần thiết để đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, từ đó đạt được mục đích là đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU. * Về chính sách thuế : May mặc là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, nhưng có đặc thù là hầu hết các nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất và xuất khẩu đều phải nhập khẩu và chủ yếu là may gia công xuất khẩu. Vì vậy việc được ưu đãi về thuế sẽ là một trong những công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trưòng. Những ưu đãi về thuế mà chính phủ áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam là : - áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên vật liệu nhập khẩu như bông, vải, sợi ... và áp dụng thuế suất ưu đãi đối với nguyên phụ liệu khác. (Hiện nay, nhà nước ta đang áp dụng trong biểu thuế nhập khẩu là : Bông, sợi ở dạng thô, chưa chải sạch mới là 0%, còn nếu với cũng sản phẩm ấy đã chải sạch và ở dạng phế liệu là 5%, ở dạng sợi có tỷ trọng bông 85% trở lên là 20%, ở dạng sợi có tỷ bông dưới 85% là 15%; thuế cao nhất là các loại vải dệt từ bông hay sợi thuế nhập khẩu lên tới 40%, tiếp theo là các loại chỉ khâu từ bông hay sợi là 20%...). - Xây dựng mức thuế nhập khẩu chi tiết cho các nguyên phụ liệu nhập khẩu. Xoá bỏ tình trạng một loại nguyên vật liệu với các thông số kỹ thuật khác nhau, định mức tiêu hao và nhiều chức năng khác nhau cùng được áp dụng cùng một loại thuế suất. Điều này gây nhiều thiệt thòi cho các doanh nghiệp. - Doanh nghiệp may mặc sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn giảm thuế lợi tức với phần đầu tư đó. - áp dụng thuế suất VAT 5% cho các sản phẩm sợi và vải trong vòng các năm 2002-2005 (đa số các sản phẩm đó hiện nay đang chịu thuế suất VAT 10%) Miễn thuế VAT với phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm. * Các hoạt động cụ thể hỗ trợ công tác xúc tiến xuất khẩu sang EU và EU+10 : - Đẩy mạnh chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc đàm phán ký kết các hiệp định, thoả thuận thương mại đa phương và song phương, nhằm tạo các tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu. - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. Khó khăn đối với các doanh nghiệp may mặc Việt Nam hiện nay là tìm đối tác, nhất là đối tác tin cậy. Vì vậy, cần nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc giúp các doanh nghiệp tìm được bạn hàng tin cậy. Đồng thời, do điều kiện không gian và nguồn kinh phí eo hẹp, các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong vấn đề nghiên cứu thị trường. Nhà nước phải có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc khảo sát có hiệu quả tránh chi phí tốn kém. - Cho phép thành lập một trung tâm xúc tiến thương mại của Việt Nam tại EU để hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Việc làm này có thể thu hút các doanh nghiệp và cộng đồng Việt Nam thuê diện tích tại trung tâm để giới thiệu sản phẩm bán hàng, mua hàng của EU, tạo đầu mối, triển khai quan hệ buôn bán với bạn hàng EU. - Nhà nước cùng các doanh nghiệp kết hợp trong việc mở các kho ngoại quan tại Châu Âu. Kho ngoại quan có tác dụng rất lớn cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập vào EU, đặc biệt là xâm nhập vào thị trường 10 nước thành viên mới. Thông qua các kho ngoại quan này, hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng may mặc nói riêng sẽ có mặt thường xuyên trên thị trường này; mặt khác nó còn hỗ trợ trong công tác thu thập thông tin về thị trường và khách hàng, tăng tính chủ động trong công tác xúc tiến xuất khẩu. Các kho này cũng giúp cho hàng Việt Nam vượt qua các rào cản chất lượng và kiểm tra hàng hoá để tiện buôn bán và giao hàng chắc chắn hơn, tăng độ tin cậy ở các bạn hàng nhập khẩu. Ngoài ra, hệ thống kho này còn cung ứng cho các kênh phân phối mới với các phân khúc thị trường theo chùm khách hàng, theo chuỗi giá trị. Các phân khúc thị trường có thể cung ứng nhanh để nắm bắt các cơ hội, cung ứng với giá tốt hơn khi cầu vượt cung. Thêm vào đó, các kho này cũng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận thêm các khách hàng tiềm năng phong phú. - Đẩy mạnh công tác khuyến khích xuất khẩu, thưởng hạn ngạch đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc với tỷ lệ nội địa hoá cao, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc theo hình thức trực tiếp với khối lượng lớn... d. Tổ chức tốt hệ thống thông tin về thị trường và khách hàng Thông tin là một yếu tố rất quan trọng đối với quyết định kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu như Công ty may Chiến Thắng. Trước khi bước vào kinh doanh trên một thị trường mới, việc đầu tiên mà doanh nghiệp cần làm là nghiên cứu thị trường và những đặc điểm của khách hàng trên thị trường mà mình định kinh doanh. Với những thị trường truyền thống như EU, việc cập nhật thông tin về những nhu cầu luôn biến đổi rất nhanh và những đòi hỏi khắt khe của thị trường này là việc cực kỳ quan trọng giúp đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp, giảm bớt việc xuất khẩu theo phương thức gia công mà từ trước đến nay chúng ta đã sử dụng rất phổ biến. Chính vì việc nắm bắt thông tin của chúng ta còn yếu mà sức cạnh tranh trên thị trường EU giảm đi đáng kể. Vì vậy trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường EU, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần tập chung hoàn thiện hệ thống thông tin. Việc thu thập thông tin cần phải đảm bảo nguyên tắc : Chính xác, rõ ràng, đầy đủ, thường xuyên, thống nhất về tiêu chí, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt, khi EU kết nạp thêm 10 nước thành viên mới thì việc hỗ trợ thông tin của Nhà nước về các thị trường này càng trở nên quan trọng giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trườn mới này. Các biện pháp sử dụng để hoàn thiện hệ thống thông tin gồm : - Về tổ chức thông tin : thiết lập mạng lưới thông tin cơ bản giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, nhất là các cơ quan liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu như: Tổng cục hải quan, bộ thương mại, ngân hàng ngoại thương, uỷ bạn vật giá....Hoàn thiện hệ thông thông tin giữa các cơ quan trung ương và địa phương . Thành lập trung tâm thông tin may mặc với các chức năng: Thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp về xu thế mới, kiểu dáng chất liệu, các thông tin về mẫu mốt, kỹ thuật công nghệ mới, dự báo tình hình thế giới, tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tua vấn. Đồng thời, phải tổ chức thông tin thị truờng về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của các doanh nghiệp may mặc để có các biện pháp kịp thời như : điều chỉnh cơ cấu, cân đối giữa các mặt hnàg, giữa các yếu tố sản xuất nhằm tạo nên sự đồng bộ trong sản xuất kinh doanh và tận dụng tối đa khả năng sản xuất và cơ hội có được. - Về nội dung thông tin: để đảm bảo đầy đủ thông tin phải nêu được các vấn đề: - Thông tin về thị trường, thể hiện qua nhu cầu của thị trường, khả năng sản xuất, khả năng tiêu thụ của thị trường, các đòi hỏi kỹ thuật, chất lượng... - Thông tin về sản xuất trong nước - Thông tin về tình hình xuất khẩu và khả năng xuất khẩu của từng doanh nghiệp và toàn ngành - Thông tin về các đối thủ cạnh tranh - Thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc thế giới, cũng như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, và sự tăng giảm tỷ giá hối đoái. e. Một số giải pháp khác Ngoài những giải pháp cụ thể đã nêu trên, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp khác để thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường EU, đó là: * Đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, nhanh chóng trở thành thành viên của WTO để tiến tới được xoá bỏ hạn ngạch. Như chúng ta đã biết, theo kế hoạch đến năm 2005, EU sẽ xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch nhập khẩu hàng may mặc đối với các nước là thành viên của WTO. Vì vậy, việc nỗ lực đàm phán và thực hiện các điều kiện để trở thành thành viên của WTO đang là điều hết sức cần thiết đối với chúng ta hiện nay. Muốn đạt được điều này, Việt Nam cần phải đẩy nhanh hơn nữa CNH – HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xoá bỏ những sự phân biệt đối xử, các hạn chế số lượng và các hình thức bảo hộ không phù hợp với thỏa thuận chung của WTO.. Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ giúp chho khả năng cạnh tranh về hàng may mặc với Trung Quốc được ngang bằng hơn, vì hiện nay, ngoài những ưu thế về nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,.. Trung Quốc đã là thành viên của WTO, nên những ưu đãi về hạn ngạch trên thị trương EU hiện nay Trung Quốc đã được hưởng. * Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy và gửi đi đào tạo chính quy ở nước ngoài để có các nhà thiết kế mẫu chuyên nghiệp có trình độ, đủ năng lực đáp ứng cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời tăng cường đầu tư cho các trường đào tạo công nhân ngành may, chú trọng đào tạo theo hướng tiêu chuẩn hoá các thao tác để nâng cao kỹ năng và hiệu suất sử dụng thiết bị của công nhân để công nhân may Việt Nam có trình độ và năng suất lao động ngang tầm với các nước trong khu vực. Hiện nay, số lượng những nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ tay nghề ở nước ta đã tăng khá nhanh so với các năm về trước nhưng số lượng các nhà thiế kế này chưa nhiều; thiết kế mẫu thời trang đã được coi là một nghề, song những nhà thiết kế mẫu này cũng chưa thực sự có “đất” để thể hiện và hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực may mặc đều chưa có bộ phận chuyên thiết kế mẫu, do vậy việc đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu trong thời gian tới là việc làm rất cần thiết. Đặc biệt, EU là thị trường có nhu cầu về hàng may mặc rất lớn, họ thích tiêu dùng sản phẩm có mẫu mốt phong phú và luôn được cải tiến, đổi mới nên việc đào tạo và phát triển các nhà tạo mẫu là giải pháp quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của nước ta sang thị trường này. mục lục Kết luận Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng hiện nay thực sự đang là một vấn đề cần thiết. Việc đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng cần phải có những giải pháp đồng bộ từ Nhà nước tới các doanh nghiệp. Mặc dù thời gian thực tập tại Công ty ngắn và trình độ hiểu biết có hạn, nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị Xuân Hương, đề tài này cũng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty, đó là: Đề tài đã hệ thống hoá được hệ thống lý luận về xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu sang thị trường EU, em đã đưa ra được những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty khi tham gia vào thị trường quốc tế. Nhờ đó, những giải pháp đã nêu trong đề tài mang tính sát thực và phù hợp với tình hình hiện nay của Công ty. Với những giải pháp nêu trên, em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty sang thị trường EU trong thời gian tới. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sách: - Thúc đẩy quan hệ Thương mại Đầu tư giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI - Bùi Huy Khoát - NXB KHXH HN năm 2001. - Giao dịch và thanh toán TMQT - PGS.TS. Nguyễn Duy Bột - Quản trị DNTM - PGS.PTS. Hoàng Minh Đường, PTS. Nguyễn Thừa Lộc - NXB GD. - Quản trị KD XNK - PGS. TS. Trần Chí Thành - NXB Thống kê HN 2002 - Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam - PGS.TS. Trần Chí Thành. - Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS.Vũ Hữu Tửu - NXB GD - Niên giám TK 2002 - NXB TKHN 2. Sách báo, Tạp chí: - Tạp chí Kinh tế và phát triển các số 58/2002, 2/03 - Kinh tế và dự báo 2/01, 2/02 - Nghiên cứu Châu Âu số 3, 5, 6/2001; 1,2,4,6/2002, 6/2003, 1/2004 - Những vấn đề kinh tế thế giới 1,10,12/2003; 1/2004 - Tạp chí Ngoại thương 8,18/2003; 2/2004 - Tạp chí Phát triển Kinh tế 1,2,4/2004 - Thời báo Kinh tế Việt Nam 75/2002; 10,176,182/2003; 29, 48,72,79/2004 - Tài chính Doanh nghiệp 4/2003, 5/2004 - Thương mại 3+4/2002; 7/2002; 3+4+5/2004; 8,42/2004 - Thương nghiệp Thị trường Việt Nam 10/2002; 2,6,10/2003; 3/2004 3. Báo cáo của các phòng, ban thuộc Công ty may Chiến Thắng 4. Internet www. vn economy.com.vn www. mot.gov.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29284.doc
Tài liệu liên quan