Chương I : Lý luận chung về thaNH TOáN QuốC Tế BằNG PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ
i- vai trò của thanh toán trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu (XNK):
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế, nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh toán Xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao mức sống của nhân dân. Do đó, xuất nhập khẩu là hoạt động đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến về kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần định hướng theo sự phát triển của thị trường tự do (thị trường mở ) hoạt động XNK là nhân tố chính, quan trọng và đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt đối với sự phát triển chung của đất nước. Cụ thể, những mặt lợi do XNK đem lại như :
Phát huy được nội lực nền kinh tế, sự sáng tạo của các thành phần kinh tế , phát huy và phát triển được các ngành nghề truyền thống
Việc XNK dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể trong và ngoài nước làm cho chất lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng được nâng cao, từ đó có thể nhanh chóng xoá bỏ các chủ thể kinh doanh sản xuất lạc hậu,…
Nhưng những đóng góp to lớn cũng như vai trò của thương mại quốc tế đối với nền kinh tế quốc dân lại được thể hiện rõ nhất ở vai trò xuất khẩu. Xuất khẩu có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh quốc tế , mà thể hiện ở chỗ : xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ sẽ tạo ra nguồn vốn quan trọng để nhằm thoả mãn các nhu cầu về nhập khẩu và tích luỹ sản xuất. Xuất khẩu sẽ tác động tốt đến cán cân thanh toán quốc tế, khi thu được xuất khẩu ròng, luồng ngoại tệ thu được sẽ đảm bảo cho sự cân bằng và thặng dư của cán cân thanh toán quốc tế. Và đây chính là một trong những công cụ đánh giá hiệu quả kinh doanh quốc tế của mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh XNK kích thích sự tăng trưởng thể hiện ở việc đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, cho phép mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao tổng sản phẩm xã hội, đồng thời nâng cao đời sống vật chất – tinh thần của nhân dân. Đặc biệt, xuất khẩu tác động mạnh tới cơ cấu ngành nghề, xuất khẩu làm đa dạng hoá các ngành nghề theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất các lợi thế so sánh của đất nước. Xuất khẩu tạo ra được công việc làm, thu hút nguồn lực lao động dồi dào của đất nước.
Có thể nói rằng, XNK là việc mua bán hàng hóa với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song mua bán, giao dịch ở đây có những nét riêng, phức tạp hơn nhiều so với mua bán trong nước như : giao dịch với những dòng văn hoá, phong tục, tập quán khác nhau với thị trường rộng lớn, nghiệp vụ mua bán được thực hiện với nhiều khâu : nghiên cứu thị trường, lựa chọn, đàm phán, ký kết hợp đồng, vận chuyển hàng hóa và thanh toán …..
Trong các nghiệp vụ về hoạt động kinh doanh XNK thì thanh toán là khâu quan trọng nhất trong kinh doanh XNK hàng hóa. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho nhà kinh doanh XNK thu được tiền về và nhận được hàng hóa. Thanh toán quốc tế có thể được hiểu là việc chi trả những khoản ngoại tệ ,tín dụng có liên quan đến việc XNK đã được thoả thuận, quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế.
Vai trò của thanh toán trong thương mại quốc tế
2.1. Thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các hoạt động mua bán hàng hóa-dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính giữa các tổ chức các đơn vị kinh tế và các cá nhân giưã nước này với nước khác.
Thanh toán quốc tế là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện buôn bán- trao đổi hàng hóa-dịch vụ giữa các nước. Nó phản ánh sự vận động có tính quy luật của giá trị trong quá trình chu chuyển hàng hóa-tiền tệ giữa các quốc gia và được xem là khâu cuối cùng trong một thương vụ giao dịch.
Thanh toán quốc tế không chỉ đơn thuần như hoạt động thanh toán trong quan hệ giao dịch mua bán trong nước, mà thanh toán quốc tế rất phức tạp, thông qua các phương thức thanh toán khác nhau. Điều này là do thanh toán quốc tế có liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau, với nhiều đồng tiền thanh toán khác nhau. Và hơn nữa là việc thanh toán giữa các nước đều phải tiến hành thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà chủ yếu là ngân hàng. Hoạt động thanh toán thường không dùng tiền mặt, chủ yếu là thanh quyết toán giữa các ngân hàng. Vì vậy, thanh toán quốc tế có những nét đặc thù riêng.
Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ quyết định tới hiệu quả của một thương vụ bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Vì vậy trong hoạt động thanh toán quốc tế, các điều kiện về thanh toán được hình thành nhằm đảm bảo cho việc thanh toán được hợp lý cho cả đôi bên. Các điều kiện về thanh toán quốc tế thường bao gồm:
Điều kiện về đồng tiền thanh toán (tỷ giá hối đoái)
Điều kiện về thời hạn thanh toán
Các phương thức, phương tiện và hình thức thanh toán
Các điều kiện đảm bảo hối đoái
Các điều kiện đảm bảo tín dụng
Điều kiện đảm bảo giá trị thanh toán
2.2. Vai trò của thanh toán trong thương mại quốc tế
Thanh toán hiểu một cách đơn giản chính là việc người mua trả tiền cho người bán để nhận được hàng hoá- dịch vụ mà mình cần. và mọi hoạt động buôn bán, trao đổi đều phải thông qua thanh toán mới thực hiện được một cách đầy đủ, trọn vẹn. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh thương mại mang tính quốc tế thì thanh toán được xem là khá phức tạp, bởi nó được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau nhằm đảm bảo về lợi ích của các đối tác ở các nước khác nhau, cũng như lợi ích của các quốc gia. Vai trò của thanh toán trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế ( hay hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ) được thể hiện ở những điểm sau:
Thanh toán quốc tế là đòi hỏi tất yếu khách quan trong sự phát triển của thương mại quốc tế
Trong thời đại ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế. Các quốc gia trên thế giới ngày càng mở rộng dần các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nhiều tổ chức thương mại được ra đời, phát triển và tiến tới hội nhập tạo nên một mối quan hệ liên kết chặt chẽ, đan xen, cạnh tranh trên một thị trường rộng lớn để phát triển. Chính sự hội nhập , mở rộng các quan hệ kinh tế như vậy thế giới đang tiến dần đến sự phân công hoá lao động rõ rệt. Sự phân công hoá lao động mang tính quốc tế là nhân tố chính cho sự dịch chuyển mạnh mẽ giữa các quốc gia về tư bản (vốn), kỹ thuật công nghệ, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên …Kéo theo sự dịch chuyển đó là sự tất yếu về dịch chuyển hàng hoá- dịch vụ giữa các quốc gia. Sự dịch chuyển về hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia được tuân theo quy luật của nền kinh tế đó là quy luật về quan hệ Hàng-Tiền. Sự phát triển của thương mại quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào sự chu chuyển và vận động của quan hệ hàng hoá và tiền tệ. Biêủ hiện của mối quan hệ này chính là hoạt động thanh toán. Thanh toán quốc tế ra đời như là một tất yếu khách quan để đáp ứng cho chu chuyển hay cho sự trao đồi và buôn bán hàng hoá giữa các quốc gia. Thanh toán quốc tế là một mắt xích, là cầu nối để các tổ chức thương mại, tổ chức kinh tế. . ở các quốc gia khác nhau trên thế giới thực hiện được các hoạt động kinh doanh thương mại ( hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu).
Tóm lại, thanh toán quốc tế ra đời và tồn tại là yếu tố khách quan, và ngày càng có vị trí quan trọng trong việc phát triển ngoại thương và chúng ta cũng đều hiểu rằng ngoại thương là một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và giữa trong nước và nước ngoài. Nhận thức được vị trí to lớn của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế đất nước nói chung, hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương nói riêng, chính phủ ngày càng quan tâm đến vấn đề này, tạo điều kiện cho thanh toán quốc tế ngày càng mở rộng, tiến hành thuận tiện, nhanh chóng bằng việc cải cách hệ thống Ngân hàng, cho phép nhiều Ngân hàng tham gia hoạt động đối ngoại, thực hiện thanh toán quốc tế cũng như đề ra những quyết định kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong nghiệp vụ để thanh toán quốc tế phát triển cả nội dung và hình thức từ đó trở thành công cụ đắc lực thúc đẩy kinh tế đối ngoại của đất nước .
Thanh toán quốc tế là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu
Hiệu qủa kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này phần lớn nhờ vào chất lượng của hoạt động thanh toán.
Ngay từ khi bắt đầu đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh Xuất nhập khẩu thanh toán đã là một điều khoản không thể thiếu trong hợp đồng mà các bên tham gia phải thoả thuận để đảm bảo lợi ích cho mình, điều khoản về thanh toán khi đã được thoả thuận một cách thống nhất và chặt chẽ (điều khoản về đồng tiền, tỷ giá, phương thức thanh toán , thời gian, dịa diểm thanh toán .. ) sẽ tạo điều kiện cho các bên tham gia tiến hành tốt các điều khoản khác quy định trong hợp đồng như : bên xuất khẩu dựa vào đó chuẩn bị hàng, lập chứng từ về hàng hoá, tiến hành giao hàng.. ., bên nhập khẩu tiến hành các thủ tục nhận hàng, chuẩn bị thanh toán tiền hàng .. .Dựa vào các điều khoản về thanh toán có thể tránh cho các bên tham gia những rủi ro có thể xảy ra.
Hoạt động thanh toán có thể đảm bảo cho nhà kinh doanh Xuất nhập khẩu thu được tiền về và nhận được hàng hoá vì khi tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ đơn thuần là người xuất khẩu và người nhập khẩu mà còn có Ngân hàng tham gia với vai trò là trung gian đảm bảo quyền lợi cho các bên. Người xuất khẩu và người nhập khẩu không thể tự thanh toán với nhau mà không thông qua Ngân hàng bởi đó là sự thanh thanh toán giữa các quốc gia có sự cách biệt về địa lý nên khả năng đảm bảo tránh được những rủi ro xảy ra là rất khó, cũng như không có sự bảo lãnh cho các bên giao hàng và thanh toán tiền hàng. Chính vì vậy Ngân hàng với vai trò là trung gian thanh toán, là người bảo lãnh trong khâu thanh toán giữa các bên, đảm bảo chắc chắn cho các bên nhận được tiền cũng như nhận được hàng. Trong điều kiện hiện nay Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng và là một mắt xích trong hoạt động thanh toán quốc tế, cũng như là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thanh toán quốc tế là thước đo, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu
Thanh toán quốc tế là công cụ để dựa vào đó nhà nước hoạch định các chính sách về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
Hoạt động thanh toán quốc tế nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đúng luật sẽ thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lưu chuyển vốn của các bên tham gia, mở rộng và củng cố quan hệ hợp tác buôn bán làm ăn giữa các nước .
Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế , Ngân hàng với vai trò là trung gian thanh toán, nhưng đồng thời lại còn là tổ chức tài chính trung gian cung cấp và tạo điều kiện cho các bên tham gia hoạt động Xuất nhập khẩu được thuận tiện và dễ dàng thông qua các hoạt động cấp vốn, cấp tín dụng dưới hình thức ứng trước, trả chậm ,tài trợ ngoại thương. ..
Xu hướng phát triển của thương mại và thanh toán quốc tế :
Thương mại quốc tế là lĩnh vực thuộc bề nổi của nền kinh tế hết sức nhạy cảm và năng động, là một phần phản ánh những biến đổi cơ cấu dài hạn trong nền kinh tế thế giới, xuất phát từ những biến đổi cơ cấu của sản xuất và nhu cầu, chịu tác động mạnh của những biến đổi của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật và việc ứng dụng những thành tựu mới của cách mạng ấy, càng tăng nhanh buôn bán và đầu tư, làm càng phụ thuộc lẫn nhau trong khi vẫn tồn tại những mâu thuẫn. Do những yếu tố trên, ngày nay thương mại quốc tế đã có những biến đổi và thay đổi rõ rệt về cơ cấu mặt hàng và phân vùng lãnh thổ.
Về cơ cấu mặt hàng ngày càng có những ý nghĩa quan trọng đối với các ngành công nghiệp chế biến theo những quy trình công nghệ mới, với chất lượng cao, đặc biệt là những sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Những sản phẩm cơ bản, dù giá cả có giảm do ứng dụng những tién bộ của khoa học và kỹ thuật thì vẫn có tác động lớn tới thu nhập của các nước sản xuát, chúng vẫn luôn luôn cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới và vẫn còn là nguồn thu nhập chủ yếu của các nước đang phát triển.
Về cơ cấu lãnh thổ, các nước tư bản công nghiệp vẫn là thị trường chính của thế giới. Tại đây, thị trường tập trung cao độ tiềm lực công nghiệp chế biến, đặc biệt về kĩ nghệ chế tạo máy là ngành đống vai trò dẫn đầu trong sự phát triển sản xuất công nghiệp và công nghiệp điện tính hoá là động lực của toàn bộ nền kinh tế. Các nước đang phát triển vẫn là nơi chủ yếu sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cơ bản, dù mấy năm gần đây, vai trò của các nước công nghiệp mới đã tăng lên.
Trong thương mại quốc tế, ngày càng xuất hiện các hình thức thương mại mới, như dịch vụ thương mại. Trong lĩnh vực này, ngoài những hình thức cũ như vận tải và du lịch, ngày nay ngày càng tăng các loại hình dịch vụ kỹ thuật, bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, xuất khẩu sofrware và khu vực này là chủ yếu vẫn thuộc các nước tư bản công nghiệp phát triển.
Đặc trưng của thế giới ngày nay là cuộc khủng hoảng cơ cấu, do sự phát triển của kỹ thuật mới, cùng với nó là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, các công ty xuyên quốc gia và các tổ chức độc quyền quốc tế ra sức thực hiện các chính sách và thủ đoạn thực dân mới, cạnh tranh gay gắt với nhau, nên trên thế giới đã, đang và sẽ còn tiếp tục diễn ra các cuộc chiến tranh buôn bán có quy mô toàn cầu, cùng một lúc xen kẽ với những biến động có khi đột biến và mạnh mẽ của tỉ giá các đồng tiền, của lãi suất và giá cả trên thị trường thế giới, gây nên những ”xung” biến đổi và cạnh tranh, trước hết và chủ yêú giữa ba trung tâm của chủ nghĩa tư bản Mỹ –Tây Âu - Nhật Bản. Vì lẽ đó, thường thế giới luôn chứa đựng những nhân tố không chắc chắn đối với cả hai giới kinh doanh và tiêu dùng.
Do xu hướng phát triển của thương mại và thị trường như vậy, các nước đều ráo riết nghiên cứu và đổi mới để ngày càng hoàn thiện hơn hoạt động thanh toán quốc tế. Việc chọn ra hình thức thanh toán quốc tế phụ thuộc nhiều vào quyết định của các bên mua và bán, quyết định này lại phụ thuộc vào phạm vi giao dịch và mối quan hệ giữa các đơn vị kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt luôn được đặt ra trong chiến lược hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Cung cấp những công cụ thanh toán hữu hiệu không chỉ đẩy mạnh tính cạnh tranh của ngân hàng trong lĩnh vực này mà còn nâng cao uy tín của ngân hàng, và trong thương mại quốc tế, đó còn là vấn đè quốc thể. Do vậy, ngay cả các ngân hàng thương mại có bề dày kinh nghiệm trên thế giới trong hoạt động thanh toán quốc tế cũng không dám chắc là có thể lường hết được những phát sinh tiêu cực do hoạt động này mang lại trong tương lai. dù rằng những tiêu cực đó có thể ngân hàng không phải gánh chịu một cách trực tiếp, nhưng dù xét ở góc độ nào đi nữa thì ngân hàng cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị trường từ cuối những năm 80 của thể kỷ này, việc hội nhập vào nền mậu dịch thế giới cũng muộn mằn hơn so với rất nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thanh toán XNK với các nước tăng lên không những vvề kim ngạch mà còn về cả quy mô và chất lượng. Tuy nhiên, tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp. Đây cũng là điều đễ hiểu bởi các ngân hàng thương mại của nước ta vẫn còn non kém về trình độ nghiệp vụ và ít kinh nghiệm.
II- Các phương thức thanh toán quốc tế thông dụng :
Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận-trả tiền trong giao dịch, mua bán hàng hóa – dịch vụ giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Trong quan hệ XNK có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Các phương thức thanh toán dựa trên sự thoả thuận giữa nngười xuất khẩu và người nhập khẩu, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng thể hiện mâu thuẫn về quyền lợi giữa các người nhập khẩu và người xuất khẩu. Vì vậy, việc chọn lựa phương thức thanh toán trong giao dịch XNK được các bên thoả thuận và thống nhất trong nội dung cuả hợp đồng mua bán ngoại thương. Hiện nay, các phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến và chủ yếu bao gồm các phương thức sau :
Phương thức ghi sổ
Phương thức nhờ thu
Phương thức chuyển tiền
Phương thức tín dụng chứng từ
1 – Phương thức ghi sổ ( Oppen account ) :
Phương thức thanh toán này được thực hiện bằng cách, người xuất khẩu mở một tài khoản trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu nợ về tiền hàng hóa hay những khoản chi phí khác có liên quan đến việc mua hàng. Người nhập khẩu định kỳ ( hàng tháng, quý hay năm ) thanh toán khoản nợ của mình trên tài khoản cho người xuất khẩu.
Đặc điểm:
Đây là một phương thức thanh toán chỉ có hai bên tham gia thanh toán là người mua và người bán, ngân hàng chỉ tham gia với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
Khi sử dụng phương thức này, chỉ mở tài khoản đơn biên, không sử dụng tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi chếp thì tài khoản ấy chỉ có giá trị theo dõi, knông có giá trị thanh quyết toán giữa hai bên.
Đây thực chất là một hình thức tín dụng mà người bán cấp cho người mua.
Phương thức này chỉ áp dụng trong trường hợp hai bên mua và bán thực sự tin cậy lẫn nhau hay trong các trường hợp giao dịch nhỏ, thường xuyên. Đặc biệt, phổ biến sử dụng trong các phương thức mua bán hàng đổi hàng thường xuyên trong một thời kỳ nhất định, hoặc dùng cho thanh toán tiền hàng gửi bán ở nước ngoài hay để trả tiền lệ phí sân bay, cầu cảng.
2 - Phương thức chuyển tiền ( Remittance )
L à phương thức thanh toán, trong đó khách hàng (người nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người xuất khẩu) ở một địa điểm nhất định bằng một phương tiện chuyển tiền do người hưởng lợi (người xuất khẩu) yêu cầu. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng của mình chuyển tiền bằng điện ( Telegraphic Tranfer – T/T ) hoặc bằng thư chuyển tiền (Mail Tranfer – M/T ) hoặc sử dụng qua hệ thống Mạng SWIFT liên ngân hàng.
Đây thực chất là thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và người nhận tiền, ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thực hiện chuyển tiền và thu lệ phí.
Phương thức này đơn giản, dễ thực hiện và việc chuyển tiền nhanh chóng. tuy nhiên, nó cũng mang nhiều nhược điểm, bởi rằng không có cơ sở pháp lý nào đảm bảo chắc chắn là người nhập khẩu sẽ trả sớm và trả đầy đủ cho ngươì xuất khẩu. Việc trả tiền cho người xuất khẩu hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của người mua ( người nhập khẩu ). Như vậy, việc thanh toán bằng phương thức này khó bảo đảm quyền lợi cho người bán do dễ nảy sinh việc chiếm dụng vốn. Ngoài ra, việc chuyển tiền này còn bị ảnh hưởng nhiều bởi sự quản lý của nhà nước về dòng lưu chuyển ngoại tệ. Cũng chính vì những nhược điểm này, nên trong quan hệ buôn bán thương mại quốc tế, hình thức chuyển tiền này chỉ thường được áp dụng trong trường hợp hai bên là những bạn hàng lâu năm, có sự tin cậy lẫn nhau.
3 – Phương thức nhờ thu (Collection )
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán (người xuất khẩu) hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng hàng hóa – dịch vụ cho người mua (người nhập khẩu) thông qua uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ ở người mua (người nhập khẩu) trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này thường vận dụng theo quy tắc ICC 022 “Bản quy tắc thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại “. Theo quy tắc này, nhờ thu được hiểu như sau :
“ Nhờ thu là nghiệp vụ xử lý của ngân hàng đối với các chứng từ, theo đúng chỉ thị nhận được nhằm cho các chứng từ đó được thanh toán hoặc chấp nhận, hoặc chuyển giao khi chứng từ đó theo đúng điều khoản và các điều kiện khác.”
Các bên tham gia bao gồm:
Người xuất khẩu (người bán, người hưởng lợi)
Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (ngân hàng thu hộ)
Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (ngân hàng trả hộ)
Người nhập khẩu (người mua, người trả tiền)
Đặc điểm :
Phương thức nhờ thu không đảm bảo quyền lợi cho bên xuất khẩu, vì việc nhận hàng của người nhập khẩu hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán. Do đó, người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền ngay hoặc chậm trễ khi trả tiền. Còn người bán có thể khống chế được người mua trong việc giao nhận và khống chế được quyền định đoạt về hàng hóa chứ, không khống chế được người mua trong việc thanh toán. Việc thanh toán do người bán (người xuất khẩu ) ký phát hối phiếu nhưng lại phải tuỳ thuộc vào việc ngươig mua ( người nhập khẩu ) có ký chấp nhập hối phiếu hay không. Tuy nhiên, không vì thế mà người nhập khẩu ( người mua) chiếm được ưu thế trong phương thức này. Bởi việc có chấp nhận hối phiếu hay không lại phụ thuộc vào việc giao hàng của người bán (người xuất khẩu)
Phương thức nhờ thu được thực hiện dưới một trong hai loại hình thức sau :
Phương thức nhờ thu phiếu trơn ( Clean collection ) :
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức thanh toán, trong đó người xuất khẩu sau khi chuyển hàng hóa sang cho nhà nhập khẩu cùng với việc chuyển giao cho nhà nhập khẩu bộ chứng rừ hàng hóa để nhà nhập khẩu đươch nhận hàng (mà không thông qua ngân hàng ) và ký phát hối phiếu nhờ ngân hàng thu hộ số tiền bán hàng ghi trên hối phiếu từ người nhập khẩu.
Hình thức nhờ thu này rất có lợi cho nhà nhập khẩu vì việc nhận hàng hóa trên cơ sở bộ chứng từ hàng hóa được nhà xuất khẩu chuyển giao cho mình, được lập với việc trả tiền. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu cũng có thể gặp bất lợi trong trường hợp hối phiếu đi quá nhanh, buộc họ phải trả tiền trong khi đó có thể hàng hóa đến chậm và khi nhận hàng hóa có thể hàng hóa không đủ, không đảm bảo về chất lượng – số lượng.
Do vậy, để sử dụng phương thức này, hai bên phải hoàn toàn tin cậy lẫn nhau, hoặc có quan hệ bạn hàng lâu năm, liên doanh … hoặc được sử dụng với những hợp đồng Xuất nhập khẩu hàng hóa nhỏ. Phương thức này ít khi được sử dụng trong thanh toán quốc tế vì nó không đảm bảo được quyền lợi cho cả hai bên do việc thanh toán và nhận hàng hoàn toàn tách rời nhau.
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ ( Document against Acceptance D/A)
Nhờ thu kèm chứng từ là một phương thức thanh toán trong đó : Nhà xuất khẩu sau khi chuyển hàng hóa sang nhà nhập khẩu thì không chỉ căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra để nhờ thu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa. Nhà xuất khẩu ký phát hối phiếu và gửi kèm bộ chứng từ đến nhờ ngân hàng thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu. Nếu không thì chuyển trả bộ chứng từ hàng hóa cho nhà xuất khẩu và dĩ nhiên hàng hóa còn thuộc quyền sở hữu của nhà xuất khẩu.
Trong phương thức này, người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ càn có nhiệm vụ khống chế chứng từ hàng hóa đối với ngươì nhập khẩu Sự khống chế này đảm bảo được quyền lợi cho người xuất khẩu. Tuy nhiên, mặc dù đã khống chế được quyền định đoạt đối với hàng hóa nhưng chưa khống chế được việc người nhập khẩu có thanh toán không. Người nhập khẩu có thể chậm trễ, không thanh toán hoặc bằng cách trì hoãn chấp nhận chứng từ để không nhận hàng ( phá hợp đồng ). Ngân hàng tham gia với tư cách là trung gian để thu hộ tiền và lâý chi phí mà không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người nhập khẩu.
Có hai loại phương thức nhờ thu kèm chứng từ là :
+ Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (Document against payment D/P ) : Sử dụng trong trường hợp người mua trả tiền ngay. Ngân hàng sẽ giao bộ chứng từ cho người mua để đi nhận hàng sau khi người mua đã thanh toán toàn bộ tiền hàng.
+ Nhờ thu chấp nhận thanh toán đổi chứng từ ( Document against acceptance D/A) : Sử dụng trong trường hợp người mua trả tiền sau. Ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ nhận hàng cho người mua đi nhận hàng khi người mua ký chấp nhận thanh toán sau hối phiếu. Và đến thời hạn thanh toán hối phiếu, người bán sẽ xuất trình để thu tiền. Phương thức này được hoàn tất phụ thuộc vào thiện chí của hai bên. Mặc dù nhờ ngân hàng thu hộ nhưng phụ thuộc rất lớn vào thiện chí của người mua, bởi có hay không chấp nhận chứng từ (chấp nhận thanh toán ) sẽ ảnh hưởng lớn đến rủi ro về hàng hóa của người bán.
4 - Phương thức tín dụng chứng từ :
Một cách đơn giản, tín dụng chứng từ là một cam kết thanh toán có điều kiện của ngân hàng. Một cách đầy đủ hơn, tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết của một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng ) cho người bán (người hưởng lợi) theo yêu cầu và sự chỉ thị của ngươì mua để trả ngay hoặc tới một thời điểm xác định trong tương lai một số tiền đã được quy định trong phạm vi thời hạn xác định và căn cứ chứng từ đã được xác định.
Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán phổ biến và thông dụng nhất hiện nay, và được coi là phương thức thanh toán sử dụng trong hầu hết các hợp đồng buôn bán thương mại quốc tế bởi các đặc tính thuận lợi và hiệu quả của nó mang lại. Phương thức này được coi là phương thức thanh toán đặc biệt và phức tạp, tuy nhiên, nó thể hiện được khả năng thanh toán, khả năng đảm bảo một cách chắc chắn quyền lợi và nghĩa vụ không chỉ của người bán, người mua mà còn của ngân hàng qua các đặc tính ưu việt và tính chặt chẽ của nó. Phương thức này, ngân hàng không chỉ tham gia với tư cách là trung gian mà còn tham gia với tư cách là “ người hưởng lợi “ hay “người thanh toán”.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán làm cho việc buôn bán của các công ty ở các nước khác nhau dễ dàng hơn, góp phần vào việc mở rộng buôn bán quốc tế. Chính vì lẽ đó mà uỷ ban kỹ thuật và thực tiễn ngân hàng phòng thương mại quốc tế (ICC) đã ban hành và đưa ra ‘Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP-DC500“ để xác định và ràng buộc các điều khoản đối với các bên tham gia và làm tăng khả năng thanh toán của tín dụng chứng từ. Đây thực sự là một phương thức phức tạp.
III - Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
1 – Cơ sở hình thành tín dụng chứng từ :
Trên thực tế, tín dụng chứng từ ra đời từ sự lo lắng của người bán và cả sự lo lắng của người mua. Người bán vừa muốn giao hàng vừa muốn biết chắc chắn được thanh toán. ngược lại, người mua vừa muốn thanh toán sòng phòng lại vừa muốn chắc chắn nhận được hàng. Do đó, người mua sẽ đề nghị ngân hàng của mình mở một thư tín dụng chứng từ. Đó là cam kết của người thứ ba (ngân hàng ), một cam kết về khả năng chắc chắn thanh toán của người mua. Ngân hàng sẽ cam kết thanh toán hàng nhập khẩu đổi lại việc xất trình một số chứng từ đã nêu trong lúc mở thư tín dụng – có tên là chứng từ tín dụng. Tín dụng chứng từ là một hình thức tín dụng buộc ngân hàng phải can thiệp bằng cách hỗ trợ cho một giao dịch không có một chút lòng tin cần thiết nào giữa người cung cấp và khách hàng. Vì lợi ích của khách hàng và nhân danh của ngân hàng, chủ ngân hàng hứa thanh toán cho người bán trong trường hợp các chứng từ nêu trong thư tín dụng sẽ được xuất trình để đổi lấy sự thanh toán đó.
Cũng vì do không quen biết, người bán đã đưa cho người mua một bảo đảm, với nghĩa người bán không chỉ có một mình mà được hỗ trợ bởi một ngân hàng quen biết cam kết thanh toán trực tiếp vào tài khoản của người bán. Người mua đã thực hiện bước một là đã đạt được sự bảo đảm rằng việc thanh toán bởi ngân hàng vào tài khoản của anh ta sẽ được tiến hành với điều kiện có xuất trình một số chứng từ chủ yếu khẳng định quyền sở hữu hàng hóa của người mua.
Nhưng do người bán không luôn luôn hài lòng với bảo đảm duy nhất đó,và một bước đi mới ra đời bởi sự can thiệp của một nhân vật mới ngân hàng người bán. Theo định nghĩa cũng như thực tiễn, ngân hàng người bán được thành lập ở nước người bán cam kết hiểu biết về khả năng thanh toán. Ngân hàng của người bán có thể làm người bán thoả mãn hơn nữa bằng cách xác nhận khoản tín dụng đó có nghĩa là trong chừng mực nhận được một khoản tín dụng chứng từ chi trả cho khách hàng của mình. Ngân hàng người bán xác nhận nghiệp vụ đó, nghĩa là cam kết thanh toán cho người bán để đổi lấy việc xuất trình chứng từ. Như vậy, điều tiên quyết hình thành tín dụng chứng từ là do không có sự tin tưởng của người mua và người bán ( người nhập khẩu và người xuất khẩu). Khi một người mua và người bán ở hai nước khác nhau muốn thiết lập quan hệ, một vấn đề cơ bản được đặt ra trước tiên đó là vấn đề lòng tin, khi quan hệ chưa được thiện chí. Trên thị trường quốc tế, việc tự tìm kiếm thông tin về đối tác là rất khó khăn. Thực tế đòi hỏi một hình thức tín dụng mà trong mọi giải pháp đều làm hài lòng các bên. Tín dụng chứng từ là hình thức tín dụng mà trong đó các ngân hàng hỗ trợ để hình thành nên một giao dịch không có một chút lòng tin cần thiết nào giữa người cung cấp và khách hàng chưa quen biết hoặc quen biết quá ít ở hai nước khác nhau. Trong hình thức thanh toán này, thường chỉ có bốn thành viên tham gia giao dịch : người bán – người mua – ngân hàng nước người bán – ngân hàng nước người mua.
Cơ chế tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế (ICC) ấn định trong bản “ Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ “ (Unoform customs and practic for documentary credit) thành lập năm 1919, phòng thương mại quốc tế đã xây dựng “ Các quy tắc và thông lệ về tín dụng thư kèm chứng từ” vào năm 1932. Văn bản này đã được sữa đổi vào các năm 1951,1962,1974 và lần gần đây nhất là năm 1994 ( UCP- DC 500) có hiệu lực từ ngày 01.01.1995, đã được các giới kinh doanh thương mại và ngân hàng ở hầu hết các nước áp dụng phổ biến . Ngay trong nguyên tắc của nó, tín dụng thư kèm chứng từ, căn cứ trên sự độc lập của cam kết ngân hàng với hợp đồng thương mại, là cơ sở của tín dụng . Và ngày nay ấn pẩm số 500 (UCP-DC500) là bản điều lệ hoàn thiện và sâu sắc nhất, đáp ứng được yêu cầu của các bên tham gia, là văn bản quy định nghiêm ngặt các quy tắc trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ.
2 – Khái niệm và đặc trưng :
2.1- Khái niệm:
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó có một ngân hàng ( ngân hàng mở thư tín dụng ) theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác ( người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định để ra của thư tín dụng -L/C.
2.2- Đặc trưng :
Tín dụng chứng từ là loại tín dụng thư do ngân hàng mở cho người nhập khẩu, được đảm bảo rằng các chứng từ gửi hàng, chứng từ liên quan đến hàng hóa mà ngân hàng người nhập khẩu dùng để tiến ngân hàng thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu do ngân hàng cam kết trực tiếp trả cho người xuất khẩu. Và thư tín dụng chính là loại văn bản thể hiện loại tín dụng đó và là sự cam kết trực tiếp của ngân hàng đối với người xuất khẩu. Như vậy, ở đây mục đích của thư tín dụng không phải là để chuyển ._.tiền từ nước người nhập khẩu sang nước người xuất khẩu mà là để tiến hành việc trả tiền cho người xuất khẩu. Người hưởng lợi thư tín dụng không phải là người yêu cầu mở thư tín dụng.
Nét đặc trưng của tín dụng chứng từ còn được thể hiện ở chỗ, việc chi trả có liên quan đến việc thể hiện chứng từ. Sự tồn tại của các chứng từ này (bộ chứng từ) cũng như sự phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng tạo nên cơ và sở nền tảng của phương thức tín dụng chứng từ.
Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng với tư cách không chỉ là trung gian thu hộ và chi hộ, mà còn là đại diện của các bên. Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu đại diện cho bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu. Còn ngân hàng đại diện cho bên xuất khẩu xem xét chứng từ và thu hộ tiền từ ngân hàng người nhập khẩu cho bên xuất khẩu. Ngân hàng có chức năng đảm bảo cho người nhập khẩu nhận được hàng hóa cũng như đảm bảo cho bên xuất khẩu thu được tiền hàng.
Nói cách khác, theo phương thức này, ngân hàng sẽ làm trung gian để can thiệp cam kết người mua (người nhập khẩu) thông qua tài khoản của họ khi mở L/C nhằm trả tiền cho người bán (người xuất khẩu) để đổi lại nhận được chứng từ thể hiện bằng hàng hóa. Với những điều kiện đó, người mua sẽ tin chắc rằng ngân hàng sẽ không trả tiền trước khi hàng được chuyển quyền sở hữu từ phía người bán sang cho mình và ngược lại, người bán sẽ tin chắc nhận được tiền thanh toán ngay khi anh ta trao cho ngân hàng các loại chứng từ mà ngân hàng đề nghị với các điều kiện là các chứng từ lập ra phải được phù hợp với các điều khoản theo yêu cầu của thư tín dụng.
Trong phương thức này, ngân hàng sử dụng uy tín của mình để tạo nên sự tin tưởng giữa các bên tham gia quan hệ mua bán bằng cách phát hành thư tín dụng, trong đó quy định những điều khoản cần thiết để tiến hành thanh toán . Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán đối với người bán và đối với người mua bằng việc xuất trình chứng từ đại diện hàng hóa.
“ Thanh toán tín dụng chứng từ “ là một phương thức thanh toán dựa trên sự thoả thuận của bên nhập khẩu và xuất khẩu thông qua hợp đồng mua bán. Nhưng khi thực hiện thì nó lại hoàn toàn độc lập đối với hợp đồng mua bán cũng như hàng hóa và phương thức thanh toán này chủ yếu chỉ dựa vào các chứng từ liên quan đến việc mua bán, giao nhận hàng hóa.
Thư tín dụng và các loại thư tín dụng chứng từ :
3.1- Khái niệm về thư tín dụng ( Letter of Credit ) :
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý do ngân hàng viết ra theo yêu cầu của người nhập khẩu (được gọi là mở L/C) đảm bảo cam kết trả tiền cho người xuất khẩu (người hưởng lợi L/C) một số tiền nhất định trong một thời hạn nhất định, quy định trong bức thư đó.
Hay nói một cách khác, L/C là văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng phục vụ người mua đối với người bán để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán.
3.2- Tính chất:
Như đã biết rằng L/C là văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng và người mua đối với người bán để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong từng điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán. Cụ thể là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán như tên hàng, số lượng- giá cả, và tổng giá trị hợp đồng, quy cách phẩm chất, chất lượng, thời hạn giao hàng, nơi hàng đi, hàng đến, người trả tiền, người hưởng lợi… là căn cứ duy nhất của người mua, dựa vào đó để mở L/C cam kết trả tiền cho người bán. Nhưng vì thư tín dụng lại do ngân hàng mở để cam kết trả tiền theo yêu cầu của ngườimua, cho nên khi thư tín dụng đã được mở tại ngân hàng nhất định vào một thời gian nhất định thì nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.
Tính chất độc lập của thư tín dụng thể hiện ở chỗ là nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi thư tín dụng ( tức là người bán) không phụ thuộc các quan hệ giữa người mua và người bán. Mặt khác, mối quan hệ giữa ngân hàng với người mua cũng không liên quan gì đến người khác. Cụ thể là ngân hàng mở L/C không cần biết đến hợp đồng mua bán, mà chỉ căn cứ dựa vào nội dung của L/C để trả tiền cho người bán, ngân hàng không cần biết đến nội dung của L/C có đúng với hợp đồng mua bán hay không, việc giao hàng đó có đúng với nội dung các chứng từ xuất trình cho ngân hàng hay không . Khi trả tiền ngân hàng căn cứ vào các chứng từ do người bán xuất trình, nếu thấy các chứng từ đó bề ngoài phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng thì trả tiền cho người bán. Sự độc lập giữa thư tín dụng và hợp đồng mua bán được quy định rõ trong điều 3 UCP 500 “Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ ” :
“ Tín dụng chứng từ là những giao dịch riêng biệt với các hợp đồng mua bán hoặc các hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở của thư tín dụng và các ngân hàng không bị liên quan đến hoặc bị ràng buộc vào các hợp đồng như thế, thậm chí ngay cả trong thư tín dụng có bất kỳ sự dẫn chiếu nào đến các hợp đồng đó. Do đó, sự cam kết của một ngân hàng để trả tiền chấp nhận và trả tiền các hối phiếu hoặc chiết khấu, hoặc thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào khác của mình quy định trong thư tín dụng không bị ràng buộc bởi các khiếu nại hoặc sự bảo vệ nào khi người xin mở L/C phát sinh từ quan hệ của họ với ngân hàng phát hành hoặc với người hưởng lợi.
Cũng trong UCP 500 điều 15 quy định miễn trách của ngân hàng đối với các chứng từ: “ Các ngân hàng không chịu trách nhiệm về hình thức đối với hàng hóa, giao nhận hàng hóa, thanh toán …” . Nói cách khác, ngân hàng là người mở L/C nhưng việc thanh toán của ngân hàng lại không căn cứ vào các loại hình thực tế của hàng hóa,nếu xảy ra vấn đề gì về hàng hóa thì hai bên mua – bán trực tiếp giải quyết với nhau và không liên quan gì đến phương thức tín dụng chứng từ mà hai bên áp dụng.
Hình thức thanh toán L/C là hình thức có tính an toàn cao, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người mua – bán và cả ngân hàng. Trong trường hợp nào đó mà người mua không thanh toán tiền với ngân hàng thì ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả tiền cho người bán khi họ có đầy đủ thủ tục về chứng từ trong đièu khoản tín dụng
3.3 – Nội dung của thư tín dụng :
Thư tín dụng là một phương tiện rất quan trọng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ . Không thể mở được thư tín dụng chứng từ thì phương thức thanh toán này không được xác lập và người bán không thể giao hàng cho người mua. Ngoài ra, thư tín dụng còn là mộtvăn bản pháp lý trong đó ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người bán trong một thời hạn nhất định được quy định cụ thể trong thư tín dụng.
Nội dung của một L/C bao gồm :
Số hiệu của thư tín dụng : Tất cả các L/C đều có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của số hiệu là dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng, đồng thời, số hiệu còn dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán của L/C.
Địa điểm và ngày mở thư tín dụng : Địa điểm mở thư tín dụng được coi là nơi mà ngân hàng mở thư tín dụng viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm rất có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về thư tín dụng đó. Ngày mở thư tín dụng là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người nhập khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn đã quy định trong hợp đồng .
Loại thư tín dụng: Đây là nội dung quan trọng có tác dụng điều khiển tính chất, nghiệp vụ, quyền lợi của các bên tham gia.
Tên và địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ : Trong L/C tất cả các thành viên có liên quan tới giao dịch chứng từ như :
Người xin mở thư tín dụng : là thương nhân nhập khẩu, người mua.
Người hưởng lợi thư tín dụng : là thương nhân xuất khẩu, người bán.
Ngân hàng : Các ngân hàng tham gia cùng phương thức tín dụng chứng từ bao gồm ngân hàng mở thư tín dụng ( ngân hàng của người nhập khẩu), ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận…. đều phải được ghi rõ ràng, chính xác .
Số tiền của thư tín dụng : Số tiền của thư tín dụng vừa phải ghi bằng số, vừa phỉa ghi bằng chữ và thống nhất với nhau. Không chấp nhận L/C có số tiền ghi bằng số và ghi bằng chữ có mâu thuẫn với nhau, tên đơn vị tiền tệ phải được ghi rõ ràng. Ngoài ra , theo điều 39 UCP- DC 500, quy định những từ như “ vào khoảng”, ‘” với ước chừng “ hoặc những từ tương tự được dùng để nói về L/C phải được hiểu và cho phép một sự xê dịch % của giá trị.
Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền của L/C và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng:
Thời hạn hiệu lực của L/C là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hiệu lực của L/C .
Thời hạn trả tiền của L/C là chỉ việc trả tiền ngay hay trả tiền về sau. Điều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quy định của hợp đồng. Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền ngay hoặc thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C nếu trả tiền có kỳ hạn.
Thời gian giao hàng cũng phải được ghi trong thư tín dụng và do hợp đồng mua bán quy định. Đó là thời hạn quy định bên bàn giao hàng phải giao hàng cho bên mua kể từ ngày L/C có hiệu lực. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. Nếu vì lý do gì đó mà thời hạn giao hàng phải kéo dài thêm một số ngày thì đương nhiên ngân hàng mở L/C phải hiểu rằng thời hạn hiệu lực cũng được kéo dài thêm một số ngày.
Các nội dung về hàng hóa: Như miêu tả về hàng hóa: tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì……
Các nội dung về vận tải, vận chuyển và các điều kiện về cơ sở giao hàng ( FOB, CIF, …) nơi gửi, nơi giao hàng…..
Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình : Đây là nội dung then chốt của L/C, là bằng chứng để chứng minh rằng người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều kiện quy định trong L/C.
Bộ chứng từ quy định trong L/C là bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đuúng những điều quy định trong L/C, và ngân hàng sẽ căn cứ vào bộ chứng từ đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Thông thường bộ chứng từ bao gồm:
Bản gốc thư tín dụng
Hoá đơn thương mại ( Invoice commercial )
Bảo hiểm đơn
Vận đơn ( Bill of loading )
Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ
Bản kê khai hàng hóa ( Packing list )
Và một số giấy tờ khác theo yêu cầu của người nhập khẩu.
Các điều kiện khác
Chữ ký của ngân hàng mở L/C: Và nội dung cuối cùng của L/C là sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C , nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C, đó chính là chữ ký của ngân hàng mở L/C.
3.4 – Các loại thư tín dụng:
Thư tín dụng có rất nhiều loại, được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau và trong thanh toán quốc tế bao gồm những loại L/C thông dụng sau:
3.4.1 – Thư tín dụng có thể huỷ bỏ ( Revocable letter of credit )
Là loại L/C mà ngân hàng mở L/c và người nhập khẩu có thể sửa đổi bổ sung hoặc có thể tự ý huỷ bỏ L/C bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi L/C. Trong trường hợp có thêm ngân hàng đại lý tham gia vào thì việc sửa đổi hay huỷ bỏ chỉ có hiệu lực sau khi ngân hàng đại lý này nhận được giấy báo về việc đó và trước khi ngân hàng đại lý trả tiền cho người bán. Loại L/C này nói chung rất ít sử dụng, bởi vì không đảm bảo quyền lợi cho người bán, vì nó chỉ có tính chất như một lời hứa trả tiền, một sự thông báo mà không phải là sự cam kết trả tiền.
3.4.2 – Thư tín dụng không thể huỷ bỏ ( Irrevocable L/C )
Đây là loại thư L/C mà ngân hàng khi đã mở L/C phải chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán ( người xuất khẩu ), trong thời hạn hiệu lực của L/C không được quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ L/C đó nếu chưa được sự đồng ý của các bên có liên quan. Loại L/C này vẫn có thể sửa đổi, bổ xung hoặc huỷ bỏ nhưng với điều kiện phải được sự đồng ý của tất cả các bên có liên quan. L/C này đảm bảo được quyền lợi của người bán nên thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi.
Khi sử dụng loại L/C này, phải ghi rõ “ irrevocable” (không thể huỷ bỏ) vì nếu không ghi trong tập quán và thực tiễn sử dụng L/C người ta coi như là L/c huỷ bỏ.
Trong UCP DC500 (điều 6) quy định :
a- Một tín dụng có thể : - i. hoặc có thể huỷ ngang
ii. hoặc không thể huỷ ngang
b- Vì vậy tín dụng phải ghi có thể huỷ ngang hay khồng thể huỷ ngang
3.4.3 – Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Confirmed irrevocable L/C)
Là loại L/C không thể huỷ bỏ, được một ngân hàng khác bảo đảm trả tiền L/C theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. Ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán nếu như ngân hàng mở L/C không trả tiền. Loại L/C này người xuất khẩu ký phát hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở L/C nhưng gửi thẳng tới ngân hàng xác nhận để thanh toán. Sở dĩ có loại L/C này là do người hưởng lợi không tin tưởng vào ngân hàng mở L/C cho nên họ yêu cầu ngân hàng mở L/C phải được một ngân hnàg khác xác nhận L/C đó. Họ có quyền chỉ định ngân hàng xác nhận, trách nhiệm của ngân hàng xác nhận cũng như ngân hàng mở L/C. Do quyền lợi của người xuất khẩu ( người hưởng lợi ) được đảm bảo hơn nên loại L/C này cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế.
3.4.4 – Thư tín dụng không thể huỷ bỏ, miễn truy đòi ( Irrevocable without resouce L/C) :
Là loại L/C không được huỷ bỏ mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không có quyền đòi lại tiền từ người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào. Đối với loại L/C này, trên hối phiếu người xuất khẩu ghi “ không được truy đòi người ký phát”. Nhìn chung loại L/C này cũng được sử dụng rộng rãi trên thanh toán quốc tế.
3.4.5 – Thư tín dụng chuyển nhượng ( Irrevocable transferable L/C):
Là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho vay hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. L/C chuyển nhượng chỉ được phép chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường là do người hưởng lợi đầu tiên chi trả.
L/C chuyển nhượng phải có lệnh đặc biệt của ngân hàng mở L/C và trên L/C phải ghi chữ “ chuyển nhượng” ( transferable).
3.4.6 – Thư tín dụng tuần hoàn ( Irrevocable revolving L/C ) :
Là loại thư tín dụng mà sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có hiệu lực như cũ, và tiếp tục được sử dụng sau một thời gian nhất định. Và cứ như vậy, nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đòng được thực hiện hoàn tất. Loại L/C tuần hoàn này có hai dạng:
+ Loại L/C tuần hoàn có tích luỹ
+ Loại L/C tuần hoàn không tích luỹ.
Loại L/C này thường được dùng trong việc mua bán những mặt hàng có số lượng lớn nhwng giao động thường xuyên, nhiều kỳ, với số lượng ít thay đổi nhằm tránh đọng vốn, đơn giản hoá thủ tục L/C.
3.4.7 – Thư tín dụng giáp lưng ( Back to back L/C):
Là loại L/C không thể huỷ bỏ, được mở ra căn cứ vào L/C khác làm bảo đảm, theo L/C này, tổ chức xuất khẩu căn cứ vào L/C của người nhập khẩu mở yêu cầu ngân hàng mở một L/C cho tổ chức xuất khẩu khác hưởng. L/C giáp lưng phải thoả mãn những điều kiện là hai L/C phải mở thông qua một ngân hàng trực tiếp phục vụ tổ chức xuất khẩu và số tiền trên L/C thứ nhất phải lớn hơn hoặc bằng số tiền trên L/C thứ hai.
3.4.8 – Thư tín dụng đối ứng ( Recipvocal L/C )
Là loại L/C có giá trị hiệu lực khi L/C của đối phương được mở ra. Loại L/C này có nghĩa là: người xuất khẩu khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương ứng thì mới có giá trị. Loại này thường chỉ được sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng hoặc gia công.
3.4.9 – Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C )
Là loại L/C trong đó ngân hàng mở L/C cam kết với ngân hàng người xuất khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu xuất trình chứng từ gửi hàng không phù hợp với L/C hoặc không hoàn thành trách nhiệm của mình theo L/C đề ra, đồng thời, sẽ bồi thường các khoản thiệt do mình gây ra đối với người nhập khẩu.
3.4.10 – Thư tín dụng thanh toán dần ( Defewed L/C )
3.4.11- Thư tín dụng điều khoản đỏ ( Red clause L/C )
4 – Các bên tham gia và quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ :
4.1 – Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ :
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ bao gồm :
Người yêu cầu mở thư tín dụng ( Applicant): là người mua, người nhập khẩu, hoặc người được uỷ thác nhập khẩu, là người có đầy đủ các điều kiện để mở L/C.
Người hưởng lợi ( Benificatian) thư tín dụng: là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà hưởng lợi chỉ định.
Ngân hàng mở thư tín dụng ( hay ngân hàng phát hành L/C ) (Issuing bank): là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu.
Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank ): là ngân hàng phát hành thư tín dụng yêu cầu thông báo cho người hưởng lợi các điều khoản của thư tín dụng.( Thông thường ngân hàng này là ngân hàng của nước người xuất khẩu, người hưởng lợi.)
Thông thường trong quan hệ tín dụng chứng từ chỉ có bốn bên tham gia là người xuất khẩu, người nhập khẩu, ngân hàng đại diện cho người xuất khẩu, ngân hàngcủa người xuất khẩu….Nhưng ngoài ra có thể có các Ngân hàng khác tham gia trong phương thức thanh toán như :
Nhà xuất khẩu muốn có một sự bảo đảm chắc chắn của L/C có thể yêu cầu ngân hàng thông báo xác nhận các L/C đã mở và thanh toán hộ tiền hàng đối với ngân hàng phát hành khi xuất trình bộ chứng từ.
Ngân hàng xác nhận (The Confirming bank ) : Là Ngân hàng xác nhận trách nhiệm của mình sẽ cùng Ngân hàng mở L/C đảm bảo việc trả tiền cho người xuất khẩu trong trường hợp Ngân hàng mở L/C không đủ khả năng thanh toán. Ngân hàng xác nhận có thể là Ngân hàng thong báo L/C hay một Ngân hàng khác do người xuất khẩu yêu cầu. Thường là một Ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế .
Ngân hàng thanh toán (The Paying bank ): Có thể là Ngân hàng mở L/C hoặc có thể là một Ngân hàng khác được Ngân hàng mở L/C chỉ định thay mình thanh toán tiền cho người xuất khẩu hay chiết khấu Hối phiếu . Ngân hàng làm nhiệm vụ chiết khấu Hối phiếu thì gọi là Ngân hàng chiết khấu( Negotiating bank). Nếu địa điểm trả tiền quy định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo L/C., và trách nhiệm của ngân hàng thanh toán cũng giống như ngân hàng mở L/C khi nhận bộ L/C thanh toán của người xuất khẩu gửi đến.
4.2 – Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ:
Vì ngân hàng mở L/C thường ở nước người mua, nên việc trực tiếp thông báo và trả tiền cho người bán gặp những khó khăn nhất định , nên Ngân hàng mở L/C uỷ quyền cho Ngân hàng đại lý của mình ở nước người bán để thực hiện hoặc nhờ Ngân hàng của người bán thông báo và thực hiện L/C
Trình tự nghiệp vụ thanh toán được tiến hành theo sơ đồ sau :
Ngân hàng
Mở L/C
Ngân hàng thông báo
(2)
(5)
(6)
(3) (5) (6) (8) (1) (7)
Người mua
(người NK)
Người bán
(người XK )
(4)
Bước 1 : Căn cứ trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
Khi mở L/C, nhà nhập khẩu phải ký quỹ để đảm bảo thanh toán cho nhà xuất khẩu. Số tiền này cao thấp tuỳ thuộc vào uy tín của nhà xuất khẩu cũng như khả năng tín dụng mà ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu. Số tiền ký quỹ có thể lên tới 100% hoặc 20% đến 30% tuỳ thuộc vào yêu cầu của giá trị lô hàng cũng như yêu cầu của ngân hàng. Khi làm thủ tục mở L/C, nhà nhập khẩu cần phải chú ý đến :
Nội dung loại L/C do ngân hàng phát hành theo yêu cầu của hợp đồng
Căn cứ vào các điều kiện của hợp đồng để lập L/C sao cho có lợi nhất mà thoả mãn được cả yêu cầu, thoả thuận đối với người xuất khẩu, tôn trọng các điều kiện của hợp đồng.
Trả thủ tục phí và các khoản khác.
Bước 2 : Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng và các chứng từ khác có liên quan, nếu các chứng từ đó đầy đủ và hợp lệ các điều kiện yêu cầu mở L/C thì ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng bằng cách trích tài khoản của người xin mở L/C hoặc ngân hàng cho vay để ký quỹ. Sau đó ngân hàng lập một thư tín dụng và gửi cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài hoặc là ngânh hàng của người hưởng lợi ( với tư cách là ngân hàng thông báo).
Bước 3 : Tại ngân hàng thông báo ( ngân hàng của người hưởng lợi, người xuất khẩu ), khi nhận được thư tín dụng của ngân hàng gửi đến:
Nếu gửi đến bằng Telex thì sẽ tiến hành xác báo điện mở L/C và kiểm tra mã, rồi chuyển bản chính đến nhà xuất khẩu dưới hình thức văn bản
“ Nguyên căn bức điện thư L/C “.
Nếu L/C được gửi đến bằng thư thì ngân hàng thông báo sẽ kiểm tra chữ ký. Ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng, và khi nhận được bản gốc của L/C sẽ chuyển ngay cho người xuất khẩu. Ngân hàng thông báo sẽ thực hiện kiểm tra tính chân thực bề ngoài của L/C, sau đó gửi đến cho người xuất khẩu ( người hưởng lợi). Trường hợp tính chân thực bề ngoài của L/C chưa xác định rõ ràng thì phải báo cáo cho người hưởng lợi để họ kịp thời yêu cầu người nhập khẩu sửa đổi L/C.
Bước 4 : Người xuất khẩu (người hưởng lợi) nhận được thư tín dụng do ngân hàng thông báo gửi đến, tiến hành kiểm tra, đối chiếu với hợp đồng mua bán ngoại thương đã được ký kết trước đây. Đây là khâu quan trọng đối với người xuất khẩu, vì L/C có thể giống hoặc khác đối với hợp đồng nhưng khi thanh toán thì phải đúng với các điều khoản quy điịnh trong nội dung của L/C. Vì vậy, sau khi kiểm tra chặt chẽ L/C, nếu đồng ý thì sẽ tiến hành giao hàng cho người nhập khẩu, nếu không đồng ý thì đề nghị người nhập khẩu tiến hành sửa đổi hoặc bổ sung thêm vào L/C cho đến khi nào hoàn chỉnh thì mới giao hàng.
Những nội dung cần kiểm tra trên thư tín dụng bao gồm:
Thời gian mở L/C
Ngân hàng mở L/C
Loại L/C
Thời hạn hiệu lực và địa điểm hết hiệu lực của L/C
Kim ngạch thư tín dụng ( số tiền, loại tiền- lượng tiền )
Điều kiện giao hàng
Địa điểm gửi, nhận hàng
Bộ chứng từ yêu cầu xuất trình để thanh toán
Bước 5 : Sau khi hoàn thàn nghĩa vụ giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu các điều khoản thư tín dụng và gửi bộ chứng từ thanh toán tới ngân hàng thông báo và thông qua ngân hàng này báo cho ngân hàng m,ở L/C xin thanh toán hoặc có thể nhờ ngân hàng thông báo thu hộ tiền từ ngân hàng mở L/C thông qua bộ chứng từ thanh toán.
Bước 6 : Ngân hàng thông báo sau khi nhận được bộ chứng từ thanh toán tiến hành kiểm tra tính chất hợp lệ và hợp pháp của chứng từ đối chiếu với những điều khoản trong thư tín dụng đã mở trước đây, nếu thấy không phù hợp thì gửi trả ngay cho người xuất khẩu để điều chỉnh sửa đổi, trường hợp chứng từ hoàn toàn phù hợp với L/C thì ngân hàng thông báo có thể thanh toán ngay cho người xuất khẩu bằng cách ghi nợ vào tài khoản ngân hàng mở L/C và ghi có vào tài khoản của người xuất khẩu (Trường hợp này chỉ khi ngân hàng mở L/C có số dư tiền gửi tại ngân hàng thông báo) hoặc ngân hàng thông báo sẽ đòi tiền thẳng qua ngân hàng mở L/C bằng cách ký phát hối phiếu và đòi tiền ngân hàng mở L/C.
Bước 7 : Sau khi ngân hàng mở L/C nhận được bộ chứng từ thanh toán do ngân hàng thông báo thì phải tiến hành kiểm tra, đối chiếu với các điều khoản đã ghi trong thư tín dụng. Nếu thấy phù hợp, ngân hàng mở L/C sẽ thanh toán cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu ( thường là ngân hàng thông báo) hoặc là chấp nhận thanh toán.
Bước 8 : Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì thanh toán ngay hoặc chấp nhận thanh toán (chấp nhận hoàn trả lại tiền cho ngân hàng mở L/C). Nếu thấy chứng từ không phù hợp thì có quyền từ chối thanh toán
Trong quy trình nghiệp vụ thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ thường nội dung và các điều khoán quy định trong L/C đều phải được đãn chiếu bằng UCP-DC 500, và đó chính là cơ sở pháp lý để ràng buộc các bên về quyền lợi và nghĩa vụ.
4.3 –Nghĩa vụ và quyền lợi của các bên trong phương thức tín dụng chứng từ :
Có thể nói rằng, trong tất cả các phương thức thanh toán quốc tế nói chung, phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ là phương thức phức tạp nhất nhưng lại được coi là chặt chẽ nhất bởi những khả năng đảm bảo của nó đối với tất cả các bên có liên quan, dù chi phí để thực hiện có lớn hơn các phương thức khác nhưng nó lại luôn đảm bảo được khả năng nhận hàng, khả năng được thanh toán và hạn chế được nhiều rủi ro trong quan hệ thanh toán XNK. Phương thức này trở nên hữu hiệu đối với tất cả các bên, cụ thể là:
Đối với người Xuất khẩu : (người bán) : Người bán chỉ giao hàng khi nào được biết người mua đã mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho mình. Người bán phải kiểm tra thư tín dụng (L/C ) xem có đúng với nội dung của hợp đồng mua bán không, nếu sai hoặc có những điều kiện ghi không rõ ràng, không có lợi cho mình thì có quyền yêu cầu người mua sửa đổi hoặc bổ xung L/C . Nội dung sửa đổi và bổ xung L/C phải được Ngân hàng mở L/C xác nhận thì mới có hiệu lực thanh toán . Sau khi giao hàng ,người bán phải lập đầy đủ các chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình cho Ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của L/C .Và người bán chỉ thu được tiền hàng nếu như Ngân hàng kiểm tra thấy chứng từ đó phù hợp về hình thức với các điều kiện của L/C .
Đối với người Nhập khẩu (người mua) : Khi ký hợp đồng mua bán áp dụng phương thức thanh toán TDCT thì việc mở L/C của người mua là điều kiện tiên quyết cho người bán thi hành hợp đồng. Người mua phải mở L/C theo đúng thời hạn quy định của hợp đồng . Người mua phải căn cứ vào nội dung của hợp đồng mua bán để làm đơn yêu cầu mở L/C gửi tới Ngân hàng. Người mua phải trả một khoản thủ tục phí cho Ngân hàng mở L/C và thường phải ký quỹ từ 20% đến 25% số tiền L/C tại Ngân hàng mở L/C . Người mua có quyền từ chối hoàn trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho Ngân hàng nếu xét thấy bề ngoài bộ chứng từ không phù hợp với những điều kiện mà người mua đã nêu ra trong L/C.
Ngân hàng mở thư tín dụng : Có nghĩa vụ căn cứ vào đơn yêu cầu mở thư tín dụng của người mua để mở thư tín dụng ( L/C ) cho người bán hưởng và tìm cách thông báo việc mở L/C thư tín dụng này cho người bán biết. Ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm thẩm tra các chứng trừ do người bán xuất trình xem bề ngoài có phù hợp vơí L/C hay không. Nếu phù hợp thì Ngân hàng phải thanh toán tiền cho người bán và nhận chứng từ , nếu Ngân hàng làm sai thì Ngân hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm . Sau khi trả tiền cho người bán, Ngân hàng trao bộ chứng từ cho người mua và thu tiền lại của người mua.Ngân hàng mở L/C được người mua trả một khoản thủ tục phí từ 0,125% đến 0,5 % trị giá của L/C và phí sửa đổi bổ sung L/C nếu có. Ngân hàng mở L/C thường là Ngân hàng nước người mua.
Ngân hàng thông báo L/C – Ngân hàng thanh toán tiền cho người bán : theo quy định của ICC Ngân hàng thông báo thông báo L/C cho người hưởng lợi và phải kiểm tra tính chân thật bề ngoài của L/C mà mình thông báo, đồng thời có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu bộ chứng từ và L/C gởi tới Ngân hàng mở L/C để đòi hộ tiền cho người hưởng lợi . Sau khi hoàn thành nghĩa vụ Ngân hàng thông báo được hưởng một khoản phí gọi là phí thông báo L/C và các khoản phí sửa đổi L/C .. nếu có. Ngân hàng thông báo được miễn trách trong tất cả các sai sót của L/C cũng như của bộ chứng từ thanh toán .
Chương II : thực trạng hoạt động Thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương việt nam
I – ngân hàng ngoại thương việt nam và hoạt động thanh toán quốc tế
1. Tổng quan về ngân hàng ngoại thương Việt Nam –VCB
a. Quá trình hình thành và phát triển
Sau thời kỳ khôi phục và cải tạo kinh tế ở miền bắc Việt Nam, đi đôi với việc mở rộng tổ chức và hoạt động của hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với nước ngoài, từ yêu cầu cấp thiết đó Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã ra đời vào 1/4/1963, cho đến nay đã tròn 37 năm phấn đấu để xây dựng và trưởng thành. Ngân hàng ngoại thương đã đóng góp xuất sắc cho thắng lợi chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điểm lại những hoạt động của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ta nhận thấy rằng có lúc thăng, lúc trầm nhưng nhìn chung Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã đạt được bước tiến rõ rệt.
Giai đoạn đầu từ năm 1963 cho đến 1975, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam hoạt động trong tình trạng chống Mỹ và còn lệ thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như một chi nhánh của ngân hàng này và tách biệt hẳn với hệ thống ngân hàng thế giới. Sự phát triển về kỹ thuật ngân hàng có thể nói là rất chậm.
Giai đoạn từ 1975 đến 1989 là giai đoạn quá độ, bắt đầu có sự tiếp xúc trực tiếp với các ngân hàng trên thế giới và tiếp thu dần các phương tiện kỹ thuật thanh toán của ngân hàng tư bản trên thế giới. Mặc dù Ngân hàng ngoại thương Việt Nam vẫn còn là một vệ tinh của Ngân hàng nhà nước Việt Nam nhưng hoạt động được nới rộng hơn, hiệu quả hơn và đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Giai đoạn từ 1990 đến 1994, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam theo Pháp lệnh ngân hàng đã trở thành một ngân hàng thương mại quốc doanh độc lập, bắt đầu theo một chính sách đổi mới hoạt động để tồn tại trong cơ chế thị trường có nhiều ngân hàng trong nước và ngoài nước cạnh tranh. Có thể nói đây là giai đoạn chuẩn bị cất cánh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng đã tăng dần tốc độ phát triển về mọi mặt để có thể đuổi kịp các ngân hàng khác trên thée giới về tầm cỡ cũng như về trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Mọi cố gắng đều tập trung vào trang bị kỹ thuật ngân hàng càng hiện đại hơn để trở thành một ngân hàng có đầy đủ uy tín trên bình diện quốc tế.
Giai đoạn từ 1995 đến 2001 là thời kỳ mà Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã có những bước tiến dài về mọi mặt đó là:
Năm 1996 và 1997, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thẻ VISA và MASTERCARD. Cho đến nay Ngân hàng ngoại thương là ngân hàng duy nhất tại Việt Nam chấp nhận thanh toán 4 loại thẻ thông dụng nhất thế giới MASTER, VISA, AMEX, JCB đồng thời Ngân hàng ngoại thương cũng là ngân hàng có bề dày k._.ốn trong thanh toán một cách linh hoạt hơn nhằm phát huy được hiệu quả, hỗ trợ về vốn, tín dụng cho các chi nhánh của ngân hàng cũng như các ngân hàng thương mại khác.
Để hoàn thiện hơn nữa về nghiệp vụ thanh toán quốc tế , VCB luôn đưa ra những quy định , hướng dẫn cụ thể về quy trình ,kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán . Định hướng cho hoạt động thanh toán trong những năm tới VCB đã ban hành các quy định về kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán. ( Quy đinh số 67/NHNT-QĐ ban hành ngày 28/03/1998 sẽ được thay thế bằng QĐ số 29/2002/QĐ-NHNT ban hành ngày 16/04/2002) . Quy định về ban hành về “Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán Thư tín dụng chứng từ, nhờ thu kèm chứng từ với nước ngoài trong hệ thống VCB” Quy định này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 02/05/2002.
II . Một số giải pháp
2.1 Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ hàng xuất khẩu
Để ngày càng hoàn thiện hơn về hoạt động thanh toán quốc tế . Ngân hàng ngoại thương đã liên tục sửa đổi và bổ sung và ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về các quy trình nghiệp vụ. Đối với hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ VCB cũng đã có những quy định ban hành thành văn bản. Cụ thể Quy định số 29/2002/QĐ-NHNT ban hành ngày 16/04/2002 QĐ về việc ban hành “ Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng chứng từ và nhờ thu kèm chứng từ với nước ngoài trong hệ thống VCB” . Quy định này sẽ thay thế quy định số 67(ban hành 03/1998) những quy định chung như:
Tuân thủ :
các quy tắc do phòng thương mại quốc tế ban hành UCP-DC500
Các điều ước quốc tế liên quan đến thanh toán
Phù hợp các quy định của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, về quản lý ngoại hối, các văn bản liên quan đến thanh toán quốc tế không trái với luật pháp Việt Nam
Việc Thanh toán bằng thư tín dụng phải :
Hạch toán thanh toán (nội, ngoại bảng) phải tuân theo chế độ kế toán hiện hành của VCB
Hồ sơ phải được lưu trữ theo chế độ hiện hành
Việc nhận điện, chuyển điện, kiểm tra khoá-mã, phải được thực hiện theo quy định 342/QĐ/NHNN/QHQT ngày 03/09/99..và quy định bổ sung ngày 25/10/99 và hướng dẫn số 4752/QHQT ngày 28/10/99 của phòng QHQT -VCB
Quy trình thanh toán là nhân tố trực tiếp tác động đến thanh toán tín dụng chứng từ . Bất kỳ một sai sót nào dù nhỏ trong quá trình thực hiện quy trình cũng đều có khả năng dẫn đến sự khó khăn trong thanh toán . Đối với Ngân hàng Ngoại thương , trong hoạt động thanh toán toán xuất khẩu ,với vai trò là ngân hàng của người xuất khẩu, ngân hàng thông báo L/C , ngân hàng thu hộ tiền cho người xuất khẩu .. ngân hàng ngoại thương cần phải nghiên cứu, phân tích và tìm ra các biện pháp nhằm hoàn thiện hơn quy trình thanh toán để từ đó hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra trong quy trình thanh toán . Và quy trình nghiệp vụ trong thanh toán hàng xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ được ngân hàng ngoại thương áp dụng gồm các bước sau :
1
Thông báo thư tín dụng , thông báo sửa đổi thư tín dụng
Khi nhận L/C hoặc sửa đổi L/C từ Ngân hàng đại lý : Phải kiểm tra xác nhận mã đúng , xem xét các mẫu điện MT 700 ,707 (Telex hoặc SWIFT) mẫu chữ ký của Ngân hàng đại lý , nếu đúng thì lập thông báo theo mẫu gởi cho khác hàng , nếu không đúng hoặc chưa xác định được mẫu chữ ký thì phaỉ thông báo ngay cho Ngân hàng mở L/C mà không thông báo cho khách hàng ,nêúa có thì Ngân hàng không chiụ trách nhiệm gì về việc thông báo đó. Trường hợp từ chối thông báo thì phải báo ngay cho Ngân hàng mở L/C biết
Trường hợp Ngân hàng mở L/C yêu cầu Ngân hàng ngoại thương xác nhận L/C thì tuỳ trường hợp cụ thể giám đốc xem xét vcà quyết định xác nhận hay không ,yêu cầu Ngân hàng mở L/C ký quỹ hoặc không ký quĩ
Khi lập thông báo L/C hoặc sửa đổi L/C thanh toán viên phải lập văn bản thông báo cho khách hàng đồng thời lập phiếu thu phí thông báo phí sửa đổi , phí xác nhận .. theo biểu phí dịch vụ của Ngân hàng
Tiếp nhận , kiểm tra , gởi chứng từ và đòi tiền
Khi nhận được thư yêu cầu thanh toán , thanh toán viên phải kiểm tra số lượng chứng từ loaị chứng từ ,ngày giờ xuất trình và ký nhận – lập hồ sơ L/C (việc kiểm tra dựa theo những quy định và dẫn chiếu của UCP DC 500)
Sau khi kiểm tra chứng từ : + Nếu chứng từ phù hợp với L/C thì chứng từ được gửi đi đòi tiền theo quy định của L/C ( có thể đòi tiền bằng thư hoặc đòi tiền bằng điện – sử dụng các mẫu điện SWIFT hoặc Telex)
+ Nếu chứng từ không phù hợp với các điều khoản quy định trong L/C thì Ngân hàng ngoại thương thông báo cho Ngân hàng mở L/C và thông báo cho khách hàng kị thời sửa đổi , bổ xung bộ L/C và chứng từ .
Trường hợp khách hàng yêu cầu thanh toán ngay bộ chứng từ thì Ngân hàng ngoại thương áp dụng hai hình thức sau : 1/ Chiết khấu miễn truy đòi : (Ngân hàng mua đứt bộ chứng từ và chịu mọi rủi ro trong việc đòi tiền nước ngoài) . 2/ Chiết khấu truy đòi : ( Ngân hàng thực hiện chiết khấu chứng từ , nếu nước ngoài từ chối thanh toán chứng từ thì Ngân hàng truy đòi khách hàng) ; (Trên thực tế Ngân hàng ngoại thương Việt nam chủ yếu thực hiện hình thức chiết khấu truy đòi vì theo hình thức chiết khấu miễn truy đòi mang tính tính chất thị trường và rất dễ chịu nhiều rủi ro )
Trường hợp Ngân hàng mở L/C từ chối thanh toán chứng từ thì Ngân hàng phải xác minh lại lý do đồng thời thông báo ngay cho khách hàng . phản đối lại những lý do nếu như không xác đáng của Ngân hàng nước ngoài
Nếu chứng từ được chấp nhận thanh toán : Ngân hàng nhận được thông báo Có của Ngân hàng nước ngoài , thanh toán viên hạch toán tiền hàng và thu phí theo biểu phí hiện hành của Ngân hàng ngoaị thương Việt Nam
Để hoàn thiện hơn về quy trình các nghiệp vụ trên , Ngân hàng Ngoại thương cần phải có một cơ cấu tổ chức nhằm chuyên môn hoá hơn về các công việc cụ thể như: Tại phòng thanh toán Xuất khẩu cần phân chia các công việc theo năng lực và chuyên môn của từng thanh toán viên để từ đó phát huy được tính năng động của từng cá nhân. Ví dụ như mỗi một thanh toán viên phụ trách về một mảng công việc nhất định , người phụ trách về công việc nhận điện tín từ trên mạng , người phụ trách về xem xét đối chiếu L/C và bộ chứng từ , mỗi một thanh toán viên phụ trách về một mảng thị trường , một mảng nhóm các khách hàng trong nước để từ đó tăng được mối quan hệ cũng như tăng hiệu quả công việc lên.
Tuy nhiên để quy trình thanh toán hàng xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ được ngày một hoàn thiện hơn Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) cần phải có một hệ thống các thiết bị công nghệ hiện đại ,một đội ngũ thanh toán viên nhanh nhẹn , tinh thông và có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, luôn có khả năng xử lý mọi tình huống phức tạp và hạn chế được tới mức tối đa các rủi ro có thể xảy ra
Đổi mới và hoàn thiện chính sách khách hàng phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay
Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong môi trường có cạnh tranh đề phải xây dựng cho mình một chính sách khách hàng phù hợp, mà trong đóchủ động tìm đến khách hàng và gây được lòng tin đối với khách hàng là hoạt động không thể thiếu được đặc biệt là hoạt động mở rộng , nâng cao cố lượng khách hàng đến với mình .
Vấn đề được các nhà quản lý Ngân hàng quan tâm nhiều là làm thế nào để tạo ra được sự tin tưởng và uy tín đối với khách hàng, lôi kéo được họ đến giao dịch với Ngân hàng dồng thời xây dựng và thiết lập được mối quan hệ lâu dài đối với khách hàng của của mình. Đặc biệt trong hoạt động thanh toán quốc tế (một thế mạnh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.). Để đảm bảo được chắc chắn về khả năng thanh toán các khách hànglà những người kinh doanh XNK thường chọn cho mình những Ngân hàng có uy tín, có nghiệp vụ thanh toán hoàn hảo, chính xác và xử lý các sai sót trong quá quá trình thanh toán nhằm đảm bảo được lợi ích của mình .
Trong môi trường phát triển kinh tế của nước ta hiện nay: Đảng và nhà nước đề cao vai trò, chiến lược của hoạt động xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ (Trong định hướng kinh tế “Công nghiệp hoá -hiện đại hoá hướng tới xuất khẩu ‘’). Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi , khuyến khích các hoạt động xuất kinh doanh hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu như: cấp vốn, cấp tín dụng , giảm thuế , tăng kim ngạch .... và đồng thời điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Trước tình hình kinh tế đất nước như vậy . Với vai trò là người trung gian trong trong hoạt động kinh doanh XNK, Ngân hàng Ngoại thương đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thanh toán, tong hoạt động thanh toán xuất khẩu Ngân hàng với tư cách là Ngân hàng của người xuất khẩu (Ngân hàng của người hưởng lợi trong nước) dùng uy tín và nghiệp vụ chuyên môn cuả mình đứng ra đảm bảo chắc chắn khả năng thanh toán (thu hộ tiền) cho người xuất khẩu trong nước bằng các phương thức thanh toán thông dụng như : phương thức nhờ thu; phương thức chuyển tiền và đặc biệt là phương thức tín dụng chứng từ . Tuy nhiên trong sự lựa chọn Ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán cho mình Ngân hàng Ngoại thương đứng trước sự cạnh tranh của các Ngân hàng khác . Chính vì vậy , Ngân hàng Ngoại thương cần phải xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với khách hàng và một trong những chính sách đó gồm :
a)- Cấp tín dụng cho người bán ( người xuất khẩu ) : Ngân hàng Ngoại thương với tư cách là Ngân hàng của người bán (người xuất khẩu ) ,là Ngân hàng thông báo L/C cho người bán , là Ngân hàng nhờ thu, là Ngân hàng xác nhận. . . . Để giúp đỡ cho người bán trong quá trình sản xuất , thu gom và chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng ngoại thương với đối tác nước ngoài. Ngân hàng sẽ đứng ra ứng trước cho người bán bằng một khoản tín dụng hỗ trợ xuất khẩu và sẽ chiết khấu dần các khoản thanh toán của người bán (người XK ) khi người người mua (người Nhập khẩu) ở nước ngoài thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu ở trong nước. Với khoản tín dụng này Ngân hàng có thể áp dụng các mức lãi suất linh hoạt, và thường thấp hơn so với các Ngân hàng khác.
Ngoài ra Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng là người xuất khẩu trong nước bằng cách mua chọn bộ chứng từ thanh toán của người xuất khẩu và chịu mọi rủi ro về khả năng thanh toán của người mua (người NK) ở nước ngoài .
b) Cố vấn và nâng cao nghiệp vụ của khách hàng tham gia thanh toán XK bằng phương thức L/C : Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (TDCT) là một phương thức thanh toán tương đối phức tạp nhưng nó lại đảm bảo được khả năng thanh toán tiền hàng xuất khẩu cho người bán (trong các phương thức thanh toán tiền hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước thì phương thức TDCT chiếm tới trên 80%) .Vì vậy với tư cách là Ngân hàng thông báo L/C , Ngân hàng Ngoại thương cần phải giúp đỡ các đơn vị xuất khẩu nghiên cứu và nắm vững bản chất , nghiệp vụ và quy trình của phương thức TDCT. cụ thể những vấn đề như :
+ Ngân hàng Ngoại thương cố vấn và giúp đỡ để các đơn vị xuất khẩu trong việc lập và hoàn thiện bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung yêu cầu của L/C để đảm bảo chắc chắn sản xuấtược khả năng thanh toán.
+ Cố vấn cho các đơn vị xuất khẩu trong việc yêu cầu bên Nhập khẩu (người mua) ở nước ngoài mở cho mình bộ L/C hoàn hảo nhất , và Ngân hàng phát hành L/C phải là Ngân hàng có uy tín trên thị trường hoặc không thì phải có Ngân hàng khác xác nhận .
+ Cố vấn cho các đơn vị xuất khẩu cân nhắc các điều khoản bất lợi yêu cầu trong L/C mà người nhập khẩu ở nước ngoài đưa ra ,nhằm đảm bảo cho việc giao hàng chắc chắn sẽ được thanh toán .
Trong trường hợp bộ chứng từ thanh toán và các điều khoản yêu cầu của L/C không đồng nhất thì Ngân hàng cần thông báo cho người xuất khẩu và có thể thay mặt người xuất khẩu sửa chữa , bổ sung vào bộ chứng từ thanh toán .
Trong phương thức thanh toán TDCT Ngân hàng hoạt động hoàn toàn theo nội dung của L/C mà không quan tâm nhiều hoặc không quan tâm tới hợp đồng ngoại thương .chính vì vậy Ngân hàng cần có sự tham khảo về hợp đồng thông qua người hưởng lợi (người XK ) để từ đó lập bộ chứng từ đòi tiền phù hợp.
Đối với người Nhập khẩu khi chuyển và thông báo bộ L/C cho Ngân hàng , nếu nội dung cuả L/C bị sai sót thì Ngân hàng có thể trực tiếp thay mặt người nhập ở nước ngoài sửa đổi , bổ xung nội dung của L/C sao cho phù hợp với yêu cầu của các chứng từ về hàng hoá , để từ đó tạo điều kiện cho việc nhận hàng được đễ dàng hơn.
c). Các chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng nhóm khách hàng : Ngân hàng Ngoại thương cần đưa ra những chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng nhóm khách hàng , phân loại từng nhóm khách hàng : như khách hàng có uy tín giao dịch thanh toán thường xuyên, có giá trị thanh toán lớn qua Ngân hàng thì sẽ được hưởng các mức ưu đãi đặc biệt như được hưởng các mức lãi suất cho vay thấp (lãi suất tín dụng), giảm mức phí dịch vụ thông báo L/C , sửa đổi hồ sơ L/C ; trợ giúp các khách hàng này về thông báo , sưả đổi bổ sung hay lập các chứng từ cho bộ chứng từ thanh toán . Còn đối với các khách hàng là khách hàng mới , khách hàng đột xuất thì Ngân hàng cần đưa ra những khuyến khích , hướng dẫn giúp đỡ họ thực hiện các quy trình thanh toán xuất bằng phương thức tín dụng chứng từ , và có thể giảm các mức phí dịch vụ xuống thấp hơn so với các Ngân hàng khác, để từ đó nhằm thu hút tạo lòng tin và duy trì mối quan hệ dài lâu với họ. và cuối cùng là cuốn họ trở thành khách hàng tin tưởng và khả năng thanh toán xuất khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương .Để tiến hành được các chính sách trên Phòng thanh toán Xuất của Ngân hàng Ngoại thương cần phải thường xuyên lập những báo cáo về các đối tượng khách hàng lên ban lãnh đạo để từ đó ban lãnh đạo có những chính sách khách hàng phù hợp.
Ngoài các khách hàng là các công ty và các cá nhân ,Ngân hàng Ngoại thương cũng cần quan tâm tới các đối tượng khách hàng là các tổ chức tín dụng ,tổ chức tài chính khác ,bên cạnh vai trò tích cực chủ đạo và có thể nói là “Độc quyền” trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu . Ngân hàng cũng cần có các chính sách ưu đãi đối với các tổ chức tín dụng khác, thông qua các hình thức như hợp tác, trực tiếp cấp vốn cho họ khi họ thiếu vốn , sửa đổi các mức thấu chi , hiệp đồng tài trợ , đồng bảo lãnh , đặc biệt là với thế mạnh về thanh toán quốc tế Ngân hàng Ngoại thương cần trợ giúp các Ngân hàng khác trong lĩnh vực thanh toán quốc tế như: mở tài khoản taih Ngân hàng Ngoại thương bằng cách ký quỹ , đặt cược dựa và coi Ngân hàng Ngoại thương như một trung tâm thanh toán bù trừ đối với các giao dịch quốc tế . Đặc biệt Ngân hàng cần trợ giúp các Ngân hàng bạn các nghiệp vụ thanh toán quốc tế
Phát triển và nâng cao chất lượng mạng lưới các chi nhánh Ngân hàng ngoại thương
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có mạng lưới các chi nhánh Ngân hàng đại lý ở khắp cả nước và đặc biệt đã có nhiều chi nhánh Ngân hàng đại diện ở khắp các châu lục trên thế giới . Sự phát triển và mở rộng các chi nhánh Ngân hàng ở các tỉnh thành trong cả nước chính là một trrong những hướng mở rộng và phát triển quy mô của Ngân hàng Ngoại thương nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh toán được dễ dàng và thuận tiện . Đối với các nghiệp vụ thanh toán quốc tế Ngân hàng Ngoại thương cần phải thường xuyên tổ chắc các cuộc họp ,hội nghị nhằm đưa ra những phương hướng hoạt động cho từng chi nhánh. Cụ thể là tiến hành truyền đạt tất cả mọi thông tin và và kịp thời phổ biến đến các Ngân hàng đại lý cuả mình những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ thanh toán: như hướng dẫn ,trợ giúp và nâng cao nghiệp vụ thanh toán , dưa ra các quy định chung về quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế (N0 67/ NHNT – QĐ) ; tiến hành nầng cấp cải tạo hệ thống thanh toán qua mạng bằng việc lắp đặt các thiết bị công nghệ phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế để từ đó tạo được sự quản lý của Ngân hàng Ngoại thương đối với các chi nhánh cũng như trao đổi thường xuyên được các thông tin về nghiệp vụ tanh toán ( ví như lắp đặt và kết nối các chi nhánh Ngân hàng bằng hệ thống mạng vi tính với các phần mềm công nghệ Ngân hàng như SWIFT , ..) Ngoài ra Ngân hàng Ngoại thương cũng có thể hỗ trợ cho các Ngân hàng đại lý về vốn ,tài chính tín dụng để các Ngân hàng đại lý hoạt động có hiệu quả trong nghiệp vụ thanh toán Xuất khẩu và nhập khẩu
Có thể nói rằng việc phát triển , mở rộng và nâng cao chất lượng trong mạng lưới các chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương chính là hoạt động khẩn thiết đáp ứng ngày các rộng rãi hơn về nhu cầu thanh toán trong hoạt động XNK của cả nước.
Tăng cường công tác tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên
Có thể nói rằng hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những thế mạnh của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam và là Ngân hàng có lượng khách hàng giao dịch ,thanh toán xuất nhập khẩu lớn nhất trong tất cả các Ngân hàng thương mại khác . Có được thế mạnh đó chính là nhờ vào những ưu điểm mà các Ngân hàng khác không có được như : cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hệ thống công nghệ hiện đại , và đặc biệt là trình độ nghiệp vụ thanh toán của các thanh toán viên .
Trong hoạt động thanh toán XNK Ngân hàng Ngoại thương đã xây dựng được cho mình một cơ cấu tổ chức khá hợp lý , chặt chẽ và phát huy được hết khả năng của mình. Ngân hàng đã tách biệt được hai nghiệp vụ thanh toán cơ bản, riêng biệt đó là nhiệp vụ thanh toán XK và nghiệp vụ thanh toán NK . Chính vì vậy nghiệp vụ luôn được chuyên môn hoá một cách sâu sắc.
Trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên là một trong những vấn đề quyết định đảm bảo cho việc thanh toán có hiệu quả, phục vụ khách hàng một cách tốt nhất ,tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng , phản ánh trực tiếp chất lượng dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp , từ đó quyết định đến sự thành công của Ngân hàng . Chính vì vậy việc khai thác và phát huy được trình độ , khả năng về nghiệp vụ của các thanh toán viên của chính là nhờ vào công tác đào tạo và không ngừng bồi dưỡng bổ sung kiến thức. Ngân hàng Ngoại thương luôn có một sự đàu tư không nhỏ trong việc lập ra các khoá đào tạo , bồi dưỡng nghiệp vụ cho các thanh toán viên , cho họ được nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoạt động có hiệu quả nhất, cho các thanh toán viên đi nghiên cứu, khảo sát ở nhiều Ngân hàng trên thế giới, các thanh toán viên luôn được cập nhật các tài liệu mới nhất liên quan đến hoạt động thanh toán như UCP-DC 500; URC 522;. . . và luôn được hướng dẫn sử dụng các công nghệ phần mềm áp dụng trong thanh toán như hệ thống mạng SWIFT , Silverlake...
Trong hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức TDCT , một phương thức thanh toán có thể được coi là sử dụng rộng dãi nhất nhưng đồng thời lại cũng được xem là phức tạp nhất trong các phương thức thanh toán. Ngân hàng Ngoại thương đã có những khoá tham luận và đào tạo riêng nhằm hoàn thiện và nâng khả năng hiểu biết sâu sắc về quy trình thanh toán bằng phương thức này . Cụ thể Ngân hàng đã đưa ra những quyết định và những quy định cụ thể về quy trình nghiệp vụ thanh toán và áp dụng trong toàn hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Theo QĐ số 67/ NHNT – QĐ và mới đây nhất là bản dự thảo về nghiệp vụ thanh toán quốc tế sẽ bắt đàu được áp dụng vào ngày 10\05\2002) . Ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn , Ngân hàng Ngoại thương cần phải khuyến khích và hỗ trợ các thanh toán viên trong việc mở ra các khoá học về ngoại ngữ , tin học để từ đó bổ trợ cho nghiệp vụ của mình khi quan hệ giao dịch với các đối tác nước ngoài ,đặc biệt đối với phương thức thanh toán TDCT – một phương thức được sử dụng bằng một ngôn ngữ chung trên trường quốc tế.
Nâng cấp, đổi mới công nghệ Ngân hàng và ứng dụng các công nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh toán
Sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng cung ứng dịch vụ của mình cho khách hàng . Trong tình hình hiện nay , các phương thức thanh toán truyền thống cũ đã và đang được thay thế bằng các hình thức thanh toán mới – thanh toán điện tử , thông qua hệ thống mạng điện tử được kết nối với nhau, hình thức này thực sự phù hợp với xu thế phát triển trên thế giới hiện nay .
Bên cạnh các chính sách khách hàng, đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ, Ngân hàng Ngoại thương luôn quan tâm đến tăng cường đổi mới công nghệ nhằm xây dựng hệ thống Ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế với trang thiết bị hiện đại có tính tự động hoá cao để phục vụ khách hàng nhanh chóng, tiện lợi và an toàn . Đổi mới công nghệ của Ngân hàng Ngoại thương trong những năm qua đã tập trung vào những chương trình như :
Hệ thống thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT : Là hệ thống truyền tin điện tử của Ngân hàng bằng phần mềm SWIFT ALLIANCE , thông tin qua mạng được mã hoá theo quy định của Swift . với hệ thống này có khả năng xử lý trung bình 2000 bức điện đi và đến mỗi ngày – thực sự phục vụ đắc lực cho cac giao dịch quốc tế của Ngân hàng . Quy trình sử lý được tự động hoá đến mức tối đa cho cả hai chiều , qua hệ thống này thông tin được chuyển tiếp rất nhanh trong ngày , đảm bảo được an toàn , không cần chứng từ , chi phí và giá thành rất thấp. Ngân hàng Ngoại thương đã tự phát triển các chương trình Swift dựa trên các số liệu thanh toán quốc tế và nhờ chương trình này 90% được đối chiếu tự động.
Hệ thống Ngân hàng điện tử : Là Ngân hàng đàu tiên đưa máy ATM vào hoạt động , mọi giao dịch được sử dụng qua hệ thống máy tính như thanh toán điện tử giữa các Ngân hàng cả trong và ngoài nước .
Trong hoạt động thanh toán XK tại Ngân hàng Ngoại thương : với vai trò là Ngân hàng thông báo L/C , Ngân hàng thu hộ tiền người xuất khẩu trong nước từ đối tác nước ngoài ; VCB đã áp dụng kỹ thuật truyền tin trên mạng điện tử để nhận L/C , để chuyển L/C ,.. mà không phải qua các dịch vụ vận chuyển trung gian khác . Đối với phương thức thanh toán TDCT nhờ hệ thống các thiết bị và công nghệ hiện đại mà VCB trực tiếp xử lý được một cách nhanh chóng mọi số liệu và các chứng từ có liên quan
Chính vì vậy để ngày một hoàn thiện hơn hạot động thanh toán tiền hàng XK Ngân hàng Ngoại thương cần phải luôn luôn đổi mới và áp dụng các thiết bị và công nghệ hiện đại nhằm phù hợp với những yêu cầu và đòi hỏi của hệ thống công nghệ Ngân hàng trên thế giới cũng như từ đó tạo ra được lòng tin đối với khách hàng
III . Một số kiến nghị
Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước
Trong xu hướng quốc tế hoá hiện nay, mở cửa nền kinh tế là một yêu cầu tất yếu để hội nhập vào nền kinh tế Thế giới . Trong quá trình mở cửa, bên cạnh những yếu tố tích cực còn tồn tại một nhiều nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội đặt ra, chính vì vậy các chính sách của Nhà nước phải luôn kịp thời , đúng hướng phù hợp , nhằm tạo được điều kiện phát huy mọi tiềm năng , thế manh của các thành phần kinh tế .
Trong những năm tới , để giải quyết những tồn tại và phát huy được vai trò của hoạt động Xuất nhập khẩu nền kinh tế quốc dân , Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm và đưa ra những chính sách cụ thể như :
Có chính sách kinh tế thương mại rõ ràng, ổn định và đồng bộ : Bên cạnh các văn bản về luật thương mại, Ngân hàng , các tổ chức tài chính, tín dụng .. . phải có những văn bản dưới luật kèm theo nhằm hướng dẫn thực hiện. Tránh tình trạng như sử dụng những bộ luật trong thời gian dài mà không có sửa đổi ,bổ sung .. điiêù đó dẫn đến những văn bản không còn phù hợp vcới xu hướng ngày nay : chẳng hạn như Luật Ngân hàng .. còn nhiều vướng mắc và thiếu những căn cứ pháp lý .
Chính vì vậy sự rõ ràng về mặt chính sách nói chung cần gắn liền với sự ổn định tương đối của chúng, tránh những thay đổi đột ngột . Nước ta đã và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế cho nên sự điều chỉnh về mặt chính sách để đáp ứng các vấn đề mới nảy sinh là một tất yếu và điều quan trọng là những điều chỉnh ấy không gây nên sự hoang mang đối với các nhà kinh doanh trong nước cũng như đối tác nước ngoài . Vì vậy khi ban hành sửa đổi, hay bbổ sung một văn bản pháp lý nào đó Nhà nước cần nêu lên rõ ràng, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn.
Chẳng hạn trong hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu Nhà nước đã ban hành các chế định pháp lý như : NĐ64/CP ;NĐ114/HĐBT ; NĐ59/CP Đặc biệt NĐ57 .. .đồng thời ban hành các quy chế, chính sách nhằm khuyến khích các hoạt động kinh doanh XNK như: thực hiện chính sách đầu tư , cấp vốn với mức lãi suất ưu đãi , hoàn thiện hệ thống thuế XNK linh hoạt . ..Quy định và khuyến khích các mặt hàng Xuất khẩu bằng các danh mục ..
Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng :
Luật Ngân hàng đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1999 song đến nay vẫn còn thiếu và nhiều điểm còn chưa được nhất thống , như còn thiếu nhiều nghị định , thông tư hướng dẫn thi hành luật ( Nhất là trong các tổ chức tín dụng ), vậy để các hoạt động tín dụng có thể đi vào hoạt động ổn định và có hiệu qủa . Ngân hàng Ngoại thương đã đề nghị chính phủ , Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn luật Ngân hàng . Ngoài ra Ngân hàng Ngoại thương cần đề nghị Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các quy chế thống nhất cho các nghiệp vụ ngân hàng cụ thể như : Các thông tư , thông báo , chỉ thị hướng dẫn cụ thể các Ngân hàng thương mại về hoạt động thanh toán quốc tế , hoạt động tín dụng ..
Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước xây dựng khung pháp lý trong giao dịch- thanh toán quốc tế :
Hoạt động giao dịch và thanh toán quốc tế chủ yếu được diễn ra trong hệ thống các Ngân hàng thương mại , là một hoạt động không chỉ đơn thuần là mối quan hệ mang tính nội bộ trong nước mà còn là mối quan hệ mang tính chất quốc tế , hoạt động giao dịch thanh toán quốc tế là một hoạt động diễn ra thường xuyên và liên tục bởi vì nó chính là một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Với vai trò quan trọng như vậy yêu cầu được đặt ra đối với cơ quan quản lý Nhà nước cụ thể là Ngân hàng Nhà nước cânf phải xây dựng một hệ thống khung pháp lý làm cơ sở cho hoạt động thanh toán quốc tế , và dựa trên cơ sở đó các Ngân hàng thương mại có thể hoạt động một cách chặt chẽ , có quy tắc và đạt được hiệu quả hơn .
Hiện nay, hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt nam trong hoạt động thanh toán quốc tế thường sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đặc biệt là trong hoạt động thanh toán tiền hàng xuất khẩu bơỉ tính phổ dụng và ưu việt của nó. Và khung pháp lý điều chỉnh phương thức thanh toán này chính là các quy tắc được lập ra theo các điều ước quốc tế :(Các quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ UCP-DC 500), và mọi nội hoạt động của phương thức này đều phải tuân thủ và được dẫn chiếu bởi UCP-500 . Trong khi hầu hết các quốc gia đều có luật hoặc các văn bản dưới luật quy định và hướng dẫn về giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ dựa trên cơ sở thông lệ quốc tế (UCP500) mà có tính đến đặc thù của sự phát triển kinh tế , tập quán của họ .Thì chúng ta hiện nay chưa có bất kỳ một văn bản nào quy định., hướng dẫn thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ để các Ngân hàng thương mại làm cơ sở áp dụng vào hoạt động thực tiễn , và chúng ta vẫn chỉ sử dụng UCP500 như một cơ sở pháp lý để điều . Có thể nói rằng các văn bản như vậy là hết sức cần thiết không chỉ đối với các Ngân hàng thương mại mà còn là cơ sở để cơ quan quản lý , trọng tài kinh tế .. áp dụng và giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các bên trong quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ . Các cơ quan pháp luật không thể chỉ dựa vào bản điều lệ UCP-DC500 để xét sử các vụ tranh chấp trong thanh toán TDCT bởi rằng UCP500 chỉ có những hạn chế nhất định mà không có thể bao quát được hết tất cả các trường hợp phát sinh trong thực tiễn -Nó thực tế không thể thay thế nguồn luật củat một quốc gia bởi việc áp dụng nó một cách máy móc,cứng nhắc mà không có sự linh hoạt sẽ dễ dẫn đến những sai lầm nhất định .
Về bản chất ,phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán do Ngân hàng tiến hành thực hiện - nó được hình thành dựa trên hợp đồng ngoại thương giữa người XK và người NK nhưng khi thực hiện lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng đó. Chính vì vậy khi có sự tranh chấp về hợp đồng kinh tế thì nó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán , cũng như khi có sự tranh chấp về thanh toán thì lại ảnh hưởng đến các điều khoản trong hợp đồng. .Chính vì các lý do trên mà các Ngân hàng thương mại và đặc biệt là Ngân hàng Ngoại thương cần có những kiến nghị và đề xuất với cấp quản lý ban hành các quy chế , các văn bản pháp lý cho hoạt động giao dịch-thanh toán quốc tế để từ đó tạo nên được mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham gia trong hoạt động thanh toán quốc tế .
Đối với VCB , trong hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ với vai trò là Ngân hàng thông báo L/C , Ngân hàng thu hộ tiền cho người hưởng lợi trong nước , cần phải có những kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ,đặc biệt Ngân hàng Nhà nước ban hành các quy chế về chiết khấu , tái chiết khấu thương , hối phiếu,.. và các quy chế quy định rõ ràng nghĩa vụ và quyền lợi của Ngân hàng đối với người hưởng lợi để tránh các tranh chấp có thể xảy ra hoặc để làm cơ sở cho việc giải quyết và xét xử khi có tranh chấp xảy ra.
Kiến nghị đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu
Các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu phải có các cán bộ chuyên trách về Xuất nhập khẩu . Các cán bộ naỳ phải có trình độ nghiệp vụ ngóại thương vững chắc ,am hiểu tập quán , luật thương mại quốc tế và đặc biệt là thanh toán trong hoạt động Xuất nhập khẩu để khi ký kết các hợp đồng Xuất nhập luôn luôn đưa ra những điều khoản quy định chặt chẽ nhằm đảo bảo được khả năng hiệu quả của thương vụ mà mình kinh doanh.
Thanh toán Xuất nhập khẩu là một khâu rát quan trọng trong hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu ,chính vì vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ về thanh toán cho các cán bộ để khả năng thanh toán của đơn vị mình luôn luôn có lợi nhất, đặc biệt các cán bộ này phải am hiểu và nắm bắt kỹ lưỡng các phương thức thanh toán Xuất nhập khẩu để lựa chọn một phương thức thanh toán đảm bảo và có hiệu quả . Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán thường được áp dụng nhất trong các hợp đồng ngoaị thương bởi tính ưu việt về khả năng thanh toán của nó, tuy nhiên nó lại là một phương thức thanh toán khá phức tạp vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh Xuất nhập khẩu phải có những cán bộ hiểu biết tường tận về phương thức thanh toán này để khi sử dụng làm sao đạt được hiệu quả nhất.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0075.doc