Một số giải pháp nhằm hoàn thiên hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của Công ty xây dựng cấp thoát nước - WASEENCO

Mục lục Lời nói đầu Trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội: xuất khẩu góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước; nhập khẩu là điều kiện cần thiết để thực hiên tái sản xuất, đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Đồng thời nhập khẩu còn cho phép bổ sung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất khôn

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiên hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của Công ty xây dựng cấp thoát nước - WASEENCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g có hiệu quả, nâng cao mức sống của nhân dân. Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay thì nhu cầu về nhập khẩu máy móc thiết bị để phát triển kinh tế là rất lớn. Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam- Bộ xây dựng, công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO đã sớm khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty không những mang lại lợi nhuận cho bản thân doanh nghiệp mà còn mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế quốc dân. Để khai thác triệt để lợi thế của việc nhập khẩu vật tư thiết bị chuyên ngành nước nhằm góp phần nâng cao hạ tầng cơ sở, cải thiện mức sông cho nhân dân, việc đánh giá hoạt động nhập khẩu trong lĩnh vực này và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa thiết thực. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiên hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước – WASEENCO" làm luận văn tốt nghiệp của mình. Đề tài tập trung làm sáng tỏ vị trí, vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong bối cảnh nền kinh tế mở Việt Nam trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước. Từ đó xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị chuyên ngành nước của công ty trong thời gian tới. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương: ChươngI : Vai trò, nội dung và hình thức nhập khẩu vật tư thiết bị của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Chương II: Phân tích thực trạng nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Hoàng Minh Đường đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các phòng ban chức năng của công ty xây dựng cấp thoát nước đã tận tình giúp đỡ em trong việc thu thập tài liệu để viết chuyên đề này. Chương1: Vai trò, nội dung và hình thức nhập khẩu vật tư thiết bị của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. I.Vai trò của nhập khẩu của doanh nghiệp sản xuất. 1.Vai trò. Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành nên nghiệp vụ ngoại thương. Cùng với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu có tác động trực tiếp đến đời sống và sản xuất, thể hiện sự gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Hoạt động nhập khẩu có tác động tích cực tới sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền kinh tế của mỗi quốc gia về lao động, vốn, phương thức sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khoa học kỹ thuật. Đặc biệt trong tình hình thế giới như hiện nay, các nước không ngừng ký kết và tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do để mở rộng giao lưu buôn bán quốc tế, thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển. Do vậy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn, việc hình thành các trung tâm thương mại, khu vực mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng được hoàn thiện. Khi đó vai trò của hoạt động nhập khẩu ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Cụ thể như sau: Trước hết, nhập khẩu chính là cơ sở để bổ sung hàng hoá mà trong nước chưa thể sản xuất hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu câù. Điều này cho phép một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước được tiêu dùng, cho phép làm thoả mãn cao hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Nhập khẩu tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình trạng độc quyền của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước, phát huy nhân tố mới trong sản xuất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia cạnh tranh trên thương trường khu vực và thế giới. Nhập khẩu góp phần nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, góp phần thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia, xích gần với tiêu chuẩn quốc tế, hội nhập với thị trường trong và ngoài khu vực. Tạo ra sự biến đổi nền kinh tế trong nước, thúc đẩy kinh tế tiến dần đến cân bằng với nền kinh tế toàn cầu, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đưa nền kinh tế quốc gia có điều kiện hội nhập với nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực cũng như toàn thế giới. Cùng với việc mở rộng cung trong nước, nhập khẩu còn có tác dụng kìm giữ giá, ổn định thị trường, hạn chế tình trạng leo thang giá cả bằng cách tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Điều này sẽ buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải quan tâm đến nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Do đó nhập khẩu sẽ sàng lọc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, việc phát huy hết vai trò của nhập khẩu còn phụ thuộc vào đường lối, quan điểm của mỗi quốc gia. Việt Nam trước đây trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập chung quan liêu bao cấp, quan hệ kinh tế quốc tế nói chung chỉ diễn ra trong các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu diễn ra dưới hình thức viện trợ hoặc mua bán theo nghị định, do đó không kích thích được hoạt động thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng phát triển. Sự tham gia quá sâu của chính phủ đã làm mất đi tính linh hoạt, uyển chuyển của hoạt động nhập khẩu, do đó đã không phát huy được vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa chủ thể tham gia vào hoạt động nhập khẩu lúc đó là những doanh nghiệp nhà nước độc quyền, thụ động, cơ cấu tổ chức kồng kềnh kém năng động. Do đó công tác nhập khẩu đã diễn ra một cách chậm chạp và trì trệ, không đáp ứng được nhu cầu trong nước. Đứng trước hoàn cảnh đó, Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mạnh dạn đưa ra những cải cách vĩ đại tạo ra bước ngoặt mới trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Đó là đưa nền kinh tế nước ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là bước tiến quan trọng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới, các hoạt động nhập khẩu cũng đã có những điều kiện để phát huy mạnh mẽ vai trò của nó. Thực tế đã chứng minh một cách rõ ràng sự năng động của nền kinh tế thị trường cũng như khẳng định được vai trò của thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng đối với nền kinh tế nước ta mà sự tăng trưởng trung bình 21% kim ngạch xuất nhập khẩu và 7% GDP hàng năm là một minh chứng. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, hoạt động nhập khẩu sẽ góp phần tiết kiệm được chi phí cho nguyên liệu đầu vào, có nhiều cơ hội hơn trong lựa chọn mặt hàng làm nguyên liệu, có điều kiện sử dụng và tận dụng những khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại của nước ngoài. Trên cơ sở đó thúc đẩy tăng năng suất lao động và đặc biệt là doanh nghiệp có thể tạo ra các mối quan hệ làm ăn lâu dài trên thương trường quốc tế. Hoạt động nhập khẩu có thể giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thông qua các hình thức như buôn bán đối lưu, gia công xuất khẩu… Đặc biệt hoạt động gia công xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao hơn nữa đời sống cán bộ công nhân viên và giúp họ có điều kiện tiếp cận với khoa học tiến bộ. Hoạt động nhập khẩu sẽ tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp sản xuất xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở vât chất vững chắc, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn dân tộc. 2. Khái niệm về nhập khẩu. Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Đó không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế có tổ chức cả bên trong và bên ngoài một quốc gia. Vậy thực chất ở đây nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất – tiêu dùng với nhau. Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả ngoại tệ để nhập khẩu vật tư hàng hoá phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa. Đồng thời đảm bảo cho việc phát triển nhịp nhàng và nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất trong nước. Bên cạnh đó thông qua nhập khẩu bảo đảm phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu. Tạo ra những năng lực mới trong sản xuất, khai thác hết lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và kết hợp hài hoà giữa xuất khẩu và nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của nhập khẩu là thực hiện sự đổi mới trọng điểm về trình độ công nghệ của sản xuất trong nước nhằm nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy hoạt động nhập khẩu phát triển sẽ góp phần tích luỹ nâng cao hiệu quả nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều khâu nghiệp vụ khác nhau, từ nghiên cứu điều tra, tiếp cận thị trường nước ngoài, lựa chọn bạn hàng, giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho tới khi hàng hoá được đưa tới cảng đến và chuyển quyền sở hữu cho ngươì mua, hoàn thành thủ tục thanh toán. Mỗi nghiệp vụ phải đựơc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Cần tranh thủ nắm bắt được lợi thế, đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu đạt kết quả cao, phục vụ đầy đủ và bổ sung kịp thời nhu cầu trong nước. Cơ cấu nhập khẩu là vấn đề có ý nghiã quan trọng, nó phải phù hợp với mục tiêu phát triển chung của mỗi quốc gia, vừa phải bảo vệ lợi ích xã hội, tạo ra lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhập khẩu phải gắn liền với quá trình sản xuất, đổi mới công nghệ đồng thời đưa sản xuất trong nước tiến dần đến tiêu chuẩn quốc tế. II. Nội dung và hình thức nhập khẩu vật tư thiết bị của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 1.Những nội dung chủ yếu của hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Giao dịch mua bán hàng hoá dịch vụ với nước ngoài bao giờ cũng phức tạp, chứa đầy rủi ro so với mua bán trong nước do có sự khác nhau về nhiều mặt giữa hai quốc gia. Do vậy để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp cần thực hiện tốt các bước như sau: a.Nghiên cứu thị trường. *Khái niệm: Nghiên cứu thị trường hiểu theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho các nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để lập kế hoạch Marketing. Công tác nghiên cứu thị trường phải đóng góp phần chủ yếu trong việc thực hiện phương châm hành động: "chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái có sẵn". Công tác nghiên cứu thị trường phải trả lời một số câu hỏi sau đây: +Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm của công ty? +Khả năng số lượng bán ra được bao nhiêu? +Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước những đòi hỏi của thị trường? +Nên chọn phương pháp sản xuất, phân phối nào cho phù hợp? Nghiên cứu thị trường còn bao gồm cả việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào chất lượng tốt nhất, giá cả thấp nhất ứng với chất lượng đó. Việc nghiên cứu các nhà cung cấp cho phép doanh nghiệp có thể tìm ra được nguồn đầu vào phù hợp với yêu cầu của khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp. Hơn nữa nghiên cứu thị trường đầu vào còn cho phép doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận với những nguồn nguyên liệu mới, những công nghệ tiên tiến từ bên ngoài để có thể áp dụng vào trong nước. *Phương pháp nghiên cứu thị trường. Công việc đầu tiên của người làm công tác nghiên cứu thị trường là thu thập những thông tin có liên quan đến thị trường và mặt hàng mà mình quan tâm. Về mặt phương pháp luận, người ta phân biệt hai phương pháp: phương pháp nghiên cứu văn phòng và phương pháp nghiên cứu hiện trường. - Phương pháp nghiên cứu văn phòng (hay phương pháp nghiên cứu tại bàn) bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó. Chìa khóa thành công của nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác các nguồn đó. + Trước tiên, đó là những thông tin từ các tổ chức quốc tế như trung tâm thương mại quốc tế (ICC), Cơ quan thống kê của Liên hợp quốc (UNSO)… + Nguồn tin quan trọng thứ hai là các sách báo thương mại do các tổ chức quốc gia hoăc cá nhân xuất bản như: Niên giám thống kê xuất khẩu của các nước, thời báo tài chính, bản tin Reuter về các mặt hàng… + Nguồn quan trọng thứ ba là từ quan hệ với thương nhân. Số liệu thống kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu thụ, xuất nhập khẩu… nó giúp cho nhà nghiên cứu có cái nhìn bao quát về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cần được bổ sung bằng phương pháp nghiên cứu hiện trường. - Phương pháp nghiên cứu hiện trường: bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên thị trường. Về mặt trình tự, nghiên cứu hiện trường có thể được thực hiện sau khi đã sơ bộ phân tích đánh giá những kết quả nghiên cứu tại bàn. Nghiên cứu tại bàn chủ yếu là thu thập thông tin qua các nguồn đã được công khai xuất bản, còn nghiên cứu hiện trường chủ yếu thu thập thông tin từ trực quan và các quan hệ giao tiếp với thương nhân và người tiêu dùng. Nghiên cứu tại hiện trường là một hoạt động tốn kém, không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị trường đã được đề cập, chọn ra những thị trường có triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành khảo sát. Phương pháp này thường do Trung tâm Thương mại quốc tế, hoặc tư nhân tự tiến hành. b.Lập phương án kinh doanh: Căn cứ vào mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra cùng những thông tin thu thập được từ việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn đối tác, doanh nghiệp có thể đề ra phương án kinh doanh. Nội dung của nó bao gồm nhiều công việc, trong đó có những công việc chủ yếu sau: •Xác định mặt hàng sẽ nhập khẩu. •Số lượng hàng sẽ nhập. •Đề ra các phương pháp để đạt được mục tiêu trên như hỏi giá, quảng cáo… •Đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu thông qua một số chỉ tiêu như: Lợi nhuận nhập khẩu = Tổng doanh thu – Tổng chi phí nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu : là số lượng nội tệ thu về khi phải bỏ ra một đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc nhập khẩu là có hiệu quả, doanh nghiệp nên nhập. Ngược lại thì không nên. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu bằng tỷ giá thì doanh nghiệp có thể nhập hay không là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể như mối quan hệ giữa hai bên hay giải quyết vấn đề lao động, việc làm… c.Giao dịch và ký kết hợp đồng. - Giao dịch, đàm phán trước khi ký kết. Để có thể soạn thảo và đi đến ký kết hợp đồng, trước hết hai bên phải đạt được những thoả thuận chung trong buôn bán. Trong quá trình đàm phán, hai bên sẽ đưa ra những yêu cầu, ý muốn của mình để cùng thảo luận, xem xét, để đi đến thống nhất soạn thảo hợp đồng. Vậy giao dịch đàm phán chính là sự trao đổi lẫn nhau về các điều khoản mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến thống nhất soạn thảo và ký kết hợp đồng. Đàm phán có thể thông qua ba hình thức: đàm phán qua thư tín, qua điện thoại và gặp gỡ trực tiếp. Gặp gỡ trực tiếp là hình thức áp dụng vơí những hợp đồng lớn, cần trao đổi chi tiết. Hình thức này tốn nhiều chi phí nhưng hiệu quả công việc cao. Trong buôn bán quốc tế, có những bước giao dịch chủ yếu như sau: + Hỏi giá: là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện mua hàng. Nội dung hỏi giá có thể bao gồm: tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, thể thức giao nhận… Thông thường giá cả mà người mua có thể trả cho mặt hàng đó thường được giữ kín, nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại, người mua nêu rõ điều kiện mà mình mong muốn để làm cơ sở cho việc định giá như: loại tiền, phương thức thanh toán… Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá. Người hỏi giá thường hỏi nhiều nơi nhằm nhận được nhiều bản chào hàng cạnh tranh nhau để lựa chọn bản chào hàng thích hợp nhất. Tuy nhiên nếu người mua hỏi giá quá nhiều nơi sẽ gây nên cầu ảo trên thị trường và điều này không có lợi cho người mua. + Chào hàng : là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng có nêu rõ: tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán… Trong thương mại quốc tế người ta phân biệt mấy loại chào hàng như sau: •Nếu xét theo mức độ chủ động của người xuất khẩu có: Chào hàng chủ động: là người xuất khẩu chủ động chào hàng khi chưa nhận được thư hỏi hàng của người nhập khẩu. Chào hàng thụ động: là chào hàng của người xuất khẩu mà trước đó đã nhận được thư hỏi hàng của người nhập khẩu. •Nếu căn cứ vào sự ràng buộc trách nhiệm của người chào hàng có: Chào hàng cố định: là việc chào bán một lô hàng nhất định cho người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào lời đề nghị của mình. Nếu trong chào hàng không quy định rõ thì thời hạn mà người chào hàng bị ràng buộc thì thời hạn này được tính theo thời hạn hợp lý (do tính chất hàng hoá, khoảng cách địa lý, tập quán…) Chào hàng tự do: là việc chào bán một lô hàng mà người bán không bị ràng buộc trách nhiệm. Cùng một lúc, với cùng một lô hàng, người ta có thể chào bán cho nhiều khách hàng. Việc người mua chấp nhận hoàn toàn các điều kiện cũng không có nghĩa là hợp đồng được ký kết. Người mua cũng không thể trách cứ người bán nếu sau đó họ không ký kết hợp đồng với mình. Chào hàng tự do được làm rõ bằng cách ghi : "chào hàng không cam kết", "without engatement". +Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng, người mua nêu rõ về hàng hoá mà mình định mua và những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với khách hàng có quan hệ thường xuyên. + Hoàn giá: khi người nhận được chào hàng (hoặc đặt hàng) không chấp nhận hoàn toàn mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá. Khi có hoàn giá thì chào hàng (đặt hàng) trước đó coi như huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc. + Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó một hợp đồng được thiết lập. + Xác nhận : Sau khi bên mua và bên bán đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều kiện đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận, xác nhận thường được lập làm hai bản, bên xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản và gửi trả lại một bản. Việc xác nhận chưa phải là hợp đồng mà chỉ là biên bản thể hiện kết quả của đàm phán. Sau khi đàm phán, nếu hai bên có thiện chí sẽ đi đến ký kết hợp đồng mua bán. - Ký kết hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hay còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu, hay hợp đồng ngoại thương là sự thoả thuận mà theo đó một bên là bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho bên mua một khối lượng hàng hoá nhất định, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả một số tiền theo sự thoả thuận. Theo luật thương mại Việt Nam, hợp đồng thương mại quốc tế phải có đủ các điều kiện sau: 1- Chủ thể hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp nhân. 2- Hàng hoá phải được phép mua bán theo quy định của nước người mua và nước người bán. 3- Hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu sau: tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Ngoài ra, các bên có thể thoả thuận thêm những điều khoản khác trong hợp đồng. Cụ thể một hợp đồng nhập khẩu có thể bao gồm các điều khoản như sau: Điều 1: Các khái niệm chung (đặc biệt cần thiết đối với hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ hay dây chuyền sản xuất ) Điều 2: Tên hàng và số lượng, chất lượng. Điều 3: Giá cả Điều 4: Thanh toán. Điều 5: Giao hàng Điều 6: Kiểm tra hàng hoá Điều 7: Phạt hợp đồng Điều 8: Trọng tài Điều 9: Bất khả kháng Điều 10: Thời gian thực hiện hợp đồng Điều 11: Các điều kiện khác. Đi kèm với hợp đồng có thể là các bản phụ lục tài liệu kỹ thuật, các bản kê chi tiết,… tuỳ thuộc vào từng mặt hàng và yêu cầu của các bên. Trong thương mại quốc tế, hợp đồng được thành lập bằng văn bản, đó là những chứng từ cụ thể và cần thiết về sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán. Mọi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được thể hiện rõ ràng trong hợp đồng sau khi hai bên đã ký kết dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Vì vậy hợp đồng chính là bằng chứng để quy trách nhiệm cho các bên khi có tranh chấp, vi phạm hợp đồng. Đồng thời cũng là cơ sở để các bên theo dõi, thống kê tiến trình thực hiện hợp đồng, theo dõi kiểm tra đôn đốc các bên thực hiện những điều đã cam kết. Vì vậy, hợp đồng cần phải được trình bày rõ ràng, dễ hiểu để tránh sự mặc nhiên suy luận của các bên theo các hướng khác nhau. Phải có chữ ký của người đại diện của các bên. d.Thực hiện hợp đồng: Sau khi hợp đồng được ký kết, các bên cần phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là công việc phức tạp, đòi hỏi tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế. Đồng thời cũng phải xem xét đến quyền lợi quốc gia và uy tín của doanh nghiệp. Để thực hiện hợp đồng nhập khẩu, thông thường các doanh nghiệp tiến hành những bước như sau: Ký kết hợp đồng Xin giấy phép NK Mở L/C Thuê tàu Mua bảo hiểm Làm thủ tục hải quan Làm thủ tục thanh toán Khiếu nại về hàng hoá Đôn đốc bên bán giao hàng Trình tự trên đây chỉ mang tính tương đối và thường áp dụng đối với hợp đồng nhập khẩu theo giá FOB và thanh toán bằng L/C. Có những việc phải làm có việc không. Tuỳ thuộc vào từng hợp đồng cụ thể mà các bên đã ký kết. + Xin giấy phép nhập khẩu : Trước đây các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi lần nhập hàng phải xin giấy phép từng chuyến của bộ thương mại. Nay theo nghị định 57 của chính phủ ban hành ngày 31/07/1998 thì mọi thương nhân Việt Nam được xuất nhập khẩu hàng hoá kể cả uỷ thác ra nước ngoài theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không phải xin giấy phép của Bộ thương mại trừ những hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện. Cùng với việc dăng ký kinh doanh thì các doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu với tổng cục hải quan hoặc các chi cục Hải quan các tỉnh, thành phố. + Mở L/C: Trong thương mại quốc tế có nhiều phương thức thanh toán trong đó thanh toán bằng L/C là một phương thức đảm bảo hợp lý, thuận tiện an toàn, hạn chế rủi ro cho cả bên mua và bên bán. Nếu trong hợp đồng nhập khẩu có quy định thanh toán bằng L/C thì doanh nghiệp phải làm đơn xin mở L/C theo mẫu có sẵn của ngân hàng. Người mở L/C sẽ phải trả thủ tục phí và một khoản tiền ký quỹ. Khoản tiền ký quỹ này có thể dao động từ 10- 100% giá trị của L/C tuỳ thuộc vào mối quan hệ, uy tín của doanh nghiệp với ngân hàng. Cơ sở pháp lý và nội dung để làm đơn xin mở L/C là hợp đồng. Căn cứ vào yêu cầu của đơn vị xin mở L/C, ngân hàng sẽ lập một thư tín dụng và thông báo cho người xuất khẩu qua ngân hàng đại lý của mình. + Đôn đốc phía bán giao hàng : Sau khi mở L/C. Bên nhập khẩu cần đôn đốc bên bán giao hàng theo theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn, bao bì… để đảm bảo kịp tiến độ, không bỏ lỡ cơ hội. + Thuê tàu lưu cước: Người nhập khẩu có nghĩa vụ phải thuê tàu lưu cước trong trường hợp nhập FOB. Tuỳ theo điều kiện của hàng hoá mà có thể thuê tàu chuyến hay đăng ký chỗ của một tàu chợ ( lưu cước) để chở hàng. Khi tiến hành thuê tàu chúng ta cần phải chú ý: - Những điều khoản của hợp đồng. - Đặc điểm của hàng hoá mua bán. - Điều kiện vận tải. Hiện nay, điều kiện về hàng hải ở nước ta còn rất hạn chế, đội tàu chưa phát triển, cảng biển nhỏ lại chưa có nhiều kinh nghiệm thuê tàu… nên chúng ta thường nhập theo điều kiện CIF, tức là nhường quyền thuê tàu cho phía xuất khẩu. + Mua bảo hiểm: Trong mua bán hàng hoá quốc tế, hàng hoá chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển. Với đặc điểm hành trình dài nên rất dễ xảy ra rủi ro mất mát. Vì vậy việc mua bảo hiểm cho hàng hoá là rất cần thiết. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất cuả hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến hay baỏ hiểm bao cho phù hợp. Để đăng ký hợp đồng bảo hiểm cần nắm rõ các điều kiện bảo hiểm như bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm tổn thất riêng( điều kiện B), hay bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C). Ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động… + Làm thủ tục hải quan: Thủ tục hải quan là một công cụ quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước, để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra giấy tờ có sai sót giả mạo hay không, để thống kê số liệu về xuất nhập khẩu… Vì vậy, hàng nhập khẩu qua biên giới quốc gia phải làm thủ tục hải quan. Việc này được tiến hành như sau: •Khai báo hải quan: chủ hàng có trách nhiệm kê khai chi tiết về hàng hóa lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục, giấy tờ. Việc kê khai phải trung thực chính xác. Nộp và xuất trình bộ hồ sơ hải quan. Theo Nghị định số 16/1999/NĐ- CP ban hành ngày 27/03/1999. Đối với hàng nhập khẩu bộ hồ sơ gồm có: Tờ khai hải quan Hợp đồng thương mại. Bảng kê chi tiết (đối với hàng không đồng nhất). Hoá đơn thương mại. Vận đơn. Các giấy tờ khác ( đối với hàng nhập khẩu có điều kiện hoặc có quy định riêng). •Xuất trình hàng hoá: Theo điều 7- Nghị định số 16/1999/NĐ- CP thì người làm thủ tục hải quan phải: . Xuất trình đầy đủ hàng hóa để cơ quan hải quan kiểm tra theo thời gian và địa điểm quy định. . Bố trí phương tiện và công nhân phục vụ việc kiểm tra hàng của cơ quan hải quan. . Có mặt trong thời điểm kiểm tra hàng hoá. •Thực hiện các quy định của hải quan: sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra quyết định như: cho hàng hoá qua biên giới, cho hàng qua biên giới có điều kiện (như sửa chữa các khuyết tật, gia cố bao bì…); không được phép nhập khẩu hay cho phép nhập khẩu sau khi đã nộp thuế… Trách nhiệm của chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định trên. Nếu vi phạm các quyết định trên thì sẽ bị buộc vào tội hình sự. + Giao nhận hàng hoá: Theo quy định của nhà nước (NĐ 200/CP ngày 31/12/1973): Các cơ quan vận tải (ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của doanh nghiệp đã nhập hàng đó. Do vậy, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận. Trong trường hợp hàng hoá nhận về với số lượng lớn sau đó lại giao cho nhiều đầu mối khác nhau thì chủ hàng nên cùng với cơ quan vận tải tiến hành giao nhận hàng vì như vậy sẽ đảm bảo an toàn cho hàng hoá và xử lý kịp thời những bất cập phát sinh. + Làm thủ tục thanh toán: Thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế. Hiện nay chúng ta chủ yếu sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán hàng nhập khẩu. Để tiến hành thanh toán, bên nhập khẩu phải mở một L/C. Thông thường việc mở L/C được tiến hành trước thời hạn giao hàng 20- 25 ngày (nếu là nhập khẩu từ châu Âu) hoặc 15- 20 ngày (nếu nhập khẩu từ châu á). Trình tự thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ như sau: Ngân hàng mở L/C Ngân hàng thông báo L/C Người nhập khẩu Người xuất khẩu (4) (1) (6) (5) (2) (3) (5) (6) (7) (8) (1): Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. (2): Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và thông báo cho người xuất khẩu biết qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu. (3): Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng này thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. (4): Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì đề nghị người nhập khẩu sửa đổi nội dung cho phù hợp với hợp đồng. (5): Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo nội dung của thư tín dụng, xuất trình qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh toán. (6): Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ hồ sơ cho người xuất khẩu. (7): Ngân hàng mở L/C đòi tiền từ người nhập khẩu và giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu. (8): Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối thanh toán. + Khiếu nại về hàng hoá : Sau khi nhận hàng nếu thấy hàng hoá có vấn đề gì cần khiếu nại thì người nhập khẩu phải viết ngay đơn khiếu nại cùng với các bằng chứng kèm theo. Đơn khiếu nại cần được làm ngay, nếu chậm trễ có thể bị quá thời hạn khiếu nại. Nếu việc khiếu nại không giải quyết được thì các bên có thể đưa đơn kiện ra t._.rọng tài hoặc toà án kiện tuỳ từng trường hợp cụ thể. e. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu : Sau khi kết thúc một hợp đồng nhập khẩu, để biết kết quả cụ thể của thương vụ, nhà nhập khẩu phải tiến hành đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện hợp đồng. Có thể dùng các chỉ tiêu như chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi nhập khẩu … ngoài ra doanh nghiệp còn phải đánh giá về bạn hàng, thị trường… Việc đánh giá này sẽ là bài học quý giá giúp doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng sau được tốt hơn. 2. Các hình thức nhập khẩu vật tư thiết bị của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Là một nước đi sau, lại đang trong quá trình đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng. Cùng với sự tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế và sự năng động sáng tạo của nhiều ngươì trực tiếp kinh doanh đã tạo nên nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. a)Nhập khẩu uỷ thác: Là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không được phép nhập khẩu hay không có khả năng thực hiện nhập khẩu một cách độc lập. Khi đó doanh nghiệp này có thể uỷ thác cho doanh nghiệp khác được phép và có khả năng trực tiếp giao dịch và tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhập khẩu uỷ thác đàm phán với bên nước ngoài để làm thủ tục nhập hàng theo yêu cầu của bên uỷ thác và nhận thù lao gọi là phí uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác có những đặc điểm như sau: - Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu (bên nhận uỷ thác) sẽ không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác để tìm, giao dịch với bạn hàng nước ngoài để nhập khẩu theo như yêu cầu của bên uỷ thác. - Các doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu sẽ phải ký hợp đồng với không chỉ người uỷ thác mà cả với người xuất khẩu. b) Nhập khẩu trực tiếp Là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh nghiệp. Hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. Nhập khẩu trực tiếp có đặc điểm: - Doanh nghiệp được hưởng toàn bộ lợi nhuận thu được và phải chịu mọi rủi ro xảy ra đối với hàng hoá. - Doanh nghiệp cần có đội ngũ chuyên viên có đủ trình độ, kinh nghiệm để có thể thực hiện hoạt động nhập khẩu một cách có hiệu quả. c)Nhập khẩu liên doanh: Là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở liên doanh liên kết một cách tự nguyện (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm phối hợp cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy các hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho tất cả các bên tham gia. Các bên tham gia cùng chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro. Nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau: - Các bên tham gia sẽ phải chịu rủi ro ít hơn, bởi mỗi bên tham gia nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên theo phần vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu, lãi lỗ dựa trên phần vốn góp của mỗi bên. - Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải lập hợp đồng mua bán với bên nước ngoài và hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác. Việc liên doanh trong hoạt động nhập khẩu sẽ tập trung vốn và nguồn nhân lực, kinh nghiệm của nhiều doanh nghiệp khác nhau. Như vậy có thể hạn chế rủi ro, giảm chi phí trong qua trình nhập khẩu. Đồng thời cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể mở rộng quan hệ với bạn hàng và mở rộng quan hệ thị trường cả đầu vào và đầu ra. d) Nhập khẩu hàng đổi hàng: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, doanh nghiệp là người mua cũng đồng thời là người bán, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. ở đây mục đích của nhập khẩu không phải là mua về được một lượng hàng hoá mà còn xuất khẩu được một lượng hàng hoá, mang lại hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Hình thức hàng đổi hàng có đặc điểm như sau: + Mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên có liên quan bởi cùng một hợp đồng mà có thể thu lãi từ hai hoạt động xuất và nhập khẩu. + Doanh nghiệp nhập khẩu được tính cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu vào doanh thu. e) Nhập khẩu tái xuất. Tái xuất là xuất khẩu ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Nhập khẩu tái xuất có đặc điểm là: + Doanh nghiệp xuất nhập khẩu tái xuất phải tính toán dược chi phí ghép nối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo sao cho thu được số tiền lớn hơn chi phí bỏ ra. + Doanh nghiệp tái xuất thường ký hợp đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu. Hai hợp đồng phải hết sức chặt chẽ. + Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tái xuất dùng phương thức tín dụng chứng từ giáp lưng (back to back L/C). Hàng hoá có thể được chuyển thẳng từ nước người xuất sang nước người nhập nhưng khi thanh toán vẫn phải thông qua người tái xuất. Trong nhiều trường hợp, người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do thu được nhanh và trả chậm. Kinh doanh tái xuất rất phức tạp, đòi hỏi người kinh doanh phải nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán. Kinh doanh tái xuất cũng đòi hỏi người kinh doanh phải giàu kinh nghiệm và có khả năng đàm phán. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 1.Nhóm nhân tố bên trong của doanh nghiệp. a) Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính: Trong kinh doanh, nếu doanh nghiệp không có vốn thì không thể làm được gì ngay cả khi đã có cơ hội kinh doanh. Có vốn và trường vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động của mình một cách chủ động, tận dụng triệt để các cơ hội có thể thu lợi nhuận. Sự trường vốn sẽ cho phép doanh nghiệp có khả năng nắm bắt thông tin nhanh, chính xác do có điều kiện sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại. Ngoài ra còn cho phép doanh nghiệp thực hiện tốt các công việc Marketing trên thị trường về giá cả, nhu cầu, phương thức nhập khẩu và bán hàng trên thị trường nội địa, tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu. b) Nhân tố con người: Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong công ty là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong kinh doanh. Xét về tiềm lực doanh nghiệp thì con người là vốn quý nhất. Thật vậy, nếu có những người năng động, nhiệt tình khéo léo, trình độ chuyên môn cao thì chắc chắn hoạt động nhập khẩu của công ty sẽ diễn ra một cách suôn sẻ, có thể tránh được những rủi ro đáng tiếc. Đặc điểm của kinh doanh nhập khẩu là thường xuyên phải đàm phán giao dịch với người nước ngoài, do vậy ngoài nghiệp vụ kinh doanh đơn thuần các cán bộ cần phải có hiểu biết về phong tục tập quán cũng như ngôn ngữ của các nước. Ngoại ngữ kém sẽ gây khó khăn không nhỏ cho quá trình hoạt động và ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. c) Những lợi thế bên trong khác của doanh nghiệp Kinh doanh trong thế giới hiện đại thì uy tín của doanh nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng. Có uy tín với người xuất khẩu thì sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong những lần mua hàng sau. Nếu có được chức năng nhập khẩu và có được uy tín với các đơn vị nhập khẩu khác thì doanh nghiệp sẽ ngày càng nhận được nhiều hợp đồng uỷ thác. Ngoài ra, kinh nghiệm của mỗi doanh nghiệp sẽ cho phép họ có thể nhập khẩu được những hàng hoá có chất lượng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Khi có kinh nghiệm, doanh nghiệp cũng có thể dự đoán được nhu cầu của thị trường, đánh giá được giá trị của các sản phẩm mới ra và do vậy sẽ không sợ nhập phải những hàng hoá kém phẩm chất hay lỗi thời. Yếu tố bên trong của doanh nghiệp bao gồm cả yếu tố hữu hình và vô hình, sẽ là động lực từ bên trong giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. 2. Nhóm yếu tố bên ngoài. a) Chính sách vĩ mô của Nhà nước. Chính sách của chính phủ có tác động không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu. Chính sách tài chính tín dụng ưu đãi cho các nhà nhập khẩu sẽ tạo điều kiện cho họ mạnh dạn hơn trong đầu tư, nắm bắt được cơ hội kinh doanh và thu được lợi nhuận. Chính sách "bế quan toả cảng" trong nền kinh tế đóng như trước đây đã kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp nhập khẩu cả về chủng loại hàng hoá lẫn thị trường nhập khẩu không tạọ ra động lực cho nền sản xuất trong nước. Chính sách bảo hộ nền kinh tế trong nước, khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu cũng đã làm giảm đáng kể kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp nhập khẩu và bán hàng ở thị trường nội địa. Nhưng chính sách này đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, tạo công ăn việc làm cho người lao động, khuyến khích các nhà sản xuất trong nước phát huy thế mạnh của mình. •Thuế nhập khẩu: Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo phần trăm tổng giá trị hàng hoá hoặc kết hợp cả hai cách trên. Theo đó những nhà nhập khẩu sẽ phải trả ra một khoản lớn hơn lượng mà nhà xuất khẩu nhận được. Mối quan hệ giữa lượng hàng nhập khẩu và thuế suất là tỷ lệ nghịch: tỷ lệ thuế càng cao thì lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm và ngược lại. Chính vì vậy thuế nhập khẩu có tác dụng bảo vệ các ngành sản xuất còn non trẻ trong nước, tránh sự xâm nhập ồ ạt của hàng hoá các nước khác. Đồng thời thông qua việc đánh thuế với mức thuế suất khác nhau đối với từng loại hàng, từng thị trường sẽ có tác dụng hướng dẫn người tiêu dùng. Ngoài ra thuế nhập khẩu còn đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên nếu đặt mức thuế quá cao sẽ làm giảm nhu cầu tiêu dùng, do vậy gây khó khăn cho đời sống nhân dân và hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp sẽ bị hạn chế. •Hạn ngạch nhập khẩu : là quy định chung của nhà nước nhằm hạn chế nhập khẩu hoặc xuất khẩu số lượng hoặc giá trị của một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Mục tiêu của việc áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch là để đảm bảo cho các cam kết của chính phủ ta với nước ngoài. Hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến tình trạng hạn chế số lượng nhập khẩu, đồng thời gây ảnh hưởng đến giá cả nội địa của hàng hoá. Hạn ngạch nhập khẩu có tác dụng tương đối giống thuế nhập khẩu: làm giá hàng nhập khẩu trong nước tăng lên. Nhưng hạn ngạch cho phép cả chính phủ và doanh nghiệp trong nước biết trước được lượng hàng nhập khẩu. •Tỷ giá hối đoái: là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác (hay hệ số chuyển đổi của đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác). Ví dụ: 1USD=15000 VNĐ có nghĩa là muốn có 1USD thì cần phải có 1500VNĐ. Qua tỷ giá hối đoái có thể tính đổi hàng nhập khẩu của hàng hoá nước này bằng tiền tệ nước khác. Vì vậy, tỷ giá thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của giá hàng nhập khẩu. Thật vậy, khi tỷ giá hối đoái tăng tức là số lượng tiền nội địa đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng sẽ tác động kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá giảm thì giá nhập khẩu của hàng hoá sẽ trở nên rẻ tương đối ở thị trường trong nước. Chính vì tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất nhập khẩu là tác động trực tiếp và rất mạnh mẽ cho nên việc lựa chọn, áp dụng một mức tỷ giá hợp lý là rất cần thiết cho việc duy trì một nền kinh tế ổn định, đồng thời từng bước tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu. •Giấy phép nhập khẩu: Đối với một số loại hàng hoá nhập khẩu có điều kiện, chính phủ yêu cầu các đơn vị tiến hành nhập khẩu loại hàng hoá này phải có được giấy phép của Bộ thương mại hoặc bộ quản lý chuyên ngành. Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các công ty kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu. Thực tế đã có không ít trường hợp do không nắm được chủ trương, quy định của chính phủ mà khi nhập hàng hoá về nước thì đã bị xếp vào hàng cấm hay hạn chế, gây nên những tổn thất đáng tiếc. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu các quy định của chính phủ về việc cấp phép hay hạn chế hàng hoá xuất nhập khẩu là rất cần thiết. •Quỹ quản lý ngoại hối: Đối với những nước thiếu ngoại tệ như nước ta, chính phủ đã áp dụng biện pháp kiểm soát một số loại sản phẩm thông qua việc phân phối ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá. Người nhập khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài, nhưng phải xin được quyền sử dụng ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu của mình. Chính vì vậy chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ đã có tác động trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. Tóm lại, mỗi quốc gia có những đặc trưng riêng trong lĩnh vực quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu. Một số nước sử dụng công cụ thuế, những nước khác lại sử dụng hạn ngạch, tỷ giá… tất cả đều nhằm mục đích quản lý hàng xuất nhập khẩu theo hướng có lợi nhất, đảm bảo nâng cao đời sống nhân dân. Do vậy việc nắm bắt và hiểu được các chính sách của nhà nước là cần thiết đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. b) ảnh hưởng của yếu tố công nghệ. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, ngày càng có nhiều những nguồn nguyên vật liệu mới được phát minh, máy móc ngày càng hiện đại. Thực hiện chủ trương đi tắt đón đầu trong khoa học kỹ thuật, rút ngắn dần khoảng cách công nghệ với các nước phát triển, mỗi doanh nghiệp sản xuất kinhdoanh phải không ngừng nâng cao hiểu biết, nhận thức được những công nghệ mới. Tuy nhiên trong điều kiện của nước ta hiện nay trang thiết bị mới không hẳn là tốt mà cần phải cân nhắc đối với vấn đề giải quyết công ăn việc làm và chi phí. Chính vì vậy sẽ không thể nhập khẩu máy móc biết bị cũ kỹ lạc hậu cũng như không thể nhập khẩu những thiết bị quá tiên tiến mà phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng. c) ảnh hưởng của hệ thống cơ sở hạ tầng. Hoạt động nhập khẩu thường diễn ra giữa các nước cách xa về địa lý. Chính vì vậy, yếu tố hạ tầng cơ sở phục vụ cho hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế có ảnh hưởng rất lớn. •Hệ thống giao thông, đặc biệt là hệ thống cảng biển, mức độ trang bị, độ sâu của các cảng sẽ ảnh hưởng đến khối lượng chuyên chở của từng chuyến tàu. Tốc độ của các phương tiện vận chuyển sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng… hệ thống cảng biển được trang bị hiện đại, cho phép giảm thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hoá mua bán. •Hệ thống ngân hàng: sự phát triển của hệ thống ngân hàng đặc biệt là hoạt động ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh nhập khẩu thuận lợi hơn trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho các nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. •Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng cho phép các hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện một cách an toàn hơn đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại có thể xảy ra đối với các nhà kinh doanh trong trường hợp có rủi ro xảy ra… d.Yếu tố thị trường trong và ngoài nước. Tình hình và sự biến động của thị trường trong và ngoài nước như: sự thay đổi của giá cả, thị hiếu, khả năng cung cấp… tất cả các yếu tố đó đều ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng lựa chọn thị trường, thời gian thực hiện và hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Tóm lại, hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, các yếu tố này luôn biến động, ở mỗi trạng thái hay xu hướng vận động khác nhau của từng yếu tố cũng như toàn bộ hệ thống các yếu tố sẽ tác động trực tiếp, gián tiếp có lợi hay bất lợi khác nhau đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Do vậy ở mỗi trạng thái này của các yếu tố trên sẽ chứa đựng trong nó những cơ hội, hay thách thức khác nhau mà các nhà kinh doanh phải đương đầu trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Chính vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu có hiệu quả đòi hỏi các nhà kinh doanh phải phân tích kỹ các trạng thái, xu hướng biến động của các yếu tố, mức độ chiều hướng tác động của chúng đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế trong khi đề ra các chiến lược, kế hoạch cũng như tổ chức thực hiện các thương vụ mua bán hàng hoá quốc tế. Chương 2: Phân tích thực trạng nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước. I- Khái quát về Công ty Xây dựng Cấp thoát nước và tình hình sản xuất kinh doanh của công ty . 1.Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Xây dựng Cấp thoát nước (WASEENCO) là doanh nghiệp Nhà nước- hạng 1. Công ty được thành lập theo Quyết định số 501/BXD – TC ngày 28-10-1975 và quyết định thành lập lại số 156A/BXD – TCLĐ ngày 5-5-1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Từ cuối năm 1996, Công ty Xây xựng Cấp thoát nước là đơn vị thành viên của Tổng công ty XNK xây dựng Việt nam (VINACONEX) theo quyết định số 978/BXD-TCLĐ ngày 11-11-1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Trụ sở chính : 52 Quốc Tử Giám-Đống Đa-Hà Nội Tel : (84.4) 8252882-8255748-8231172. Fax (84.4) 8431346. Tên tiếng Anh:Water Supply & Sewerage Construction Company. Tên viết tắt: WASEENCO . Email : Waseenco@fpt.vn Website : Công ty có các xí nghiệp và chi nhánh trực thuộc đặt trụ sở tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, và thành phố Hải Phòng. Cụ thể như sau: Xí nghiệp xây lắp cấp thoát nước số 101- 56 Hạ Đình –Thanh xuân-Hà nội. Xí nghiệp xây lắp cấp thoát nước số 102 –58 Hạ Đình-Thanh xuân- Hà nội Xí nghiệp xây dựng cấp thoát nước số 104- Liên Ninh – Thanh trì - Hà nội. Xí nghiệp khoan khai thác nước ngầm- Liên ninh- Thanh trì - Hà nội. Chi nhánh tại Hải phòng: 2B- Bạch đằng – Quận Hồng Bàng, TP Hải Phòng. Chi nhánh tại TP Đà nẵng: 35B - Điện biên phủ- TP Đà nẵng. Chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh: 55 - Đường Cộng hoà- Quận Tân Bình. Các đội công trình trực thuộc công ty. Với gần 30 năm hình thành và phát triển, Công ty Xây dựng Cấp thoát nước đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cho các ngành, các địa phương của nền kinh tế quốc dân trên khắp mọi miền Tổ quốc. Đến nay, với bề dày kinh nghiệm sẵn có cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên kỹ thuật được đào tạo toàn diện về nghiệp vụ chuyên môn, công ty Xây dựng Cấp thoát nước đã có đủ khả năng thi công được nhiều loại công trình cấp thoát nước và công trình công nghiệp, dân dụng có quy mô lớn, hiện đại cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt là các dự án về cấp thoát nước cho các thành phố lớn, các đô thị và khu công nghiệp. Năm 2001, công ty đã đạt được doanh thu 215 tỷ đồng, đóng góp nghĩa vụ cho nhà nước16,144 tỷ đồng, đảm bảo việc làm thường xuyên cho 1905 cán bộ công nhân viên với mức thu nhập bình quân 1.170.000 đồng/người/tháng và trở thành một trong số các doanh nghiệp thành đạt nhất Việt Nam. Công ty hết sức quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, đội ngũ công nhân có tay nghề cao với kỹ thuật chuyên sâu. Đến nay, công ty đã có những cán bộ công nhân có trình độ giỏi để thi công xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, các công trình chuyên ngành nước, các công trình kỹ thuật hạ tầng cơ sở… Đội ngũ cán bộ công nhân này đã và đang thi công các công trình lớn như: khu công nghiệp Hiệp Hoà- Phú Yên, dự án cấp nước mở rộng thành phố Hải Dương, dự án cấp nước tỉnh Yên Bái, dự án cấp nước khu công nghiệp Dung Quất… và nhiều công trình khác ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh. Nhằm mục đích không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh, trong những năm vừa qua WASEENCO đã tăng cường mối quan hệ hợp tác với các đối tác nước ngoài trong công tác đấu thầu và ký kết các gói thầu thuộc nguồn vốn ADB, ODA, OECF (hay JBIC ). Công ty WASEENCO đã liên doanh với nhà thầu VATECHWABAG thực hiện gói thầu SP5B (thiết kế xây dựng theo phương thức chìa khoá trao tay) nhà máy nước Thái Nguyên, Thanh Hoá. Ngoài ra, công ty cũng đã có sự hợp tác với HAZAMA, SAUR… Thông qua các hoạt động liên doanh liên kết, công ty đã dần hoà nhập vào các thị trường xây dựng và xuất nhập khẩu quốc tế, đào tạo được đội ngũ kỹ sư và cán bộ thông thạo nghiệp vụ, có trình độ ngoại ngữ, có kinh nghiệp quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh theo các quy trình công nghệ tiên tiến. Đặc biệt, công ty đã hoàn thiện và áp dụngcó hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Công tác an toàn vệ sinh lao động trên các công trường thi công cũng được thường xuyên quan tâm giám sát, kiểm tra. Về lĩnh vực thi công xây lắp, công ty đã triển khai thi công các công trình trên địa bàn 45 tỉnh, thành phố trong cả nước. đối với các công trình trọng điểm và các công trình có giá trị sản lượng lớn, công ty đặc biệt quan tâm chỉ đạo như : thành lập ban chỉ huy công trường, điều động kịp thời nhân lực, vật tư thiết bị, đáp ứng nhu cầu vốn… với ưu tiên cao nhất nhằm nhằm bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình. Trong lĩnh vực đầu tư: công ty đã thực hiện đầu tư các trang thiết bị như: các loại máy đầm bê tông, máy trộn bê tông, máy đào bánh xích… và nhiều dụng cụ cầm tay khác. Không ngừng tăng cường phục vụ cho công tác quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, công ty đã đầu tư nhiều máy móc thiết bị như máy vi tính, máy photocopy… Kể từ năm 1995, công ty được Bộ Xây dựng cho phép thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị chuyên ngành. Trong công tác này, công ty đã triển khai thực hiện đạt kết quả cao, tạo được uy tín với các chủ đầu tư và các địa phương. Đồng thời hoạt động này cũng đã đóng góp một phần đáng kể vào sự thịnh vượng chung của công ty. Sự tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh của Công ty Xây dựng Cấp thoát nước được bảo đảm bởi sự tín nhiệm của khách hàng về chất lượng, tiến độ và giá thành các công trình. 2. Chức năng , nhiệm vụ của công ty Việt nam đang trên con đường CNH-HĐH đất nước, việc phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và hệ thống cấp thoát nước nói riêng là việc làm cần thiết. Việc xây dựng hệ thống cấp thoát nước không chỉ góp phần cải thiện đời sống dân sinh mà còn có tác dụng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Theo quyết định của Bộ xây dựng, công ty có chức năng nhiệm vụ sau: -Xây dựng và lắp đặt nhà máy cấp nước, xử lý nước thải, hệ thống đường ống cấp và thoát nước với mọi quy mô. -Lắp đặt các trạm bơm, trạm khí nén, đường ống công nghiệp. - Xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, nhà ở và trang trí nội, ngoại thất; lắp đặt thiết bị vệ sinh cao cấp, thông gió trong và ngoài nhà. -Sản xuất vật liệu xây dựng, thiết bị phụ tùng, phụ kiện chuyên nghành cấp thoát nước. -Xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư, thiết bị chuyên ngành cấp thoát nước. -Khảo sát, thiết kế công trình cấp thoát nước, khoan khảo sát và khoan khai thác nước ngầm. -Xây lắp đường dây và trạm biến áp điện đến 35KV -Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, thi công các loại móng công trình. -Tham gia nghiên cứu khoa học kỹ thuật, định mức đơn giá chuyên ngành cấp thoát nước. -Xây dựng công trình thuỷ lợi (đê, đập, kênh, mương, trạm bơm, giếng giải áp) -Kinh doanh nhà ở -Kinh doanh nước sạch phục vụ khu dân cư, khu công nghiệp. -Đào tạo và bồi dưỡng công nhân lắp ráp vận hành các nhà máy nước. Trong quá trình hoạt động, công ty được quyền tự chủ trong kinh doanh đồng thời cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với Nhà nước theo luật và các chính sách đã ban hành. Từ ngày thành lập , công ty đã không ngừng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Từ chức năng chủ yếu ban đầu là xây dựng các công trình cấp nước, tiếp theo thực hiện các công trình thoát nước. Hiện nay phạm vi hoạt động của công ty đã rộng hơn rất nhiều. Trong đó phải kể đến chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư thiết bị, phụ tùng chuyên ngành cấp thoát nước. Đây là chức năng mới nhưng đã nhanh chóng khẳng định là một phần quan trọng trong hoạt động của công ty, giúp công ty phát triển mạnh mẽ, vững chắc, tạo được niềm tin ở đối tác trong và ngoài nước. 3. Hệ thống tổ chức của công ty a. Sơ đồ hệ thống tổ chức của công ty Kể từ khi thành lập, công ty đã có nhiều thay đổi trong cơ cấu tổ chức theo xu hướng tinh giảm biên chế, sắp xếp bố trí nhân sự một cách khoa học sao cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh và có hiệu quả. Hiện nay hệ thống tổ chức công ty được thành lập theo kiểu phân cấp như sau: sơ đồ tổ chức Công ty xây dựng cấp thoát nước: Giám đốc công ty P.Giám đốc P.Giám đốc P.Giám đốc Kế toán trưởng P.Kinh tế Kế hoạch Phòng đầu tư và quản lý dự án P.Tổ chức-Lao động P.Kế toán-Tài chính Văn phòng Công ty Phòng kỹ thuật- thi công B.Thanh tra BVQS XN xây lắp CTN số 101 XN xây dựng CTN số 104 XN xây lắp CTN số102 XN khoan khai thác nước ngầm Chi nhánh tại Hải phòng Chi nhánh tại Đà nẵng Chi nhánh tại Tp.Hồ Chí Minh Các đội sx trực thuộc công ty Phòng quan hệ quốc tế P.Kinh doanh vật tư và thiết bị chuyên ngành cấp thoát nước b. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận. - Đứng đầu là Giám đốc công ty, có nhiệm vụ xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển công ty bao gồm kế hoạch dài hạn, ngắn hạn và hàng năm. Đồng thời tổ chức thực hiện kế hoạch, chiến lược đó. Điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm về kết quả này. - Các phó giám đốc: có chức năng giúp Giám đốc điều hành các lĩnh vực hoạt động theo sự phân công của Giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Giám đốc phân công thực hiện. - Kế toán trưởng: Có nhiệm vụ giúp Giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê trong công ty . - Phòng kinh tế – kế hoạch: Đứng đầu là trưởng phòng có trình độ kỹ sư cấp thoát nước. Các nhân viên còn lại trong phòng đều có trình độ đại học. Có nhiệm vụ giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch chiến lược tổng thể cho từng giai đoạn và kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về thi công các công trình trúng thầu, lập kế hoạch về giá thành, giám sát kỹ thuật thi công của đơn vị thành viên… - Phòng kỹ thuật thi công: Có nhiệm vụ thi công và giám sát thi công các công trình trúng thầu theo sự phân công của giám đốc. Chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về chất lượng công trình cũng như tiến độ thi công. - Phòng quan hệ quốc tế: có nhiệm vụ biên soạn, lập kế hoạch các dự án hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực cấp thoát nước. Tổ chức hội thảo, nghiên cứu đề tài giúp giám đốc xúc tiến quan hệ và ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài. - Ban thanh tra bảo vệ quân sự: Có nhiệm vụ bảo quản, giữ gìn tài sản chung của công ty cũng như tài sản riêng của mỗi cá nhân. Báo cáo giám đốc về các hiện tượng tiêu cực trong công ty nếu có. Giám sát hoạt động của các phòng ban chức năng. - Văn phòng công ty : có nhiệm vụ thực hiện việc mua sắm, cung cấp trang thiết bị văn phòng như máy in, bàn ghế… đảm bảo tạo điều kiện cho công nhân viên trong công ty có thể làm việc tốt. Định kỳ báo cáo giám đốc về tình hình trang thiết bị trong công ty. - Phòng kinh doanh vật tư thiệt bị chuyên ngành cấp thoát nước: Có nhiệm vụ tham gia lập dự án kinh doanh hàng hoá trong và ngoài nước. Tổng hợp kế hoạch cho hoạt động nhập khẩu của công ty, tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế về cung cấp, thu mua hàng hoá phục vụ cho nhu cầu sản xuất thi công của công ty và cung cấp cho các nghành kinh tế khác. - Phòng đầu tư và quản lý dự án: Có nhiệm vụ lập dự án cho văn phòng công ty và các chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc. Tham gia đấu thầu và quản lý các dự án trong và ngoài nước. Tiến hành lập kế hoạch đầu tư cho việc thi công các dự án. - Phòng tổ chức lao động: Chịu trách nhiệm lập kế hoạch xây dựng bộ máy nhân sự của các xí nghiệp, các phòng ban công ty sao cho gọn nhẹ và hiệu quả. Nghiên cứu các chế độ tiền lương, bảo hộ lao động, BHXH, BHYT cho cán bộ công nhân viên trong công ty . - Phòng kế toán tài chính: có nhiệm vụ lập kế hoạch về tài chính, vốn của từng năm kế hoạch, báo cáo với Tổng công ty, theo dõi tình hình kế hoạch tài chính của toàn công ty, xác định chi phí sản xuất và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình, thanh quyết toán với các chủ đầu tư khi các công trình hoàn thành và bàn giao thu hôì vốn. Tổng hợp số liệu về tình hình tài chính kế toán để báo cáo với giám đốc công ty. Có biện pháp thích hợp để đẩy nhanh tiến độ thi công và thu hồi vốn. Chủ động cùng phòng kinh tế tài chính của các xí nghiệp hoàn thành các báo cáo tài chính hàng tháng, quý, năm. - Chức năng nhiệm vụ của các xí nghiệp thành viên: + XN xây lắp cấp thoát nước số 101, 102, và 104: Xây dựng và lắp đặt các công trình về chuyên ngành cấp thoát nước, công trình dân dụng và công nghiệp do các xí nghiệp tự tìm kiếm, được ký các hợp đồng kinh tế do Giám đốc công ty uỷ quyền, đảm bảo đời sống của cán bộ CNV trong xí nghiệp, thực hiện các nghĩa vụ đối với công ty và nhà nước. + XN khoan cơ khí và xây lắp cấp thoát nước: Tham gia thi công các giếng khoan khai thác nước ngầm, khoan khảo sát thăm dò địa chất, làm các công việc về gia công cơ khí, phụ tùng cấp thoát nước, công trình dân dụng và công nghiệp do công ty giao hoặc do xí nghiệp tự tìm kiếm. Được ký các hợp đồng do Giám đốc uỷ quyền, đảm bảo đời sống cho CBCNV trong xí nghiệp. Thực hiện các nghĩa vụ đối với công ty và nhà nước. + Các chi nhánh của công ty tại thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh có chức năng tham gia thi công các công trình chuyên ngành cấp thoát nước, ký kết các hợp đồng kinh tế với các đơn vị khác khi được uỷ quyền của Giám đốc công ty. Trên đây vừa khái quát chức năng, nhiệm vụ các phòng ban của công ty. Tất cả các bộ phận đều có quan hệ móc xích với nhau tạo thành một cỗ máy vận hành nhịp nhàng, tạo khí thế hăng say lao động trong toàn công ty. Nhìn chung, việc tổ chức bộ máy của Công ty Xây dựng cấp thoát nước là hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn và đảm bảo tính thống nhất trong quản lý điều hành hoạt động sản suất kinh doanh của công ty. 4. Nguồn lực của công ty a. Tình hình Vốn-Tài sản: Là một đơn vị hạch toán độc lập, công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO đã không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh, đạt mức tăng trưởng khá cao trong những năm vừa qua, trở thành đơn vị đứng đầu trong Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam và là một đơn vị mạnh trong ngành xây dựng. Để thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh của mình, công ty đã hội tụ được một lượng vốn kinh doanh khá lớn từ 3 nguồn chủ yếu: tự tích luỹ, vốn nhà nước giao và vốn vay ngân hàng. Bảng tổng kết về tình hình tài chính hiện tại của công ty có thể c._.ành phần của bộ phận điều hành nhóm mua hàng có thể có những người mua hàng, có thể có những người trực tiếp sử dụng hàng, những người lãnh đạo quản lý. Vì vậy công ty cần tìm hiểu về vai trò của người đi mua hàng và đối với họ yếu tố nào ảnh hưởng lớn đến quyết định mua hàng. *Thị trường đầu vào: Trước đây, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tìm hiểu thị trường nước ngoài là không quan trọng vì hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu được thực hiện trên cơ sở các nghị định giữa chính phủ nước ta với nước người. Bạn hàng của ta chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nhhĩa. Nay chuyển sang cơ chế thị trường, các đơn vị phải hạch toán độc lập nên việc nghiên cứu và lựa chon thị trường nhập khẩu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay thị trường nhập khẩu cuả công ty mới chỉ dừng lại ở Nhật bản, Hàn quốc và một số nước ASEAN khác mà thực sự đi sâu vào thị trường các nước phát triển ở Tây âu. Đây chính là một hạn chế của công ty bởi thị trường các nước phát triển hứa hẹn cung cấp nhiều loại mặt hàng có chất lượng tốt, tiên tiến hiện đại. Để mở rộng sang các thị trường này, công ty có thể nghiên cứu thu thập thông tin qua cá cơ quan tham tán của nước ta ở nước ngoài cũng như các văn phòng đại diện của Tổng công ty ở nước ngoài. Mặt khác công ty có thể tiến hành thu thập thông tin qua các cơ quan tham tán của nước ngoài đặt tại Việt Nam, các lãnh sự quán, các văn phòng đại diện… c) Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu . Đối với một doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu thì đội ngũ cán bộ kinh doanh phải là những người có trình độ giỏi để có thể ký kết hợp đồng ngoại thương. Đó không chỉ là điều kiện để doanh nghiệp đứng vững trên thị trường mà còn là điều kiện để được chính phhủ Việt Nam cấp giấy phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu. Với WASEENCO điều này là bình thường vì 100% cán bộ làm việc tại phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đều có trình độ đại học. Tuy nhiên điều quan trọng là ở chỗ vận dụng những kiến thức và nghiệp vụ ngoại thương đó vào điêù kiện thực tế đó như thế nào. Về trình tự thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì đây là những quy định chung của chính phủ, chúng ta không hy vọng có thể thay đổi trong thời gian ngắn. Do đó cần phải quen với công việc này, điều đó sẽ giúp chúng ta tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí. Qua trình tự thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở công ty có thể đưa ra một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, việc làm thủ tục nhập khẩu là việc làm thường xuyên, lặp đi lặp lại. Chính vì vậy nên phân công cho một bộ phận chuyên lo thủ tục giấy tờ, như thế họ sẽ có điều kiện làm quen với công việc, hoạt động của các phòng ban sẽ hiệu quả hơn. Bộ phận chuyên lo thủ tục giấy tờ cần phải trau dồi nghiệp vụ ngoại thương, kịp thời nắm bắt những văn bản, chính sách mới của chính phủ có liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời cần tìm hiểu kỹ tập quán thương mại quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để thông hiểu những quy định mới trong buôn bán quốc tế. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, những khâu thường gây ách tắc cản trở đó là xin giấy phép nhập khẩu, làm thủ tục hải quan và giải quyết khiếu nại. Để khắc phục hạn chế trên thì thì việc đầu tiên phải hoàn thiện là cung cấp đầy đủ các giấy tờ cần thiết theo quy định. Nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp về những mặt hàng được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Và việc ký kết hợp đồng cần phải được thực hiện một cách đầy đủ, chặt chẽ các thông số kỹ thuật, chất lượng, giá cả vì đây chính là những kẽ hở thường dẫn đến tranh chấp và khiếu nại. Ngoài ra, việc thiết lập bộ phận chuyên viên lo thủ tục giấy tờ còn cho phép tạo lập mối quan hệ thân thiết, tin tưởng lẫn nhau với người phê duyệt thủ tục, các ngân hàng và nhà cung cấp nước ngoài cũng như những người trung gian khác. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều trong quá trìng thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu. Thứ hai, việc tiếp nhận hàng hoá thường phát sinh trường hợp đổ vỡ, mất cắp… dẫn đến tranh chấp, khiếu nại mất rất nhiều thời gian. Chính vì vậy, cần phải thành lập một tổ chuyên trách về giao nhận hàng hoá. Khi đã chuyên vào việc này, họ sẽ tích luỹ được kinh nghiệm để tránh thiệt hại mất mát hàng hoá đồng thời sẽ tạo lập mối quan hệ với các cơ quan cảng vụ và trên cơ sở đó sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc bảo quản, tiếp nhận hàng hoá, lưu kho bãi.. Tóm lại, điều kiện tiên quyết trong việc hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu là nâng cao kiến thức về ngoại thương cũng như trau dồi kinh nghiệm cho các cán bộ thực hiện hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. d) Hoàn thiện chính sách marketing. Các chính sách Marketing là công cụ kinh doanh cơ bản, đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đều phải quan tâm đến 3 vấn đề: sản xuất kinh doanh loại hàng hoá dịch vụ nào, như thế nào và cho ai ? Chỉ khi thực sự xác định được các vấn đề đó thì doanh nghiệp mới biết cần phải hành động ra sao. Những qưuyết định Marketing đúng sẽ cho phép giải quyết các vấn đề trên. Vì vậy việc nghiên cứu hoàn thiện chính sách Markeing là công việc cần thiết cho mọi doanh nghiệp. Cụ thể đối với chiến lược marketing của công ty cần phải hoàn thiện một số chính sách như sau: Hoàn thiện chính sách sản phẩm: Thế mạnh của WASEENCO là nhập khẩu vật tư thiết bị chuyên ngành nước. Vì vậy chủng loại vật tư thiết bị ngành nước chính là mặt hàng chủ lực của công ty. Thực tế cho thấy, trong những năm qua chủng loại hàng chuyên ngành nước chiếm một tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch nhập khẩu và lợi nhuận từ hoạt động này của công ty. Điều này cho thấy công ty đã xác định đúng mặt hàng chủ lực trong kinh doanh nhập khẩu. Trong thời gian tới, tình hình thị trường có nhiều biến động, áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng tăng cùng với việc xuất hiện nhiều các nhà cung ứng trong nước, các nhà cung ứng liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng tham gia. Vì vậy để đứng vững trên thị trường thì ngoài việc giữ những khách hàng truyền thống công ty cần không ngừng nghiên cứu thay đổi chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa chủng loại hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Vấn đề nổi bật trong chính sách sản phẩm là mối quan hệ chi phối của nhu cầu thị trường trong nước đối với thị trường nhập khẩu. Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, xu hướng nhập khẩu máy móc thiết bị từ các nước Châu á gia tăng rõ rệt. Có nhiều lý do để giải thích hiện tượng này trong đó có một số lý do chính như sau: Thứ nhất, các quốc gia như Nhật bản. Hàn quốc, Trung quốc và một số nước khác trong hiệp hội ASEAN có rất nhiều điểm tương đồng về khí hậu, văn hoá,… Thứ hai, máy móc thiết bị của các nước này cũng tương đối hiện đại, chất lượng ổn định và phù hợp với Việt Nam. Thứ ba, do khoảng cách địa lý gần nên chi phí vận chuyển tương đối rẻ so với các nước phương tây, chính vì vậy sẽ giảm thấp được chi phí nhập khẩu nói chung. Tuy nhiên các nhà nhập khẩu cũng cần phải lưu ý đến xu hướng bão hoà đối với vật tư thiết bị máy móc trong ngành xây dựng. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chính sách sản phẩm của công ty tập trung vào việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng nhập khẩu để kích thích nhu cầu sử dụng vật tư thiết bị mà công ty cung cấp. Hoàn thiện chích sách giá cả: Trong kinh tế thị trường cạnh tranh là tất yếu, cạnh tranh diễn ra găy gắt không chỉ về sản phẩm mà còn về giá cả. Giá cả sẽ quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy, để chiến thắng trong cạnh tranh, cần có một chính sách gía hợp lý. Để hoàn thiện chính sách giá cả, trước hết công ty cần tính toán hiệu quả một lô hàmg xuất hay nhập, căn cứ vào các khoản chi phí phát sinh, thuế… để định giá sản phẩm. Hiện nay cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu là rất gay gắt. Vì vậy doanh nghiệp cần từng bước thực hiện giảm chi phí lưu thông và các khoản khác để có được một mức giá bán ra hợp lý. Hoàn thiện chính sách phân phối: Do tính đặc thù của loại máy móc thiết bị xây dựng, ta thấy rằng việc sử dụng kênh phân phối ngắn là hợp lý. Tuy nhiên bên cạnh đó cần tổ chức tốt dịch vụ sau bán hàng như hướng dẫn lắp đặt, vận hành, bảo dưỡng … Công ty cần tổ chức đội bảo dưỡng, hướng dẫn lắp đặt, vận hành. Có như vậy việc tiêu thụ hàng nhập khẩu về sẽ đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó cần nâng cấp hệ thống kho hàng. Hiện nay hệ thống các kho này bị quá tải, khả năng lưu trữ các loại máy móc thiết bị có giá trị cao bị hạn chế, gây ảnh hưởng đến hoạt động phân phối. Trong giai đoạn hiện nay, điều cần làm là phải phát triển hệ thống kho theo chiều sâu, nghĩa là phải nâng cấp kho chứa. Cụ thể, đối với kho chứa máy móc thiết bị cần cải tạo lại, xây dựng lại hệ thống mái che để chống rỉ sét, ô xi hóa… Đối với vật liệu xây dựng cần cải tạo hệ thống thiết bị an toàn, hoạt động kiểm kê, bốc xếp, bảo quản hàng hoá… Cần thành lập đội vận tải cho công ty, như vậy việc giao nhận, vận chuyển hàng hoá sẽ chủ động hơn. Hoàn thiện chính sách xúc tiến hỗn hợp: Đó là cách tiếp cận đối với khách hàng, sử dụng phương thức này có nhiều cách khác nhau để những thông tin về công ty đến được với khách hàng. Cụ thể như công ty đã thiết kế biểu tượng riêng. Đây là điều rất tốt vì nhờ đó mà khách hàng và bạn hàngnhớ đến công ty dễ dàng hơn. Công ty nên in cuốn cẩm nang về hình ảnh của công ty rồi giao cho các văn phòng đại diện, chi nhánh để phát cho khách hàng với mục đích hướng dẫn và quảng cáo khi cần thiết Trong chính sách xúc tiến hỗn hợp bao gồm nhiều hoạt động khác như: xúc tiến bán hàng, quảng cáo, hội nghị khách hàng… Trong các hoạt động trên thì hoạt động quảng cáo là cần thiết và cần được hoàn thiện. Kiến nghị này tập trung vào việc thiết kế thông điệp quảng cáo sử dụng phương tiện báo chí và mạng Internet. Hiện nay công ty đã có trang Web riêng nhưng vẫn còn rất sơ sài. Chưa thực sự nêu bật được vai trò chức năng của công ty trước công chúng. Đối với phương tiện Internet, công ty có thể thiết kế một trang quảng cáo như sau: Công ty xây dựng cấp thoát nước – WASEENCO Địa chỉ: 52 Quốc Tử Giám- Hà Nội. Điện thoại: (84.04) 7472982- 7477478- 8231171 Fax: 84.4.8431346 Email: Waseenco@fpt.vn Trong trang chủ này cần thiết kế danh mục các trang tiếp theo như sau: •Lịch sử về công ty •Lĩnh vực hoạt động •Danh mục các công trình đã thi công của công ty •Chính sách nhân sự trong công ty …. Tất cả đều được truyền tải dưới dạng tiếng Anh và tiếng Việt. Thông qua phương tiện này và đặc biệt nếu có thêm sự quảng cáo ở các trang Web nổi tiếng như vnn.vn hay yahoo.com, …thì hình ảnh của công ty không chỉ đọng lại trong tâm chí khách hàng trong nước mà còn biết đến bởi nhiều khách hàng trên toàn thế giới. e) Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. •Thành lập và xúc tiến hoạt động của phòng Marketing. Trong cơ chế thị trường luôn chứa đựng tính cạnh tranh khốc liệt như ngày nay thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được nhằm thúc đẩy, hỗ trợ cho việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá, tăng doanh thu từ hoạt động bán hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hoạt động marketing sẽ tiến hành phân tích, nghiên cứu thị trường đầu ra và đầu vào. soạn thảo chương trình Marketing- Mix với các chính sách cụ thể sẽ có tác động mạnh tới quá trình kinh doanh nhập khẩu của công ty. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của công ty nói chung và hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị nói riêng, công ty cần nhanh chóng thành lập cơ quan chức năng marketing của công ty. ở Việt Nam hiện nay, có thể nói hoạt động marketing thường gộp với hoạt động của phòng kinh doanh tổng hợp. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn như công ty thì điều này tỏ ra không phù hợp. Hiện nay phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của WASEENCO thực hiện luôn cả chức năng Marketing, nên hoạt động Marketing của công ty là rất hạn chế. Hơn nữa, nhiệm vụ của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu lại rộng, vừa phải nghiên cứu hợp đồng kinh tế, đấu thầu, lập kế hoạch kinh doanh … Do vậy không có đủ thời gian và nhân sự để có thể làm tốt cả hai công việc cùng môt lúc. Tuy nhiên, tổ chức và cơ cấu lại bộ máy quản lý trong công ty là một việc làm khó khăn vì như vậy có thể làm đaỏ lộn tập quán, thói quen làm việc được hình thành từ lâu, gây cản trở cho nội bộ công ty. Nhưng lợi ích đem lại từ hoạt động này lại rất lớn, nên việc thành lập bộ phận marketing là một yêu cầu cấp bách hiện nay mà công ty phải thực hiện. Trên cơ sở đội ngũ công nhân viên hiện có và nghiên cứu bộ máy tổ chức thực tế của công ty, ý kiến này xin được đề xuất mô hình phòng Marketing như sau: Trưởng phòng Marketng Bộ phận nghiên cứu và chỉ đạo marketng Bộ phận nghiên cứu thị trường Thị trường nước ngoài Thị trường trong nước Xây dựng chiến lược Kiểm tra, tổng hợp số liệu Phòng Marketing sẽ bao gồm 10 người, một trưởng phòng và hai phó phòng phụ trách hai bộ phận nghiên cứu thị trường và chỉ đạo thực hiện hoạt động marketing. Bộ phận nghiên cứu thị trường gồm hai nhân viên nghiên cứu thị trường trong nước và hai nhân viên nghiên cứu thị trường nước ngoài. Bộ phận nghiên cứu chỉ đạo thực hiện gồm hai nhân viên xây dựng chiến lược va một nhân viên kiểm tra, tổng hợp số liệu. Nhiệm vụ cụ thể: •Trưởng phòng: lãnh đạo chung và quản lý hai bộ phận chức năng, đưa ra các chiến lược marketing cụ thể, tổng hợp thông tin từ đó lên kế hoạch cho mỗi nhóm. •Hai phó phòng: chịu trách nhiệm hoạt động của bộ phận mình, phối hợp cùng trưởng phòng để chỉ đạo công tác marketing. •Bộ phận nghiên cứu thị trường: Gồm bốn nhân viên và một phó phòng phụ trách. Bộ phận này có nhiệm vụ thu thập số liệu, thông tin có chọn lọc ở từng thị trường, từng khách hàng và tìm hiểu hoạt động của đối thủ cạnh tranh, tổng hợp các thông tin khác để kết hợp với nhóm nghiên cứu marketing, tiến hành nghiên cứu, phân tích và xây dựng các chiến lược hoạt động. •Bộ phận nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện: sẽ xử lý các số liệu thông tin được cung cấp, từ đó vạch ra chiến lược hoạt động, thông qua ban lãnh đạo của công ty rồi trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Sau khi tổng hợp thông tin từ bộ phận nghiên cứu thị trường và bộ phận xây dựng chiến lược, nhân viên của khâu kiểm tra tổng hợp số liệu, tóm tắt các các chiến lược hoạt động, báo cáo cho phó phòng phụ trách sau đó sẽ báo cáo lên trưởng phòng và giám đốc công ty. Giám đốc sẽ xem xét chiến lược và bổ xung, sửa chữa để chiến lược hoàn thiện hơn nhằm tăng hiệu quả của hoạt động marketing. Vấn đề còn lại là ngân sách cho hoạt động marketing: Đây là yếu tố quyết định hiệu quả kinh doanh và thông thường ngân sách cho hoạt động marketing gắn với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong giai đoạn mới thành lập phòng marketing, công ty nên dành một khoản kinh phí nhất định hàng năm cho phòng này. Sau khi đi vào hoạt động ổn định, kinh phí nên tính theo một tỷ lệ % nhất định từ lợi nhuận hàng năm của công ty. Về mặt định lượng, nếu như tính cả các khỏan tiền lương, kèm theo chi phí phương tiện, văn phòng … cho hoạt động marketing có thể lên tới hàng trăm triệu. Con số này cho phòng marketing là không nhỏ. Tuy nhiên, so với mặt lợi nhuận hàng năm mà nhờ có hoạt động marketing công ty thu được thì con số này là không lớn. Trên cơ sở thành lập phòng marketing, sơ đồ tổ chức mới được tổ chức như sau: Nguồn thông tin của phòng marketing có thể thu thập từ các nguồn sau: •Thông tin nội bộ: Nghiên cứu về máy móc thiết bị nảy sinh ở các doanh nghiệp cùng ngành. Mặt khác, các chủ trương kế hoạch hàng năm của Bộ xây dựng là những thông tin quan trọng giúp cho việc định hướng kinh doanh của công ty. Thêm vào đó là các thông tin từ chính công ty như các báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty và chi nhánh, báo cáo về tình hình hàng tồn kho… Nhìn chung các thông tin nội bộ cho phép ta đánh giá được các nguồn lực cũng như các biến động trong ngắn hạn. •Thông tin từ các công ty tư vấn: Công ty tư vấn là các đơn vị sẽ cung cấp thông tin về các cuộc nghiên cứu, khảo sát thiết kế, thi công xây lắp, máy móc thiết bị, vật liệu xây dựng …Vì vậy, công ty cần tăng cường mối quan hệ với các công ty này như Vinaconsult, phòng thông tin phát triển kinh tế của WB… •Thông tin từ khách hàng: Những yêu cầu hay nhận xét của khách hàng là những thông tin chi tiết, khách quan, có độ tin cậy cao. Các công ty danh tiếng trên thế giới như HONDA, MOTOROLA,… cũng thành công trong sản xuất kinh doanh là nhờ thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Để thu thập thông tin từ khách hàng, công ty có thể sử dụng các biện pháp như tổ chức hội nhị khách hàng, gửi phiếu góp ý… •Các nguồn thông tin khác: Các nguồn thông tin được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như: phát thanh, truyền hình,… là những thông tin thứ cấp, có thể giúp công ty đánh giá khái quát về thị trường. Các nguồn thông tin thu thập được cần phải được xử lý để có kết luận thì mới có thể đạt được kết quả vì dự đoán thị trường là công việc rất phức tạp. •Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ: Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, việc cập nhật các kiến thức kinh tế, kỹ thuật, xã hội đối với một cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá. Việc kinh doanh xuất nhập khẩu lại thường xuyên giao dịch với bạn hàng nước ngoài, đòi hỏi các nhân viên kinh doanh phải hiểu biết trên tất cả các lĩnh vực. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức quan trọng. Trước mắt, để hoàn thiện nguồn nhân lực, công ty phải chăm lo bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ cho nhân viên từ tư tưởng đến quán triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình cơ chế chính sách. Quan tâm đào tạo cán bộ trẻ có đủ phẩm chất và năng lực để phục vụ cho mục đích lâu dài. Trong cơ chế chuyển đổi, các cơ quan quản lý Nhà nước thường xuyên có những thay đổi trong chính sách, luật pháp,… Các thông tư hướng dẫn nhiều khi cũng thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại của nước ta. Tình hình này gây cho tất cả các công ty gặp rất nhiều khó khăn vì không theo kịp các thay đổi đó. Vì vậy, để có thể hoàn thành tốt hoạt động kinh doanh, các cán bộ trong công ty phải tự nghiên cứu trong quá trình công tác để am hiểu các vấn đề luật pháp trong kinh doanh. Công ty nên cử các cán bộ kinh doanh các lớp ngắn hạn về các vấn đề mới như thương mại điện tử, thị trường chứng khoán… và các vấn đề và pháp luật cũng như quốc tế do các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức kinh tế lớn hay các trường đại học giảng dạy. Việc tổ chức cán bộ đi học có thể tốn kém chi phí trong ngắn hạn nhưng chắc chắn sẽ mang lại lợi ích lâu dài, không chỉ tăng khả năng hiểu biết về kinh tế xã hội nói chung mà còn tạo ra lợi ích lâu dài cho công ty. Hiện nay phương thức nhập khẩu của công ty chủ yếu là mua theo giá CIF. Tiến tới, công ty cần phải nhập khẩu theo giá FOB để giành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Vì vậy cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cần được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thuê tàu, nghiệp vụ hàng hải và nghiệp vụ bảo hiểm. Đặc biệt là bảo hiểm về rủi ro hàng hải. Nếu làm được như vậy thì không những tăng lợi nhuận cho công ty mà còn góp phần thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân đi lên. Công ty cần thực hiện rà soát lại tổ chức, các phòng nghiệp vụ trong quá trình hoạt động sao cho thích hợp, đảm bảo gọn nhẹ và hiệu quả. Để làm được điều này công ty cần bám sát thực tế, quan tâm đến cán bộ công nhân viên, xây dựng đoàn kết trên dưới, trong ngoài công ty. •Tạo tinh thần hăng hái cho cán bộ công nhân viên. Trong cơ chế thị trường, khách hàng là yếu tố hết sức quan trọng. Vì vậy mà nhiều doanh nghiệp đã nêu ra khẩu hiệu " khách hàng là thượng đế" hay " khách hàng là số 1" hay " khách hàng luôn đúng"… Khi có yêu cầu của khách hàng, các cán bộ công nhân viên trong công ty làm việc hết mình để có thể thoả mãn nhu cầu đó. Không chỉ làm việc 8h/ngày mà có thể cao hơn thế với tinh thần hăng say công việc vì mục tiêu xây dựng công ty ngày một lớn mạnh. Tuy nhiên biện pháp quản lý nhân sự tốt phải là biện pháp kết hợp giữa lợi ích chung của công ty và lợi ích riêng của mỗi cá nhân. Khuyến khích cả lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất. Do đó, để đạt được kết quả cao hơn nữa trong công việc, công ty cần có chính sách thưởng phạt rõ ràng, cần cho cán bộ thấy rằng lợi ích của công ty cũng chính là của họ. Ngoài lương ra, nếu kết quả kinh doanh tốt, thu được lợi nhuận cao thì có thể có thêm phần thưởng cho cán bộ công nhân viên. 2. Kiến nghị đối với các cấp quản lý vĩ mô a) Kiến nghị đối với Tổng công ty Công ty xây dựng cấp thoát nước chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam. Vì vậy, cơ chế quản lý cũng như các hoạt động xúc tiến của Tổng công ty có tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. ở đây xin đưa ra một số kiến nghị với Tổng công ty như sau: •Tổng công ty cần mở rộng các văn phòng đại diện ở nước ngoài vì đây chính là nguồn cung cấp các thông tin chủ yếu và tin cậy về thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước. •Mở rộng hơn quyền hạn cho các doanh nghiệp trong việc xử lý các tình huống phát sinh cũng như khen thưởng, kỷ luật các cán bộ công nhân viên trong công ty. •Mở các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ công nhân viên trong Tổng nói chung và công ty nói riêng. Tổ chức cho các cán bộ có trình độ nhận thức nhanh đi nghiên cứu và học tập ở nước ngoài. b) Kiến nghị đối với Bộ xây dựng. •Bộ xây dựng cần mở rộng hơn nữa quyền hạn kinh doanh cho các doanh nghiệp, giảm bớt thủ tục khi phải xin cấp phép. •Có chế độ hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu về vốn, thông tin. Bộ cũng nên có chính sách khen, thưởng để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. •Không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý chất lượng hàng nhập khẩu để tạo ra sự bình đẳng trong kinh doanh. c) Kiến nghị với Nhà nước Ngoài sự nỗ lực của bản thân công ty, sự hỗ trợ của Tổng công ty và Bộ thì Nhà nước cũng cần có cơ chế và biện pháp thích hợp để vừa quản lý được hoạt động nhập khẩu vừa khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Dựa trên quan điểm trung hiên nay là kinh doanh trong cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, để tạo điều kiện cho các công ty phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động nhập khẩu, xin đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước như sau: •Xây dựng và phát triển hệ thống Giao thông vận tải: Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam nhập theo giá CIF, nhường quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho phía nước ngoài. Đến nay, với sự có mặt của các công ty bảo hiểm lớn nước ngoài như AIA, PRUDENTIAL, CHINFON… việc mua bảo hiểm sẽ không còn gặp khó khăn nữa. Doanh nghiệp sẽ tiến dần đến việc nhập khẩu theo giá CFR, FOB để được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Vấn đề mang tính cấp bách hiện nay là phát triển đội tàu và hệ thống cảng biển. Hiện nay hệ thống cảng biển của ta chủ yếu chỉ đủ tải trọng cho các tàu có trọng tải khoảng 10.000 tấn. Điều này khiến các tàu lớn trước khi cập cảng phải đậu ngoài khơi để chuyển tải vào cảng gây mất rất nhều thời gian, chi phí và rủi ro. Đội tàu của Việt Nam hiện nay chưa có nhiều những tàu lớn và đủ an toàn để đi biển. Vì vậy trong thời gian tới Việt Nam cần tập trung phát triển đội tàu vững mạnh, tạo tiền đề để phát triển ngành hàng hải của mình và ngành ngoại thương. Khi ngành vận tải và đặc biệt là vận tải biển phát triển, sẽ góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của các đơn vị nhập khẩu và tạo tiền đề vững chắc phát triển kinh tế xã hội. •Đào tạo cán bộ kỹ thuật chuyên gia công nghệ Vật tư thiết bị ngành nước là mặt hàng rất quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuôc xây dựng phát triển hạ tầng cơ sở nói chung và hệ thống cấp thoát nước nói riêng. Hơn nữa, mặt hàng này thường nhập khẩu với giá trị lớn, hay sảy ra rủi ro về mặt kỹ thuật. Mặt khác, để đánh giá chất lượng cũng như sự phù hợp về mặt công nghệ đối với nước ta cần phải có đội ngũ chuyên gia giỏi. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ của các chuyên gia một cách thường xuyên cho kịp với tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng như hiện nay. Đó sẽ là đội ngũ đắc lực giúp các doanh nghiệp có thể đánh giá được tình trạng máy móc thiết bị, từ đó tăng hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. •Hỗ trợ thông tin. Nhà nước nên công bố những định hướng trong ngắn hạn cũng như dài hạn về một số lĩnh vực như đầu tư cơ sở hạ tầng, các định hướng trong hoạt động nhập khẩu phục vụ cho đầu tư…. Như thế các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc thay đổi chiến lược kinh doanh cho phù hợp với các chủ trương chính sách của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước cần phát huy vai trò quan trọng của các đại sứ quán hay lãnh sự quán ở nước ngoài trong việc thu thập và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp khi cần thiết. Việc lập ra các trung tâm, cục lưu trữ chính là nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bổ ích đối với các doanh nghiệp. •Về thuế nhập khẩu. Hiện nay, trong quá trình nhập khẩu, các doanh nghiệp hay gặp phải khó khăn trong việc áp mã thuế khi làm thủ tục hải quan. Vậy kiến nghị này xin đưa ra việc Nhà nước nên có chính sách thuế cụ thể, ổn định đối với từng mặt hàng trên cơ sở khuyến khích sản xuất trong nước và đảm bảo nâng cao mức sống của người dân. •Thực hiện cải cách thủ tục hành chính: Nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan chức năng có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý xuất nhập khẩu. Bộ thương mại có trách nhiệm phê duyệt các dự án theo thẩm quyền của mình. Tổng cục hải quan có trách nhiệm giám sát và kiểm tra hàng hoá nhập khẩu, thu thuế nhập khẩu. Đặc biệt ngành hàng hải cần đổi mới phương thức của mình vì đây vẫn là khâu gây phiền hà nhiều nhất cho các doanh nghiệp khi tham gia xuất nhập khẩu. Sau khi bãi bỏ giấy phép nhập khẩu chuyến, một số thủ tục mà các chuyên viên Bộ thương mại thường làm trước đây được chuyển sang cho Hải quan thực hiện. Đã có thời gian sự phân định này không rõ ràng, gây ra không ít cho các đơn vị kinh doanh. Hơn nữa, do trình độ chưa theo kịp với trình độ khách quan nên hoạt động chưa có hiệu quả. Trong khi đó lại có một số cán bộ hải quan có tư cách phẩm chất xấu đã gây ra những tiêu cực trong xét duyệt và trong các thủ tục khác gây nên sự mất lòng tin ở các doanh nghiệp. Bộ thương mại cần rút ngắn thời gian xét duyệt để đảm bảo cho các doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được các cơ hội kinh doanh và tạo điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện đúng hợp đồng. Bộ cũng nên phân định rõ từng cán bộ phụ trách lĩnh vực cụ thể để các chuyên viên có điều kiện nắm vững công tác của mình và các doanh nghiệp tiện liên hệ. kết luận Mặc dù mới chỉ bắt đầu thực hiện hoạt động nhập khẩu từ năm 1995 nhưng với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và đặc biệt là sự đoàn kết gắn bó cùng nhau khắc phục khó khăn của tập thể cán bộ công nhân viên, công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO đã đạt được những kết quả đáng mừng, đã và đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Hiện công ty là doanh nghiệp mạnh nhất trong Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động chính của WASEENCO. Công ty đã biết hướng vào kinh doanh các hàng nhập khẩu mà mình có ưu thế đó là vật tư thiết bị ngành nước. Tiềm năng phát triển mặt hàng này là rất lớn do nước ta mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghệp hoá hiện đại hoá đất nước nên nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung, hệ thống cấp thoát nước nối riêng là rất lớn. Trong khi đó nền công nghiệp nước ta chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, vì vậy chúng ta cần nhập khẩu bổ xung. Đây chính là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực này. Đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước- WASEENCO" đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Đồng thời đã nghiên cứu, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của công ty. Luận văn này cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác nhập khẩu. Mong rằng luận văn có thể giúp ích cho hoạt động thực tiễn của công ty trong những năm tới. Tuy nhiên, những ý kiến này mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu và phần nhiều mang tính chủ quan cá nhân, cùng với sự hạn chế về trình độ nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy cho em trong suốt bốn năm học vừa qua. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo- PGS.TS. Hoàng Minh Đường đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, cán bộ công nhân viên công ty xây dựng cấp thoát nước đã tạo điều kiện giúp đỡ em tromg quá trình thực tập, trang bị cho em những thông tin quý báu, những nhận xét bổ ích để em hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1.Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO năm 1999-2001 2.Giới thiệu năng lực của công ty WASEENCO 2.Giáo trình thương mại quốc tế _ Đại học kinh tế Quốc dân 3.Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế – Đại học kinh tế Quốc dân 4.Giáo trình Marketing- Đại học kinh tế Quốc dân 5.Giáo trình Marketing thương mại quốc tế – Đại học kinh tế Quốc dân 6.Cẩm nang thương mại dịch vụ- Đại học kinh tế Quốc dân 7.Giáo trình giao dịch và thanh toán thương mại quốc tế- Đại học kinh tế Quốc dân 8.Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu tại Việt Nam – Võ Thanh Thu 9.Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương 10.Tạp chí kinh tế và phát triển số 1,2,3 năm 2002 11.Tạp chí thương mại. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33878.doc
Tài liệu liên quan