Mục lục
Lời mở đầu
Sau hơn 15 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Sản xuất trong nước phát triển, xuất nhập khẩu được khai thông, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Đạt được những thành quả ấy là nhờ vào định hướng đúng của Đảng và Nhà nước, chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại để phát huy các nguồn lực từ bên ngoài.
Xuất nhập khẩu đang là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với nước ta.
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh Nhập khẩu thực phẩm tại Công ty Thực phẩm miền Bắc - Finoxim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuất khẩu được khuyến khích nhằm đẩy mạnh nền sản xuất trong nước, tăng thu ngoại tệ và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhập khẩu cho phép khai thác tiềm năng thế mạnh của thế giới. Hoạt động thương mại quốc tế đã góp phần tích cực vào việc phát huy nội lực, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng đồng thời góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời gian đầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải nhập khẩu rất nhiều mặt hàng để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Ngoài máy móc thiết bị, chúng ta vẫn cần nhập khẩu một lượng hàng tiêu dùng mà nếu sản xuất trong nước không mang lại hiệu quả kinh tế hơn. Nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước, đồng thời căn cứ vào tình hình thị trường trong nước và quốc tế, Công ty Thực phẩm miền Bắc không ngừng nhập khẩu một số thực phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Là một doanh nghiệp được thành lập dựa trên cơ sở sát nhập các Công ty con, Công ty Thực phẩm miền Bắc phải tiếp nhận một khoản nợ trên mười tỷ đồng. Mặc dù gặp nhiều khó khăn mọi mặt, song những năm vừa qua cán bộ công nhân viên Công ty vẫn cố gắng khắc phục khó khăn vượt qua mọi trở ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự thành công của Công ty. Trong thời gian gần đây, đặc biệt trong ba năm trở lại đây (1999 - 2001) tình hình kinh doanh của Công ty có nhiều khả quan. Tổng doanh thu của Công ty trong ba năm 1999, 2000, 2001 lần lượt là 670,8 tỉ đồng, 634 tỉ đồng và 938,32 tỉ đồng. Mức lợi nhuận của Công ty tăng từ 648 triệu đồng năm 1999 lên 2147 triệu đồng vào năm 2001. Công ty luôn vượt kế hoạch đóng góp vào tổng thu ngân sách Nhà nước. Công ty ngày càng mở rộng qui mô, số lao động trong Công ty tăng từ 648 người năm 1999 lên 1026 người năm 2001. Mặc dù số lượng lao động tăng, nhưng mức lương bình quân đầu người của Công ty vẫn được cải thiện, từ 555.000 đồng/tháng vào năm 1999 lên 873.000 đồng/tháng vào năm 2001. Đóng góp vào những kết quả đáng khích lệ ấy phải kể đến vai trò của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong Công ty. Hoạt động này góp phần tạo công việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định cho người lao động trong Công ty. Tuy nhiên qua phân tích đánh giá thực trạng kinh doanh nhập khẩu hàng hoá ở Công ty, chúng tôi thấy còn có một số hạn chế. Doanh thu từ nhập khẩu và tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu còn thấp. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn nghèo nàn, ít có sự thay đổi và chưa thật hiệu quả. Công tác tổ chức tiêu thụ kinh doanh hàng nhập khẩu cũng còn một số bất cập.
Trong quá trình thực tập tại Công ty thực phẩm miền Bắc, được sự chỉ bảo tận tình của Thầy giáo PGS. TS Trần Chí Thành và sự hướng dẫn giúp đỡ của các cán bộ trong Công ty chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực phẩm tại Công ty Thực phẩm miền Bắc".
Mục đích nghiên cứu đề tài: Hoàn thiện phương pháp luận kinh doanh nhập khẩu, phân tích thực trạng kinh doanh nhập khẩu của Công ty để tìm ra những nguyên nhân của những tồn tại hiện nay, từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty thực phẩm Miền Bắc.
Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu đề tài: bao gồm phân tích đánh giá quá trình kinh doanh nhập khẩu của Công ty, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Đề tài nghiên cứu tình hình nhập khẩu đối với toàn Công ty và tất cả các mặt hàng, với số liệu thu thập từ năm 1999 - 2001.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiếp cận cơ bản được vận dụng là phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu, bảng số liệu. Trên cơ sở các thông tin thu thập được trong quá trình thực tập kết hợp với cơ sở lý luận được rút ra trong quá trình học tập và nghiên cứu để nhận xét đánh giá từ sơ bộ đến cụ thể về hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Thực phẩm miền Bắc. Từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty.
Kết cấu luận án bao gồm ba phần với 72 trang và 9 biểu bảng.
Chương I: Cơ sở lý luận của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Chương II: Phân tích thực trạng kinh doanh nhập khẩu của Công ty Thực phẩm miền Bắc.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Thực phẩm miền Bắc .
Chương I: Hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
I. Bản chất và vai trò của việc nhập khẩu hàng hoá.
1. Bản chất vai trò của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích lợi nhuận. Thương mại quốc tế là tất yếu khách quan, tạo ra hiệu quả cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
Sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau. Trong vài ba thập kỷ trở lại đây, thực tế đã cho thấy sự thất bại của các nước thực hiện chính sách kinh tế đóng. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể độc lập dựa vào nội lực mà phải biết tận dụng tranh thủ những thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của nhân loại. Đó là một trong những điều kiện cần để nền kinh tế phát triển hiệu quả nhất, tham gia phân công lao động quốc tế, khai thác hợp lý tiềm năng sẵn có của mỗi một nước. Nhu cầu mở cửa hội nhập trở nên rất bức thiết đối với nước ta, với một xuất phát điểm về kinh tế rất thấp.
Thương mại quốc tế mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, bởi lẽ có thể cho phép khối lượng hàng hoá tiêu dùng khác với số lượng hàng hoá sản xuất; cho phép một sự thay đổi có lợi phù hợp với đặc điểm của sản xuất trong nước. Điều này có nghĩa là một quốc gia có thể tiêu dùng các mặt hàng mà trong nước không thể sản xuất, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu hay sản xuất được song chi phí sản xuất quá lớn.
Theo các lý thuyết về thương mại quốc tế, sẽ là có lợi cho cả đôi bên, nếu mỗi nước tiến hành chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể mà nước đó có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu những hàng hoá đó, đồng thời nhập khẩu những hàng hoá có ít lợi thế tuyệt đối hơn. Điều này cũng đúng đối với ngay cả những nước chỉ có lợi thế tương đối. Trên cơ sở lý luận và qua kinh nghiệm thực tiễn, người ta thấy rằng thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chuyên môn hoá sâu nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các ngành sản xuất vật chất nói chung. Sự chuyên môn hoá theo qui mô lớn sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, làm gia tăng lợi thế về qui mô.
Thương mại quốc tế sẽ giúp Việt Nam tranh thủ được các nguồn lực trên thế giới, tận dụng hiệu quả nội lực, tham gia vào quá trình chuyên môn hoá quốc tế, hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Thương mại quốc tế làm tăng khả năng tiêu dùng, tranh thủ vốn và kỹ thuật bên ngoài, thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất, tạo đà cho nền kinh tế Việt Nam ‘cất cánh‘.
2. Vai trò của việc nhập khẩu hàng hoá.
Nhập khẩu là một trong hai nhiệm vụ cấu thành của nghiệp vụ ngoại thương xuất nhập khẩu, là một mặt không tách rời của thương mại quốc tế. Nhập khẩu là việc mua hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước nhằm mục đích đem lại lợi ích kinh tế ở mức cao nhất có thể. Thông qua xuất nhập khẩu nói chung, nền kinh tế nội địa hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Trước hết, thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ, nguyên nhiên vật liệu mà trong nước không có điều kiện sản xuất, nhập khẩu bảo đảm đầu vào cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Nhập khẩu là tiền đề cho quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm cho quá trình này liên tục và hiệu quả. Nhập khẩu cho phép thúc đẩy khai thác tiềm năng, thế mạnh trong nước vào việc phát triển kinh tế. Nhập khẩu hàng hoá kích thích tiêu dùng trong nước. Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao do được cung cấp đầy đủ hàng hoá dịch vụ tốt, nâng cao hiệu quả sản xuất tiêu dùng.
Nhập khẩu làm đa dạng hoá chủng loại mặt hàng cũng như về qui cách, tạo điều kiện thoả mãn tốt hơn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu giải quyết tốt những nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan hiếm hay những hàng hoá mà nền sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường về các mặt như mẫu mã, chất lượng, số lượng, giá thành.
Thông qua việc nhập khẩu, có thể tranh thủ khai thác tiềm năng về hàng hoá, vốn, công nghệ của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Dựa vào nhập khẩu để nắm bắt công nghệ của thế giới, tiết kiệm chi phí xã hội, nâng cao năng suất lao động. Nhập khẩu thúc đẩy xuất khẩu để tạo ra một chỉnh thể hoàn thiện trong quá trình kinh doanh.
Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền. Đồng thời nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh. Doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại phải năng động vươn lên, tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Nhập khẩu cùng với xuất khẩu là cầu nối để nền kinh tế nội địa hoà nhập với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
Vài năm tới đây (2006), khi Việt Nam hoàn thành xong chương trình giảm thuế năm trong lịch trình tham gia AFTA, hàng hoá các nước tràn ồ ạt vào Việt Nam. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô cần lường trước. Nhập khẩu không chỉ là nhu cầu mà sẽ là điều tất yếu. Do đó bên cạnh việc nhập khẩu, cần phải cố gắng cải tiến sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước.
3. Vai trò và yêu cầu của nhập khẩu thực phẩm.
a. Vai trò của nhập khẩu thực phẩm.
Thực phẩm, may mặc trong những năm gần đây có nhiều bước phát triển quan trọng. Cùng với sự tăng cao về mức sống của người dân thì những ngành sản xuất hàng tiêu dùng ngày càng phát triển. Sự phát triển của những ngành này là phù hợp với quy luật kinh tế. Thực tế thì theo sự bình chọn của người tiêu dùng, vài năm qua, các Công ty thực phẩm thường nằm trong số Công ty có sản phẩm đạt TOP TEN hàng Việt Nam chất lượng cao. Có thể kể đến các Công ty dầu Tường An, Công ty bánh kẹo Hải Hà, Công ty đồ hộp Hạ Long.
Ngành công nghiệp thực phẩm trong nước đang ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên nhu cầu về nhập khẩu thực phẩm phong phú, tồn tại nhu cầu thực phẩm cao cấp của một số dân cư có thu nhập cao. Đáp ứng nhu cầu đó, Công ty thực phẩm Miền bắc nhập khẩu một số sản phẩm sữa cao cấp nhãn hiệu Snow cùng một số sản phẩm cao cấp khác.
Ngoài ra, giá cả của một số sản phẩm còn cao so với thu nhập của người dân. Nhập khẩu thực phẩm thực phẩm để phù hợp với yêu cầu về giá cả của người tiêu dùng Việt Nam. Nhập khẩu thực phẩm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của ngành thực phẩm nội địa, đồng thời góp phần giải quyết công ăn việc làm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty Thực phẩm miền Bắc.
b. Yêu cầu của nhập khẩu thực phẩm.
Nhập khẩu thực phẩm phải thoả mãn các yêu cầu:
- Thực phẩm nhập khẩu phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước. Muốn vậy, cần làm rõ nguồn gốc của thực phẩm, và thực phẩm nhập khẩu phải được kiểm tra trước khi vào Việt Nam.
- Nhập khẩu phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, giá cả, chủng loại sản phẩm. Tránh nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được. Chuyển dần sang hướng nhập khẩu sản phẩm trong nước chưa sản xuất, hoặc những nguyên liệu không có ở trong nước.
- Doanh nghiệp nhập khẩu để kinh doanh cần chú ý bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng trong nước, tránh hiện tượng vì quyền lợi cục bộ mà làm ảnh hưởng đến lợi ích xã hội.
II. Nội dung cơ bản của hoạt động nhập khẩu.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đối với mọi Công ty muốn tham gia vào thị trường thế giới. Ngoài việc nắm vững tình hình trong nước và đường lối chính sách, luật lệ quốc gia có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, Công ty kinh doanh cần phải nhận biết rõ về thị trường quốc tế mà mình muốn xâm nhập.
1. 1. Nhận biết sản phẩm nhập khẩu.
Nhận biết sản phẩm nhập khẩu nhằm đảm bảo lựa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải trả lời được năm câu hỏi sau:
- Thị trường đang cần mặt hàng nào?
Phương châm hành động hợp lý là “chỉ bán cái thị trường chứ không bán cái có sẵn”. Người nhập khẩu cần tìm hiểu nhu cầu của thị trường trong nước về mặt hàng, quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, số lượng, chất lượng... để có thể đáp ứng kịp thời.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mỗi mặt hàng được tiêu dùng trên thị trường có nhũng đặc điểm riêng thể hiện ở thời gian tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu về mặt hàng đó. Có nắm vững tập quán tiêu dùng đó thì ta mới có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
-Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Mỗi sản phẩm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của sản phẩm gồm bốn thời kỳ: thâm nhập, phát triển, bão hoà, suy thoái. Mỗi thời kỳ chu kỳ sống của sản phẩm, nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu hiện ra hành động mua cũng khác nhau. Do đó cần phải nghiên cứu nắm vững chu kỳ sống của sản phẩm nhằm có các biện pháp thích hợp trong từng thời kỳ.
-Tình hình sản xuất mặt hàng đó ở trong nước?
Chênh lệch nhu cầu về hàng hoá và cung trong nước của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu. Nghiên cứu về cung hàng hoá cần lưu ý tới khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất của hàng hoá đó, bởi vì đây là những yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến cung của hàng hoá.
-Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng kinh doanh?
Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số tiền nội tệ thu được khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Chỉ số này nhằm đánh giá mức độ hiệu quả của việc nhập khẩu hàng hoá. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu thấp hơn tỷ giá hối đoái thì không nên nhập khẩu.
1. 2. Nắm vững thị trường trong ngoài nước.
Đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng cần nắm vững những yếu tố chủ yếu liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài là: dung lượng thị trường và nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
a. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng hàng hoá đó được giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc gia, một khu vực hay trên toàn thế giới) trong một thời kì nhất định thường là một năm.
Dung lượng thị trường thường xuyên biến động và chịu sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu dung lượng thị trường nhằm giúp cho doanh nghiệp có cơ sở vạch ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và ngắn hạn cho doanh nghiệp.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến dung lượng thị trường bao gồm:
* Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ:
- Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nghiên cứu nhân tố này cần chú ý đến các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường các nước xuất khẩu và nhập khẩu.
- Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên cả ba khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. ảnh hưởng của nhân tố này đối với từng thị trường hàng hoá cụ thể cũng khác nhau về phạm vi và mức độ.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài:
Những nhân tố này có thể gây nên những biến động rất lớn về dung lượng thị trường nhưng lại tác động trong dài hạn. Do dó ta không thể dễ dàng nhận biết ngay được. Một số nhân tố chủ yếu là: tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp và chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế...
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời:
Khi dự đoán về sự phát triển của tình hình thị trường và giá cả trong thời gian ngắn nhằm phục vụ cho công tác kinh doanh trực tiếp, phải hết sức chú ý đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tạm thời tới sự biến đổi của dung lượng thị trường. Có thể kể đến các yếu tố tự nhiên như: hạn hán, bão lụt, đình công... hay các nhân tố như xung đột chính trị, xã hội... Cần phải nghiên cứu các yếu tố này để có thể đối phó với các tình huống bất ngờ có thể xảy ra, phòng tránh các rủi ro trong kinh doanh.
b. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới.
Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả thương mại quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu.
Giá cả mỗi hàng hoá nhập khẩu là giá quốc tế, giá quốc tế có tính chất đại diện cho mỗi hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới.
- Dự đoán xu hướng biến động giá cả và các nhân tố ảnh hưởng:
Giá cả trên thị trường thế giới biến động liên tục và rất phức tạp. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động giá cả của mỗi loại hàng hoá trên thị trường thế giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự báo thị trường loại hàng hoá đó, đánh giá đúng xu hướng biến động giá cả hàng hoá ấy.
Tuỳ theo mục đích mà dự báo trong thời gian dài hay ngắn. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm, dự báo trong thời gian ngắn phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại.
- Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá:
Các nhân tố này cũng rất nhiều và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo từng mục đích nghiên cứu. Các nhân tố tác động lâu dài bao gồm: chu kỳ, giá trị, lũng đoạn. Các nhân tố tác động ngắn hạn bao gồm: các nhân tố tác động lên cung cầu giá cả hàng hoá trên thị trường, các nhân tố mang tính chất tạm thời như thời vụ, đầu cơ, nhân tố tự nhiên. Dưới đây sẽ nghiên cứu một số nhân tố chủ yếu tác động đến xu hướng biến động của giá cả:
- Nhân tố chu kỳ: Sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về các loại hàng hoá đó trên thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá là một điều tất yếu.
Nhân tố lũng đoạn và giá cả: Đây là nhân tố có tác động rất lớn đến sự hình thành giá cả và sự biến động của chúng trên thị trường hàng hoá thế giới.
Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu vực thị trường. Tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán, thị trường thế giới có lũng đoạn cao và lũng đoạn thấp. Giá lũng đoạn cao là giá bán thành phẩm công nghiệp, máy móc thiết bị mà người bán là các nhà tư bản công nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa; giá lũng đoạn thấp là giá bán các loại hàng nguyên liệu, lương thực của những người sản xuất nhỏ mà người mua là các nước tư bản phát triển.
Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh có thể làm cho giá cả biến động theo những xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xẩy ra khi trên thị trường cung có xu hướng lớn hơn cầu. Nhiều người cùng bán một loại hàng hoá, cùng chất lượng, cùng kiểu dáng. Ai có chính sách giá cả hợp lý sẽ thu hút được nhiều khách hàng và như vậy giá cả có xu hướng giảm xuống.
Cạnh tranh giữa những người mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có xu hướng lớn hơn cung. Để mua được hàng hoá, những người mua phải cạnh tranh với nhau bằng cách nâng cao giá lên làm giá cả trên thị trường có xu hướng tăng lên.
Ngoài ra, các nhân tố cung cầu, giá cả và nhân tố lạm phát cũng là những nhân tố có ảnh hưởng đến xu hướng biến động giá cả của hàng hoá.
Xác định giá xuất - nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch:
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố, ta có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới, từ đó xác định được mức giá cho từng mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập.
Nếu hàng hoá nhập khẩu là đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có các trung tâm giao dịch quốc tế thì nhất thiết phải tham khảo thị trường thế giới về hàng hoá đó, đồng thời cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ khu vực thị trường các nước bạn hàng đi các nước nhập khẩu khác. Cần chú ý tới cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan để định giá cho chính xác.
Với các mặt hàng nhập khẩu thông thường, có thể dựa vào giá chào hàng của các đơn vị cung ứng, giá nhập khẩu của các năm trước đó, đồng thời có tính đến các thay đổi sản phẩm và các yếu tố liên quan để đưa ra một mức giá nhập khẩu hợp lý, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
2. Hoạt động nghiệp vụ nhập khẩu.
2. 1. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu.
a. Giao dịch thông thường.
Là phương thức giao dịch được thực hiện ở mọi nơi, trong đó người bán và người mua liên hệ với nhau bằng cách gặp trực tiếp, hoặc qua thư từ, điện tín để bàn bạc, thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả và các điều khoản giao dịch khác.
Trong giao dịch này, hai bên tiếp cận thị trường rồi hỏi giá, hoàn giá rồi đi đến chấp nhận, cuối cùng một hợp đồng được ký kết.
Hình thức giao dịch này có ưu điểm là hai bên hiểu nhau rõ, do đó các điều khoản đạt được thường nhanh chóng và rõ ràng. Nhược điểm của hình thức này là chi phí thường cao. Hơn nữa hình thức này đòi hỏi những cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế, đặc biệt thông thạo nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Không phải bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có khả năng áp dụng hình thức này. Đây chính là điểm yếu của đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam khi tiếp cận với thị trường thế giới.
b. Giao dich qua trung gian.
Giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch mà người mua và người bán quy định những điều khoản trong hợp đồng mua bán về hàng hoá và dịch vụ, giá cả về điều kiện thanh toán và phương thức thanh toán phải thông qua một người thứ ba - người trung gian buôn bán. ở đây, người trung gian có thể hiểu là một số cá nhân, cũng có thể là một tổ chức hay doanh nghiệp. Những đối tượng này thực hiện vai trò như cầu nối trung gian giữa người mua và người bán. Người trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới.
c. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu (counter-tra) là một hình thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi với nhau có giá trị tương đương.
Mục đích của xuất nhập khẩu hàng hoá ở đây không phải là để thu về một lượng ngoại tệ mà để thu về một lượng hàng hoá khác có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, kí kết hợp đồng, thanh quyết toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung. Các hình thức buôn bán đối lưu chủ yếu trong thương mại quốc tế gồm có: nghiệp vụ hàng đổi hàng; mua đối ứng; bù trừ liên kết xuất khẩu với nhập khẩu bằng một hợp đồng; bù trừ trước; nghiệp vụ mua lại.
d. Giao dịch tại hội chợ triển lãm.
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian và ở một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán trưng bày những sản phẩm của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết các hợp đồng mua bán.
Triển lãm giống như hội chợ, nhưng có một điểm khác là triển lãm thường giới thiệu những thành tựu của nền kinh tế quốc dân hoặc một ngành kinh tế, văn hoá giao dịch hàng hoá.
Giao dịch tại hội chợ, triển lãm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tự giới thiệu về Công ty và về sản phẩm. Có một điều lưu ý là Nhà nước không cho phép triển lãm những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu.
e. Giao dịch tại Sở giao dịch hàng hoá.
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, ở đó thông qua những người môi giới do Sở giao dịch chỉ định, người ta mua, bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, có phẩm chất thay thế được với nhau. Trên thế giới hiện nay có các loại Sở giao dịch chính là giao dịch ngay, giao dịch kì hạn và nghiệp vụ tự bảo hiểm.
f. Đấu thầu quốc tế.
Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua (người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá mình muốn bán. Người mua sẽ chọn mua của người bán nào đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của người mua.
Đấu thầu quốc tế có hai hình thức: đấu thầu mở rộng thu hút tất cả nhũng ai muốn tham gia, và đấu thầu hạn chế chỉ những hãng đủ điều kiện mới được tham gia. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường hay thông qua hình thức này.
2. 2. Hợp đồng nhập khẩu.
Hợp đồng mua bán quốc tế (hợp đồng xuất nhập khẩu, hợp đồng mua bán ngoại thương) là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó bên bán (bên xuất khẩu) có trách nhiệm cung cấp hàng hoá, chuyển giao các chứng từ có liên quan đến hàng hoá, quyền sở hữu hàng hoá; bên mua (bên nhập khẩu) có nghĩa vụ phải nhận hàng và thanh toán tiền.
Kinh doanh nhập khẩu là thực hiện hoạt động mua bán với một hoặc nhiều quốc gia khác, do đó giữa người mua và người bán có sự khác biệt về ngôn ngữ; giữa quốc gia này và quốc gia kia có sự khác nhau về chính trị, luật pháp, tôn giáo, phong tục tập quán nên hợp đồng ngoại thương là hết sức cần thiết để thống nhất giữa hai bên, tránh sự hiểu lầm gây hậu quả nghiêm trọng.
Hợp đồng thương mại quốc tế ghi nhận đầy đủ kết quả của việc giao dịch đàm phán giữa hai bên, trong đó nội dung của hợp đồng phải thể hiện đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia ký kết.
Các điều khoản chính thường có trong một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu gồm:
a. Điều khoản tên hàng.
Điều khoản này của hợp đồng phải được diễn tả thật chính xác vì đây là cơ sở để người bán giao đúng hàng mà người mua cần và bên mua trả tiền đúng với hàng mà mình yêu cầu. Để mô tả chính xác hàng hoá, cần có các cách thức như sau:
- Ghi tên hàng bao gồm tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học, đặc biệt trong trường hợp hàng hoá là các giống cây, hoá chất.
- Ghi tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra nó.
- Ghi tên hàng kèm với qui cách chính của hàng đó.
- Ghi tên hàng kèm tên nhà sản xuất ra nó.
- Ghi tên hàng kèm với công dụng của hàng, thường là công dụng chủ yếu của sản phẩm. Theo tập quán thương mại, nếu hợp đồng có ghi rõ công dụng hàng hoá thì người bán phải giao hàng đáp ứng được công dụng đó cho dù giá có cao hơn.
b. Điều khoản phẩm chất.
Phẩm chất là điều khoản nói lên mặt chất của hàng hoá bao gồm tính năng, qui cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu quả của hàng hoá. Dựa vào điều khoản này, người bán giao hàng cho đúng để được thanh toán, giúp người mua nhận hàng theo đúng yêu cầu của mình, đồng thời đây cũng là cơ sở để quan trọng để xác định giá cho đúng. Có thể kể ra một số phương pháp chủ yếu mô tả phẩm chất của hàng hoá như sau:
- Qui định phẩm chất của hàng hoá giống mẫu cho trước.
- Qui định phẩm chất dựa vào tiêu chuẩn hàng hoá có sẵn.
- Qui định phẩm chất hàng hoá dựa vào nhãn hiệu (trade-mark).
- Qui định chất lượng hàng hoá dựa vào tài liệu kỹ thuật.
- Qui định phẩm chất hàng hoá bằng cách mô tả hàm lượng các chất chủ yếu quyết định phẩm chất của hàng.
- Qui định phẩm chất dựa vào hiện trạng hàng hoá.
- Qui định phẩm chất dựa vào sự mô tả hàng hoá.
- Xác định phẩm chất dựa vào chỉ tiêu đại khái quen dùng.
c. Điều khoản về số lượng.
Điều kiện này nhằm nói lên mặt lượng của hàng hoá được giao dịch bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng hoặc trọng lượng của hàng hoá, phương pháp qui định số lượng và phương pháp xác định trọng lượng của hàng hoá.
Có hai cách qui định số lượng là qui định chính xác hoặc qui định phỏng chừng tuỳ vào từng loại hàng hoá. Còn về trọng lượng, có thể xác định trọng lượng cả bì, trọng lượng thực tế, trọng lượng thương mại (Gt.m), trọng lượng thực tế (Gt.t )
Công thức qui đổi từ trọng lượng thực tế sang trọng lượng thương mại là:
Gt.m=Gt.t x (100 +W t.c)/(100 + Wt. t)
Trong đó: Gt.m : trọng lượng thương mại của hàng hoá
Gt.t : trọng lượng thực tế của hàng hoá
Wt.c : độ ẩm tiêu chuẩn của hàng hoá (tính bằng %)
Wt.t : độ ẩm thực tế của hàng hoá (tính bằng %)
d. Điều khoản về giao hàng.
Nội dung cơ bản của điều khoản này là sự xác định thời hạn, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng.
Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán bị buộc phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Có ba kiểu qui định thời hạn giao hàng như sau: thời hạn giao hàng có định kỳ, thời hạn giao hàng không định kỳ, thời hạn giao hàng ngay.
Thường địa điểm giao hàng đi và địa điểm chuyển hàng tới phụ thuộc vào điều kiện thương mại quốc tế do hai bên mua và bán chọn lựa. Nếu hai bên muốn qui định rõ địa điểm giao hàng, có thể thoả thuận theo các phương pháp sau: qui định cảng giao hàng, cảng đến và cảng thông quan; qui định một cảng và nhiều cảng; qui định cảng khẳng định và cảng lựa chọn.
Ngoài ra còn có các qui định về phương thức giao hàng, thông báo về giao hàng. Có các cách phân loại khác nhau về phương thức giao hàng. Có thể có giao nhận sơ bộ, giao nhận cuối cùng, giao nhận về số lượng, giao nhận về chất lượng. Thông báo giao hàng qui định về số lần người bán giao hàng và những nội dung cần được thông báo tuỳ theo mục đích của người muốn nhận được thông báo.
e. Điều khoản giá cả.
Điều khoản này trong hợp đồng qui định rõ những nội dung như đơn vị tiền tệ, mức giá, phương pháp qui định giá, điều kiện giảm giá, điều kiện thương mại quốc tế tương ứng. Đồng tiền tính giá thường được xác định bằng ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển đổi cao. Với người nhập khẩu thì thường có xu hướng chọn đồng tiền mất giá. Qui định mức giá phải dựa trên giá cả quốc tế. Có những cách qui định mức giá sau đây:
- Giá cố định: là giá được các bên thoả thuận ngay trong lúc ký hợp đồng và không thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Giá qui định: là giá cả không được qui định ngay khi ký hợp đồng mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Giá có thể xét lại (giá linh hoạt): là giá được xác định lúc ký hợp đồng nhưng được xem xét lại sau này khi giao hàng hoặc khi giá thị trường của hàng hoá đó có sự bi._.ến động tới một mức nhất định.
- Giá di động: là giá được tính toán dứt khoát vào lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả qui định ban đầu có đề cập đến những biến động về chi phí sản xuất trong thời kỳ thực hiện hợp đồng. Người ta sẽ qui định một giá cơ sở và qui định phương pháp tính toán giá di động sẽ được vận dụng.
f. Điều khoản thanh toán.
Điều khoản thanh toán bao gồm các nội dung chủ yếu sau: đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán, các chứng từ xuất trình để được thanh toán và một số các điều khoản khác.
Ngoài các điều khoản chủ yếu đã nêu trên, thì trong hợp đồng ngoại thương còn có các điều khoản thông thường sau:
- Điều khoản bao bì và ký mã hiệu.
- Điều khoản bảo hành.
- Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại.
- Điều khoản bảo hiểm.
- Điều khoản bất khả kháng.
- Điều khoản khiếu nại.
- Điều khoản trọng tài.
2. 3. Ký kết hợp đồng.
Các vấn đề cần lưu ý trước khi ký kết hợp đồng nhập khẩu:
- Chủ thể tham gia ký kết.
- Hình thức của hợp đồng.
- Nội dung của hợp đồng.
Những công việc cần lưu ý khi ký kết hợp đồng nhập khẩu:
- Thoả thuận thống nhất với nhau các điều khoản trước khi kí kết.
- Văn bản hợp đồng phải được xem xét kỹ lưỡng, đối chiếu cụ thể cẩn thận với những điều đã đạt được trong đàm phán.
- Hình thức hợp đồng phải sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu.
- Những điều khoản của hợp đồng phải xuất phát từ lợi ích của các bên, phù hợp với pháp luật các nước của chủ thể tham gia kí kết hợp đồng, phù hợp với luật quốc tế.
Các cách kí kết hợp đồng có thể là:
- Kí kết hợp đồng bằng văn bản.
- Bên mua xác định thư chào hàng của bên bán.
- Người bán xác định bằng văn bản đơn đặt hàng của người mua.
2. 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng.
a. Xin giấy phép nhập khẩu.
Trong xu thế tự do hoá mậu dịch như hiện nay, Việt Nam cũng như nhiều nước đang giảm bớt số mặt hàng cần phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến, nhằm góp phần đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất nhập khẩu. Theo nghị định 89/CP kể từ ngày 01/02/1997 trở đi, chỉ còn chín trường hợp đặc biệt là cần phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến đối với xuất nhập khẩu hàng mậu dịch. Tổng cục Hải quan sẽ cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng phi mậu dịch (hàng mẫu, quà biếu, triển lãm).
b. Mở thư tín dụng L/C (nếu có).
Nếu hợp đồng qui định thanh toán bằng phương thức thư tín dụng chứng từ thì bên mua (nhập khẩu) phải mở L/C ở ngân hàng khi có thông báo từ bên bán. Thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời hạn giao hàng. Để cho chặt chẽ, hợp đồng thường qui định cụ thể ngày giao hàng, ngày mở L/C. Nếu như hợp đồng không qui định cụ thể thì thông thường thời gian này là khoảng 15-20 ngày trước khi đến thời hạn giao hàng. Cơ sở để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Đơn vị nhập khẩu dựa vào căn cứ này để điều vào mẫu “giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu“.
c. Thuê tàu chở hàng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, việc thuê tàu được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau: điều khoản của hợp đồng, đặc điểm của hàng hoá mua bán và điều kiện vận tải. Chẳng hạn nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng nhập khẩu là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng, nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì nghĩa vụ thuê tàu là của người xuất khẩu. Hoặc nếu hợp đồng nhập khẩu qui định điều kiện là FCA (cảng đi) thì chủ hàng xuất nhập khẩu phải thuê container hoặc tàu Ro/Ro để chở hàng. Còn nếu nhập khẩu hàng hoá thường xuyên với khối lượng lớn thì nên thuê bao, nếu khối lượng nhỏ thì thuê tàu chợ. Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm, nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một Công ty hàng hải nào đó.
d. Mua bảo hiểm hàng hoá.
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm thường dựa trên các căn cứ sau:
Điều khoản của hợp đồng.
Tính chất của hàng hoá.
Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng.
Loại tàu chuyên chở.
Dựa trên các căn cứ trên mà doanh nghiệp lựa chọn điều kiện: loại A hay B hay loại C. Ngoài ra doanh nghiệp có thể lựa chọn ký kết hợp đồng bảo hiểm chuyến hoặc hợp đồng bảo hiểm bao. Hợp đồng bảo hiểm bao thì phí bảo hiểm trung bình cho mỗi chuyến hàng sẽ giảm đi, đồng thời cũng giảm bớt các thủ tục, tuy nhiên hình thức này chỉ thích hợp đối với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường xuyên.
e. Làm thủ tục hải quan.
Thủ tục hải quan là bắt buộc đối với những hàng hoá vận chuyển ngang qua biên giới quốc gia. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan một cách trung thực và chính xác. Tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo một số giấy tờ chủ yếu sau: giấy phép nhập khẩu (nếu có), hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết.
- Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá phải được sắp xếp thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng chịu chi phí nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng.
- Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra đối chiếu giấy tờ và hàng hoá, hải quan đưa ra các quyết định như: cho hàng thông quan, cho hàng đi qua một cách có điều kiện kèm theo, hàng không được nhập khẩu. Chủ hàng phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó, nếu vi phạm sẽ bị buộc tội hình sự.
g. Nhận hàng nhập khẩu.
Đơn vị nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác làm những công việc sau:
Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc nhận hàng.
Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu từng năm, từng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận.
Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng (như vận đơn, lệnh giao hàng) nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
Thông báo cho các đơn vị đặt hàng trong nước chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá.
Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu.
Chuyển hàng hoá về kho của doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp cho các đơn vị đặt hàng.
Kiểm tra hàng hoá: Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập thư dự kháng nếu nghi ngờ, hoặc thật sự hàng hoá có tổn thất, thiếu hụt hoặc không đúng theo hợp đồng.
Trong trường hợp hàng nhập khẩu được xếp trong container, có thể có một trong hai khả năng sau:
+ Nếu chủ hàng đủ một container (FCL), cảng giao container cho chủ hàng nhận về cơ sở của mình và hải quan kiểm hoá tại cơ sở đó.
+ Nếu chủ hàng không đủ một container (LCL), cảng giao container cho chủ hàng có nhiều hàng nhất mang về cơ sở để dỡ hàng, phân chia, với sự giám sát của hải quan. Nếu cảng là người mở container để phân chia thì chủ hàng làm thủ tục như hàng lẻ.
h. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Nếu chủ hàng nhập khẩu thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại có thể là người bán, người vận tải, Công ty bảo hiểm tuỳ theo nguyên nhân của tổn thất. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất: biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm).
3. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu.
Sau khi nhập hàng từ nước ngoài về, doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức tiêu thụ tốt trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần tiến hành tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, nhằm có thể tái đầu tư vào quá trình nhập khẩu tiếp theo. Muốn vậy, doanh nghiệp cần chú ý những điều sau:
Nghiên cứu thị trường trong nước và tâm lý khách hàng trong việc mua hàng hoá, nhất là đối với loại hàng hoá doanh nghiệp cần kinh doanh.
Xác định các kênh phân phối và các hình thức bán.
Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng.
Xác định mức giá cụ thể trên cơ sở cung cầu thị trường và chi phí của doanh nghiệp.
Tổ chức nghiệp vụ bán hàng cụ thể tại các cửa hàng.
III. Các hình thức nhập khẩu.
1. Nhập khẩu tự doanh.
Hoạt động nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng và phù hợp luật pháp Việt Nam và quốc tế.
- Trong hoạt động này, doanh nghiệp hoàn toàn chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu bao gồm từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ lợi nhuận thu được đồng thời tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua lỗ.
2. Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hình thức hoạt động kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một hoặc một số loại hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương, có chức năng giao dịch, kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, tiến hành công việc nhập khẩu theo yêu cầu của mình.
3. Nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó phải có ít nhất một doanh nghiệp có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng thực hiện giao dịch thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển theo hướng có lợi cho cả hai bên, lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu.
4. Nhập khẩu hàng đổi hàng.
Nhập khẩu hàng đổi hàng và trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nhập khẩu hàng đổi hàng là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán trong hợp đồng này không phải bằng tiền mà là bằng hàng hoá. Trong trường hợp này, mục đích của hoạt động nhập khẩu không phải chỉ là thu lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu mà còn để xuất khẩu hàng hoá và thu được lợi nhuận từ xuất khẩu.
5. Nhập khẩu tái xuất.
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải nhằm mục đích tiêu thụ trong nước mà là để xuất khẩu sang một nước thứ ba nào đó để thu lợi nhuận. Những hàng hoá này hoặc là không được đưa vào lưu thông, hoặc là có qua lưu thông song chưa qua chế biến ở trong nước tái xuất. Luôn luôn có ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế.
Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu cần nắm rõ các điều luật, chủ trương chính sách của Nhà nước. Ngoài ra doanh nghiệp cần tìm hiểu luật pháp của nước phía đối tác, đồng thời nắm rõ thông lệ tập quán, công ước quốc tế. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể chủ động trong kinh doanh, trong đàm phán ký kết để đạt được kết quả cao nhất.
2. Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu.
Một trong những đặc thù của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là thanh toán bằng ngoại tệ đối với ít nhất một bên tham gia kinh doanh nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tác động đến việc quyết định việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương thức kinh doanh, quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Sự biến động của nhân tố này gây ra những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn khi tỉ giá hối đoái giảm thì sẽ hạn chế xuất khẩu đồng thời khuyến khích nhập khẩu và ngược lại.
Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ thu về khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Trên cơ sở so sánh tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu với tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp sẽ xác định mặt hàng kinh doanh của mình. Nếu tỷ suất ngoại tệ của hàng hoá nhập khẩu (USD/VND) lớn hơn tỷ giá hối đoái thì mặt hàng đó nhập khẩu có hiệu quả.
3. Sự biến động của thị trường trong và ngoài nước.
Nếu có sự thay đổi về giá cả hay nhu cầu của một mặt hàng ở thị trường trong nước thì sẽ làm thay đổi lượng hàng nhập khẩu. Thị trường ngoài nước ảnh hưởng tới sự thoả mãn các nhu cầu trong nước. Sự biến động của thị trường nước ngoài về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua nhập khẩu để tác động lên thị trường trong nước.
4. Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước.
Hoạt động nhập khẩu chịu tác động của tình hình sản xuất trong và ngoài nước. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, sản xuất ra được những hàng hoá có sức cạnh tranh cao với hàng hoá nhập khẩu, thay thế được sản phẩm nhập khẩu, do đó làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Còn nếu sản xuất trong nước kém phát triển, hàng hoá không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng nội địa thì nhu cầu hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong thời gian tới là khi tham gia vào AFTA sẽ không còn các ưu đãi về giá cả thì liệu có đủ sức để cạnh tranh với hàng ngoại nhập, có đủ sức để tồn tại và phát triển không. Với sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài, tạo ra được những sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, hoạt động nhập khẩu sẽ được thúc đẩy.
5. Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Hệ thống giao thông vận tải tốt giúp cho công tác vận chuyển bốc dỡ, bảo quản hàng hoá nhanh chóng và hiệu quả hơn, giúp giảm bớt chi phí lưu thông. Do đó đây là một trong những nhân tố góp phần mở rộng hoạt động nhập khẩu.
Trong thời đại ngày nay thông tin đã trở nên hết sức cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đón bắt thông tin kịp thời giúp cho doanh nghiệp điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình. Hệ thống thông tin liên lạc hiện đại giúp cho các bên có được những thông tin kịp thời, đầy đủ, để có thể tận dụng các cơ hội kinh doanh, đơn giản hoá hoạt động nhập khẩu, giảm thiểu chi phí và rủi ro. Với đặc thù của kinh doanh thương mại quốc tế, các bên thường ở cách xa nhau về mặt địa lý, do đó bổ sung thông tin kịp thời của phía đối tác là điều cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp.
6. Hệ thống tài chính ngân hàng.
Sự phát triển của thương mại quốc tế kéo theo sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, đồng thời sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng tài chính quốc tế đến lượt mình lại góp phần làm gia tăng phát triển của thương mại quốc tế. Các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và cung cấp vốn, giúp cho các doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh kịp thời. Các ngân hàng còn đóng vai trò quan trọng trong thanh toán quốc tế, đảm bảo an toàn hơn về tiền và hàng cho doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu.
7. Các yếu tố khác.
Ngoài các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến nhập khẩu đã nêu trên, thì còn có một số nhân tố cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu. Có thể kể đến những nhân tố như sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ thế giới, phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của các quốc gia, các liên kết kinh tế khu vực. Người kinh doanh nhập khẩu cần tìm hiểu một cách đầy đủ để phần nào nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Chương II: phân tích thực trạng kinh doanh nhập khẩu của Công ty thực phẩm miền bắc
I. Đặc điểm, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty thực phẩm miền bắc.
1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty.
Công ty Thực phẩm miền Bắc có tên giao dịch quốc tế là Northern Foodstuff Company - Fonexim, là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trên cả ba lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Công ty có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
Từ khi ra đời đến nay Công ty đã trải qua nhiều lần sát nhập các Công ty con. Sự tăng lên quy mô của Công ty là một điều thuận lợi, tuy nhiên điều bất lợi của việc sát nhập là Công ty phải giải quyết các khoản nợ cũ còn tồn đọng.
Năm 1992, Công ty Thực phẩm miền Bắc sát nhập với Công ty Rau quả thành Công ty Thực phẩm Rau quả thực thuộc Tổng Công ty Thực phẩm Bộ Thương mại.
Năm 1993, Công ty Thực phẩm Rau quả lại sát nhập với Công ty Thực phẩm Công nghệ miền Bắc thành Công ty Thực phẩm miền Bắc vẫn thuộc Tổng Công ty thực phẩm và được đăng ký kinh doanh theo Nghị định 338/CP của Chính phủ.
Năm 1997, Công ty Thực phẩm miền Bắc - Bộ Thương mại được thành lập theo quyết định số 692 - TM - TCCD ngày 13/8/1997 trên cơ sở sát nhập các Công ty:
- Công ty Thực phẩm miền Bắc.
- Công ty bánh kẹo Hữu nghị.
- Công ty thực phẩm xuất nhập khẩu Nam Hà.
- Các đơn vị trực thuộc văn phòng Tổng Công ty.
Quyết định 217/HĐBT về việc giao chuyển chủ động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đã tạo điều kiện cho Công ty thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đó cũng là một thách thức lớn đối với Công ty. Để tồn tại và phát triển, hoà nhập với xu thế mới của đất nước và thế giới, Công ty đã từng bước bố trí sắp xếp lại cơ cấu tổ chức kinh doanh gọn nhẹ, phù hợp với quy mô và khả năng sản xuất kinh doanh; không ngừng nâng cao trình độ quản lý của người lãnh đạo, bồi dưỡng tăng cường nghiệp vụ kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong Công ty, nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng mặt hàng xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
Quyết định số 945/TMTCCB ngày 23/10/1997 của Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty. Công ty hoạt động theo luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật doanh nghiệp và các điều lệ quy định của Bộ Thương mại.
* Chức năng của Công ty.
- Trực tiếp xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu các mặt hàng: Nông, lâm, thuỷ hải sản và các mặt hàng do liên doanh, liên kết tạo ra.
- Tổ chức sản xuất, chế biến các loại sản phẩm thực phẩm công nghệ như: rượu, bia, đường, sữa, bánh kẹo... nông lâm sản, rau quả.
- Dịch vụ khách sạn - du lịch, kho bãi.
- Kinh doanh các mặt hàng tiêu dùng, vật tư, nguyên vật liệu sản xuất, phân bón, phương tiện vận chuyển thực phẩm.
- Bán buôn, bán lẻ trên thị trường nội địa những mặt hàng thuộc phạm vi Công ty sản xuất kinh doanh.
* Nhiệm vụ của Công ty.
- Chấp hành luật pháp Nhà nước, thực hiện các chế độ chính sách về quản lý và sử dụng tiền vốn, vật tư, tài sản nguồn lực, thể hiện hạch toán kinh tế bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước.
- Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh và dịch vụ phát triển theo kế hoạch và mục tiêu chiến lược của Công ty.
- Tổ chức thu mua, sản xuất, nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng.
- Mở rộng địa bàn kinh doanh mua bán trong phạm vi cả nước và nước ngoài.
- Tăng cường công tác kiểm tra, quản lý, hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế thất thoát về kinh tế.
- Thực hiện đầy đủ mọi cam kết trong hợp đồng kinh tế đã ký kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội theo quy định của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Công ty.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của Công ty.
Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh cuả Công ty bao gồm:
* Giám đốc: là người đứng đầu Công ty do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm. Giám đốc điều hành Công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, trước Bộ Thương mại, trước tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty về việc tồn tại và phát triển của Công ty. Giám đốc được tổ chức bộ máy quản lý mạng lưới kinh doanh phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Công ty và quy định phân cấp tổ chức quản lý của Bộ.
Trong Ban giám đốc có ba Phó giám đốc do Giám đốc Công ty lựa chọn và đề nghị Bộ Thương mại bổ nhiệm. Một Phó giám đốc phụ trách về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, hai Phó giám đốc còn lại phụ trách về hoạt động kinh doanh nội địa của Công ty, trong đó có một Phó giám đốc thứ nhất có quyền điều hành công việc thay Giám đốc khi Giám đốc đi vắng.
Các phòng ban chức năng của Công ty bao gồm:
- Phòng tổ chức hành chính.
- Phòng kế toán tài chính.
- Phòng kinh doanh.
- Phòng kế hoạch sản xuất.
- Phòng xuất nhập khẩu và khách sạn du lịch.
- Phòng kỹ thuật thiết bị.
* Phòng tổ chức hành chính.
Tham mưu cho Giám đốc về:
- Tổ chức nhân sự, tổ chức bộ máy quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác quản lý cán bộ, hồ sơ cán bộ công nhân viên trong Công ty.
- Cân đối tiền lương, tuyển dụng lao động ngắn hạn và dài hạn, điều chỉnh lao động giữa các đơn vị; giải quyết, quyết định cho cán bộ công nhân viên thôi việc, về hưu, mất sức, kỷ luật...
- Căn cứ vào chế độ chính sách của Nhà nước để giải quyết các vấn đề cụ thể và chế độ bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và bồi dưỡng...
- Xây dựng kế hoạch lao động, quỹ tiền lương hàng năm, quy chế hoá các nguyên tắc trả lương, tiền thưởng, xác định đơn giá tiền lương, các định mức lao động.
- Phụ trách công tác đào tạo mới, thi nâng bậc công nhân, bồi dưỡng cán bộ quản lý, tổ chức hướng dẫn các đoàn thể tham gia các hoạt động, quản lý sinh viên thực tập.
* Phòng kế toán tài chính.
Tham mưu cho Giám đốc về:
- Quản lý toàn bộ nguồn vốn, các tài liệu số liệu về kế toán tài chính, quyết toán, tổng kiểm kê tài sản hàng năm theo định kỳ của Nhà nước.
- Báo cáo về tài chính lên cơ quan cấp trên và nộp các khoản ngân sách theo quy định của Nhà nước.
- Kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong Công ty qua hoạt động tài chính.
- Hàng tháng hoặc hàng quý tổ chức quyết toán, khi cần thiết thì tiến hành thanh tra tài chính đối với các thành viên trong Công ty.
- Làm thủ tục thanh lý và quản lý tốt tiền mặt, điều phối vốn trong Công ty.
- Bảo toàn và phát triển vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn.
* Phòng kinh doanh.
Là phòng chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh ở trong nước, phòng tham mưu cho Giám đốc về:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty dựa trên thông tin ở phòng kế hoạch.
- Mở rộng thị trường kinh doanh trong nước.
- Xem xét các phương án kinh doanh có tính khả thi đối với Công ty.
- Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá sản xuất và sản phẩm nhập về.
* Phòng kế hoạch sản xuất.
- Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm từ số liệu báo cáo định kỳ của các bộ phận khác trong Công ty, từ tình hình thực tế của thị trường xây dựng phương hướng phát triển kế hoạch dài hạn sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Điều tiết kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng quý, hàng năm theo nhu cầu sản phẩm trên thị trường, điều tiết kế hoạch vận chuyển hợp lý.
- Có kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị theo kế hoạch.
- Có trách nhiệm về chất lượng và bảo quản vật tư trong kho, quản lý tốt các kho của Công ty.
* Phòng xuất nhập khẩu và khách sạn du lịch.
Là phòng nghiệp vụ chuyên môn về xuất nhập khẩu những mặt hàng trong phạm vi hoạt động của Công ty. Phòng tham mưu cho ban giám đốc vấn đề bao quát các hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu do Công ty giao theo hợp đồng với các Công ty khác trong và ngoài nước qua hoạt động xuất nhập khẩu uỷ thác hoặc trực tiếp.
Do Công ty chưa đẩy mạnh được xuất khẩu nên hợp đồng nhập khẩu là chủ yếu của phòng xuất nhập khẩu, từ các khâu nghiên cứu các Công ty, người cung cấp hàng hoá, xem xét các thư chào hàng, lựa chọn bạn hàng, tiến hành giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng là những việc mà phòng xuất nhập khẩu của Công ty phải đảm nhiệm. Ngoài ra, Giám đốc sẽ kiểm tra quá trình thực hiện, quá trình thanh toán các hợp đồng nhập khẩu của Công ty, đánh giá xem xét cụ thể để đưa ra giá bán phù hợp.
* Phòng kỹ thuật thiết bị.
Tham mưu cho Giám đốc về máy móc kỹ thuật trong các dây chuyền, bộ phận sản xuất của Công ty, xác định việc khôi phục sửa chữa thay mới các thiết bị, thiết kế hình dáng mẫu mã bao gói sản phẩm.
* Các đơn vị trực thuộc Công ty.
- Xí nghiệp chế biến thực phẩm.
- Xí nghiệp bánh kẹo Hữu Nghị.
- Nhà máy bánh quy cao cấp Hà Nội.
- Xí nghiệp thực phẩm Thái Bình.
- Chi nhánh Hải Phòng.
- Chi nhánh Việt Trì.
- Khách sạn Nam Phương.
- Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
- Chi nhánh Lạng Sơn.
- Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 1 Hà Nội.
- Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 2 Hà Nội.
- Cửa hàng thực phẩm 203 Minh Khai Hà Nội.
Mọi hoạt động trong Công ty đều có sự nhất quán từ trên xuống dưới, các bộ phận hoạt động độc lập nhưng có mối liên hệ mật thiết với các bộ phận khác tạo thành một hệ thống thống nhất. Công ty có mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi được bạn hàng tin cậy, khách hàng tín nhiệm.
Biểu 1 Sơ đồ bộ máy tổ chức kinh doanh của Công ty
Thực phẩm miền Bắc.
Ban giám đốc
Phòng kế toán tài chính
Phòng kinh doanh
Phòng tổ chức hành chính
Phòng XNK và KSDL
Phòng Kế hoạch sản xuất
Phòng Kỹ thuật thiết bị
XN chế biến thực phẩm
Chi nhánh Việt Trì
Cửa hàng 203 Minh Khai
Cửa hàng số 1 + 2 + 3
XN Bánh Kẹo
Chi nhánh Lạng Sơn
Trung tâm bán buôn
Khách sạn Nam Phương
Chi nhánh TP Hồ Chí Minh
Chi nhánh Hải Phòng
XNCB thực phẩm Thái Bình
Chi nhánh Sơn Tây
Nhà máy bánh qui cao cấp
Khách sạn Hà Nội (Việt Trì)
4. Đặc điểm mặt hàng sản xuất kinh doanh của Công ty.
Ngày nay mặt hàng thực phẩm rất phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã, đáp ứng được nhu cầu muôn vẻ của người tiêu dùng cả về số lượng, chất lượng, và sự tiện lợi khi sử dụng. Nắm bắt được nhu cầu của thị trường, Công ty đã mạnh dạn tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở đa dạng hoá mặt hàng. Đồng thời Công ty tiến hành thường xuyên các biện pháp kiểm dịch vệ sinh thực phẩm, kiểm tra các quy định, thời hạn sử dụng của sản phẩm từ sản xuất đến tiêu thụ để đảm bảo an toàn thực phẩm cho khách hàng.
* Mặt hàng kinh doanh của Công ty.
- Bánh kẹo là mặt hàng truyền thống của Công ty, bánh kẹo Hữu nghị có uy tín trên thị trường về chất lượng từ lâu năm, sản phẩm của Công ty là bánh mứt kẹo Hữu Nghị, kẹo lạc, kẹo hoa quả, bánh quy cao cấp...
- Công ty kinh doanh các mặt hàng thực phẩm công nghệ như: Rượu, bia, nước giải khát, sữa đường các loại... bột ngọt, các mặt hàng thực phẩm, lương thực, cao su, vật tư, nguyên vật liệu, phương tiện vận chuyển, kinh doanh kho bãi, khách sạn...
Mặt hàng kinh doanh có những đặc điểm về kinh tế, kỹ thuật và nghiệp vụ sau:
+ Về mặt kỹ thuật: Mỗi loại hàng hoá đều có các đặc tính lý, hoá, sinh cơ học khác nhau và phục vụ cho một nhu cầu sử dụng nhất định. Công ty vừa kinh doanh vừa sản xuất nên mặt hàng của Công ty có những tiêu chuẩn đặc trưng đó là những tiêu chuẩn chung đã được quốc tế hoá; hàng nhập khẩu thì nhất thiết phải có tiêu chuẩn quốc tế, còn hàng Công ty sản xuất ra được Cục đo lường chất lượng kiểm tra các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật.
+ Về mặt kinh tế: Thực phẩm là loại hàng hoá không thể thiếu trong sinh hoạt của mỗi người. Đó là loại hàng hoá có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia. Nó đóng vai trò quan trọng không nhỏ trong việc nâng cao đời sống người dân, hướng con người đến những nhu cầu có tính chất cao hơn, tốt hơn.
+ Về mặt nghiệp vụ: Kinh doanh hàng hoá trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải có kiến thức về kinh doanh, kỹ thuật và nghiệp vụ chuyên môn. Ngoài các nghiệp vụ chung như các hàng hoá khác thì thực phẩm đòi hỏi phải có nghiệp vụ riêng. Hàng thực phẩm phải được đảm bảo về mặt chất lượng trong quá trình sản xuất, đóng gói, kiểm tra, giao nhận, vận chuyển, bảo quản. Hàng hoá khi nhập về, Công ty có thể huy động tiềm lực nội bộ vận chuyển hàng hoá về kho hoặc có thể thuê ngoài nếu khối lượng lớn. Còn sản phẩm hàng hoá sản xuất chế biến thì được bảo quản ngay tại kho của xí nghiệp. Tại các kho trạm, hàng hoá sản phẩm tuỳ theo đặc tính tính chất mà có sự bảo quản, trông coi sử dụng các thiết bị khác nhau. Rượu bia thì phải được cất giữ ở những nơi thông thoáng, bánh kẹo để nơi khô ráo, các loại khác như thực phẩm chế biến, thủy sản chế biến thì có các thiết bị đặc biệt để bảo quản nhằm đảm bảo lượng hàng hoá khi bán cho người tiêu dùng.
Như vậy, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh chính của Công ty là thực phẩm, đây cũng là một lĩnh vực lớn đầy tiềm năng. Người tiêu dùng ngày càng có nhu cầu cao đối với mặt hàng thuộc lĩnh vực thực phẩm do đời sống của họ ngày càng được nâng cao. Nhu cầu của họ đa dạng phong phú không chỉ quan tâm đến chất lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá mà cả về thời gian cũng như sự tiện lợi khi sử dụng, bao bì, mẫu mã. Điều này cũng mở ra cho Công ty nhiều cơ hội kinh doanh nhưng cũng nhiều thức thức đòi hỏi Công ty một sự nhanh nhạy, khéo léo và niềm tin vào khả năng của mình.
II. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty thực phẩm miền Bắc (1999 - 2001).
1. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thực phẩm miền Bắc (1999 - 2001).
Sau bốn năm sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và định hướng mục tiêu kinh doanh của Công ty, hoạt động kinh doanh sản xuất của công đã có một số thành quả đáng khích lệ nhất là ba năm gần đây 1999 - 2001.
Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong ba năm qua (1999 - 2001) ta có những nhận xét sau:
+ Kể từ khi sát nhập lại thành Công ty thực phẩm miền Bắc, doanh thu Công ty đạt mức cao nhất là 938,3 tỷ đồng (năm 2001), doanh thu năm 1999 là 670,8 tỷ đồng. Năm 2000, doanh thu của Công ty giảm xuống 634 tỷ đồng, giảm 5,49% tương ứng với mức giảm tuyệt đối là 36,8 tỷ đồng.
Năm 2000, luật thuế VAT có hiệu lực, giá bán hàng tăng làm giảm một phần nhu cầu trong nước. Năm 2001, doanh thu của Công ty tăng đột biến, tăng lên 938,3 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2000, mức tăng tuyệt đối là 304,3 tỷ đồng.
Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thực phẩm miền Bắc (1999 - 2001)
Chỉ tiêu
ĐVT
1999
2000
2001
2000/1999
2001/2000
Kế hoạch
Thực hiện
Kế hoạch
Thực hiện
Kế hoạch
Thực hiện
Tương đối
Tuyệt đối
Tương đối
Tuyệt đối
Tổng doanh thu
Tỷ đồng
500
670,8
430
634
474
938,32
-5.49
-36,8
47
304,32
Tổng nộp NSNN
Triệu đồng
23737
30215,8
11472
11988,1
15260._.cầu của sản xuất và tiêu dùng xã hội trên cơ sở chấp hành nghiêm túc các qui định chính sách của Nhà nước. Thông qua đó duy trì và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời phải làm tăng lợi nhuận của Công ty, tăng các khoản nộp ngân sách, góp phần làm lợi cho Nhà nước, cho xã hội, để nền kinh tế ngày càng phát triển.
- Xây dựng tổ chức lại Công ty để bộ máy gọn nhẹ ổn định hơn. Cụ thể là tổ chức bộ máy nhân sự, xây dựng chiến lược kinh doanh các mặt hàng kinh doanh chủ yếu. Nghiên cứu thay đổi từng bước cơ cấu hàng nhập khẩu hiệu quả hơn.
2. Chính sách cụ thể của Công ty.
Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong Công ty xác định rằng trong thời gian tới, tình hình kinh doanh sẽ ngày càng khó khăn hơn. Sẽ có nhiều đối thủ cạnh tranh, với nhiều phương thức kinh doanh hiệu quả, có nhiều ưu thế về vốn, nhân lực... Đây cũng là tình hình khó khăn chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay. Dự kiến kế hoạch của Công ty trong thời gian tới là tương đối thận trọng, các chỉ tiêu đề ra năm 2002 tuy hơn các chỉ tiêu kế hoạch năm 2001, song nếu so sánh với các chỉ tiêu thực hiện năm 2001 thì đều thấp hơn hoặc tương đương.
Cụ thể là tổng doanh thu dự kiến năm 2002 là 570.000 triệu đồng chỉ bằng 60% doanh thu thực hiện năm 2001.
Trong đó dự kiến kế hoạch bán hàng trên thị trường nội địa, năm 2002 là 451.350 triệu đồng, chỉ bằng 65,31% doanh thu thực tế bán hàng thị trường thị trường nội địa năm 2001.
- Dự kiến doanh thu từ xuất khẩu năm 2002 là 71.400 triệu rất thấp so với doanh thu từ xuất khẩu thực hiện năm 2001 chỉ bằng 35,29%. Kế hoạch căn cứ vào tình hình biến động của thị trường thế giới, các hợp đồng đã ký, và mối quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
- Dự kiến doanh thu từ dịch vụ là 3.400 triệu, chiếm 85% so với doanh thu thực hiện năm 2001. Phân tích dựa trên tính ít biến động về doanh thu từ dịch vụ qua các năm.
Chỉ có một chỉ tiêu dự kiến kế hoạch năm 2002 lớn hơn so với thực hiện năm 2001, đó là chỉ tiêu doanh thu từ sản xuất. Dự kiến là 43.850 triệu, tức là bằng 106,95% doanh thu thực tế từ sản xuất.
2.1. Chính sách mặt hàng kinh doanh.
Trong thời gian tới Công ty vẫn giữ chiến lược đa dạng hoá mặt hàng để đảm bảo tính linh hoạt và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Gần đây mặt
Nội dung
ĐVT
Năm 2001
Dự kiến KH
Năm 2002
K/hoạch
Thực hiện
Tổng doanh thu
Tr. đồng
474. 000
938. 321
570. 000
- Bán hàng trên thị trường nội địa
Tr. đồng
360. 000
691. 046
451. 350
- Doanh thu từ xuất khẩu
Tr. đồng
71. 000
202. 275
71. 400
- Doanh thu từ dịch vụ
Tr. đồng
6. 000
4. 000
3. 400
- Doanh thu từ sản xuất
Tr. đồng
37. 000
41. 000
43. 850
Mặt hàng kinh doanh chủ yếu
Đường các loại
Tấn
47. 500
100. 578
55. 000
Sữa các loại
Tấn
150
162
170
Cao su các loại
Tấn
7. 000
6. 500
7. 600
Bánh kẹo các loại
Tấn
1. 300
1. 400
1. 200
Rượu các loại
1000 chai
1. 000
700
900
Thuốc lá các loại
1000 bao
100. 000
110
120
Hàng thực phẩm khác
Tấn
245
300
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
1000USD
4. 700
13. 485
5. 400
Mặt hàng xuất khẩu
- Đường các loại
Tấn
48. 000
35. 500
40. 000
- Cao su các loại
Tấn
7. 000
6. 500
7. 600
- Hàng thực phẩm khác
1000USD
500
690
800. 000
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
1000USD
1. 782
1. 055
885
Mặt hàng nhập khẩu
- Rượu các loại
1000 chai
100
231,5
120
- Sữa bột các loại
Tấn
70
153
160
- Thực phẩm khác
1000 USD
50,05
115,6
80
- Nhập ủy thác
1000 USD
1. 140
674,9
850
hàng đường và thuốc lá là mặt hàng chủ đạo của Công ty. Thuốc lá là mặt hàng nhạy cảm, có hại cho sức khoẻ, nên gặp khó khăn trong việc xúc tiến tiêu thụ. Tuy vậy, Công ty xác định với kinh nghiệm kinh doanh từ lâu, lại có sẵn quan hệ lâu dài với khách hàng và các nhà cung ứng, thì trong thời gian tới đây vẫn là hai mặt hàng chủ đạo của Công ty. Ngoài ra, vẫn nên duy trì những mặt hàng như bánh kẹo, sữa, rượu để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hiện nay Công ty đang có hai kho chứa đường ở Vĩnh Tuy và Sơn Tây. Trong thời gian tới sẽ nâng cấp các kho hiện có, đồng thời sẽ nghiên cứu mở rộng thêm các kho mới ở các đầu mối như Gia Lâm, Hà Tây... Còn mặt hàng thuốc lá thì cần mở thêm các đại lý bán buôn ở các tỉnh phía Bắc. Đối với các khu vực trung tâm thành thị như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định sẽ tập trung kinh doanh các mặt hàng thuốc lá có chất lượng cao như Vinataba, Vinagol, 555, Dunhill; còn các chủng loại như Du lịch, Thăng Long, Bông sen chủ yếu được phân bổ về các vùng nông thôn có thu nhập thấp hơn thành thị.
Cùng với việc nghiên cứu sản xuất ra các sản phẩm bánh kẹo mới có mùi vị khác lạ, thơm ngon, Công ty cũng tiến hành nghiên cứu cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm: các hình bên ngoài hộp bánh phải sắc nét, lịch sự và trang nhã tương xứng với chất lượng sản phẩm. Thông qua bao bì, góp phần định vị sản phẩm, từ đó góp phần củng cố và nâng cao uy tín của Công ty.
2.2. Chính sách phân phối.
Hiện nay Công ty chỉ có hai cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở 203 Minh Khai và chợ Nghĩa Tân. Trong thời gian tới sẽ mở thêm một số cửa hàng tại các địa điểm tập trung đông dân cư, có lưu lượng người qua lại đông như Đồng Xuân, Hàng Buồm, Thái Hà, Kim Liên... Công ty sẽ mở rộng hệ thống đại lý phân phối để thúc đẩy lượng hàng hoá tiêu thụ. Các hướng mở rộng của Công ty sẽ là tăng thêm số đại lý trên các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng... là nơi có thị trường tiêu thụ lớn để dần dần mở rộng ra phía Nam.
Đối tượng làm đại lý cho Công ty là các công ty thương mại, đặc biệt là các cửa hàng chuyên kinh doanh các mặt hàng thực phẩm. Bên cạnh số lượng, không ngừng quản lý giám sát chặt chẽ để xử lý kịp thời những biểu hiện xấu để khắc phục những điểm yếu kém. Quản lý nghiêm ngặt về giá, tránh việc đại lý tự do nâng giá gây thiệt hại cho người bán lẻ trong kênh phân phối để có sự trợ giúp thích hợp.
2.3. Chính sách giao tiếp khuyếch trương.
Đây là hoạt động cần thiết để khách hàng biết về sản phẩm. Với tình hình Công ty hiện nay, việc quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, truyền thanh là chưa hợp lý vì Công ty sẽ khó có khả năng để trang trải chi phí. Công ty sẽ xúc tiến bán hàng thông qua catalog hàng mẫu, hội chợ triển lãm, quảng cáo trên báo chí.
Hiện nay Công ty đã có các Catalog giới thiệu về sản phẩm. Catalog cung cấp thông tin cần thiết như kích cỡ, giá cả, khối lượng, hình thức thanh toán... để giới thiệu cho khách hàng dễ dàng, thuận tiện. Hội chợ triển lãm cũng rất cần thiết đối với Công ty trong việc thiết lập các mối quan hệ làm ăn, trong việc định vị sản phẩm.
2.4. Chính sách giá cả của Công ty.
Giá cả là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Việc hoạch định chiến lược giá đúng đắn sẽ góp phần giữ vững thị phần, gia tăng doanh số. Một số chính sách giá sắp tới của Công ty:
Đối với các mặt hàng mà Công ty nhập về: rượu, đường, cao su, dầu ăn... Công ty tiếp tục xây dựng một kế hoạch giảm giá vững chắc.
Trong số các nhà cung ứng trên thị trường, Công ty tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu nhập hàng của nhà cung cấp với giá thấp nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, số lượng, tránh mua hàng qua nhiều kênh trung gian. Hiện nay Công ty chủ yếu nhập đường của nhà máy đường Lam Sơn.
Trong thời gian tới, Công ty vẫn tiếp tục hoạch định một số phần trăm tiền lãi giành để thưởng cho các nhà môi giới, các nhà phân phối chính, vì họ là những người đứng ra hoạt động Marketing, bán hàng và trực tiếp tiếp liệu. Phần lớn khoản lãi này họ dùng để bù đắp các chi phí chuyên chở, tồn kho, trả lương cho lực lượng bán hàng cung các chi phí khác.
Đối với các mặt hàng Công ty sản xuất, tiếp tục tìm các biện pháp hạ giá thành, giảm chi phí nguyên vật liệu, chi phí cố định, sử dụng nguyên vật liệu thay thế. Hiện nay, giá một số loại sản phẩm như bánh kẹo và rượu vang Hữu nghị của Công ty cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của các Công ty bánh kẹo Hải Hà, Tràng An, Rượu vang Thăng Long... Do đó việc điều chỉnh lại giá cả là một yêu cầu khá bức thiết đang được đặt ra cho đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty Thực phẩm miền Bắc.
2.5. Cơ sở vật chất, các trang thiết bị công nghệ.
Hiện nay, ngoài nhà máy sản xuất kẹo và bánh qui cao cấp Hữu nghị mới được đầu tư cải tạo hiện đại, còn tất cả các trụ sở chi nhánh của Công ty đều đã xuống cấp, lạc hậu so với tình hình kinh doanh hiện nay. Các cơ sở vật chất, kho hàng đều chưa tốt. Công ty đang có kế hoạch đầu tư nâng cấp, cải tạo lại các cơ sở kinh doanh, cửa hàng, nhà kho theo hướng hiện đại hoá của Nhà nước. Trong thời gian tới, ngoài việc trích quỹ dự phòng sản xuất kinh doanh, Công ty sẽ lập dự án để xin Bộ chủ quản cấp vốn để đầu tư vào công nghệ mới. Dự án lập dựa trên cơ sở điều tra nghiên cứu thị trường về chất lượng sản phẩm với giá cả thích hợp.
2.6. Chính sách về nhân sự.
Ban lãnh đạo Công ty xác định rõ tầm quan trọng của công tác dân sự đến sự lớn mạnh và phát triển của Công ty. Bên cạnh những hình thức đào tạo tại chỗ, Công ty cũng đã và đang cử các nhân viên theo học các khoá nâng cao trình độ chuyên môn. Việc học thêm về ngoại ngữ, tin học cũng được khuyến khích.
Việc tuyển dụng nhân viên theo đúng tiến trình, có sự giám sát quản lý chặt chẽ của Ban giám đốc, phòng tổ chức. Điều này nhằm đảm bảo cho Công ty có nguồn nhân lực đủ năng lực, trình độ, sức khoẻ, phẩm chất đạo đức. Ngoài ra việc khen thưởng cũng được coi trọng đúng mức.
II. Một số giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty thực phẩm miền bắc.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nội dung Marketting hiện đại đã chỉ rõ hãy sản xuất ra cái thị trường cần hơn là cái mình có. Doanh nghiệp cần phải hiểu biết rõ về từng biến động của thị trường. Ngày nay công tác nghiên cứu thị trường đã trở nên đặc biệt quan trọng trong định hướng kinh doanh của doanh nghiệp. Với việc nắm bắt đúng, kịp thời xu hướng biến động của thị trường, có thể tạo cơ sở để có những quyết định đúng đắn nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nghiên cứu thị trường là quá trình nghiên cứu phân tích các thông tin về các yếu tố cấu thành thị trường, nhằm tìm hiểu qui luật vận động và những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược kinh doanh.
Phân tích thị trường nhằm xác định những thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm cuả doanh nghiệp, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, nhằm xây dựng hoàn thiện chiến lược kinh doanh, làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công ty thực phẩm miền Bắc đã có Phòng Marketting chuyên nghiên cứu về thị trường. Tuy nhiên theo tôi, Công ty cần chú ý đầu tư hơn nữa về công tác này. Cụ thể:
- Công ty cần nhận thức rõ tầm quan trọng của nghiên cứu thị trường, cần dành một phần kính phí thường xuyên để đầu tư vào lĩnh vực này.
- Củng cố thị trường hiện tại của doanh nghiệp và tìm hiểu để xâm nhập vào các thị trường mới.
Thị trường mục tiêu là thị trường hiện tại của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Qui mô của thị trường mục tiêu vừa thể hiện thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường, vừa thể hiện tình trạng và mức độ cạnh tranh hiện tại. Thị trường hiện tại của các đối thủ cạnh tranh và phần thị trường không tiêu dùng tương đối hợp thành thị trường tiềm năng, là mục tiêu của các hướng tăng trưởng thị trường của doanh nghiệp. Qui mô của thị trường tiềm năng phản ánh khả năng và triển vọng phát triển thị trường của doanh nghiệp trong tương lai. Hiện nay thị trường tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu chính chỉ tập trung ở Hà Nội và các tỉnh lân cận phía Bắc như Vĩnh Phú, Nam Định, Hải Phòng... Trong thời gian tới ngoài việc củng cố thị trường hiện có, doanh nghiệp cần phát triển ra các tỉnh miền Trung và từng bước xâm nhập thị trường phía Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long nơi tập trung đông dân cư.
Tuỳ theo từng thời kì mà một doanh nghiệp kinh doanh có thể lựa chọn chiến lược kinh doanh. Nếu chiến lược của doanh nghiệp là thị phần thì doanh nghiệp sẽ phải tạm thời giảm bớt lợi nhuận nhằm tăng cao thị phần hướng tới mục tiêu lâu dài. Doanh nghiệp cần phải chú ý tuân thủ nguyên tắc sau khi chọn chiến lược thị phần:
- Mở rộng thị trường trên cơ sở đảm bảo vững chắc thị phần hiện có. Nếu xâm nhập được vào thị trường này song lại mất thị trường khác thì sẽ là thất bại của doanh nghiệp, nên việc mở rộng thị trường không được tách rời với việc củng cố những thị trường đã có.
2. Hoàn thiện hình thức kinh doanh nhập khẩu.
Hiện nay hai hình thức kinh doanh nhập khẩu của Công ty là nhập khẩu tự doanh và nhập khẩu uỷ thác (bột mỳ). Hai hình thức này có một số ưu điểm song cũng có những điểm hạn chế, do đó Công ty nên nghiên cứu để thực hiện các hình thức kinh doanh nhập khẩu khác. Chẳng hạn Công ty có thể liên doanh với các đơn vị kinh tế khác để cùng thực hiện giao cách thúc đẩy hoạt động ngoại thương theo hướng có lợi cho cả hai bên, lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu. Hình thức này có thể giúp Công ty tận dụng ưu thế về mối quan hệ bạn hàng của phía đối tác hoặc khai thác lợi điểm về vốn. Công ty cũng có thể xem xét hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng, nhập khẩu các thực phẩm cần thiết và xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Hình thức nhập khẩu này có thể mang lại lợi nhuận cả từ hoạt động xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Hình thức này góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn của Công ty, đồng thời giảm bớt các thủ tục thanh toán phiền hà, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí kinh doanh.
Hiện nay Công ty giao dịch thông qua hình thức giao dịch thông thường. Công ty thường cử người sang Trung Quốc, Singapore, ấn độ..tìm hiểu nguồn hàng và ký kết hợp đồng nhập khẩu. Hình thức này có ưu điểm là giúp Công ty không bị chia sẻ lợi nhuận, đồng thời chủ động trong hoạt động kinh doanh, tiếp xúc trực tiếp với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên với điều kiện hạn chế về vốn và nguồn nhân lực hiện nay của Công ty, thì hình thức này còn chưa phát huy thật hiệu quả. Vì vậy Công ty có thể tham khảo các hình thức kinh doanh nhập khẩu khác để có thể phát huy hiệu quả hơn các lợi điểm của Công ty, khắc phục nhược điểm.
Hình thức thanh toán cũng là một vấn đề cần lưu ý. Hiện nay hình thức thanh toán chủ yếu của Công ty là thanh toán qua L/C. Đây là hình thức thanh toán phổ biến trong thanh toán quốc tế. Hình thức này có nhiều ưu điểm, nó đảm bảo quyền lợi đối với cả hai bên trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Tuy nhiên thanh toán qua hình thức này thường có chi phí cao. Công ty có thể xem xét bàn bạc với những bạn hàng truyền thống có mối quan hệ tốt để đạt phương thức chuyển tiền nhanh như thư chuyển tiền. Tiền hàng có thể được chuyển một phần trước và trong khi giao hàng, phần còn lại được thanh toán sau khi giao hàng. Hình thức này giúp cho Công ty giảm được chi phí mở L/C, lại tiết kiệm được thời gian và giảm bớt thủ tục phiền hà cho cả hai bên.
3. Đẩy mạnh tiêu thụ hàng nhập khẩu.
Tiêu thụ hàng nhập khẩu là khâu quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Mục tiêu của việc phát triển mạng lưới bán hàng là nhằm tiếp cận khách hàng, hiểu rõ nhu cầu khách hàng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của họ. Đồng thời phát triển mạng lưới bán hàng còn làm nhằm tăng lượng khách mua hàng, từ đó nâng cao sản lượng tiêu thụ.
Công ty đang có kế hoạch mở rộng hệ thống đại lý trong kênh phân phối. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường quản lý các kênh phân phối mà chủ yếu là quản lý các đại lý. Các biện pháp quản lý có thể là:
+ Quản lý nghiêm ngặt về giá, tránh việc các đại lý của Công ty tự do nâng giá gây thua thiệt cho người bán lẻ và người tiêu dùng, mà trước hết là ảnh hưởng đến uy tín của Công ty.
+ Phải thường xuyên đánh giá hiệu quả hoạt động của các đại lý trong kênh phân phối theo những tiêu chuẩn cụ thể như: sản lượng và doanh số tiêu thụ, uy tín của đại lý, từ đó phát hiện ra các điểm yếu để có thể kịp thời xử lý.
+ Tìm ra các nhu cầu và trở ngại của các đại lý trong kênh phân phối để có thể có sự trợ giúp thích hợp.
b. Đẩy mạnh và mở rộng các hình thức bán hàng.
Công ty nên tăng cường việc bán buôn qua kho của Công ty. Với hình thức này Công ty sẽ không phải mất chi phí vận chuyển cho khách hàng, nhưng Công ty phải giảm giá xuống hoặc có thể chiết khấu nhằm bù đắp cho khách hàng khoản chi phí vận chuyển. Ưu điểm của phương thức này là Công ty không phải tốn nhiều nhân lực và thời gian trong tiêu thụ, đồng thời tránh được rủi ro khi giao hàng đang vận chuyển. Công ty cũng nên tiến hành bán buôn thông qua đại diện thương mại và phương thức bán buôn qua hội chợ.
Về phương thức bán lẻ, ngoài việc mở rộng và nâng cấp cửa hàng tại khu vực trọng điểm, Công ty cần tổ chức bán hàng trực tiếp cho các quầy bán lẻ, bán buôn cho người tiêu dùng thông qua đội ngũ bán hàng tiếp thị. Công ty cần tăng cường bổ sung thêm đội ngũ tiếp thị, phân công khu vực một cách rõ ràng, tránh việc chồng chéo giữa các nhân viên trong cùng khu vực. Khi khách hàng có nhu cầu ít, họ sẽ trực tiếp đến các kho gần nhất để chở hàng cho khách. Nếu nhu cầu của khách hàng lớn, những nhân viên này sẽ thông báo về phòng kinh doanh để tổ chức phương tiện vận chuyển cho khách hàng.
4. Đào tạo và tuyển dụng nhân lực.
Con người là trung tâm của mọi hoạt động. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu, cần làm tốt các khâu từ nghiên cứu thị trường, tổ chức thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu cho đến tổ chức tiêu thụ hàng nhập khẩu. Muốn vậy, ở mỗi khâu đều cần cán bộ kinh doanh hàng nhập khẩu tinh thông nghiệp vụ, có đầy đủ phẩm chất thích hợp với công việc. Để đạt được điều đó, Công ty cần chú trọng đến việc đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực để có được đội ngũ cán bộ đủ mạnh có thể đảm đương được nhiệm vụ. Công ty nên chú trọng các biện pháp sau:
a. Tuyển dụng.
Công ty cần làm thật tốt khâu tuyển dụng để thu hút người tài về phục vụ cho Công ty. Việc tuyển dụng nhân viên phải theo đúng tiến trình, có sự giám sát chặt chẽ của Ban giám đốc, của phòng tổ chức. Làm tốt công tác này sẽ góp phần chọn lọc được những nhân viên tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, có đầy đủ phẩm chất đạo đức để đảm đương được yêu cầu công việc. Công ty nên tránh việc tuyển dụng theo lối mòn cảm tính.
b. Đào tạo và đào tạo lại.
Thời đại chúng ta đang sống thay đổi rất nhanh về mọi mặt. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng vậy, nếu cán bộ kinh doanh không cập nhật thông tin, không được bổ sung kiến thức kịp thời, không rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên thì rất dễ bị lạc hậu, không theo kịp đòi hỏi yêu cầu của công việc. Nhu cầu đào tạo, đào tạo lại nhân lực của Công ty đã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Ban lãnh đạo của Công ty phải đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề này để từ đó có sự lựa chọn các phương pháp để thực hiện chương trình đào tạo, phát triển và đánh giá chương trình đó để đáp ứng nhu cầu, có được nguồn nhân lực tốt hơn.
Bên cạnh những hình thức đào tạo tại chỗ, Công ty nên cử các nhân viên có khả năng, có đủ phẩm chất cần thiết để theo học các khoá nâng cao trình độ chuyên môn nhằm giúp họ chuyên sâu công tác. Đồng thời Công ty nên tạo điều kiện để nhân viên nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, các kỹ năng khác cần cho công việc.
Công ty cần chú ý bồi dưỡng đội ngũ nhân viên theo các hướng sau:
Tạo điều kiện cho những người có đủ năng lực, uy tín tham gia đàm phán ký kết hợp đồng.
Trang bị thêm kiến thức xuất nhập khẩu theo tiêu chuẩn Incoterm 2001, trang bị kiến thức về các phương tiện thanh toán hiện đại.
c. Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
Một nhân viên có năng lực không có nghĩa là anh ta luôn luôn làm việc tốt. Từng cá nhân làm việc tốt cũng không có nghĩa là hoạt động của tập thể Công ty sẽ tốt. Phát huy khả năng tiềm tàng của mỗi nhân viên, gắn kết từng nhân viên vào tập thể, tạo nên sức mạnh tập thể là điều không đơn giản. Để làm được điều trên, Công ty nên áp dụng các biện pháp như sau:
+ Khen thưởng:
Hình thức này có tác dụng động viên nhân viên cả về mặt tinh thần lẫn kinh tế. Công ty nên áp dụng hình thức khen thưởng một cách linh hoạt như sau:
Thưởng chung cho các cán bộ nhân viên trong các dịp lễ lớn.
Thưởng cho các cá nhân có thành tích cao, làm việc hiệu quả, mang lại lợi ích cho Công ty, có thể trao bằng khen hoặc đề bạt thăng chức cho họ.
Sau mỗi kỳ kinh doanh, nếu có điều kiện, Công ty nên tổ chức các cuộc đi chơi xa, tham quan cho cán bộ nhân viên của Công ty nếu Công ty có đủ kinh phí đài thọ. Đây cũng là một hình thức khen thưởng có hiệu quả.
+ Tổ chức các phong trào thi đua:
Để thúc đẩy cán bộ công nhân viên hăng say làm việc, Công ty nên tổ chức các phong trào thi đua về sản lượng sản xuất, về doanh số bán ra giữa các đơn vị cơ sở. Công ty phải có thông báo thường xuyên về danh sách các cửa hàng, đơn vị có hiệu quả kinh doanh cao nhất, kết hợp với mức thưởng cho cửa hàng đơn vị đó.
5. Tạo vốn và sử dụng vốn.
Đặc điểm chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu vốn kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu do thiếu vốn nên nhiều khi không thể gom hàng kịp thời, đúng và đủ cho bên đối tác. Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhiều khi do thiếu vốn nên đành bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao.
Vốn kinh doanh là điều kiện cần để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá, mở rộng phạm vi kinh doanh. Hiện nay ở Công ty tổng vốn kinh doanh còn hạn chế gây khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng qui mô tiêu thụ, nâng cấp cơ sở vật chất. Để giải quyết tình trạng này Công ty cần tăng cường huy động nguồn vốn của cán bộ công nhân viên. Công ty cũng có thể sử dụng quỹ đất của mình, khoảng 500.000 m2, để vay vốn ngân hàng. Cán bộ Công ty cần lập dự án kinh doanh để xin Bộ thương mại và Nhà nước cấp thêm vốn kinh doanh cho Công ty. Công ty cũng cần thu hút nguồn vốn của xã hội bằng cách tranh thủ tận dụng các điều kiện thanh toán, tín dụng của nhà cung cấp và của khách hàng.
6. Các biện pháp kiểm tra đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu.
Mục đích của việc kiểm tra đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là nhằm nắm được diễn biến kết quả hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu, để từ đó có thể chắc chắn không xa rời mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra ở đây còn nhằm mục đích thu thập thông tin để giúp lập kế hoạch hoạt động kinh doanh cho lần tiếp sau.
Mặc dù có sự khác nhau do đặc thù của doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động kinh doanh, song nội dung kiểm tra đánh giá kết quả vẫn thường thống nhất với nhau ở một số điểm là:
* Đề ra nội dung kiểm tra.
Kiểm tra toàn diện các hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty để đánh giá một cách đầy đủ chính xác, song cần chú trọng:
- Các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh hàng nhập khẩu như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh, về khách hàng của Công ty:
+ Thu thập thông tin.
+ Xem xét vốn kinh doanh cũng như khả năng thanh toán, kiểm tra kết quả hoạt động bán hàng.
+ Đánh giá hoạt động của Ban lãnh đạo Công ty.
* Định lượng các kết quả, hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu
Cần định lượng kết quả để có cơ sở trong việc đánh giá. Nguồn thông tin là từ các báo cáo tình hình kinh doanh hàng nhập khẩu.
Tuỳ từng trường hợp có thể dùng một hay kết hợp các phương pháp đánh giá như: phương pháp chỉ tiêu, phương pháp thanh tra...
* So sánh kết quả đạt được với các tiêu chuẩn đề ra
Công ty cần xem xét so sánh các mặt như:
- So sánh mục tiêu doanh số bán hàng nhập khẩu, lợi nhuận kinh doanh hàng nhập khẩu, thị phần...
- Tìm hiểu nguồn lực của Công ty có đầy đủ phù hợp với kế hoạch kinh doanh hàng nhập khẩu hay không?
- Đánh giá kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu có tương xứng với nguồn lực mà Công ty đã bỏ ra hay không?
- Tìm hiểu phương tiện thực hiện kinh doanh hàng nhập khẩu có phù hợp với thị trường hay không?
Từ những kết quả so sánh, Công ty cần nghiên cứu đề ra các giải pháp khắc phục và rút kinh nghiệm cho các lần sau.
7. Kiến nghị đối với Nhà nước.
Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà nước cần phải tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định. Quyết định 19 /2001/QĐ-TTg ngày 3/2/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc bãi bỏ 84 loại giấy phép đã mở ra được khá nhiều thị trường cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng và sử dụng tốt nguồn lực của đất nước như lao động có tri thức, các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ, vốn hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước, vay hỗ trợ phát triển ODA. Nhà nước nên thiết lập nhiều kênh đối thoại trực tiếp và cung cấp thông tin công khai cho các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội, các tổ chức hỗ trợ. Một số kênh thông tin thương mại tại phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Bộ thương mại đã được tổ chức, nhưng vẫn cần được tăng cường hơn nữa để hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm thị trường, bạn hàng, kiểm tra giá cả. Thông tin rộng rãi và công khai các hoạch định chiến lược, chính sách phát triển của nhà nước. Nhà nước cần xây dựng thủ tục đơn giản và rõ ràng để các doanh nghiệp được thuận lợi trong kinh doanh. Hiện nay việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng còn đang gây nhiều trở ngại cho doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Các văn bản hướng dẫn thực hiện đã trở nên quá tải làm cho luật thuế trở nên không đồng bộ, khó theo dõi và cản trở chấp hành. Theo thống kê sơ bộ hiện có khoảng 200 văn bản các loại. Việc hoàn thuế giá trị gia tăng có nhiều bất cập, đang trở thành một vấn đề bức xúc trong khi mỗi ngành có hàng chục vạn hoá đơn giá trị gia tăng với tổng trị giá lên tới hàng chục tỷ đồng cần trình lên ngành thuế xin khấu trừ.
Kết luận
Đất nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, bước vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sau hơn mười năm đổi mới, cục diện nền kinh tế đã có nhiều tiến bộ tích cực, đời sống nhân dân được nâng cao. Hoạt động thương mại quốc tế đã góp phần vào việc phát huy nội lực, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng cũng như quá trình ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng đang ngày càng được quan tâm vì có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Công ty Thực phẩm miền Bắc được thành lập trên cơ sở sát nhập các Công ty con với khoản nợ trên mười tỷ đồng. Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhập khẩu song Công ty vẫn cố gắng khắc phục khó khăn, vượt qua các trở ngại để góp phần xây dựng nền kinh tế đất nước. Từ khi thành lập đến nay, Công ty Thực phẩm miền Bắc có nhiều đóng góp quan trọng vào tổng thu ngân sách. Đặc biệt trong ba năm gần đây tình hình kinh doanh có nhiều biến chuyển tốt. Năm 1999, tổng doanh thu của Công ty là 670,8 tỉ đồng. Năm 2001 doanh thu tăng lên 938,32 tỉ đồng. Lợi nhuận của Công ty tăng từ 648 triệu đồng năm 1999 lên 2147 triệu đồng năm 2001. Mức lương bình quân đầu người của Công ty cũng được cải thiện, năm vừa qua (2001), là 873 nghìn đồng.
Đạt được những kết quả đáng khích lệ này phải kể đến đóng góp quan trọng của hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu. Hoạt động này đã góp phần tạo thu nhập ổn định cho người lao động trong Công ty. Mặc dù vậy, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty vẫn còn nhiều hạn chế. Doanh thu từ nhập khẩu và tỉ suất lợi nhuận theo doanh thu còn thấp. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn nghèo nàn, các mặt hàng nhập khẩu chưa có sức cạnh tranh cao. Công tác tổ chức tiêu thụ kinh doanh hàng nhập khẩu cũng còn một số bất cập.
Với mong muốn đóng góp một phần vào sự thành công của Công ty, Luận văn trình bày kết quả của việc nghiên cứu thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty trong ba năm 1999 - 2001. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Công ty cần nghiên cứu thay đổi cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu hiện tại bằng các mặt hàng có hiệu quả kinh doanh cao hơn. Công ty nên chú ý khâu tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến bán hàng. Đồng thời Công ty cần chú trọng trong việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực để tạo ra đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Nghiên cứu nắm bắt để đáp ứng tốt nhất đúng nhu cầu thị trường cũng là một trong những bí quyết giúp doanh nghiệp thành công trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Mong muốn của em khi làm bản luận văn tốt nghiệp này là được củng cố kiến thức, nhận thức của bản thân trong lĩnh vực chuyên môn sau khi ra trường, và góp phần nhỏ bé vào sự phát triển của Công ty Thực phẩm miền Bắc, nơi em đã thực tập chuẩn bị cho tốt nghiệp. Tuy nhiên với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập không nhiều nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em mong muốn nhận được sự đánh giá quan tâm, sự chỉ bảo góp ý tận tình của các Thầy cô giáo trong Khoa Thương mại cùng các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế. PGS. TS. Trần Chí Thành. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB Giáo dục 1997.
Giáo trình Thương mại quốc tế. PGS. TS. Nguyễn Duy Bột. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê 1998.
Giáo trình Tổ chức và nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế. PGS. TS. Trần Chí Thành. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê 1997.
Giáo Trình Kinh tế thương mại. PGS. TS. Đặng Đình Đào. NXB Thống kê 1999.
Báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo kế toán hàng năm, báo cáo nhập khẩu của Công ty thực phẩm miền Bắc ba năm 1999-2001.
Tình hình kinh tế thị trường thế giới - Dự báo thời gian tới. Trung tâm thương mại Việt Nam 1994.
Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. Vũ Hữu Tửu. Trường ĐH Ngoại thương 1992.
Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương. Bùi Xuân Lưu, Vũ Hữu Tửu. Trường ĐH Ngoại thương 1992.
Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Walter Goode, NXB Thống kê 1998.
Pháp luật thương mại quốc tế và Việt Nam. Lê Quang Liêm. NXB Thống kê 1999.
Những qui định pháp luật của Việt Nam và công ước quốc tế về giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1994.
Hướng dẫn sử dụng thư tín dụng trong ngoại thương, Trường ĐH Ngoại thương 1989.
Thời báo Kinh tế Việt Nam, Hội kinh tế Việt Nam, một vài số báo 1999-2002.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, một vài số báo 1999-2002.
Sài Gòn tiếp thị, một vài số báo 1999-2002.
Báo Đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một vài số báo 1999-2002.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0501.doc