Tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội Quận Long Biên: MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT: 5
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ BHXH 8
1. Lý thuyết chung về BHXH 8
1.1. Khái niệm về BHXH 8
1.2. Bản chất của BHXH 10
1.3. Đối tượng của BHXH 11
1.4. Chức năng của BHXH 12
1.5. Tính chất của BHXH 14
2. Sơ lược về lịch sử hình thành BHXH và những quan điểm cơ bản về BHXH 15
2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành BHXH 15
2.1.1. Lịch sử phát triển của BHXH ở trên thế giới 15
2.1.2.... Ebook Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội Quận Long Biên
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1988 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội Quận Long Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử phát triển của BHXH ở Việt Nam 16
2.2. Một số quan điểm cơ bản về BHXH 18
2.2.1. Chính sách BHXH là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã
hội 18
2.2.2. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp vào
quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động 19
2.2.3. Mọi người lao động đếu được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối
với BHXH 19
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức trợ cấp BHXH 20
2.2.5. Nhà nước quản lý thống nhất và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách
BHXH 21
3. Công tác thu quỹ BHXH 22
3.1. Một số nội dung liên quan đến quỹ BHXH 22
3.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH 22
3.1.2. Mục đích sử dụng quỹ 25
3.1.3. Nguồn hình thành quỹ BHXH 26
3.2. Hệ thống các chế độ BHXH trên thế giới và các chế độ áp dụng ở Việt
Nam 28
3.2.1. Hệ thống các chế độ BHXH ở trên thế giới 28
3.2.2. Các chế độ BHXH ở Việt Nam 30
3.3. Vai trò của công tác thu BHXH 31
3.4. Mức đóng góp và một số phương pháp xác định mức đóng góp BHXH 32
3.4.1. Mức đóng góp BHXH 32
3.4.2. Một số phương pháp xác định mức đóng góp BHXH 33
3.5. Một số phương thức thu phí BHXH 35
3.6. Tổ chức và phân cấp quản lý thu BHXH ở Việt Nam 36
3.7. Quy trình quản lý tiền thu BHXH 38
CHƯƠNG III: CÔNG TÁC THU BHXH TẠI CƠ QUAN BHXH QUẬN
LONG BIÊN 43
1. Giới thiệu sơ lược về BHXH Thành phố Hà Nội 43
2. Giới thiệu sơ lược về BHXH quận Long Biên 44
2.1. Quá trình hình thành và phát triển 44
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của BHXH quận Long Biên 45
2.3. Cơ cấu tổ chức của BHXH quận Long Biên 46
3. Tổ chức thực hiện thu và quy trình thu ở BHXH quận Long Biên 51
3.1. Tổ chức thực hiện thu BHXH tại BHXH quận Long Biên 51
3.2. Quy trình thu thu BHXH tại BHXH quận Long Biên 54
4. Kết quả thu quỹ BHXH tại BHXH quận Long Biên 58
4.1. Kết quả thu BHXH 58
4.1.1. Kêt quả thu BHXH bắt buộc 58
4.1.2. Kết quả thu BHXH theo khối loại hình quản lý 60
4.1.3. Cơ cấu lao động tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH quận Long
Biên 62
4.1.4. Cơ cấu đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH quận Long Biên 64
4.2. Kết quả thu BHYT tự nguyện 66
5. Thực trạng về công tác quản lý thu tại BHXH quận Long Biên 67
5.1. Về công tác cấp sổ 67
5.2. Tình hình nợ đọng tiền BHXH tại BHXH quận Long Biên 68
6. Đánh giá kết quả hoạt động thu 69
6.1. Những thành tích đã đạt được 69
6.2. Những vấn đề còn tồn tại trong công tác thu BHXH tại BHXH quận Long
Biên 71
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
THU BHXH TẠI BHXH QUẬN LONG BIÊN – HÀ NỘI 74
1. Phương hướng nhiệm vụ của BHXH quận Long Biên trong thời gian tới 74
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH 75
2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại quận Long
Biên 75
2.1.1. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ BHXH 71
2.1.2. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về BHXH 77
2.1.3. Tích cực đổi mới và tăng cường công tác thu 80
2.1.4. Phối hợp chặt chẽ với các ban ngành có liên quan trong khi thực hiện
thu BHXH 81
2.1.5. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát công tác thu 82
2.1.6. Tích cực vận động các DN NQD tham gia BHXH 84
2.2. Một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước 85
2.2.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật 85
2.2.2. Xây dựng các chính sách để mở rộng đối tượng và hình thức tham gia
BHXH 86
2.2.3. Có chính sách đầu tư quỹ BHXH phù hợp 87
2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra thực hiện các chế độ BHXH của các cơ
quan chính quyền 88
2.3. Kiến nghị đối với BHXH Việt Nam 88
2.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thu 88
2.3.2. Hoàn thiện công tác quản lý thu và quy trình thu 89
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC 94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
DN NQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
HCSN : Hành chính sự nghiệp
ILO : Tổ chức lao động quốc tế
TNLĐ : Tai nạn lao động
MỞ ĐẦU
BHXH là chính sách quan trọng trong hệ thống các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện tôt chính sách BHXH, chăm sóc tốt cho người dân sẽ góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhận thức rõ vai trò của BHXH nên sau khi Nhà nước đã nhanh chóng ban hành các văn bản tạo tiền đề thành lập hệ thống BHXH và đến năm 1995 hệ thống ngành BHXH đã chính thức ra đời. Sau đó đến năm 2007 Nhà nước đã áp dụng bộ luật BHXH để thống nhất việc thực hiện BHXH trong cả nước. Hiện nay, Nhà nước ta đang cố gắng để thực hiện mục tiêu đến năm 2010 triển khai BHXH cho toàn dân.
Trong các khâu của BHXH thì công tác thu là một khâu quan trọng, đảm bảo sự cân đối của quỹ BHXH. Và để quỹ BHXH được cân đối và ổn định lâu dài thì làm tốt công tác thu là một trong những giải pháp mang tính cơ bản nhất. Thu BHXH ở đây không phải là thu cho ngành BHXH mà là thu để bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Là một sinh viên của trường Đại học Kinh tế quốc dân, trong quá trình học tập tại trường đã được lĩnh hội các kiến thức cơ bản về BHXH cũng như nhận thức được tầm quan trọng của BHXH nói chung và của công tác thu BHXH nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình thực tập tại cơ quan BHXH quận Long Biên, em thấy còn một số vấn đề tồn tại xung quanh công tác thu BHXH. Có những vấn đề mang tính hệ thống xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, có những vấn đề riêng biệt mang tính xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan. Do vậy, để công tác thu ngày càng mang lại hiệu quả cao thì cần phải giải quyết những vấn đề còn đang tồn tại này.
Xuất phát từ những lý do trên em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại BHXH Quận Long Biên” làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề thực tập. Kết cấu của chuyên đề gồm ba phần:
Chương I: Lý thuyết chung về BHXH và công tác thu BHXH.
Chương II: Công tác thu BHXH tại cơ quan BHXH quận Long Biên.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại BHXH quận Long Biên.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Em xin trân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ BHXH
VÀ CÔNG TÁC THU BHXH
Lý thuyết chung về BHXH
Khái niệm về BHXH.
Ngay từ khi mới xuất hiện, để tồn tại và phát triển, trước hết con người phải ăn, phải mặc, ở và đi lại v.v… Và để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu này, người ta phải lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết. Khi lượng sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn. Do đó, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Tuy nhiên trên thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi có đầy đủ thu nhập và các điều kiện sống bình thường, Ngược lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện phát sinh khác. Chẳng hạn như, bị ốm đau bất ngờ hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm… Khi rơi vào những trường hợp như vậy, các nhu cầu cần thiết không vì thế mà mất đi, trái lại còn có cái tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn, thương tật cần có người chăm sóc nuôi dưỡng … Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và trên thực tế đã tìm ra rất nhiều cách giải quyết khác nhau như: Sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước hay của các tổ chức khác… Rõ ràng những cách đó là hoàn toàn thụ động, không chắc chắn và có nhiều rủi ro, bất ngờ.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì mối quan hệ giữa người làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức tạp và rắc rối. Lúc đầu, người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động có số thu nhập nhất định để họ trang trải cho những nhu cầu thiết yếu nhất khi không may bị ốm đau, tai nạn… Trên thực tế, nhiều lúc các trường hợp trên không xảy ra và tất nhiên người chủ không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có những trường hợp xảy ra dồn dập, buộc họ phải trả ra một khoản tiền lớn hơn mà họ thực sự không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ – thợ xuất hiện, giới thợ thì liên kết với nhau đấu tranh buộc giới chủ thực hiện các cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày một lớn hơn và có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Bởi vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hòa mâu thuẫn đó bằng cách buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng đã được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra với người làm thuê. Số tiền đóng góp đó đã hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi toàn quốc gia, quỹ này còn được bổ sung từ Ngân sách Nhà nước khi cần thiết khi gặp những biến cố bất lợi.
Toàn bộ những hoạt động cộng với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội”. Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 33.
Bản chất của BHXH.
Bản chất của BHXH được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà các hoạt động sản xuất hàng hóa diễn ra theo cơ chế thị trường, các mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định nào đó. Kinh tế ngày càng phát triển thì BHXH ngày càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có thể nói rằng kinh tế chính là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
Hai là, mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở nền tảng là quan hệ lao động giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể là người lao động hoặc có cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là các cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và được Nhà nước bảo trợ. Bên được BHXH chính là những người lao động và gia đình của họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
Ba là, những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là các rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể xảy ra cả trong quá trình và ngoài quá trình lao động.
Bốn là, phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải các biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tích tụ lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng là chủ yếu, ngoài ra còn nhận được sự hỗ trợ một phần từ Nhà nước.
Năm là, mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Những mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để họ đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống lại các loại bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống để đáp ứng các nhu cầu của dân cư, các nhu cầu đặc biệt của người già, của người tàn tật và trẻ em.
Đối tượng của BHXH.
Mặc dù BHXH đã ra đời từ rất lâu (từ những giữa năm của thế kỷ 19), nhưng đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về đối tượng của BHXH, vẫn tồn tại nhiều quan điểm, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH .
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc vì những nguyên nhân như đau ốm, tai nạn, già yếu… Vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH chính là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng nước khác nhau mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc là một bộ phận những người lao động nào đó.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và các cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Trách nhiệm của người sử dụng lao động là đóng góp vào quỹ BHXH để bảo hiểm cho những người lao động mà họ sử dụng. Còn các cơ quan BHXH, nhận sự đóng góp từ phía người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ để thực hiện các công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này cũng chính là đặc trưng của riêng BHXH. BHXH có tồn tại và phát triển một cách và bền vững hay không chính là nhờ vào mối quan hệ này.
Chức năng của BHXH.
Như trong giáo trình BHXH thì BHXH có bốn chức năng chủ yếu sau:
“Thứ nhất, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm” Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 37.
. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra, vì suy cho cùng, người lao động khi đến độ tuổi hết tuổi lao động theo quy định của BHXH, họ sẽ mất khả năng lao động. Trong trường hợp mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ nhận được trợ cấp từ BHXH, mức trợ cấp phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm , thời hạn được hưởng phải đúng theo quy định của pháp luật. Đây chính là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó sẽ quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH.
“Thứ hai, tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có những người lao động mà còn có những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH” Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 38.
. Quỹ này được dùng để trợ cấp cho người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người bị giảm hoặc mất thu nhập chiếm một số lượng nhỏ, còn số lượng người đóng góp vào quỹ BHXH lại lớn, do đó, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH đã thực hiện được việc phân phối lại thu nhập giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh, đang làm việc có thu nhập và những người ốm yếu, phải nghỉ việc bị mất hoặc giảm thu nhập… Thực hiện chức năng này cũng có nghĩa là BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội.
“Thứ ba, BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái làm việc nâng cao năng suất lao động cá nhân và nâng cao năng suất lao động xã hội” Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 38.
. Khi khỏe mạnh, người lao động tham gia lao động và được người chủ trả công để trang trải cuộc sống nhưng khi ốm yếu, thai sản hay khi tuổi già người lao động không thể làm việc được thì họ đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì vậy, cuộc sống của họ cũng như của gia đình họ vẫn được đảm bảo ổn định. Vì thế, người lao động có thể yên tâm lao động, làm việc gắn bó với nơi làm việc và với công việc, từ đó họ có thể tích cực lao động nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này đóng vai trò như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và nâng cao năng suất lao động xã hội.
“Thứ tư, gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội” Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 39.
. Từ trước đến nay, trong thực tế lao động sản xuất, giữa người lao động và người sử dụng lao động có tồn tại những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, về thời gian lao động … nhưng khi BHXH xuất hiện nó đã giải quyết và điều hòa được những mâu thuẫn đó. Người lao động cảm thấy mình được bảo vệ, những rủi ro được giàn trải, cuộc sống gia đình được ổn định. Còn người sử dụng lao động thì thấy mình có lợi vì các hoạt động sản xuất diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Từ đó, BHXH đã làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau.
Tính chất của BHXH .
BHXH và đời sống của người lao động luôn đi liền với nhau, do đó, nó có một số tính chất cơ bản như sau:
“Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh, không đồng đều theo thời gian và không gian.
BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.”6 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 40
Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn về các tính chất trên của BHXH :
Đầu tiên, là tính tất yếu khách quan của BHXH. Như chúng ta đã biết, trong quá trình lao động, người lao động có thể gặp phải những biến cố rủi ro, từ đó, người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém. Sản xuất ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro đối với người lao động và gặp phải tình cảnh khó khăn đối với người sử dụng lao động ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Do đó, mối quan hệ giữa chủ – thợ ngày càng căng thẳng. Trong trường hợp này, để giải quyết được vấn đề, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và do đó BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan.
Tiếp theo, là tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều của BHXH. Tính chất này được thể hiện rất rõ trong những nội dung cơ bản của BHXH. Từ những thời điểm hình thành và triển khai mức đóng góp của các bên tham gia BHXH, từ những rủi ro phát sinh một cách ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo chế độ cho từng người…
Cuối cùng là tính kinh tế, tính xã hội, tính dịch vụ của BHXH. Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn hình thành, tồn tại và phát triển thì phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán chặt chẽ, cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của những người lao động tham gia BHXH. Thực chất, phần đóng góp của người lao động vào quỹ BHXH là rất nhỏ nhưng phần họ được nhận khi gặp rủi ro là rất lớn. Còn với người sử dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng, nhưng xet dưới góc độ kinh tế, họ cũng được hưởng lợi ích vì khoản tiền họ bỏ ra không phải là quá lớn mà họ lại nhận được sự tận tụy, yên tâm làm việc của người lao động, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cho họ. Với Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng Ngân sách và là nguồn đầu tư đáng kể cho việc phát triển kinh tế. Còn tính xã họi thẻ hiện rất rõ ở chỗ, BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội. Xét về mặt lâu dài, mọi người lao động đều có quyền tham gia BHXH, còn BHXH có trách nhiệm phải bảo đảm cho người lao động và gia đình của họ ngay cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính dịch vụ gắn liền với tính xã hội của BHXH, khi xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hóa của BHXH ngày càng cao.
Sơ lược về lịch sử hình thành BHXH và những quan điểm cơ bản về BHXH.
Sơ lược về lịch sử hình thành BHXH.
Lịch sử phát triển của BHXH ở trên thế giới.
BHXH xuất hiện khá sớm. Vào năm 1883, ở nước Phổ (Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay) Luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới đã được đã được ban hành đánh dấu sự ra đời của BHXH. Sau đó, BHXH đã lần lượt xuất hiện ở các nước dưới các mức độ khác nhau nhưng có chung mục đích là bảo đảm cho đời sống của người lao động và gia đình của họ.
BHXH đã nhanh chóng trở thành một trong những quyền cơ bản của con người và được cả xã hội thừa nhận. Trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc (1945) đã ghi “Tất cả mọi người lao động với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH”. Sau đó, ngày 4 – 6 – 1952 Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ký công ước Giơnevơ về “BHXH cho người lao động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tùy theo điều kiện và khả năng của mỗi nước. Vận dụng khuyến nghị của ILO các nước đã có những chính sách, biện pháp phù hợp với điều kiện riêng của nước mình để tạo môi trường cho BHXH phát triển.
Lịch sử phát triển của BHXH ở Việt Nam.
Ở nước ta, mầm mống của BHXH đã có từ thời phong kiến Pháp thuộc. Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, mặc dù vừa mới giành được chính quyền, đất nước còn gặp nhiều khó khăn nhưng Chính phủ Việt Nam vẫn giành sự quan tâm đặc biệt đến đời sống của nhân dân lao động. Cụ thể, ngày 3/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 54/SL quy định điều kiện được nghỉ hưu cho cán bộ công chức thuộc tất cả các ngạch trong nước Việt Nam. Tiếp theo đó, chế độ hưu bổng cho công chức cũng đã được quy định cụ thể bằng Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/06/1946 của Chủ tịch nước. Nhằm từng bước luật hóa các chế độ chính sách xã hội cho người lao động, ngày 12/3/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ làm việc cho người lao động. Theo đó, chủ sử dụng lao động ngoài việc chi trả tiền lương cho công nhân còn phải đảm bảo các các khoản phụ cấp cho gia đình họ; quy định chi tiết chế độ bồi dưỡng làm ca đêm, làm thêm giờ, ngày nghỉ lễ và chế độ nghỉ sinh nở, chế độ nghỉ ốm của người lao động. Sắc lệnh này đã bước đầu quy định chế độ bồi thường tai nạn lao động cho công nhân hầm mỏ. Các chế độ BHXH này đã được hoàn thiện dần dần bằng các Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước. Quyền của người lao động được trợ cấp về vật chất khi già yếu, ốm đau bệnh tật hoặc mất sức lao động vv... đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh và do điều kiện kinh tế chưa đủ để đáp ứng nên chỉ có một bộ phận cán bộ công nhân viên chức được hưởng quyền lợi về BHXH.
Sau khi hòa bình lập lại, ngày 27 tháng 12 năm 1961 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước và được thi hành từ ngày 01 – 01 – 1962 cùng với điều lệ đãi ngộ quân nhân theo Nghị định 161/CP ngày 30 – 10 – 1964 của Chính phủ. Sau hơn 20 năm thực hiện, BHXH đối với cán bộ, công nhân viên chức đã bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, ngày 18 – 9 – 1985 Chính phủ (lúc đó là Hội đồng bộ trưởng)đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động, nội dung chủ yếu là điều chỉnh mức đóng và mức hưởng BHXH .
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chính sách BHXH ở Việt Nam chưa được thực hiện một cách triệt để, nhất là việc thực hiện trong giai đoạn này lại được giao cho nhiều tổ chức khác nhau đảm nhiệm như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội. Do vậy, để phù hợp với sự sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, ngày 27 – 12 – 1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP Quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế. Nhưng BHXH Việt Nam chỉ thực sự có bước đột phá sau khi có Nghị định 12/CP của Chính phủ về việc ban hành “Điều lệ BHXH đối với công chức, viên chức và công nhân của Nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc”, Nghị định 45/CP ngày 15 – 7 – 1995 của Chính phủ ban hành điều lệ đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Để đáp ứng với đòi hỏi của sự đổi mới của về chế quản lý, ngày 01 – 10 – 1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH. Như vậy, hệ thống BHXH Việt Nam đã chính thức được thành lập, theo đó, hệ thống này sẽ được tổ chức, quản lý tập trung theo ngành dọc từ Trung ương tới địa phương, và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Chính sách BHXH cũng được hoàn thiện thêm một bước và được thể hiện rõ hơn trong chương XII của Bộ Luật lao động. Hệ thống BHXH Việt Nam được Chính phủ giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách BHXH thống nhất trên phạm vi cả nước và được bảo trợ quỹ từ Ngân sách Nhà nước. Sự ra đời của hệ thống BHXH Việt Nam đã đánh dấu một bước trưởng thành, đánh dấu một sự thay đổi cả về lượng và chất trong việc tổ chức thực thi chính sách xã hội ở Việt Nam. Tiếp tục thực hiện chương trình đổi mới, cải cách nền hành chính quốc gia của Chính phủ Việt Nam, từ năm 2002 hệ thống BHXH Việt Nam sẽ tiếp nhận thêm hệ thống BHYT được chuyển giao từ Bộ Y tế sang nhằm thống nhất về mặt tổ chức quản lý và đảm bảo thực hiện tốt hơn chính sách BHXH, bao gồm cả BHYT trong cùng một tổ chức thuộc hệ thống an sinh xã hội.
Một số quan điểm cơ bản về BHXH.
Chính sách BHXH là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội.
Chính sách BHXH có mục đích chủ yếu là bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình của họ khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế, đây là một trong những loại chính sách tối ưu đối với con người để đáp ứng một trong những nhu cầu hiển nhiên của xã hội đó là nhu cầu an toàn lao động, an toàn việc làm, an toàn xã hội… Chính sách BHXH còn thể hiện tiềm lực kinh tế, trình độ văn minh, khả năng tổ chức của mỗi quốc gia. Trong một mức độ nhất định nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt BHXH sẽ tạo động lực cho người lao động phát huy khả năng sáng tạo và góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động.
Người sử dụng lao động ở đây có thể là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân thuê mướn lao động. Họ phải có ngh._.ĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và trách nhiệm thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động mà họ sử dụng theo đúng quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển công việc kinh doanh sản xuất muốn nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thì ngoài việc đầu tư, ứng dụng vào các công nghệ mới tiên tiến, các phương tiện kỹ thuật hiện đại thì phải chăm lo, quan tâm đến đời sống của người lao động. Khi họ khỏe mạnh, làm việc bình thường thì phải trả lương đầy đủ và thỏa đáng với họ. Khi họ gặp phải rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động … thì phải thực hiện trách nhiệm BHXH đối với họ. Có như vậy người lao động mới yên tâm làm việc, tích cực lao động sản xuất, phát huy tiềm năng sáng tạo, góp phần cải tiến kỹ thuật, từ đó nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Mọi người lao động đều được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH.
Điều này có nghĩa là tất cả mọi người lao động bên cạnh việc được hưởng các quyền lợi BHXH một cách bình đẳng như trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã nêu còn có nghĩa vụ phải đóng góp BHXH. Vì xét cho cùng, người lao động khi gặp phải rủi ro không mong muốn và dù cho đó không phải hoàn toàn và trực tiếp là lỗi của người khác thì trước tiên đó vẫn là rủi ro của bản thân người lao động. Do vậy, nếu muốn được hưởng trợ cấp từ BHXH, muốn được nhiều người hỗ trợ cho mình để dàn trải rủi ro thì trước tiên người lao động phải tự mình gánh chịu trực tiếp, nghĩa là người lao động phải tham gia BHXH để tự mình bảo hiểm cho chính mình trước.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức trợ cấp BHXH.
Như trong giáo trình bảo hiểm đã nêu mức trợ cấp của BHXH phụ thuộc vào các yếu tố như sau:
“ Tình trạng mất khả năng lao động.
Tiền lương lúc đang đi làm.
Nghành nghề công tác và thời gian công tác.
Tuổi thọ bình quân của người lao động.
Điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.” Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 43
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương khi mà người lao động còn đi làm nhưng mà thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương khi mà người lao động gặp phải rủi ro. Mà tiền lương là khoản mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được các công việc của mình. Tức là chi những người khỏe mạnh bình thường, lao động bình thường và thực hiện những công việc nhất định mới được trả lương hay mới có tiền lương. Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà trước đó họ có tham gia BHXH thì họ chỉ nhận được trợ cấp từ BHXH. Mức trợ cấp này không bằng được mức tiền do người lao động khi còn làm việc tạo ra được, vì những lí do chủ yếu như: Nếu như mức tiền này bằng hoặc cao hơn thì không một người lao động nào muốn làm việc một cách tích cực, cố gắng cả, trái lại họ sẽ lợi dụng BHXH để nhận được trợ cấp, tức là không cần làm việc mà vẫn có thể đảm bảo được cuộc sống. Ngoài ra, bản chất của BHXH là dàn trải rủi ro, vì vậy nếu mức trợ cấp bằng với mức tiền lương của người lao động khi đang làm việc thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro thông qua rủi ro của mình đã dàn trải hết cho người khác. Như vậy, mức trợ cấp không được cao hơn hoặc bằng mức lương lúc đang đi làm, nhưng do bản chất của BHXH là đảm bảo các nhu cầu sinh sống thiết yếu nên mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu.
Nhà nước quản lý thống nhất và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH .
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, là công cụ giúp Nhà nước thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, cho nên vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững. Hơn nữa, việc thực hiện BHXH phải đảm bảo một quy trình chặt chẽ: từ việc hoạch định chính sách, giới hạn đối tượng, xác định phạm vi bảo hiểm cho đến việc đảm bảo vật chất và xét trợ cấp… Do vây, để đảm bảo cho hệ thống BHXH vận hành một cách linh hoạt và chặt chẽ Nhà nước cần phải quản lý thống nhất toàn bộ quy trình này.
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Và sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, thanh tra việc thực hiện của các cá nhân và tổ chức. Còn với việc quản lý và đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước còn phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Nếu chính sách bảo hiểm quy định việc đảm bảo cơ sở vật chất do Nhà nước cung cấp thì Nhà nước sẽ quản lý trực tiếp và toàn diện, còn nếu việc đảm bảo vật chất là do Nha nước quy định, người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước cùng đóng góp thì Nhà nước chỉ tham gia quản lý. Việc quản lý của Nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy tổ chức.
Công tác thu quỹ BHXH.
Một số nội dung liên quan đến quỹ BHXH .
Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH.
Như giáo trình BHXH đã nêu:
“Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước”. Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 50.
Chúng ta cần phân biệt rõ quỹ BHXH và Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là tất cả các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập quốc gia tạo nên một quỹ tiền tệ của Nhà nước và phân phối sử dụng quỹ đó để trang trải các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế – chính trị xã hội theo kế hoạch của Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Về bản chất, hoạt động của Ngân sách Nhà nước và của quỹ BHXH đều không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, quá trình hình thành và hoạt động của cả hai đều được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Việc thu – chi Ngân sách Nhà nước cũng như của quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp luật và cơ chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối giữa thu và chi …
Tuy nhiên, giữa Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH cũng có một số điểm khác nhau cơ bản như: Ngân sách Nhà nước hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Còn quỹ BHXH hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa với các mối quan hệ thuê mướn người lao động. Điểm khác nhau nữa là, quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước mang tính pháp lý cao và dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước, quan hệ phân phối này mang tính hoàn trả và phản ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia. Trong khi đó, quan hệ phân phối của quỹ BHXH có tính pháp lý thấp hơn và mối quan hệ phân phối này phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH trước, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
Quỹ BHXH có các đặc điểm chủ yếu như sau:
Một là, nguyên tắc quản lý của quỹ BHXH là cân bằng thu – chi. Sở dĩ nguyên tắc hoạt động như vậy là do quá trình hình thành tồn tại và phát triển của quỹ gắn liền với mục đích của quỹ là đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình của họ khi họ gặp phải các biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập.
Hai là, phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tính chất hoàn trả này thể hiện ở chỗ đối tượng tham gia và đóng góp BHXH là người lao động và cũng chính họ là người được nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù thời gian nhận trợ cấp, mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, túy thuộc vào những biến cố mà họ gặp phải cũng như phụ thuộc vào mức đóng góp và thời gian đóng góp của họ. Trong khi đó, tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần với các chế đọ trợ cấp khác nhau, lại có những người được hưởng trợ cấp ít lần thậm chí không được hưởng. Chính do vậy, nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại.
Ba là, quá trình tích lũy để đảm bảo an toàn và bảo tồn giá trị về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Có thể nói như vậy là do chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về mặt thu nhập cho người lao động, vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự đảm bảo an toàn về mặt tài chính. Quỹ BHXH được hình thành do sự đóng góp của người lao động và được tích lũy trong suốt quá trình lao động. Nếu xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi nhất định để chi trả trong tương lai, lượng tiền này có thể biến động tăng hoặc biến động giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Vì vậy, để quỹ có thể tồn tại và phát triển được thì việc bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành một yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của quỹ BHXH .
Bốn là, quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất chính của tài chính BHXH, nó cũng là khâu tài chính trung gian cùng với Ngân sách Nhà nước và tìa chính doanh nghiệp để hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính sẽ gắn với một chủ thể nhất định và việc tạo lập, sử dụng lại gắn với những mục đích riêng của từng khâu nên trong quản lý và sử dụng chúng luôn độc lập với nhau. Tuy vậy, Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính BHXH lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
Năm là, sự hình thành, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và phụ thuộc và điều kiện lịch sử trong từng thời kì nhất định của đất nước. Một đất nước có nền kinh tế – xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH và nhu cầu thỏa mãn về BHXH của người lao động sẽ được nâng cao hơn. Đồng thời khi đó, người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do vậy, họ càng có điều kiện để tham gia và đóng góp vào quỹ BHXH.
Mục đích sử dụng quỹ BHXH.
Theo giáo trình bảo hiểm, thì quỹ BHXH được sử dụng để chi trả cho các mục đích như sau:
“Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH.
Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH .
Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ”. Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 59.
Trong các nội dung nêu trên thì chi trợ cấp cho các chế đọ BHXH là lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH và được thực hiện theo như luật định. Nguyên tắc hoạt động là có thu mới có chi, thu trước chi sau. Do đó, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi cho chế độ đó.
Ngoài ra, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là để thực hiện chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào phương thức thành lập quỹ BHXH .
Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải được thực hiện thống nhất theo các nội dung chi. Tức là, tất cả các nguồn thu BHXH đều được quy tụ lại để hình thành nên một quỹ, sau đó quỹ này được dùng để chi trả theo các chế độ, chi đầu tư, chi quản lý. Phương thức này có ưu điểm là đơn giản và quản lý được tập trung cho nên việc điều tiết giữa các chế độ BHXH trong quá trình chi trả được thực hiện dễ dàng.
Nếu quỹ BHXH được hình thành theo phương thức gồm hai loại quỹ: Quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể và chi tiết hơn đối với từng loại quỹ. Cụ thể, quỹ BHXH ngắn hạn sẽ đảm nhận việc chi trả cho các chế độ như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nguồn quỹ này sẽ được cân đối từng năm và có thể hình thành ngay ở trong doanh nghiệp để chi trả trực tiếp cho người lao động. Trong khi đó, quỹ BHXH dài hạn sẽ được dùng để chi cho các chế độ dài hạn như: tử tuất và hưu trí. Và ngược lại, nguồn quỹ này phải được cân đối trong nhiều năm và dùng tài khoản cá nhân để chi trả là có hiệu quả nhất. Phương thức này có ưu điểm là công tác chi trả sát với thực tế hơn và đúng mục đích hơn. Đồng thời, nó còn tạo điều kiện cho tất cả người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào các chế độ BHXH dài hạn.
Nếu quỹ BHXH gồm nhiều quỹ thành phần được hình thành theo từng chế độ bảo hiểm như: Quỹ ốm đau, quỹ thai sản, quỹ hưu trí… thì việc chi trả càng trở nên đơn giản và đúng mục đích.
Nguồn hình thành quỹ BHXH.
Quỹ BHXH có thể được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
“Người sử dụng lao động đóng góp.
Người lao động đóng góp.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.
Các nguồn khác như: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi…”
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trách nhiệm đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro mà là vì lợi ích cho cả hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được một khoản thiệt hại là phải chi ra một khoản tiền lớn cho người lao động mà mình thuê mướn khi họ gặp rủi ro. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình chính là biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro và còn có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là quan hệ lợi ích, do vậy cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự đóng góp của Nhà nước. Trước hết, Nhà nước tham gia vào BHXH bằng cách Nhà nước đặt ra các luật lệ về BHXH, đó là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động phải tuan theo. Hơn nữa, dưới nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH ổn định và chắc chắn.
Ở nhiều nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ những nguồn nêu trên. Tuy nhiên, mức đóng góp và phương thức đóng góp của các bên tham gia BHXH thì có khác nhau.
Còn ở Việt Nam hiện nay, nguồn hình thành quỹ BHXH đã được quy định trong điều lệ BHXH hiện hành. Theo đó nguồn hình thành bao gồm:
Người sử dụng lao động đóng góp bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi cho các chế độ hưu trí, tử tuất 5% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, bệnh nghề nghiệp.
Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi cho các chế độ hưu trí và tử tuất.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
Các nguồn khác.
Hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng BHXH theo quy định của BHXH. Mức đóng BHXH căn cứ vào tiền lương tháng, mức lương này lại được xác định dựa trên ngạch bậc, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu. Còn bộ tài chính sẽ trích từ Ngân sách Nhà nước số tiền chuyển vào quỹ BHXH đủ chi cho các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, TNLĐ…Việc tổ chức thu BHXH do BHXH Việt Nam thực hiện, quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập.
Hệ thống các chế độ BHXH trên thế giới và các chế độ áp dụng ở Việt Nam.
Hệ thống các chế độ BHXH ở trên thế giới.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa các chính sách, là hệ thống các quy định, là sự bố trí sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Hay nói cách khác, chế độ BHXH là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp cụ thể. Chế đọ BHXH thường được ban hành dưới dạng luật và dưới luật, các thông tư điều lệ …theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
“Chăm sóc y tế.
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp TNLĐ và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp gia đình.
Trợ cấp sinh đẻ.
Trợ cấp khi tàn phế.
Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)”.Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 47.
Tùy theo tình hình kinh tế – xã hội mà từng nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở các mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó phải thực hiện ít nhất một trong các chế độ như: (3), (4), (5), (8), (9).
Hệ thống các chế độ BHXH mang những đặc điểm chủ yếu như sau:
“Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và tan toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế – xã hội”. Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 47.
Theo như khuyến nghị của ILO thì hệ thống BHXH gồm 9 chế độ, nhưng không phải nước nào cũng thực hiện đầy đủ. Theo thống kê, trên thế giới hiện nay chỉ có 43 nước thực hiện đầy đủ cả 9 chế độ, 92 nước chưa thực hiện được chế độ trợ cấp thất nghiệp, 9 nước chưa thực hiện được chế độ trợ cấp gia đình, 13 nước chưa thực hiện được 3 chế độ trợ cấp: thất nghiệp, gia đình và TNLĐ.
Các chế độ BHXH ở Việt Nam.
Ở Việt Nam theo điều 2 của điều lệ BHXH, chi trợ cấp cho các chế độ BHXH ở nước ta bao gồm 5 chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Chế độ trợ cấp ốm đau: Khi bị ốm đau, người lao động bị mất thu nhập do không làm việc được thì họ sẽ nhận được khoản trợ cấp này. Việc thiết kế chế độ này nhằm đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời còn tính đến yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH.
Chế độ trợ cấp thai sản: chế độ trợ cấp này giúp cho lao động nữ nhận được một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc được vì sinh con. Ngoài ra, chế độ này khi quy định thời gian nghỉ cũng đã tính đến điều kiện và môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khỏe cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau.
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Chế độ này góp phần đảm bảo thu nhập và ổn định cuộc sống cho người lao động nếu không may họ bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Mặt khác, chế độ này còn quuy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong những trường hợp xảy ra TNLĐ và bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này được xác định dựa trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động.
Chế độ hưu trí: Chế độ này nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập không nhận được nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Tuy vậy, về thực chất, đây chỉ là sự trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ không còn quan hệ lao động nữa, do quỹ BHXH đảm nhận.
Chế độ tử tuất: chế độ này giúp cho thân nhân người chết có được một khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị mất. Chế độ này là một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất.
Vai trò của công tác thu BHXH.
Chúng ta đều biết quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập được tạo nên nhằm để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp khó khăn. Có thể nói, hệ thống BHXH hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH. Mà công tác thu được thực hiện là để hình thanh nên quỹ BHXH, như vậy vai trò thứ nhất của công tác thu BHXH là ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo lập quỹ BHXH. Sau khi quỹ BHXH được thành lập, BHXH các cấp tiến hành công tác thu trong quá trình thu các cán bộ chuyên thu không ngừng tiến hành rà soát và phát hiện thêm đối tượng mới phải tham gia BHXH. Càng phát hiện được nhiều đối tượng phải nộp BHXH theo luật định thì quỹ BHXH càng phát triển và càng có điều kiện để thực hiện các chế độ chi trả BHXH.
Vai trò thứ hai của công tác thu BHXH được thể hiện trong mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH. Nguồn hình thành của quỹ BHXH là do người lao động đóng góp, người sử dụng lao động đóng góp và một phần từ NSNN, BHXH đóng vai trò là cơ quan tiến hành các hoạt động BHXH trong đó có hoạt động thu. Do đó, để thực hiện công tác thu, các cơ quan BHXH phải cử các cán bộ thường xuyên gặp gỡ tiếp xúc và trao đổi với người lao động và người sử dụng lao động để có được các thông tin về sự thay đổi số lượng, về sự tăng giảm tiển lương của người lao động từ đó có các điều chỉnh kịp thời. Trong quá trình làm việc, mối quan hệ giữa 3 bên người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH được hình thành. Mà công tác thu được tiến hành thường xuyên và liên tục nên từ đó mối quan hệ này càng trở nên chặt chẽ hơn.
Một trong các nguyên tắc của BHXH là đảm bảo công bằng xã hội. Do vậy, vai trò thứ ba của công tác thu cũng chính là góp phần đảm bảo công bằng. Tính công bằng của công tác thu được thể hiện ở chỗ nó góp phần trong việc dàn trải rủi ro mà người lao động gặp phải thông qua việc chi trả đầy đủ theo chế độ cho họ khi họ gặp phải khó khăn, giúp họ ổn định trong cuộc sống. Công tác thu có được thực hiện tốt thì quỹ BHXH mới phát triển được. Từ đó có điều kiện để thực hiện công tác chi tiêu cho người lao động. Không những thế trong quá trình thu các cán bộ thu không ngừng kiểm tra xem xét để phát hiện ra những đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc mà các đơn vị sử dụng lao động chưa đăng ký cho họ. Từ đó đảm bảo quyền lợi cho chính người lao động, đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Mức đóng góp một số phương pháp xác định mức đóng góp BHXH.
Mức đóng góp BHXH.
Ở nước ta, từ năm 1962 đến năm 1987, quỹ BHXH được hình thành từ hai nguồn: các xi nghiệp sản xuất vật chất đóng 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại là do Ngân sách Nhà nước đài thọ. Trên thực tế, không tồn tại quỹ BHXH độc lập.
Từ năm 1988 đến năm 1995, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Từ năm 1995, sau khi Chính phủ ban hành điều lệ BHXH Việt Nam kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn như sau:
Một là, người sử dụng lao động đóng góp bằng 15% so với tổng quỹ lương của tất cả những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả cho các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp.
Hai là, mức đóng góp của người lao động bằng 15% tiền lương hàng tháng để chi cho chế độ hưu trí, tử tuất.
Ba là, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH với người lao động.
Bốn là từ các nguồn khác.
Nhưng từ năm 2002 sau khi Chính phủ ra quyết định số 20/2002/QĐ – TTg của thủ tướng chính phủ ngày 24/1/2002 về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam thì mức đóng góp BHXH của các bên có một số thay đổi:
Người sử dụng lao động đóng góp bằng 17% so với tổng quỹ lương của tất cả những người tham gia BHXH của đơn vị. Trong đó 15% chi trả cho các chế độ BHXH, 2% chi trả cho BHYT.
Mức đóng góp của người lao động bằng 6% tiền lương hàng tháng, trong đó 5% để chi cho các chế độ BHXH và 1% chi cho BHYT.
Một số phương pháp xác định mức đóng góp BHXH.
Mức đóng BHXH thực chất chính là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH, vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học và chặt chẽ. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi xác định phí BHXH phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu – chi, lấy số đông bù số ít và phải có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân bằng với mức hưởng, với nhu cầu và phải điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH (P) bao giờ cũng gồm ba phần:
Phí thuần túy trợ cấp BHXH (f1).
Phí dự phòng (f2).
Phí quản lý (f3).
P = f1 + f2 + f3
Để xác định mức phí BHXH phải đóng có thể có những căn cứ tính toán khác nhau như:
Có thể dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở để xác định mức phí BHXH.
Quy định mức phí BHXH trước rồi sau đó mới xác định mức hưởng.
Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng này mới xác định mức phí phải đóng.
Từ những căn cứ tính toán khác nhau đó có thể hình thành nên những nhóm phương pháp xác định phí khác nhau:
Nhóm phương pháp xác định phí BHXH không căn cứ vào thu nhập – phương pháp xác định phí đồng đều.
Phương pháp xác định phí đồng đều đối với mọi đối tượng lao động: Cơ quan BHXH sẽ đưa ra một mức phí đã được ấn định trước và mọi người lao động tham gia BHXH đều phải đóng mức phí như nhau mà không có sự phân biệt nào về giới tính, lứa tuổi, ngành nghề… Hiện nay, phương pháp này hầu như không được sử dụng.
Phương pháp xác định phí đồng đều căn cứ vào từng nhóm người lao động: Với từng độ tuổi, giới tính… cơ quan BHXH sẽ đưa ra các mức phí khác nhau, phù hợp với từng nhóm người lao động. Phương pháp này hiện nay đang được áp dụng rộng rãi ở các nước có hệ thống BHXH phổ cập và có đối tượng tham gia khó xác định được thu nhập. Ưu điểm của phương pháp này là rất đơn giản, việc thu phí không gặp trở ngại gì. Tuy nhiên, phương pháp này lại không đáp ứng được nhu cầu tham gia BHXH đa dạng của người lao động nên không đạt được hiệu quả thu cao về mặt xã hội.
Nhóm phương pháp xác định phí BHXH căn cứ vào thu nhập.
Phương pháp xác định phí đồng đều với từng mức thu nhập: Mức thu nhập của người lao động sẽ được phân chia ra thành nhiều nhóm khác nhau. Trong mỗi nhóm đều phải xác định mức thu nhập tối đa và mức thu nhập tối thiểu. Người lao động nằm trong mức thu nhập nào sẽ phải đóng phí BHXH theo._.
Hơn nữa công tác thu đòi hỏi người cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc với các đơn vị sử dụng lao động. Vì vậy trong quá trình tiếp xúc không tránh khỏi những tình huống bất ngờ đòi hỏi người cán bộ thu phải năng động sáng tạo và linh hoạt. Do vậy, trong việc sử dụng cán bộ cũng đòi hỏi phải phân công đúng người đúng việc.
Ngoài ra, như đã nói BHXH quận Long Biên là cơ quan mới được thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động từ đầu năm 2004 nên các cán bộ chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong khi đó, số lượng các đơn vị sử dụng lao động và số lao động đăng ký tham gia BHXH ngày càng lớn đòi hỏi cán bộ phải có năng lực thực sự, có trình độ chuyên môn thì mới đáp ứng được đòi hỏi của công việc.
Từ những điều trên đòi hỏi cơ quan BHXH quận Long Biên phải có các biện pháp để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ của cơ quan. Ví dụ như:
Tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về BHXH cho cán bộ bảo hiểm.
Hàng năm, cử các cán bộ trong cơ quan đi học hỏi kinh nghiệm ở các địa phương khác, và các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ.
Tạo điều kiện cho các cán bộ trẻ có trình độ trung cấp đi học các lớp tại chức chuyên ngành về bảo hiểm để học được đào tạo một cách có hệ thống, bài bản và khoa học.
Ngoài ra còn phải coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm của cán bộ làm công tác thu.
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyên về BHXH.
Trong thời gian qua, BHXH quận Long Biên cũng đã tổ chức nhiều đợt tuyên truyền về BHXH như: phát tờ rơi, tổ chức các buổi tọa đàm, nói chuyện về chính sách BHXH trong đó có người lao động tham gia. Ngoài ra còn tổ chức các buổi hội diễn văn nghệ ca ngợi ngành để thu hút người lao động. Tuy nhiên các hình thức tổ chức trên không được tổ chức một cách thường xuyên, nội dung chưa phong phú và hấp dẫn. Hơn nữa, các hình thức tổ chức chưa phải là đa dạng. Do vậy hiệu quả đạt được không cao. Số người tham gia nhiều chỉ mang tính hình thức. Vì thế cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền cả về nội dung lẫn hình thức
Về nội dung: Cần phải căn cứ vào đối tượng để tuyên truyền. Đối tượng nào chưa hiểu về chính sách chế độ nào thì phải tuyên truyền về chính sách chế độ đó.
Đối với người lao động nói chung: cần giải thích để họ thấy được số tiền mà họ phải trích từ lương ra đóng là hữu ích và hợp lý. Họ chỉ cần đóng ¼ số tiền mà thôi. Còn người chủ sử dụng lao động, các doanh nghiệp sẽ phải đóng ¾ số tiền còn lại. Trong khi đó, họ có thể nhận được trợ cấp từ BHXH khi giảm hoặc mất thu nhập, khi về già không có lương, được trợ cấp khi ốm đau, thai sản.
Đối với những người lao động làm việc trong các ngành điện máy, xây dựng , thiết bị, các cán bộ cần phải tuyên truyền để họ thấy được họ cần thiết phải có BHXH bởi đây là những ngành rất dễ xảy ra tai nạn lao động. Tai nạn lao động có thể đến do những những người chủ sử dụng lao động không đảm bảo những điều kiện an toàn kỹ thuật cho người lao động như: không trang bị đầy đủ những thiết bị an toàn lao động, sử dụng các thiết bị cũ nhập từ nước ngoài hoặc các máy móc tự chế không đảm bảo tiêu chuẩn quy định của nhà nước. Tai nạn lao động cũng có thể đến từ chính sự bất cẩn, thiếu hiểu biết, sự cẩu thả của người lao động do họ không được trang bị kiến thức không được huấn luyện các phương pháp lao động an toàn. Chính vì những tình trạng như trên tồn tại rất nhiều trong thực tế nên tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp rất thường xuyên xảy ra, khi xảy ra thì thường nghiêm trọng. Đặc biệt đối với người là khi không may gặp phải rủi ro này thì mất mát về con người và tài chính là rất lớn. Do vậy họ cần phải đóng BHXH để dàn trải bớt rủi ro.
Đối với doanh nghiệp: khi người lao động gặp phải rủi ro thì việc kinh doanh cũng bị ảnh hưởng. Do vậy, việc tuyên truyền tham gia BHXH cần nhấn mạnh để cho doanh nghiệp thấy được tham gia cho người lao động không chỉ là trách nhiệm mà còn là sự cần thiết trong việc đảm bảo công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài việc tuyên truyền về chính sách pháp luật, về các chế độ BHXH, giải đáp các thắc mắc của các đơn vị, hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, BHXH cần phải quan tâm đến việc tuyên truyền về mục đích bản chất nhân đạo của BHXH. Nếu thực hiện được điều này thì tâm lý của người lao động sẽ thay đổi, họ sẽ tự nguyện đóng BHXH thay vì bắt buộc đóng như hiện nay.
Về hình thức: Cần phải áp dụng đa dạng và phong phú các hình thức như:
Tổ chức các buổi hội thảo tọa đàm, nói chuyện về BHXH.
Trưng bày các pano, áp phích về BHXH ở nơi đông dân cư.
Tạo ra các ấn phẩm đẹp, hấp dẫn về BHXH
Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng như truyền hình, phát thanh, báo chí … để tuyên truyền sâu rộng hơn về BHXH. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BHXH tại các đơn vị, trường học để mọi người có thể hiểu rõ hơn về chính sách này và từ đó làm tăng số người tham gia BHXH tự nguyện.
Tăng cường thông tin tuyên truyền đối với các chủ thể như: Các cán bộ phường bởi họ chính là những người nắm vững nhất về số lượng và loại hình doanh nghiệp trên địa bàn. Từ đó họ có thể mang lại cho BHXH quận thông tin rất quan trọng về những đơn vị, đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH.
Thông qua các tổ chức công đoàn để tuyên truyền về chính sách BHXH cho người lao động và từ đó để họ đấu tranh đòi người sử dụng lao động phải nộp BHXH cho người lao động
Tuyên truyền trực tiếp cho chủ doanh nghiệp và người lao động để học hiểu về quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Với công tác BHYT tự nguyện, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách BHYT tại các buổi họp của tổ dân phố, tại các gia đình nhất là những gia đình chưa có người tham gia BHYT. Bắt buộc, lấy những tấm gương điển hình thiết thực để thuyết phục mội người. Đặc biệt trong dịp nghỉ hè, cơ quan BHXH quận Long Biên nên phối hợp với các trường chính trị ngành giáo dục đào tạo thông qua các lớp học chính trị, lớp học quản lý nhà nước để tranh thủ tuyên truyền về chính sách BHXH, BHYT. Đặc biệt là BHYT học sinh. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của đội ngũ các thầy cô giáo về mục đích,ý nghĩa, lợi ích cũng như bản chất nhân đạo, cộng động của BHYT học sinh. Nhờ đó đội ngũ này sẽ góp phần tích cực vận động phụ huynh đóng góp BHYT cho con em mình. Hơn nữa vào các dịp triển khai BHYT học sinh, BHXH quận Long Biên cần phối hợp với ngành giáo dục đào tạo cùng hệ thống thông tin đại chúng tiến hành mở đợt tuyên truyền trọng điểm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác triển khai BHYT học sinh đầu năm đạt kết quả cao.
Tích cực đổi mới và tăng cường công tác thu BHXH
Trên thực tế, công tác tổ chức thu BHXH còn mang tính hành chính chưa thực sự chú trọng, kiểm soát đối tượng còn lỏng lẻo, tách rời, chưa quan tâm nhiều đến việc mở rộng đối tượng tham gia … Do vậy, hiệu quả của công tác thu còn chưa được cao và việc thực hiện chính sách BHXH còn nhiều thiếu sót. Nên việc đổi mới tăng cường công tác thu là một đòi hỏi cấp thiết.
Ngoài ra, công tác thu muốn thực hiện đạt hiệu quả cao thì phải thực hiện tốt ở tất cả các mặt. Từ khâu quản lý đối tượng tham gia, nắm vững số đơn vị, số lao động, quỹ lương của đơn vị đến việc theo dõi sự biến động của các đơn vị này. Tuy nhiên, BHXH quận Long Biên còn nhiều thiếu sót trong trong việc theo dõi sự biến động của các đơn vị sử dụng lao động. Do đó động viên khuyến khích, áp dụng các biện pháp tạo động lực cho cán bộ thu là rất cần trong lúc này.
Có thể tiến hành đổi mới, tăng cường công tác thu, khuyến khích các đơn vị nộp đủ BHXH bằng cách áp dụng một số cách sau:
Sử dụng kết quả đóng BHXH của các đơn vị là chỉ tiêu để xét thi đua hàng năm.
+ Tiến hành các hình thức khen thưởng, biểu dương các đơn vị thường xuyên nộp BHXH theo đúng quy định
+ Với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH, cơ quan BHXH cần xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn do hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao thì cần tạo điều kiện thuận lợi cho họ. Còn nếu đơn vị đó cố tình chiếm dụng quỹ BHXH thì BHXH quận ần xử phạt hành chính theo đúng như quy định.
Để tạo động lực cho các cán bộ thực hiện tốt công tác thu thì BHXH quận nên sử dụng các hình thức khen thưởng hiện vật với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thu đúng chỉ tiêu, phát hiện thêm nhiều đối tượng phải nộp BHXH, thuyết phục được nhiều người tham gia BHXH tự nguyện. Còn với những cán bộ chưa thực hiện tốt thì cần khiển trách đồng thời động viên họ cố gắng trong công việc. Nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ hoàn thành nhiệm vụ thu của mình, BHXH quận nên có thêm các chế độ hỗ trợ về vật chất cho cán bộ thu khi họ đi xuống các cơ sở để đôn đốc nhắc nhở và kiểm tra việc thực hiện BHXH tại các doanh nghiệp. Chẳng hạn như: hỗ trợ phương tiện đi lại, chi phí coi như đi công tác … Làm được như vậy sẽ góp phần khuyến khích cán bộ thu tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động, đôn đốc thu với các đơn vị.
Ngoài ra, công tác thực hiện xét duyệt sổ BHXH cần thực hiện nhanh chóng kịp thời tạo tâm lý an toàn, thoải mái cho người lao động tham gia BHXH, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động thu.
Phối hợp chặt chẽ với các ban ngành có liên quan trong khi thực hiện thu BHXH
Công tác thu BHXH là một công tác có liên hệ rất mật thiết với các ban ngành đoàn thể khác. Vì vậy muốn thực hiện công tác thu phải tăng cường kết hợp với chính các ban ngành đó. Cụ thể như sau:
Tăng cường phối hợp với các ban ngành liên quan: thuế, thanh tra lao động, cơ quan chính quyền địa phương để thanh tra, kiểm tra các đơn vị đóng trên địa bàn quận trong việc thực hiện các chế độ BHXH.
Liên tục trao đổi, giữ quan hệ chặt chẽ với các ngành chức năng: Phòng Kế hoạch – Đầu tư và chi cục thuế. Phong Kế hoạch – Đầu tư sẽ d\cung cấp cho BHXH quận thông tin về các đơn vị mới đăng ký kinh doanh. Còn mã số thuế của các đơn vị sẽ được cục Thuế cung cấp. Từ đó BHXH quận tiến hành tiếp cận tổ chức thu BHXH kịp thời hoặc lập kế hoạch cho năm sau, góp phần hạn chế bỏ sót đối tượng.
Phối hợp với phòng Lao động Thương binh và Xã hội để giám sát các đơn vị trong việc thực hiện các quy định của pháp luật như việc ký kết hợp đồng và việc thực hiện các chính sách BHXH
Phối hợp với các cơ quan y tế, các bệnh viện, trung tâm khám chữa bệnh để khuyến khích mọi người tham gia BHYT tự nguyện. Để BHYT thực sự trở thành người bạn đồng hành trong cuộc sống của người dân thì cơ quan BHXH quận phải cùng với các cơ quan này tổ chức chăm sóc sức khỏe chu đáo tận tình cho người tham gia BHYT, giải quyết kịp thời cho người tham gia BHYT , tạo dựng lòng tin cho mọi người trong xã hội. Với dân số đông, nếu thực hiện được tốt công tác BHYT tự nguyện thì BHXH quận Long Biên sẽ tăng được một nguồn thu đáng kể.
Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát công tác thu.
Công tác thu liên quan trực tiếp đến phí BHXH do các đối tượng đóng góp. Vì vậy các cán bộ thu BHXH rất dễ mắc phải các sai phạm đạo đức nghề nghiệp. Không những thế, không ít chủ sử dụng lao động chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài cũng như quên mất nghĩa vụ của mình. Do vậy vẫn còn tình trạng chậm đóng, trốn đống hay nộp thiếu BHXH xảy ra. Từ những lý do trên, cần đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát thu tại cơ quan quận Long Biên là yêu cầu rất cần thiết. Ví có như vậy mới có thể đảm bảo toàn nguồn thu BHXH.
Có thể đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát công tác thu bằng các biện pháp sau:
Nắm chắc số đơn vị sử dụng lao động và quỹ tiền lương của từng đơn vị để từ đó thu BHXH cho đúng và đủ. Tăng số lần kiểm tra, giám sát định kỳ việc nộp BHXH của các đơn vị. Tránh tình trạng đơn vị khai giảm lao động và quỹ tiền lương để từ đó giảm số BHXH mà đơn vị phải nộp. Nếu phát hiện ra các trường hợp trốn đóng BHXH thì phải xử lý nghiêm. Còn với những đơn vị nợ đọng BHXH hay sử dụng sai mục đích nộp BHXH dùng thủ đoạn ký hợp đồng dưới 3 tháng thì cần phải xử lý theo đúng luật định.
Để tránh trường hợp các cán bộ thu có những hành vi trái với đạo đức nghề nghiệp, ban lãnh đạo BHXH quận Long Biên cần thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ thu. Sử dụng hình thức kiểm tra chéo giữa các cán bộ, các nhóm làm nhiệm vụ thu. Sử dụng hộp thư góp ý để người dân hay chính các cán bộ BHXH có thể góp ý về những sai phạm mà các cán bộ mắc phải. Sử phạt thật nghiêm và tiến hành phê bình công khai với những cán bộ mắc phải sai phạm tùy theo mức độ vi phạm.
Tuy nhiên hiện nay mức phạt còn quá thấp so với số tiền mà doanh nghiệp chiếm dụng quỹ BHXH. Hơn nữa khi phát hiện ra các trường hợp chiếm dụng, trốn đóng BHXH, cơ quan BHXH quận Long Biên lại không được quyền xử phạt mà chỉ lập biên bản rồi gửi cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Vì vậy việc xử lý có thể sẽ không được thực hiện kịp thời và dứt khoát. Do đó rất có thể dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong việc xử lý và nộp phạt. Vậy nên, hoạt động kiểm tra, giám sát công tác thu mang lại hiệu quả thực sự thì mức phạt cần phải điều chỉnh. Mức phạt ít nhất cũng phải lớn hơn lãi suất ngân hàng để các đơn vị tránh tái phạm.
Tích cực vận động các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHXH.
Quận Long Biên tuy mới được thành lập nhưng có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng trên đia bàn quận. Và cũng như nhiều địa phương khác, các doanh nghiệp này thường tìm cách trốn tránh việc tham gia BHXH. Mặt khác, trên địa bàn quận ngày càng có nhiếu doanh nghiệp ngoài quốc doanh mọc lên. Mà số lao động làm việc trong khu vực này là rất lớn. Vì vậy nếu tích cực vận động và phát hiện thêm thì khu vực này sẽ đóng góp thêm một phần đáng kể cho quỹ BHXH. Hiện nay cơ quan BHXH quận Long Biên cũng đang tiến hành một số biện pháp để vận động khu vực này tham gia đóng góp BHXH nhưng hiệu quả vẫn chưa được cao. Do đó có thể áp dụng một số biện pháp sau:
Giao cho một cán bộ chuyên trách đi làm nhiệm vụ liên hệ với Sở Kế hoạch đầu tư để nắm bắt nhanh chóng các thông tin về những đơn vị ngoài quốc doanh mới thành lập cũng như nắm được những đơn vị nào chưa tham gia BHXH.
Thắt chặt công tác kiểm tra. Cử cán bộ xuống tiếp xúc và làm việc trực tiếp với DN NQD để nắm bắt kịp thời những biến động về số lượng lao động tham gia BHXH.
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để các doanh nghiệp này hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu cũng góp phần tăng hiệu quả của công tác thu BHXH. Với thuận lợi là tất cả các bộ phận của BHXH quận Long Biên đều được trang bị máy tính, bình quân mỗi người một chiếc nên nếu khai thác tốt lợi ích của máy tính và gắn với công tác quản lý thu thì sẽ đạt hiệu quả cao. Nhưng do mức độ sử dụng còn đơn giản nên chưa khai thác hết lợi ích của máy tính. Vì vậy, BHXH quận Long Biên nên tạo điều kiện cho một số cán bộ tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn về sử dụng một số phần mềm quản lý, từ đó về áp dụng triển khai vào cơ quan.
Với một số giải pháp đối với BHXH quận Long Biên như trên, em hy vọng có thể góp phần vào hoàn thiện công tác thu tại cơ quan BHXH. Nếu như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các công tác khác, góp phần bảo đảm bảo cho việc thực hiện các chính sách BHXH được đầy đủ và đúng theo như quy định.
Một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước.
Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật
Hiện nay, luật BHXH đã đi vào hoạt động nhưng để mọi người dân thực hiện đúng theo luật thì các cơ quan nhà nước vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn cho phù hợp với tình hình thực tế.
Luật BHXH cũng đã quy định về các hành vi vi phạm việc đóng BHXH. Cụ thể ở điều 134 của luật đã định rõ các hành vi này bao gồm: không đóng, đóng không đúng thời hạn quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH. Nhưng để luật này được thực hiện một cách nghiêm túc và thực sự mang lại hiệu quả Nhà nước cần ban hành kèm theo các văn bản quy định chế tài xử phạt nghiêm khắc với những đối tượng vi phạm pháp luật.
Khi ban hành các quy định về kinh tế, tài chính, thuế. Nhà nước cần có các điều khoản quy định trách nhiệm về nghĩa vụ thực hiện BHXH của doanh nghiệp. Từ đó cho các doanh nghiệp thấy mối liên hệ ràng buộc giữa việc thành lập và việc thực hiện nghĩa vụ BHXH và BHYT. Hơn nữa mức phí BHXH khi tính toán không nên căn cứ vào mức tiền lương thực tế của người lao động ghi trên hợp đồng như hiện nay nữa mà nên dựa vào mức tiền lương thực tế của người lao động. Có như vậy mới đảm bảo được tính công bằng của BHXH.
Ngoài ra nhà nước ban hành các văn bản quy định cụ thể về các hình thức khen thưởng. Có như vậy mới có căn cứ để xét thưởng và khuyến khích người sử dụng lao động cũng như các cơ quan tổ chức cá nhân tích cực trong việc thực hiện thu BHXH.
Xây dựng các chính sách để mở rộng đối tượng và hình thức tham gia BHXH
Mục tiêu lâu dài của ngành BHXH là tổ chức thực hiện chính sách BHXH cho tất cả mọi người lao động trong xã hội. Vì có như vậy mới đảm bảo được tính công bằng và phát huy hiệu quả của hoạt động BHXH một cách tốt nhất.
Tuy nhiên hiện nay số lượng người tham gia BHXH còn rất ít, vì vậy việc mở rộng đối tượng tham gia là phù hợp. Nhưng trong điều kiện đất nước ta hiện nay thì việc mở rộng phải tiến hành sao cho hợp lý. Trên thực tế, những người không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc đều là những người không có sự ràng buộc về quan hệ lao động cũng như pháp luật lao động, thu nhập thì không ổn định, không có người sử dụng lao động hoặc không ổn định người sử dụng. Những người đó là nông dân. Vì vậy nếu tiến hành BHXH bắt buộc với các đối tượng này thì việc quy định mức phí là rất khó khăn do thu nhập của họ không ổn định, không có căn cứ để thu BHXH. Do đó áp dụng BHXH tự nguyên với mức phí tự chọn đối với các đối tượng này là hợp lý nhất. Bên cạnh đó cần phải nghiên cứu xem xét các chế độ cho phù hợp với mức đóng của những lao động này. Mức hưởng trợ cấp phải căn cứ vào mức đóng của họ và thay đổi theo từng chế độ cụ thể. Mỗi người lao động tùy vào điều kiện, tình hình và tính chất công việc để tự lựa chọn cho mình các chế độ BHXH tự nguyện, điều này là hoàn toàn hợp lý với mức phí đóng của mỗi người.
Nhưng để việc mở rộng loại hình BHXH tự nguyện mang lại kết quả tốt thì cần phải tăng cường công tác tuyên truyền để tất cả mọi người đều hiểu rằng đây là chính sách mang lại lợi ích cho họ và phù hợp với khả năng tài chính của họ.
Nếu thực hiện được việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, ngành BHXH sẽ thực hiện được vai trò của mình là bảo vệ người lao động giúp họ ổn định cuộc sống ngay cả khi họ gặp phải rủi ro như tai nạn lao động, ốm đau, già yếu …
Có chính sách đầu tư quỹ BHXH phù hợp
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính lớn, quỹ là nguồn chi của các chế độ BHXH, quyết định sự tồn tại của cả hệ thống. Vì vậy, việc bảo toàn giá trị và tăng nguồn quỹ này là rất quan trọng.
Để giá trị của quỹ BHXH được bảo tồn cần phải chú ý:
Sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm
Chi đúng mục đích, đúng đố tượng
Đẩy mạnh công tác kiểm tra sử dụng quỹ.
Còn để nguồn quỹ tăng trưởng thì cần phải có chính sách đầu tư quỹ hợp lý khi đầu tư quỹ BHXH cần phải chú ý đến các nguyên tắc sau:
Phải có quy định hướng dẫn đầu tư rõ ràng và phải được chính phủ thông qua.
Phải đảm bảo đầu tư một cách an toàn. Đầu tư phải có lãi suất nhưng cũng không được gây ảnh hưởng đến nguồn chi thường xuyên hàng năm.
Có như vậy thì việc đầu tư mới không ảnh hưởng đến việc chi trả. Đồng thời khi đầu tư quỹ BHXH cần phải chú ý đến việc chống thất thu, giảm số nợ đọng BHXH, tích cực đôn đốc thu tại các đơn vị, tránh tình trạng chiếm dụng vốn.
Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra thực hiện các chế độ BHXH của các cơ quan chính quyền.
Các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể phải tăng cường lãnh đạo giám sát, kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện đúng các chế độ BHXH với người lao động. Cấp ủy, chính quyền phải định kỳ nghe cơ quan BHXH báo cáo việc thực hiện các chế độ BHXH để phát hiện uốn nắn và chấn chỉnh kịp thời các sai sót.
Các cơ quan thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính phải đẩy mạnh công tác thanh kiểm tra việc đóng BHXH của các doanh nghiệp, buộc họ phải thực hiện đóng BHXH theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cần phải thanh kiểm tra các cơ quan BHXH và các cơ quan khác có liên quan để đảm bảo quyền lợi hưởng BHXH cho người lao động và đối tượng thụ hưởng BHXH.
Kiến nghị đối với BHXH Việt Nam
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thu.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý nghiệp vụ BHXH mang lại rất nhiều lợi ích. Nó giúp giảm chi phí, thống nhất cách nhìn của nhiều đơn vị dưới cùng một tiêu chuẩn thống nhất, tạo ra phong cách làm việc hiệu quả và khoa học. Do vậy ngành BHXH cần phải áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin hơn trong quản lý các đối tượng tham gia BHYT, quản lý thu – chi BHXH, quản lý tài chính, kế toán … Bên cạnh đó còn phải tăng cường về cơ sở vật chất ký thuật công nghệ cho các cơ quan BHXH các cấp.
Tuy nhiên, để việc ứng dụng công nghệ thực sự mang lại hiệu quả thì cần phải có một đội ngũ cán bộ sử dụng thành thạo các phần mềm. Do vậy ngoài việc ứng dụng công nghệ thông tin BHXH Việt Nam còn phải chú ý đến công tác đào tạo cán bộ bằng cách:
Tổ chức các lớp dạy về công nghệ thông tin cho các cán bộ BHXH.
Cung cấp các tài liệu kèm theo mỗi khi ứng dụng công nghệ mới
Có kế hoạch để BHXH các cấp tự tổ chức các khóa học về công nghệ mới được ứng dụng trong hoạt động quản lý BHXH
Hoàn thiện công tác quản lý thu và quy trình thu
Để thực hiện tốt công tác quản lý thu phải thực hiện tốt tất cả các mặt từ việc quản lý đối tượng tham gia nắm được số đơn vị trên địa bàn số lao động, quỹ tiền lương của các đơn vị và theo dõi sát sao những biến động của các đơn vị. Và để thực hiện các việc này thật tốt thì phải hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH sao cho phù hợp. Từ khi BHXH Việt Nam được thành lập cho đến nay, quy trình quản lý thu được thực hiện ở 03 khâu: Khâu đăng ký, khâu thực hiện, khâu kiểm tra xác nhận đều do cơ quan BHXH và đơn vị sử dụng lao động đảm nhận nhưng kết quả thu được vẫn còn hạn chế. Tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao động, quỹ tiến lương của đơn vị vẫn còn tồn tại, vẫn còn tình trạng nợ đọng tiền BHXH, trốn nghĩa vụ đóng BHXH của các chủ sử dụng lao động đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vì vậy, quy trình quản lý thu cần phải được tập trung hoàn thiện ở một số khâu như:
Khâu đăng ký: Khâu này sẽ vẫn do đơn vị sử dụng lao động đảm nhận nhưng sau đó cơ quan BHXH phải chịu trách nhiệm đối chiếu, rà soát một cách chi tiết danh sách của đơn vị.
Nên đưa thêm khâu điều tra khai thác đơn vị tham gia BHXH vào trong quá trình quản lý thu. Bởi quy trình quản lý thu hiện nay được áp dụng cho tất cả các loại đối tượng tham gia BHXH nhưng lại chưa thực sự phù hợp với đối tượng thuộc khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do vậy, nếu đưa thêm khâu này vào trong quá trình quản lý thu sẽ làm cho công tác mở rộng đối tượng tham gia mang lại hiệu quả. Đặc biệt tiến hành khâu này ở khu vực DN NQD thì hiệu quả đạt được lại càng cao càng có nhiều đơn vị sử dụng lao động phải tham gia BHXH, từ đó số lượng lao động tham gia BHXH cũng tăng lên.
Trong khâu phân bổ nguồn kinh phí hỗ trợ thu cần ưu tiên khuyến khích UBND xã phường thị trấn, các phòng chức năng của quận, huyện, làm tốt công tác phối hợp và hỗ trợ thu BHXH ở khu vực DN NQD. Cần rà soát, cải tiến hệ thống biểu mẫu về thu BHXH sao cho dơn giản hơn, linh hoạt, thuận tiện cho người làm công tác BHXH và các doanh nghiệp về BHXH các cấp.
Bên cạnh đó, để khuyến khích mọi người tham gia BHXH tự nguyện cần đơn giản thủ tục để thuận lợi cho người đến đăng ký. Đặc biệt với các đối tượng không có chủ sử dụng lao động thì việc liên lạc với họ là khó khăn mà để trực tiếp người lao động phải tới cơ quan BHXH nộp là không hợp lý dễ gây ra sự mất kiên nhẫn ở loại đối tượng này. Vì vậy nên để chính quyền sở tại, nơi đối tượng đang sinh sống tiến hành thu BHXH rồi sau đó nộp lại cho BHXH, BHYT cấp sổ ghi xác nhận số tiền đã đóng.
Ngoài ra, BHXH Việt Nam cần phải nhanh chóng triển khai chính sách BHXH và các chế độ ban hành. Hơn nữa cần phải có kế hoạch phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí ở trung ương một cách thường xuyên để phổ biến, giải thích các chế độ, chính sách về BHXH, BHYT cho toàn dân.
KẾT LUẬN
BHXH ở Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò quan trọng và tính tất yếu của nó trong đời sống xã hội nhằm góp phần ổn định tình hình chính trị và an toàn xã hội, thúc đấy phát triển kinh tế xã hội đảm bảo đời sống cho người lao động. BHXH đã thực sự trở thành một công cụ để Nhà nước thực hiện chiến lược xã hội hóa các hoạt động xã hội và từng bước giảm dần sự bao cấp của Ngân sách Nhà nước thông qua việc xác lập trách nhiệm của người lao động và người sử dụng lao động cũng như sự đóng góp vào quỹ từ những nguồn lực khác nhau. Và để số vốn huy động vào quỹ BHXH ngày càng cao thì càng phải nâng cao hiệu quả thu. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được điều này thì chúng ta cần phải giải quyết hài hòa các nhân tố tác động đến công tác thu và căn cứ vào các nhân tố đó để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại BHXH Quận Long Biên” được chọn xuất phát từ những bức xúc tồn tại trong nhiều năm xung quanh công tác thu, từ những khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ và cũng là quyền lợi thu nộp BHXH của các đối tượng tham gia BHXH. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác thu BHXH tại địa bàn quận Long Biên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm – NXB Thống kê, Hà Nội, 2005.
Lương Đức Cường: Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành – NXB Tài chính, Hà Nội, 2006.
Hồ Sĩ Hà: Kinh tế bảo hiểm – NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1994.
Trần Đình Hoan: Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế thực hiện – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Khoa Khoa học quản lý – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình chính sách kinh tế xã hội – NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2006.
Khoa Khoa học quản lý – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình Khoa học quản lý tập I – NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2002.
Khoa Khoa học quản lý – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình Khoa học quản lý tập II – NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2002.
Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
Phạm Xuân Nam: Đổi mới chính sách xã hội, Luận cứ và giải pháp – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Bùi Huy Thảo: Thống kê bảo hiểm – NXB Thống kê, Hà Nội, 1996.
Tạp chí bảo hiểm xã hội, Số 07/2007 – NXB tạp chí bảo hiểm xã hội, Hà Nội, 2007.
Tạp chí bảo hiểm xã hội, Số 08/2007 – NXB tạp chí bảo hiểm xã hội, Hà Nội, 2007.
www.bhxhhn.com.vn
PHỤ LỤC
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện số tiền thu BHXH
và số tiền nợ BHXH tại quận Long Biên qua các năm
Chú thích:
: Số tiền nợ BHXH
: Số tiền thu BHXH
Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu thu BHXH của các khối loại hình quản lý qua các năm tại quận Long Biên
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12320.doc