Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính của ngành Kiểm sát nhân dân

LỜI MỞ ĐẦU Tài chính công gắn liền với hoạt động của Nhà nước. Nó vừa là nguồn lực để Nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, vừa là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, chi phối, điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước. Tài chính công có vai trò rất quan trọng trong việc huy động nguồn lực tài chính để đảm bảo tăng trưởng kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cũng như trong việc điều chỉnh kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô, khuyến khích kinh tế vi mô phát triển. Tài

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1286 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính của ngành Kiểm sát nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính công được hình thành và sử dụng vì lợi ích công cộng. Lợi ích công cộng trước hết là lợi ích tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định xã hội, giải quyết được việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân, phát triển giáo dục, y tế, chống đói nghèo... những vấn đề to lớn trên của đất nước, tài chính tư dù có lớn mạnh đền bao nhiêu cũng không thể giải quyết được và chính ở đó cần vai trò của tài chính công. Sự ổn định của tài chính công là tiền đề, điều kiện bảo đảm cho sự ổn định của tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư. Nó không chỉ góp phần làm tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, mà còn đóng góp phần quan trọng cho ngân sách nhà nước, hoàn trả được vốn vay ngân hàng và những phúc lợi chung cho người lao động làm việc trong khu vực này và những vấn đề xã hội khác. Vai trò của trò của tài chính công rất quan trọng đối với Nhà nước nói chung cũng như đối với các tổ chức, đơn vị sử dụng nguồn kinh phí do Nhà nước cấp nói riêng. Đặc biệt, trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia và bối cảnh nền kinh tế hội nhập hiện nay, Đảng và Nhà nước ta coi đổi mới quản lý tài chính công là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu. Nhận thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của quản lý tài chính công, sau một thời gian nghiên cứu và học tập ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, được sự giúp đỡ của các cô, chú ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói chung và các cô, chú ở Vụ 11: Vụ kế hoạch – Tài chính nói riêng, cũng như nhận được sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Nguyễn Văn Duệ, em đã tìm hiểu về đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính của ngành Kiểm sát nhân dân”. Đề tài chia làm 3 chương: Chương I: Cơ sở lí luận về quản lý tài chính công. Chương II: Thực trạng quản lý tài chính trong ngành Kiểm sát nhân dân. Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính trong ngành Kiểm sát nhân dân. Em xin chân thành cảm ơn các cô, chú trong Viện kiểm sát nhân dân tối ca; các thầy, cô ở khoa Khoa học quản lý và PGS.TS Nguyễn Văn Duệ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong thời gian qua để em hoàn thành bản báo cáo chuyên đề thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG. Khái quát về tài chính. Tài chính là phạm trù kinh tế. Sự ra đời và phát triển của tài chính gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại qua các thời đại, tài chính luôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội ở tất cả các quốc gia với bất kì chế độ chính trị nào. Tài chính là một phạm trù giá trị tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá, là khái niệm dùng để chỉ những quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối và chi dùng những của cải bằng tiền giữa con người với nhau, bao gồm quan hệ giữa pháp nhân với pháp nhân, quan hệ pháp nhân với thể nhân, thể nhân với thể nhân. Theo nghĩa rộng trong kinh tế học, tài chính là tổng thể các quan hệ tiền tệ trong phân phối dưới hình thức giá trị, hình thành các quĩ tiền tệ. Tài chính biểu hiện tổng hợp giá trị tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Phạm trù tài chính rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực: ngân sách Nhà nước, lưu thông tiền tệ - tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, tài chính doanh nghiệp, tư nhân... Vì vậy, tài chính có vai trò to lớn đối với toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân cũng như đối với hoạt động quản lý của Nhà nước. Trong một quốc gia, hoạt động và quan hệ tài chính gắn liền với các hoạt động trong đời sống kinh tế - xã hội. Bộ phận tài chính gắn liền với hoạt động của Nhà nước được gọi là tài chính Nhà nước hay tài chính công ( State finance). Đó là bộ phận quan trọng nhất, đóng vị trí chủ đạo trong nền tài chính quốc gia Tài chính công. Khái niệm tài chính công. Tài chính công: là một thuật ngữ dùng để chỉ “Các hoạt động thu, chi bằng tiền của Nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng vốn có (không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận) của Nhà nước đối với xã hội” Khái niệm trên chỉ ra rằng: Xét về tính chất, tài chính công là những quan hệ tài chính gắn với sở hữu tài sản công; xét về nội dung vật chất là những quỹ tiền tệ thể hiện tài sản công. Các quỹ tiền tệ thuộc tài chính công rất đa dạng, phong phú, trong đó quan trọng nhất là các quỹ của Nhà nước; bên cạnh đó còn các quỹ của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các tổ chức tông giáo, tín ngưỡng, các quỹ của người lao động đóng góp, các quỹ của các pháp nhân và thể nhân đóng góp... Các quỹ đó phục vụ cho lợi ích chung ở phạm vi lớn nhỏ khác nhau, nhưng không bao giờ vì lợi ích riêng của một cá nhân, một tư nhân. Đặc điểm của tài chính công. Là một bộ phận của tài chính nói chung và tài chính nhà nước nói riêng, tài chính công gắn liền với hoạt động của nhà nước vì sự nghiệp chung, phục vụ cộng đồng. Tài chính công có những đặc điểm chủ yếu sau đây: Thứ nhất, đặc điểm của các quan hệ tài chính công. Tài chính công phản ánh quan hệ tài chính giữa nhà nước với các chủ thể theo sơ đồ sau: Tài chính doanh nghiệp Tài chính các tổ chức xã hội Tài chính công Tài chính nhà nước Tài chính tư Đặc điểm của quan hệ tài chính công được thể hiện qua các nội dung: Một là, các quan hệ tài chính công luôn gắn chặt với sở hữu công cộng về tài sản, luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Những lợi ích ấy thể hiện cả trong phân phối các thu nhập của các doanh nghiệp, dân cư, phân phối GDP, GNP và cả trong phân bố các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc gia, của cộng đồng, của một tổ chức và của tổng thể những người tham gia hình thành các quỹ công. Hai là, các nguồn lực tài chính công vận động từ nơi tạo ra nó đến mục tiêu sử dụng nó đều thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quỹ tiền tệ đó rất đa dạng và phong phú. Có những quỹ tiền tệ được gọi là quỹ tập trung do nhà nước hoặc cơ quan cao nhất toàn quốc thống nhất quản lý và sử dụng cho nhu cầu chung của cả nước, có những quỹ tiền tệ chỉ phục vụ cho tổng thể một tổ chức xã hội, có những quỹ tiền tệ phục vụ cho bất cứ nhu cầu nào của xã hội, nhưng lại có quỹ tiền tệ mang tính chuyên dùng... Ba là, các nguồn lực tài chính công rất đa dạng, phức tạp. Việc phân phối và phân bổ chúng được thực hiện qua các quan hệ tài chính không những đụng chạm đến lợi ích của người đóng góp và người được thừa hưởng mà tác động sâu sắc đến tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của một quốc gia đòi hỏi nhà nước phải đặc biệt quan tâm, điều chỉnh nhằm phục vụ tốt cho nhiệm vụ chính trị của đất nước. Thứ 2: đặc điểm về tính chủ thể của tài chính công. Có thể nói nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước, nhằm duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước, và thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của nhà nước. Cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước - Quốc hội - quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Do đó, Quốc hội cũng là cơ quan cao nhất của nhà nước quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà nước với tổng số và cơ cấu thu, chi, mức bội chi và các nguồn bù đắp, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Thứ 3: đặc điểm về tính công cộng của tài chính công. Mục đích của tài chính công là để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trong nền kinh tế hiện đại, Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả, điều chỉnh sự phân phối thu nhập không công bằng, khuyến khích phát triển và ổn định kinh tế - xã hội. Vì vậy, phạm vi hoạt động của tài chính công rất rộng, gắn liền với hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Thu nhập của tài chính công có thể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi chủ thể kinh tế xã hội, ở trong nước và cả từ nước ngoài. Nhưng kết quả hoạt động kinh tế trong nước vẫn là nhân tố quyết định mức động viên của tài chính công. Vì vậy, phải coi nguồn thu trong nước là chủ yếu, đặc biệt là nguồn của cải thặng dư mới được tạo ra trong các ngành kinh tế quốc dân. Chi tiêu của tài chính công chủ yếu tập trung cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư cho một số ngành mũi nhọn, những công trình quan trọng có vai trò lớn trong phát triển kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển con người (giáo dục, y tế, văn hoá...). Chi tiêu đúng đắn, có thể tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội nói chung và từng lĩnh vực nói riêng. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nói trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc sử dụng công cụ tài chính công để giải quyết các vấn đề hiệu quả, công bằng, ổn định trong quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Thứ tư: đặc điểm về sự kết hợp giữa tính không bồi hoàn và bồi hoàn; kết hợp giữa tính bắt buộc và tính tự nguyện. Đặc điểm của tài chính công là các khoản thu chủ yếu mang tính chất không bồi hoàn và bắt buộc; các khoản chi chủ yếu mang tính chất cấp phát không hoàn lại. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, để sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực, cần phải kết hợp hài hoà giữa các khoản thu có tính bồi hoàn và các khoản thu không có tính bồi hoàn; giữa cấp phát không hoàn lại và các khoản cho vay; giữa các khoản thu bắt buộc theo luật định và các khoản tự nguyện đóng góp của nhân dân, vận dụng hợp lý nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm với phương châm dân giàu nước mạnh. Chức năng của tài chính công. Nghiên cứu chức năng tài chính công không nên tách với chức năng tài chính nói chung, nhưng đồng thời cũng không xa với các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội chung, đặc biệt là việc phát huy chức năng của Nhà nước. Trên cơ sở đó các chức năng chủ yếu của tài chính công được thể hiện qua các điểm sau: Thứ nhất: chức năng tạo lập vốn. Ngân sách Nhà nước tạo lập các quỹ công của mình trong xã hội với tư cách Nhà nước. Trước hết, Nhà nước là người có quyền lực chính trị mạnh, ban hành các luật bắt buộc các doanh nghiệp và công dân, dân cư đóng góp. Nhà nước cũng xuất hiện với tư cách là người sở hữu tài sản chủ yếu cảu quốc gia, hình thành các doanh nghiệp của mình để tạo lập vốn, cho thuê, nhượng bán các tài sản thuộc sở hữu nhà nước để tạo lập vốn. Những lúc thiếu hụt nguồn tài chính Nhà nước có thể xuất hiện trên thị trường bằng cách phát hành các trái phiếu Nhà nước để tạo lập vốn... Các quỹ công khác có thể tạo lập vốn dưới hình thức đóng góp bắt buộc hay tự nguyện của các thành viên tham gia. Người ta cũng có thể sử dụng nguồn của các quỹ công này để cho vay, mua trái phiếu, cổ phiếu để có được lợi tức, cổ phần nhằm phát triển nguồn vốn. Đôi khi, nhờ những khoản tài trợ nào đó từ trong nước hay nước ngoài mà các quỹ công được mở rộng thêm. Thứ hai: Chức năng phân phối và phân bổ các nguồn lực tài chính. Tài chính được xem là khâu phân phối của quá trình tái sản xuất. Trước đây đối tượng phân phối là tổng sản phẩm xã hội (C+V+M) và thu nhập quốc dân (V+M). Ngày nay, đối tượng phân phối là tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). GDP được phân phối thành: phần bù đắp, thu nhập của người lao động và người kinh doanh, thuế cho Nhà nước, các khoản đóng góp khác cho xã hội và lợi nhuận của sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, thì nguồn tài chính trở nên quá nhỏ hẹp. Cần quan niệm thêm rằng, nguồn tài chính công không phải chỉ có như vậy. Nhà nước còn có các nguồn khác như nguồn thu nhập từ việc cho thuê, nhượng bán các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, nguồn vay nợ trong dân, nguồn vay nước ngoài hoặc viện trợ, tài trợ từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo trợ do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp hình thành nên quỹ công. Quỹ bảo hiểm y tế do nhân dân đóng góp cũng là loại quỹ công. Tất cả các nguồn tài chính ấy đều gọi chung là nguồn tài chính công được hình thành từ phân phối các thu nhập. Thứ ba, chức năng điều chỉnh vĩ mô. Tài chính công phải phát huy chức năng điều chỉnh vĩ mô đối với sự phát triển và ổn định xã hội. Đó là, lợi ích giữa tích tụ và tập trung, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tổng thể với các địa phương, vùng lãnh thổ, giữa nơi có thu nhập cao với nơi thu nhập thấp, giữa người giàu và người nghèo, giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội, giữa các ngành, lĩnh vực trong sự phát triển chung, giữa kinh tế với quốc phòng, trật tự, an ninh xã hội, giữa nâng cao đời sống nhân dân với tiết kiệm để đầu tư phát triển... Thứ tư, chức năng kiểm tra. Chức năng kiểm tra được thực hiện thông qua hoạt động tài chính của cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính nhà nước ở các cấp, các tổ chức công cộng và của hệ thống cơ quan tài chính nhà nước, của hoạt động kiểm toán nhà nước và hoạt động thanh tra nhà nước. Kiểm tra tài chính gắn chặt với quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch thu chi tài chính, quá trình ngân sách các cấp và của các đơn vị dự toán, qua việc kiểm tra tình hình thực hiện và tuân thủ các luật thuế, các chế độ cấp phát vốn, cho vay vốn, chuyển giao tài chính từ cấp chính quyền này đến cấp chính quyền khác, việc hình thành và sử dụng các quỹ công... Mục tiêu của kiểm tra tài chính là nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính. Qua đó xem xét việc tuân thủ các luật pháp, chính sách, định mức, tiêu chuẩn của nhà nước đã ban hành, chấp hành kỷ luật tài chính, hiệu quả kinh tế xã hội của các chi tiêu tài chính, tình hình quản lý tài sản công cộng, khả năng sẵn sàng thanh toán về tài chính và hiệu lực quản lý của bộ máy tài chính... Các chức năng của tài chính công là một thể thống nhất không chia cắt. Chúng cùng phát huy tác dụng trong phân phối, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công. Qua đó, phát huy triệt để hiệu lực, hiệu quả của tài chính công. Quản lý tài chính công. Khái niệm quản lý. Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường. Khái niệm quản lý tài chính công. Quản lý tài chính công là quá trình tác động, điều chỉnh của Nhà nước đến tài chính công nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước một cách hiệu quả nhất. Khái niệm quản lý tài chính công bao hàm những khía cạnh chủ yếu sau: Một là, đối tượng quản lý tài chính công là các hoạt động thu chi của các quỹ tài chính công. Trong đó quan trọng nhất là ngân sách nhà nước, bao gồm toàn bộ các khoản thuế (và những khoản thu mang tính chất thuế) của nhà nước, tín dụng nhà nước, các khoản khác... Tác động của nhà nước ở đây là ban hành chế độ về thu, chi và tổ chức thực hiện tốt nhất chống thất thu, lãng phí chi. Hai là, hệ thống quản lý tài chính công là sự liên kết hữu cơ giữa chủ thể quản lý là cơ quan nhà nước, với khách thể quản lý là các tổ chức, doanh nghiệp, dân cư... Đây là quan hệ giữa tài chính công với các bộ phận tài chính khác trong hệ thống tài chính quốc gia. Do đó, quản lý tài chính công phản ánh quan hệ giữa nhà nước với dân. Bản chất của chế độ thể hiện rõ nét trong quản lý tài chính công. Ba là, phương pháp quản lý tài chính công mang tính tổng hợp, gồm nhiều biện pháp khác nhau trong đó xuất phát điểm là phục vụ lợi ích nhà nước, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Vì vậy, bảo đảm sự hợp tác, phối hợp giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý được quán triệt suốt trong quá trình quản lý. Bốn là, quản lý tài chính công được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan về kinh tế - tài chính một cách phù hợp với điều kiện của tiến trình đổi mới về kinh tế xã hội của đất nước. Năm là, mục tiêu quản lý tài chính công là phục vụ việc thực hiện tốt chức năng của nhà nước. Mục tiêu trực tiếp của quản lý tài chính công là nhằm khai thác triệt để các nguồn tài chính cho nhà nước đồng thời sử dụng nó một cách hiệu quả nhất phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự cần thiết có quản lý tài chính công. Quản lý tài chính công là tất yếu cần thiết đối với mọi nhà nước ở tất cả các quốc gia. Sự cần thiết đó được thể hiện qua các vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội cho nền tài chính công, dù là tài chính của nhà nước, cũng cần có sự quản lý, điều chỉnh của nhà nước. Qua đó tạo cơ sở pháp lý, tiền đề cho các hoạt động, quan hệ tài chính công thực hiện. Thứ hai, tài chính công là tài sản của nhà nước. Nói một cách khác đó là tài sản của dân, của cộng đồng, của đất nước mà nhà nước là người đại diện chủ sở hữu. Nguồn tài sản đó cần được khai thác triệt để và sử dụng tiết kiệm có hiệu quả. Đó là yêu cầu khách quan trong mọi chế độ chính trị “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” ở ta. Để thực hiện được yêu cầu này, nhà nước, người chủ phải có sự quản lý chặt chẽ và phù hợp nhằm sử dụng tối đa công cụ tài chính công trong thực hiện nhiệm vụ của đất nước. Thứ ba, hoạt động và quan hệ tài chính công được thực hiện ở mọi cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các cơ quan này liên quan trực tiếp đến hiệu quả, hiệu lực của tài chính công. Từ đó đòi hỏi phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra, nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác, sử dụng tài chính công, nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả của tài chính công. Thứ tư, tài chính công được hình thành và vận hành theo chuẩn mực pháp lý cụ thể nhất định của nhà nước. Nhà nước, với vai trò người quản lý quy định các chuẩn mực, điều kiện cho tài chính công vận hành. Ở đây thể hiện vai trò quản lý nhà nước đối với chính sự hoạt động của tài chính công. Thứ năm, quan hệ tài chính công phản ánh quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể có liên quan. Vai trò quản lý đối với tài chính công tạo lập nên sự công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể trong việc thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Ở đây, nhà nước sử dụng tài chính công như là công cụ có hiệu quả bảo đảm sự bình đẳng trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta “các loại hình doanh nghiệp bình đẳng trước pháp luật trong cạnh tranh trên thị trường” đòi hỏi vai trò khách quan của nhà nước trong quản lý tài chính công. Nhà nước quản lý tài chính công là tất yếu. Theo đó, một mặt tài chính công là đối tượng quản lý của nhà nước. Ở khía cạnh này nhà nước vừa là chủ thể quản lý vừa là chủ sở hữu đối với tài chính công. Mặt khác, nhà nước sử dụng tài chính cũng như là công cụ để thực hiện chức năng quản lý đất nước, quản lý xã hội. Ở đây, thông qua chức năng, vai trò của tài chính công, nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế xã hội theo ý đồ, mục tiêu của nhà nước. Bản chất nhà nước được thể hiện rất rõ trong quản lý tài chính công. Đặc điểm quản lý tài chính công. Đặc điểm của tài chính công tạo nên các yếu tố tác động đến hệ thống phương thức và công cụ cũng như hiệu quả quản lý tài chính công. Cần có sự xem xét kỹ các đặc điểm của tài chính công, nhằm đưa ra các phương pháp, hệ thống công cụ quản lý phù hợp trong từng điều kiện cụ thể của đời sống kinh tế xã hội. Quản lý tài chính công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm chủ yếu sau đây: Thứ nhất, tài chính công được quản lý bằng pháp luật và theo kế hoạch. Tài chính công mang tính cộng đồng. Thuế - khoản thu chủ yếu của nhà nước được lấy từ các hoạt động kinh tế, từ mọi chủ thể kinh tế - xã hội; chi tiêu nhà nước là nhằm cung cấp hàng hoá công cộng cho xã hội, để phối hợp hành động chung, thực hiện ý chí của giai cấp thống trị, phải có pháp luật, có kế hoạch. Ngày nay, nước ta đã có hiến pháp, có hệ thống văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh và ngày càng được hoàn thiện. Luật Ngân sách nhà nước, các luật thuế, các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật đó. Các quy định của nhà nước về thành lập và sử dụng các quỹ tài chính công ngoài ngân sách không được trái với Luật Ngân sách nhà nước và các luật khác. Tất cả các hoạt động thu, chi của ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính công khác đều phải được quy định rõ ràng, chặt chẽ, từ khâu lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp, của các cán bộ nhà nước trong quản lý tài chính nhà nước. Việc lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra ngân sách nhà nước hàng năm thể hiện sự kết hợp chặt chẽ việc sử dụng luật và kế hoạch để quản lý ngân sách. Dự toán ngân sách nhà nước sau khi được Quốc hội phê chuẩn có thể được xem là một đạo luật. Thứ hai, quản lý tài chính công đặc biệt coi trọng biện pháp tổ chức – hành chính. Các biện pháp quản lý rất đa dạng, phong phú. Nếu dựa vào nội dung và tính chất hoạt động của quản lý, có thể kể ra các biện pháp như: Biện pháp giáo dục tâm lý, biện pháp kinh tế... Mỗi biện pháp đều có những ưu nhược điểm riêng của nó. Biện pháp giáo dục tâm lý coi trọng danh dự, uy tín, thuyết phục bằng lý trí, tình cảm, bồi dưỡng lòng yêu nghề, yêu quê hương, đất nước... Biện pháp tổ chức – hành chính tác động vào đối tượng quản lý theo hai hướng: Một là, chủ thể quản lý hành chính các văn bản pháp quy, quy định tính chất, mục tiêu, quy mô, cơ cấu tổ chức, tiêu chuẩn thành lập tổ chức, điều lệ hoạt động, những mối quan hệ hoạt động nội bộ tổ chức cũng như đối với bên ngoài... Hai là, chủ thể quản lý đưa ra những chỉ thị, mệnh lệnh hành chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ nhất định nhằm đảm bảo cho các bộ phận trong hệ thống hoạt động ăn khớp nhịp nhàng. Biện pháp kinh tế thông qua lợi ích kinh tế mà khuyến khích đối tượng quản lý phấn khởi, yên tâm, chủ động sáng tạo thực hiện nhiệm vụ. Quản lý tài chính công cần kết hợp chặt chẽ các biện pháp quản lý, nhưng cần phải nhấn mạnh đến biện pháp tổ chức – hành chính. Nó thể hiện tính luật pháp trong quản lý, bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Thứ ba, quản lý tài chính công là sự quản lý kết hợp yếu tố con người và yếu tố tài chính. Mọi hoạt động tài chính công đều gắn liền với các cơ quan nhà nước. Các cơ quan này vừa thụ hưởng kết quả hoạt động tài chính nhà nước, vừa tổ chức các hoạt động tài chính công. Quản lý tài chính công trước hết phải quản lý con người sử dụng nguồn tài chính đó. Quản lý hoạt động tài chính công cũng là để phục vụ cho việc điều hành tốt các công việc cơ quan nhà nước, tạo điều kiện cho cán bộ công chức nhà nước thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Ở đây, yếu tố tài chính gắn liền với yếu tố con người. Việc thực hiện các khoản thu – chi tài chính công liên quan đến các chủ thể kinh tế xã hội, đặc biệt là liên quan đến lợi ích kinh tế tài chính của các chủ thể đó. Quản lý tài chính công theo giác độ này phải hướng đến bảo đảm cho mọi chủ thể dù là các nhân hay tổ chức, doanh nghiệp tuân thủ các văn bản pháp luật liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tài chính công. Quản lý tài chính công phải bảo đảm tiết kiệm, công khai theo quy định của nhà nước. Thứ tư, quản lý tài chính công phải đảm bảo sự thống nhất giữa mặt giá trị và hiện vật (giá trị sử dụng). Tài chính công là biểu hiện giá trị tài sản của quốc gia do nhà nước nắm giữ. Giữa hai mặt giá trị và giá trị sử dụng không phải mọi nơi, mọi lúc đều có sự thống nhất. Sự không thống nhất dễ dàng gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế tài chính. Vì vậy, quản lý tài chính công cần thiết phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và giá trị sử dụng. Điều đó có nghĩa là cần có sự đánh giá, đối chiếu thường xuyên giữa hiện vật và giá trị nhằm bảo đảm giá trị phản ánh đúng chất lượng của hiện vật, tức là giá trị sử dụng của tài sản. Mục tiêu của quản lý tài chính công. Một là, làm cho bộ máy hành chính Nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của tổ chức và công dân. Hai là, tạo động lực khuyến khích các cơ quan hành chính và sự nghiệp tích cực chủ động tự xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động hợp lý, nâng cao chất lượng công việc, sử dụng kinh phí với hiệu quả cao, hạn chế những đòi hỏi về tăng biên chế và chi phí hành chính. Ba là, nêu cao ý thức tiết kiệm, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí và tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng lãng phí, tham ô. Bốn là, tạo điều kiện để công chức phát huy khả năng, nâng cao chất lượng công tác và tăng thu nhập vật chất cho tập thể và cá nhân. Nội dung của quản lý tài chính công. Tài chính công gồm nhiều bộ phận: Ngân sách Nhà nước. Dự trữ Nhà nước. Tín dụng Nhà nước. Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước. Tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước... Hoạt động tài chính công là hoạt động thu chi của các bộ phận, các quỹ trong hệ thống tài chính công. Quản lý tài chính công là quản lý quá trình thu, chi và bảo đảm sự cân đối thu – chi tài chính công của Nhà nước. Thứ nhất: quản lý quá trình thu của Nhà nước. Thu tài chính công được thực hiện dưới nhiều hình thức. Đối với ngân sách nhà nước, thuế là nguồn thu chủ yếu, mang tính chất bắt buộc, sau nữa là các khoản thu khác như phí, lệ phí, bán tài sản Nhà nước, vay nợ trong và ngoài nước... Đối với các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, các khoản thu, có thể một phần lấy từ ngân sách Nhà nước, một phần do các tổ chức và nhân dân đóng góp. Quản lý quá trình thu tài chính nhà nước chính là quản lý quá trình thực hiện các khoản thu đó. Yêu cầu cơ bản quản lý quá trình thu tài chính công bao gồm: - Một là, đảm bảo tập trung đầy đủ, kịp thời một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước để phục vụ cho việc chi tiêu của Nhà nước trong từng thời kì. - Hai là, đảm bảo cho nền kinh tế sản xuất có hiệu quả. - Ba là, đảm bảo yêu cầu công bằng xã hội. Thứ hai: quản lý quá trình chi của Nhà nước. Chi tài chính công là quá trình Nhà nước sử dụng nguồn tài chính đã tập trung được vào ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính công khác để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Chi tài chính công có quy mô và mức độ lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ở tất cả các địa phương và các cơ quan nhà nước, vừa mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Xét trên phương diện quỹ, quản lý chi tài chính công bao gồm: quản lý chi ngân sách nhà nước và quản lý chi tiêu của các quỹ tài chính công khác. Phù hợp với cách phân loại chi ngân sách nhà nước của Luật ngân sách nhà nước. Quản lý chi ngân sách nhà nước bao gồm: Quản lý các khoản chi thường xuyên. Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển. Quản lý các khoản chi trả nợ gốc do nhà nước vay. Quản lý chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính... Các yêu cầu cơ bản đối với quản lý chi tiêu tài chính công: Một là, đảm bảo cung cấp các nguồn tài chính cần thiết, kịp thời để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Hai là, quản lý các khoản chi phải đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả. Ba là, gắn liền việc quản lý các khoản chi của nhà nước với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, cần phải sử dụng những công cụ và biện pháp quản lý phù hợp. Cần xây dựng được một chính sách, chế độ chi tiêu đúng đắn, hệ thống các định mức hợp lý, quy trình cấp phát thanh toán chặt chẽ, khoa học, thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán... Thứ ba: quản lý cân đối thu chi tài chính công. Thu là tiền đề và giới hạn của chi. Thu chi tài chính công có thực sự cân đối được hay không, cần được xem xét trong quan hệ tài chính và kinh tế, giữa khả năng cung cấp nguồn lực tài chính của nền kinh tế cho nhà nước và nhu cầu chi tiêu thực hiện nhiệm vụ của đất nước. Hoạt động thu chi tài chính công gắn liền với các khâu của tái sản xuất xã hội. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tăng trưởng cao và bền vững, tỷ lệ lạm phát vừa phải thì khả năng cân đối thu chi tài chính công thuận lợi. Ngược lại, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, suy thoái thì khó đảm bảo cân đối thu chi tài chính công. Hệ thống chính sách kinh tế xã hội cũng có tác động lớn đến cân đối thu chi tài chính công. Các chính sách đúng đắn có tác động đến kinh tế xã hội và dựa trên khả năng của tài chính quốc gia thì thực hiện cân đối thu chi tài chính công thuận lợi. Ngược lại, hệ thống chính sách không phù hợp thực tế khách quan có thể gây ra khó khăn cho nền kinh tế và việc thực hiện cân đối tài chính công. Để thực hiện cân đối thu chi tài chính công, cơ bản vẫn là phải đảm bảo phát triển kinh tế. Riêng về mặt tài chính, cần có biện pháp tích cực ngay từ khâu lập kế hoạch cho đến thực hiện kế hoạch thu, chi. Cần thực hiện thu, nộp đầy đủ, kịp thời các khoản thu của nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi đảm bảo vừa tiết kiệm vừa hiệu quả, chi phải trên cơ sở thu, hụt kế hoạch thu thì phải giảm chi tương ứng, xây dựng kế hoạch chi có khoản dự phòng, hình thành quỹ dự trữ tài chính nhà nước... Sau khi sử dụng tất cả các biện pháp về kinh tế, tài chính, nếu thu vẫn không đủ chi thì biện pháp thích hợp nhất là vay nợ trong nước, sau nữa là vay nợ nước ngoài. Hệ thống công cụ quản lý tài chính công. Để thực hiện quản lý tài chính công, Nhà nước sự dụng hệ thống các công cụ sau đây: Một là, hệ thống pháp luật. Nó bao gồm các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính công. Nó quy định các điều kiện, chuẩn mực pháp lý cho hoạt động tài chính công. Hệ thống pháp luật cần được đổi mới thường xuyên cho phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế xã hội đất nước trong từng giai đoạn. Hai là, công tác kế hoạch hoá. Công cụ kế hoạch hoá có vị trí quan trọng đặc biệt trong quản lý tài chính công. Với công cụ kế hoạch hoá một mặt hoạch định xu thế vận động phát triển của tài chính công. Mặt khác, bảo đảm cho các khoản thu, chi của tài chính công được bảo đảm. Nhà nước thông qua kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch ngân sách, chủ động khai thác nguồn thu tạo lập sự cân đối hợp lý với các khoản chi tài chính. Kế hoạch hoá là công cụ không thể thiếu được trong quản lý đất nước nói chung và đ._.ặc biệt là quản lý tài chính công. Ba là, hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kích thích việc khai thác nguồn thu đồng thời bảo đảm chi được thực hiện một cách tiết kiệm. Bốn là, hệ thống thanh tra, kiểm tra, kế toán, kiểm toán. Hệ thống công cụ này cho phép chủ động ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực về tài chính trong thu chi tài chính công. Đồng thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi sai trái, tiêu cực trong quản lý tài chính công. Cần coi việc thanh tra tài chính, kiểm toán... là hoạt động thường xuyên trong quản lý tài chính công. Năm là, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính công. Tổ chức và con người bao giờ cũng là công cụ quan trọng trong quản lý. Hệ thống tổ chức chặt chẽ, gọn nhẹ cho phép sự phối hợp nhịp nhàng trong quản lý. Năng lực cán bộ là yếu tố quyết định trong quản lý nói chung và quản lý tài chính công nói riêng. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề này trong đổi mới cải cách nền hành chính quốc gia. Trong quản lý tài chính công, hệ thống các công cụ trên phải đồng bộ và được vận dụng một cách tổng hợp tạo nên sự bổ sung, kết hợp hài hoà, không được coi nhẹ công cụ nào. Đó là cơ sở nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý tài chính công. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN. I. Khái quát chung về Ngành kiểm sát nhân dân. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngành kiểm sát nhân dân.  Ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập vào ngày 26/7/1960. Quá trình hình thành và phát triển của Ngành kiểm sát nhân dân được chia làm 2 thời kì sau: 1.1. Viện kiểm sát nhân dân thời kì từ năm 1960 đến năm 1985. - Trước khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời (năm 1960), ở nước ta đã có Viện Công tố. Năm 1946, căn cứ vào Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta, tổ chức Viện Công tố được thành lập trong hệ thống Toà án từ cấp tỉnh trở lên và trực thuộc Bộ Tư pháp. - Năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chuẩn bị bước vào thời kỳ xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tổ chức cơ quan tư pháp được tách ra thành 3 hệ thống cơ quan riêng biệt đó là: Tư pháp, Công tố và Toà án từ Trung ương đến huyện. - Hệ thống Viện công tố được thành lập theo Nghị quyết ngày 25/1/1958 của Quốc hội. Theo Nghị quyết này, thì Viện Công tố có nhiệm vụ sau: + Điều tra và truy tố những vi phạm về hình sự. + Giám sát việc chấp hành pháp luật của Cơ quan điều tra, trong việc xét xử của Toà án, trong việc giam giữ và cải tạo. Hệ thống Viện Công tố bao gồm: Viện Công tố Trung ương; Viện Công tố phúc thẩm ở các khu vực: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt Bắc, Khu tự trị Thái Mèo; Viện Công tố tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện Công tố khu đặc biệt Hồng Quảng, Viện Công tố khu đặc biệt Vĩnh Linh; Viện Công tố huyện, thị trấn lớn và tương đương.  - Trước yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ngày 26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố nhà nước, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trong những năm đầu mới thành lập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, hoạt động kiểm sát tập trung phục vụ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, trấn áp bọn phản cách mạng và bọn tội phạm. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, công tác kiểm sát đã kịp thời chuyển hướng hoạt động, phục vụ các yêu cầu của thời chiến trên cả mặt trận sản xuất và chiến đấu. Hoạt động kiểm sát trong thời kỳ này tập trung đấu tranh khắc phục các biểu hiện buông lỏng kỷ luật thời chiến, vi phạm các quyền dân chủ của nhân dân. Với mục tiêu hàng đầu là giữ vững an ninh chính trị, xây dựng hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, kịp thời chi viện cho tiền tuyến, hoạt động kiểm sát đã góp phần nghiêm trị bọn gián điệp, biệt kích và phản động, đấu tranh chống các tội phạm gây cản trở việc chi viện cho tiền tuyến và các hành vi xâm phạm chính sách hậu phương quân đội. - Năm 1975, đất nước ta được hoàn toàn thống nhất, mở ra thời kỳ cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội, ngành Kiểm sát được tổ chức và hoạt động trên phạm vi cả nước. Ở các tỉnh phía Nam, các Viện kiểm sát tuy mới được thành lập, lực lượng còn non trẻ cũng đã tập trung vào việc bảo vệ quyền dân chủ của công dân, coi đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu để ổn định tình hình vùng mới giải phóng. Toàn ngành Kiểm sát đã vận dụng đúng đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong việc xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản phản động, tham gia giải quyết các tệ nạn của xã hội cũ để lại nhằm giữ vững trật tự trị an, củng cố chính quyền cách mạng, tích cực phục vụ chủ trương, chính sách thống nhất tiền tệ, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và thực hiện cách mạng quan hệ sản xuất ở nông thôn. Quán triệt mục tiêu phục vụ đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, toàn ngành Kiểm sát đã tập trung phục vụ các mục tiêu phát triển sản xuất, giữ vững kỷ luật trong phân phối lưu thông, tăng cường chế độ trách nhiệm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; trấn áp kiên quyết, mạnh mẽ bọn phản động, trừng trị nghiêm khắc tội phạm kinh tế và các tội phạm khác, tập trung làm tốt các khâu công tác kiểm sát, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động của Viện kiểm sát quân sự trong giai đoạn này cũng được mở rộng hơn trước, cả về địa bàn và nội dung công tác. Viện kiểm sát quân sự các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống các tội phạm về kinh tế, tội phạm về chức vụ, nâng cao sức chiến đấu của quân đội. 1.2. Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1986 đến nay. Từ năm 1986 đến nay, quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng tại các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và các Nghị quyết khác của Trung ương, các Nghị quyết của Quốc hội, ngành Kiểm sát đã có sự đổi mới về nhận thức, về tổ chức, cán bộ và thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát. Nhờ thực hiện chủ trương và biện pháp đổi mới đó, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần vào việc đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 15 năm đổi mới, ngành Kiểm sát nhân dân đã có những biện pháp nhằm thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước. Viện kiểm sát các cấp đã quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, tăng cường phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện và xử lý nghiêm minh các loại tội phạm. Đã tập trung lực lượng điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội tham nhũng, buôn lậu, tệ nạn xã hội và một số tội phạm nghiêm trọng khác, có tác dụng giáo dục, phòng ngừa tốt, được nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới của đất nước. Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều biện pháp đổi mới công tác quản lý, xử lý thông tin tội phạm nên số vụ án do Viện kiểm sát khởi tố và yêu cầu khởi tố  ngày càng tăng, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm. Đã tăng cường hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, nhờ đó đã kịp thời khắc phục vi phạm của cơ quan và người tiến hành tố tụng. Công tác kiểm sát điều tra được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra nên số vụ do Viện kiểm sát xử lý và truy tố tăng lên, số vụ đình chỉ điều tra không đúng đã giảm dần ở nhiều địa phương. Phần lớn các vụ án được giải quyết trong thời hạn luật định. Những hoạt động tích cực trên đã tạo điều kiện thúc đẩy số vụ án kết thúc điều tra hàng năm tăng, hạn chế việc khởi tố không có căn cứ theo quy định của pháp luật sau phải đình chỉ điều tra. Số bản án có vi phạm pháp luật hoặc áp dụng pháp luật không đúng được Viện kiểm sát các cấp kháng nghị, yêu cầu xét xử ở cấp cao hơn ngày càng tăng, tỷ lệ kháng nghị của Viện kiểm sát được chấp nhận ngày càng cao. Trong công tác kiểm sát giam, giữ, cải tạo, Viện kiểm sát các cấp đã chú trọng kiểm sát thường kỳ và bất thường tại các nơi giam, giữ, cải tạo, trực tiếp ra quyết định trả tự do cho nhiều trường hợp bị giam, giữ không có căn cứ và trái pháp luật. Công tác kiểm sát thi hành án được coi trọng; Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã phối hợp với cơ quan có liên quan quản lý chặt chẽ đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhất là các trường hợp bị phạt tù giam nhưng chưa được bắt thi hành án, góp phần khắc phục tình trạng chậm trễ trong công tác thi hành án của những năm trước đây, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, ngành Kiểm sát thường xuyên đúc rút kinh nghiệm, phối hợp cùng Bộ công an, Toà án  nhân dân tối cao xây dựng và ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử lý các loại tội, nhất là tội tham nhũng, tội về ma túy và nhiều loại tội nghiêm trọng khác. Công tác phối hợp liên ngành giữa Viện kiểm sát với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác được đẩy mạnh nhằm thống nhất về quan điểm và biện pháp trong phát hiện và xử lý tội phạm. Những hoạt động đó đã đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, góp phần làm giảm tội phạm ở một số lĩnh vực, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước. Để nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của công tác kiểm sát, ngành Kiểm sát đã chú trọng việc thực hiện đổi mới tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát. Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát ở cả 3 cấp ngày càng được kiện toàn và củng cố. Toàn ngành đã từng bước quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động kiểm sát, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong xây dựng kế hoạch công tác kiểm sát đã chú ý hình thành kế hoạch kiểm sát thống nhất nên đã huy động được cả 3 cấp cùng tiến hành kiểm sát vào một ngành, một lĩnh vực, nhằm phát hiện các vi phạm pháp luật có tính phổ biến để kháng nghị khắc phục. Qua thực tiễn hoạt động kiểm sát, chúng ta đã xây dựng và hoàn thiện các quy chế quản lý và hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Cơ sở vật chất của ngành ngày càng được tăng cường nhằm đáp ứng nhu cầu công tác. Mạng lưới công nghệ thông tin, cơ yếu được trang bị theo hướng hiện đại để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý chỉ đạo, điều hành. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành Kiểm sát đã và đang có những biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên vững vàng về lập trường chính trị, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng về phẩm chất đạo đức theo lời dạy của Bác Hồ: "Mỗi cán bộ kiểm sát phải: Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn". Công tác xây dựng ngành đã thường xuyên gắn với công tác xây dựng Đảng trong từng đơn vị kiểm sát. Lực lượng cán bộ kiểm sát ngày càng được củng cố về mọi mặt. Phong trào học tập và rèn luyện để đáp ứng với những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các đơn vị trong toàn ngành Kiểm sát. 2. Chức năng, nhiệm vụ của Ngành kiểm sát nhân dân. Theo điều 1 và điều 2 Luật của Quốc hội số 34/2002/QH10 ngày 02/04/2002 về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng và nhiệm vụ như sau: 2.1. Chức năng. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. 2.2. Nhiệm vụ. Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật. 3. Cơ cấu tổ chức của Ngành kiểm sát nhân dân. Theo điều 30 và 31 Luật của Quốc hội số 34/2002/QH10 ngày 02/04/2002 về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, cơ cấu của Ngành kiểm sát nhân dân và chức năng của các bộ phận được quy định như sau: 3.1. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm có: (1). Viện kiểm sát nhân dân tối cao. (2). Các VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. (3). Các VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. (4). Các Viện kiểm sát quân sự. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO Viện kiểm sát quân sự trung ương. Viện kiểm sát quân sự khu vực Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc cấp tỉnh Viện kiểm sát quân sự cấp thứ 2 Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 3.2. Chức nằng của các bộ phận: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. - Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình. - Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. 4. Đôi nét về tình hình hoạt động của Ngành kiểm sát nhân dân trong năm 2009. Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế, xã hội năm 2009, ngay từ đầu năm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xác định các nhiệm vụ công tác trọng tâm, đề ra các biện pháp về nghiệp vụ, kiện toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành. Ngay từ đầu năm, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp với Ban Cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Thường vụ đảng uỷ Công an Trung ương và Uỷ ban Tư pháp, Uỷ ban pháp luật của Quốc hội để thống nhất chỉ đạo công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng, chống vi phạm tội phạm và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với sự cố gắng phấn đấu của cán bộ, công chức trong toàn Ngành, sự quan tâm lãnh đạo của các tổ chức Đảng, sự kiểm tra giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền các cấp, năm qua ngành Kiểm sát đã đạt kết quả tích cực trên các mặt công tác. 4.1. Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự. Thực hiện chỉ đạo của VKSND tối cao, VKS các địa phương chủ động kiểm sát trực tiếp và vận dụng các biện pháp kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra, góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế bỏ lọt tội phạm. Qua công tác kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố điều tra 190 vụ án, 209 bị can, trong đó có những vụ án được dư luận quan tâm, đồng tình; trực tiếp khởi tố yêu cầu điều tra 28 vụ án, 19 bị can. Những đơn vị có kinh nghiệm trong khâu công tác này là Viện kiểm sát Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Quảng Bình. VKS các cấp chủ động kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, xử lý vụ án. VKS đã chủ động họp bàn hướng điều tra nhiều vụ án trọng điểm, đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra thu thập đầy đủ chứng cứ; việc phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra đảm bảo thận trọng, có căn cứ. Do đó, các vụ án hình sự được giải quyết vẫn giữ tỉ lệ cao, chất lượng điều tra truy tố được nâng cao hơn. Toàn ngành đã thực hành quyền công và kiểm sát điều tra 62.685 vụ án/ 109.445 bị can (giảm 409 vụ, tăng 143 bị can so với năm 2008); đã giải quyết được 60.347 vụ án/ 103.520 bị can, đạt tỉ lệ 96,3% số vụ và 94,6% số bị can, trong đó, quyết định truy tố 59.486 vụ/ 101.616 bị can, chiếm tỉ lệ 98,6% về số vụ và 98,2% về số bị can so với số đã giải quyết. Với sự chỉ đạo quyết liệt của VKSND tối cao, việc triển khai đồng bộ các giải pháp nên chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có chuyển biến mạnh mẽ, đã giảm đáng kể các vụ án oan, sai và việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Năm qua, VKS trả 2.189 hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, chiếm tỷ lệ 3,5% số phải xử lý (giảm 1,5% so với năm 2008); Toà án trả 2.692 hồ sơ vụ án cho VKS yêu cầu điều tra bổ sung, chiếm tỷ lệ 4% số vụ thụ lý (giảm 0.3% so với cùng kỳ năm 2008), đình chỉ điều tra 104 bị can do không phạm tội (giảm 115 bị can so với năm 2008). VKS các cấp đã tập trung chỉ đạo, xử lý đối với các vụ án trọng điểm về an ninh quốc gia, án ma tuý, tham nhũng và các vụ án nghiêm trọng, phức tạp khác; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng tìm biện pháp khắc phục những vướng mắc về chứng cứ để giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm đã được khởi tố điều tra, như vụ “Tham ô tài sản”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ban quản lý dự án xây dựng Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ; vụ “Tham ô tài sản”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ban điều hành Đề án Tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2005 (Đề án 112); vụ “Tham ô tài sản”, “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng công ty vật tư nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Dự án Đại lộ Đông tây và Môi trường nước, Tp. Hồ Chí Minh. Toàn ngành đã thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử 67.155 vụ án theo thủ tục sơ thẩm (giảm 1.190 vụ so với cùng kỳ năm 2008), 15.673 vụ theo thủ tục phúc thẩm (tăng 194 vụ so với cùng kì năm 2008) và 276 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (tăng 24 vụ so với năm 2008). 4.2. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự: Các tranh chấp dân sự xảy ra ngày càng nhiều, chủ yếu trong lĩnh vực hợp đồng dân sự liên quan đến sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và tập trung nhiều ở các thành phố lớn, địa bàn kinh tế trọng điểm. VKSND tối cao chỉ đạo toàn Ngành bố trí cán bộ, tổ chức tập huấn về nghiệp vụ, thông báo rút kinh nghiệm về kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án trong giải quyết các vụ, việc dân sự; đồng thời có biện pháp nâng cao trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên trong việc kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án. Số lượng, chất lượng kháng nghị, kiến nghị đều tăng. VKS các cấp ban hành 1.171 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm về dân sự (tăng 469 kháng nghị so với năm 2008); Toà án cấp phúc thẩm đã đưa ra xét xử 608 vụ do VKS kháng nghị, chấp nhận 528 vụ, đạt tỷ lệ 86,8%. Toà án đưa ra xét xử 314 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm do VKS kháng nghị, chấp nhận 279 kháng nghị, đạt tỉ lệ 88,8%; trong đó, VKSND tối cao đã kháng nghị 215 vụ án, Toà án đã xét xử 180 vụ, chấp nhận 175 vụ, đạt tỉ lệ 97,2%. Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều cố gắng giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự nên số việc được giải quyết tăng so với cùng kỳ năm 2008. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý 4.367 việc, đã giải quyết 1.075 việc, đạt tỷ lệ 24,6%, trong đó ban hành 215 kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chiếm tỉ lệ 20% so với số vụ đã giải quyết. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính: Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, lao động được tăng cường; chất lượng, hiệu quả có tiến bộ. VKS các cấp đã phát hiện vi phạm và ban hành 20 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Toà án đã xét xử 12 vụ, chấp nhận 12 kháng nghị, đạt tỉ lệ 100%. Toà án cấp giám đốc thẩm đã xét xử 39 vụ án do VKS kháng nghị, đã chấp nhận 26 kháng nghị đạt tỉ lệ 66,6%. Năm 2009, khởi kiện hành chính tăng về số lượng, tính chất ngày càng phức tạp; tập trung chủ yếu là những loại việc đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất; cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. VKS các cấp thụ lý kiểm sát 1.141 vụ án theo thủ tục sơ thẩm; 479 vụ án theo thủ tục phúc thẩm; 74 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. VKS đã ban hành 21 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, trong đó, Toà án đã xét xử 07 vụ, chấp nhận 04 kháng nghị; xét xử 13 vụ án do VKS kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận 11 kháng nghị, đạt tỉ lệ 84,6%. 4.3. Công tác kiểm sát thi hành án. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự: VKS các cấp chủ động phối hợp với các ngành hữu quan kiểm sát chặt chẽ số bị án bị phạt tù, án có hiệu lực pháp luật chưa thi hành để có biện pháp thi hành. Năm 2009, có 72.142 bị án đã có hiệu lực pháp luật, đã thi hành 65.798 bị án (đạt tỉ lệ 91,2%). Qua kiểm sát việc phân loại, tổ chức việc thi hành án, VKS các cấp đã ban hành 214 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu Toà án, cơ quan Công an khắc phục vi phạm, như: chậm ra quyết định thi hành án, hoãn thi hành án không đúng; chậm áp giải, chậm ra lệnh truy nã đối với các bị án trốn thi hành án. Chú trọng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quản lý, giáo dục người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ tại UBND cấp xã. Đã ban hành 926 bản kiến nghị, kháng nghị yêu cầu cơ quan hữu quan khắc phục vi phạm, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Trên cơ sở tổng hợp vi phạm, VKSND tối cao kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cấp chính quyền khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý và giáo dục người đang thi hành án tại địa phương. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự: VKS các cấp chú trọng kiểm sát việc ra quyết định, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, rà soát các bản án, quyết định của Toà án tuyên không rõ ràng, còn nhận thức khác nhau để tổng hợp kiến nghị biện pháp giải quyết; yêu cầu cơ quan hữu quan thi hành đúng các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Năm 2009, tổng số việc phải thi hành 719.522 việc, đã thi hành 346.095 việc, đạt tỉ lệ 48,1% so với số phải thi hành. VKS đã phát hiện một số quyết định thi hành án không đúng với nội dung bản án, quyết định hoãn thi hành án, việc cưỡng chế, kê biên, định giá tài sản không đúng pháp luật. Đã ban hành 494 kháng nghị, kiến nghị yêu cầu Cơ quan thi hành án khắc phục vi phạm. 4.4. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các hoạt động tư pháp. Trong năm 2009, số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo tại VKS các cấp tăng nhưng khiếu nại đông người giảm nhiều so với năm 2008. Toàn ngành đã thụ lý 12.562 việc, trong đó, nội dung chủ yếu đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về dân sự, hình sự và tập trung nhiều ở VKSND tối cao; đã giải quyết 8.189 việc, đạt trên 65,2%. Các cấp kiểm sát đã chú trọng giải quyết các vụ, khiếu nại, tố cáo do các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, báo chí chuyển đến. 4.5. Công tác tài chính và đầu tư cơ sở vật chất. Trên cơ sở kinh phí được Nhà nước giao, VKSND tối cao đã kịp thời phân bổ và giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước năm 2009 cho các đơn vị trong toàn ngành, trong đó, tập trung cho công tác nghiệp vụ, chi thực hiện các nhiệm vụ chính trị của năm 2009, nhiệm vụ cải cách tư pháp. Kinh phí xây dựng cơ bản được sử dụng để tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, gồm 100 trụ sở VKS các cấp đang tiếp tục đầu tư xây dựng; 55 trụ sở khởi công xây dựng mới; tiếp tục thực hiện việc đầu tư chống xuống cấp, sửa chữa lớn trụ sở làm việc, mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác. VKSND tối cao tiến hành kiểm tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại nhiều VKS địa phương. Qua kiểm tra cho thấy, VKS các cấp đã quán triệt và thực hiện đúng chế độ mua sắm tài sản theo quy định của Nhà nước, đã tiết kiệm được 2.112 triệu đồng. Các đơn vị tiết kiệm nhiều trong mua sắm là VKS Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tp. Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh. Tóm lại: Trong năm qua, toàn ngành Kiễm sát đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ và đạt được kết quả tích cực: đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đảm bảo ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội; tập trung hoàn thiện hồ sơ để giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm đã được khởi tố điều tra; nâng cao trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, làm giảm đáng kể việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, các trường hợp điều tra, truy tố oan, sai; tạo bước chuyển biến tích cực trong công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp. Quán triệt, thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; mở rộng, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế; nâng cao chất lượng công tác tham mưu, quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 4.6. Một số hạn chế còn tồn tại. Tuy đạt được nhiều thành tựu như đã kể trên, song công tác của ngành Kiểm sát trong năm qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định như sau: - Chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp về hình sự của một số Viện kiểm sát địa phương chưa cao; chưa chủ động kiểm sát đầy đủ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra; việc phối hợp với các Cơ quan điều tra để nắm chắc tình hình tội phạm chưa tốt. Công tác điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao chậm đổi mới, kiện toàn, chất lượng còn hạn chế. - Kỹ năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa của một số Kiểm sát viên chưa đáp ứng yêu cầu. Ở một số VKS địa phương, số bản án hình sự, dân sự bị cấp phúc thẩm sửa, huỷ còn chiếm tỷ lệ cao, như kháng nghị còn ít, chất lượng thấp. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hình sự kết quả chưa cao. Một số vụ việc thi hành án còn tồn đọng hoặc khiếu kiện phức tạp, nhưng chậm được giải quyết, trong đó có trách nhiệm của VKS. Công tác nghiên cứu, giải quyết các đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định về dân sự còn chậm, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. - Ở một số địa phương, việc bố trí, điều động cán bộ cho VKS cấp huyện và khâu công tác kiểm sát hoạt động tư pháp còn chậm, chưa hợp lý; công tác quản lý cán bộ chưa chặt chẽ; việc chấp hành các Quy chế nghiệp vụ, Quy chế về thông tin báo cáo và quản lý công tác trong ngành chưa nghiêm. 4.7. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. - Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế nêu trên, trước hết là do trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của Viện trưởng VKSND các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát, chưa có quyết tâm cao, chưa quan tâm đúng mức đến quản lý nghiệp vụ, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ. Một số cán bộ, Kiểm sát viên chưa đề cao trách nhiệm trong thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp; năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên còn hạn chế. - Một số quy định của pháp luật còn có vướng mắc, bất cập, nhất là các quy định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS chậm được khắc phục, sửa đổi bổ sung. 4.8. Một số kiến nghị để hoàn thiện hoạt động của VKSND tối cao. (làm lại) Từ những kết quả tích cực, những hạn chế, tồn tại nêu trên, các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát địa phương cần tiếp tục phân tích kỹ những nguyên nhân, tìm ra những giải pháp nhằm phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tồn tại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành Kiểm sát trong thời gian tới. II. Thực trạng quản lý tài chính trong Ngành kiểm sát nhân dân. 1. Chủ thể quản lý tài chính. Chủ thể đứng ra quản lý hoạt động tài chính cho toàn Ngành kiểm sát nhân dân là Viện kiểm sát nhân dân tối cao, mà cụ thể là Vụ Kế hoạch – Tài chính của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Vụ này sẽ đứng ra chịu trách nhiệm về việc lập kế hoạch và tiến hành phân bổ nguồn kinh phí này cho hoạt động của toàn Ngành kiểm sát nhân dân. 2. Thực trạng quản lý nguồn thu. Do Ngành kiểm sát là đơn vị do Nhà nước lập ra với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, hoạt động không vì mục đích lợi ích, cũng không kinh doanh, do đó, nguồn thu của Ngành kiểm sát nhân dân là kinh phí của Ngân sách nhà nước cấp. Sau khi lập các kế hoạch cần chi tiêu, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ trình lên cho Bộ Tài chính xét duyệt. Bộ Tài chính sẽ xem xét và trình duyệt Thủ tướng Chính phủ cấp kinh phí cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong năm 2008, kinh phí nhà nước cấp cho Ngành là 880.470,0 triệu đồng. Đến năm 2009, nguòn kinh phí được cấp là 1.029.152,68 triệu đồng, tăng 11,68% so với năm 2008. 3. Quản lý việc chi. 3.1. Thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước tại Ngành kiểm sát nhân dân. Vụ kế hoạch – Tài chính đã tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện, quản lý sử dụng ngân sách nhà nước trong 2 năm 2008 – 2009 như sau: Bảng 1 KẾT QUẢ THỰC HIỆN KINH PHÍ DO NGÂN SÁCH CẤP TRONG NĂM 2008 – 2009. Đơn vị: triệu đồng. Nội dung Năm 2008 Năm 2009 1. Kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản 165.300 171.000 2. Kinh phí quản lý hành chính. 692.438,4 830.442,5 3. Kinh phí giáo dục đào tạo. 8.667,6 12.695 4. Kinh phí đào tạo bồi dưỡng cán bộ. 6.525 9.539,2 5. Kinh phí sự nghiệp khoa học – công nghệ. 2.180 2.270 6. Kinh phí sự nghiệp đảm bảo xã hội. 160 160 7. Kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia. 1450 + Chương trình phòng chống ma tuý. 300 + Chương trình phòng chống tội phạm 150 + Chương trình giáo dục – đào tạo. 1.000 8. Kinh phí viện trợ. 1.870 9. Kinh phí viện trợ h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31600.doc
Tài liệu liên quan