Mục lục
Lời mở đầu…………………………………………………………………… 2
1. Lý luận chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch …………………… 4
1.1. Khái niệm và vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch ………. 4
1.1.1. Khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch …….………………….... 4
1.1.2. Vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch ……………………. 5
1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng………………………………………………………... 5
1.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuât………………………………………….…… 6
2. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây–Ba
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1865 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở khu vực Sơn Tây – Ba Vì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vì…….… 9
2.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật………………………………… 9
2.1.1. Cơ sở hạ tầng………………………………………………………….. 9
2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật………………………….……………………. 12
2.2. Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuậnt du lịch tại một số điểm trong khu vực Sơn Tây – Ba Vì ……………………………………………………….. 14
2.2.1. Vườn quốc gia Ba Vì ……………………………………………...… 15
2.2.2. Điểm du lịch Ao Vua………………………………………………… 16
2.2.3. Điểm du lịch Hồ Suối Hai …………………………………………… 17
2.2.4. Điểm du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên……………………………... 19
2.2.5. Điểm du lịch Hồ Đồng Mô - Ngải Sơn…………………………….… 20
2.3. Đánh giá chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì… 22
3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì…………………………………………...………………… 24
3.1. Cơ sở hạ tầng…………………………………………………………… 24
3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật…………………………………….…………… 25
3.3. Một số kiến nghị đối với ngành du lịch Sơn Tây – Ba Vì và các ban ngành có liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch của khu vực. ..…… 28
Kết luận……………………………………………………………...… 29
Tài liệu tham khảo………………………………..………………………… 31
Lời mở đầu
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi giải trí tích cực của con người. Thông qua hoạt động du lịch con người thoả mãn được nhu cầu phát triển hài hoà cả về thể chất và tinh thần của mình. Bên cạnh đó không thể không nói đến những lợi ích kinh tế mà du lịch mang lại cho nền kich tế chung. Do những vai trò và ý nghĩa quan trọng của du lịch trong đời sống kinh tế - xã hội mà ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá - xã hội và là một trong những hoạt động kinh tế – xã hội sôi động nhất của mỗi quốc gia trên thế giới.
Nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, quá trình đô thị hoá không ngừng diễn ra. Đó là xu hướng phát triển chung của thế giới. Song chính quá trình phát triển này đã có những ảnh hưởng không tốt tới điều kiện sống của con người như: Sự tập chung dân số quá cao, ô nhiễm môi trường, sức ép của công việc, bầu không khí ngột ngạt,...tại những đô thị và các đô thị ở Việt Nam cũng không tránh khỏi điều này. Các nhân tố này dẫn đến xu hướng tìm đến những điểm có môi trường tự nhiên trong lành, yên tĩnh, có cảnh quan đẹp để nghỉ ngơi , vui chơi giải trí vào những ngày nghỉ của người dân tại các đô thị.
Là một khu vực có điều kiện thuận lợi về cả tài nguyên du lịch lẫn nguồn khách du lịch, khu vực Sơn Tây – Ba Vì đã sớm hình thành các điểm du lịch phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của người dân Hà Nội và các đô thị lân cận. Trong đó phải nói tới các điểm như: hồ Đồng Mô - Ngải Sơn, hồ Suối Hai, vườn quốc gia Ba Vì, Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua,...nơi có sự kết hợp của khí hậu trong lành, mát mẻ, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thảm động thực vật phong phú, và các yếu tố nhân văn – rất thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động nghỉ ngơi du lịch.
Mặc dù có những điều kiện thuận lợi như vậy và đã sớm hình thành các điểm du lịch nhưng quá trình khai thác, phát triển du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì vẫn có những tồn tại, yếu kém cần được khắc phục. Qua quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu về khu vực này để đánh giá những điều kiện và thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở đây,đề án này xin đưa ra một vài giải pháp góp phần khắc phục những yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và thúc đẩy phát triển du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì.
Mục đích của đề tài là phân tích những điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đánh giá hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch một cách hợp lý, vừa thoả mãn tối đa nhu cầu phát triển du lịch của địa phương, vừa bảo vệ được tài nguyên môi trường du lịch.
Giới hạn của đề tài được xác định trong phạm vi khu vực thị xã Sơn Tây và huyện Ba Vì ( tỉnh Hà Tây). Đề tài sẽ giải quyết một số nhiệm vụ như sau :
- Khái quát cơ sở lý luận về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở khu vực Sơn Tây – Ba Vì.
Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn Văn Mạnh đã hướng dẫn để em hoàn thành đề án này.
1. lý luận chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
1.1.Khái niệm và vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch.
1.1.1.Khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch không chỉ bao gồm các yếu tố của riêng ngành du lịch mà bao gồm cả các yếu tố của các ngành khác được huy động vào hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ du lịch thoả mãn nhu cầu của con người.
Theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật được huy động tham gia vào việc khai thác các tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ và hàng hoá thoả nãm nhu cầu của du khách trong các chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc bản thân ngành du lịch và cơ sở vật chất của các ngành khác của cả nền kinh tế quốc dân tham gia vào việc khai thác tiềm năng du lịch như : Hệ thống đường xá, cầu cống, bưu chính viễn thông, điện nước… Những yếu tố này được gọi chung là các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng xã hội. Trong đó những yếu tố cơ sở hạ tầng xã hội còn được xem là những yếu tố đảm bảo điều kiện chung cho việc phát triển du lịch. Điều này khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa du lịch với các ngành kinh tế khác trong mối liên hệ liên ngành.
Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm dịch vụ và hàng hoá cung cấp và làm thoả mãn nhu cầu của du khách. Chúng bao gồm hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển… và đặc biệt nó bao gồm cả các công trình kiến trúc bổ trợ. Đây chính là các yếu tố đặc trưng trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của ngành du lịch. Nếu thiếu những yếu tố này thì nhu cầu du lịch của du khách không được thoả mãn. Do vậy đây chính là yếu tố trực tiếp đối với việc đảm bảo điều kiện cho các dịch vụ du lịch được tạo ra và cung ứng cho du khách.
Việc phân chia khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên cũng cần xác định việc phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi lẽ sẽ khó tách bạch rạch ròi các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng khi mà các ngay trong các khu du lịch cũng cần phải có các yếu tố này và nó có thể do chính các doanh nghiệp du lịch tạo ra.
1.1.2.Vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch.
1.1.2.1.Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng nói chung có vai trò đặc biệt đối với việc thúc đẩy phát triển du lịch. Cơ sở hạ tầng là những phương tiện vật chất của toàn xã hội đó là mạng lưới và phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp điện nước,...
Mạng lưới và phương tiện giao thông.
Nói tới cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch thì mạng lưới phương tiện giao thông là nhân tố quan trọng hàng đầu vì du lịch gắn với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất định. Nó phụ thuộc vào giao thông và chỉ thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện nhanh chóng thì du lịch mới trở thành yếu tố phổ biến trong xã hội. Với mạng lưới và phương tiện giao thông thông suốt và đa dạng sẽ giảm bớt thời gian đi lại và tăng thời gian nghỉ ngơi giải trí của du khách.
Thông tin liên lạc.
Thông tin liên lạc là một phần rất quan trọng trong cơ sở hạ tầng của hoạt động du lịch. Nó là điều kiện cần thiết để đảm bảo giao lưu cho khách du lịch. Nhu cầu thông tin liên lạc là nhu cầu trao đổi những dòng thông tin của xã hội, được thoả mãn bằng nhiều loại hình thông tin khác nhau.
Trong đời sống kinh tế xã hội nói chung cũng như trong ngành du lịch nói riêng không thể thiếu các phương tiện thông tin liên lạc. Nó đảm nhiệm việc vận chuyển tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời góp phần thực hiện các mối giao lưu giữa các vùng, các nước.
Hệ thống cung cấp điện và cấp thoát nước.
Đây là phương tiện hàng đầu trong việc đảm bảo điều kiện sinh hoạt bình thường cho du khách. Các sản phẩm của nó phục vụ trực tiếp cho việc nghỉ ngơi giải trí của du khách. Nếu không đảm bảo được nhu cầu thiết yếu thì sẽ không đảm bảo được hoạt động du lịch.
1.1.2.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch và cơ sở của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia vào phục vụ du lịch.Việc đánh giá cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được căn cứ vào ba tiêu chuẩn chủ yếu:
- Đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho nghỉ ngơi du lịch .
- Đạt hiệu quả kinh tế tối ưu trong quá trình xây dựng và khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Thuận tiện cho du khách từ các nơi đến.
Nhằm sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cần chú ý các thành phần chủ yếu sau:
Cơ sở lưu trú .
Cơ sở lưu trú là thành phần quan trọng và đặc trưng nhất trong toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Các cơ sở này bao gồm: Khách sạn, Motel, Camping, Bungalow, làng du lịch, biệt thự, nhà trọ ...Thông thường khách đi du lịch là để tận hưởng và sử dụng các tài nguyên du lịch nên cơ sở lưu trú thường được xây dựng tập trung ở gần những nơi có tài nguyên du lịch hoặc các đô thị, đầu mối giao thông. Các cơ sở này chịu sự quản lý của tổ chức kinh doanh du lịch hoặc có thể hoạt động độc lập. Trong hoạt động du lịch, doanh thu từ cơ sở lưu trú thường chiếm một phần lớn trong tổng doanh thu (từ 1/3 đến 2/3).
Cơ sở ăn uống.
Cùng với cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống đáp ứng nhu cầu căn bản nhất của con người khi họ sống ngoài nơi cư trú. Các cơ sở ăn uống, giải khát như: Nhà hàng, quầy bar, có thể đặt trong hoặc ngoài cơ sở lưu trú. Các cơ sở này cần đảm bảo vệ sinh, món ăn hợp khẩu vị, giá cả phải chăng và nên phục vụ cả đặc sản địa phương.
Dịch vụ mua sắm và bán hàng lưu niệm.
Dịch vụ mua sắm và bán hàng lưu niệm nhằm đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của du khách bằng việc bán các mặt hàng đặc trưng cho du lịch, hàng thực phẩm và các hàng hoá khác.
Do khách du lịch đông, lại từ nhiều nơi đến nên nhu cầu về hàng hoá của họ rất phong phú và đa dạng như thực phẩm, đồ lưu niệm, đồ chuyên dùng cho du lịch và hàng tiêu dùng .
Các cửa hàng có thể được bố trí ở trong các cơ sở lưu trú, trong khu du lịch hay đầu mối giao thông.
Cơ sở vui chơi giải trí.
Khách du lịch đến một nơi du lịch nào đó, thì ngoài việc sử dụng và tận hưởng giá trị của các tài nguyên du lịch và các dịch vụ (lưu trú, ăn uống), thì việc tham gia các hình thức vui chơi giải trí sẽ làm cho kỳ nghỉ trở nên tích cực hơn. Các hình thức vui chơi giải trí rất đa dạng và phong phú có thể phân thành các nhóm sau :
- Các hình thức vui chơi giải trí trên không: Đu quay, cáp treo, nhảy dù,...
- Các hình thức vui chơi giải trí nước: Lướt sóng, lướt ván, xe đạp nước, cầu trượt nước, câu cá ,...
- Các hình thức vui chơi giải trí trên mặt đất: ô tô điện, đua xe,...
Các cơ sở thể thao là một bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, bao gồm các công trình thể thao với các thiết bị chuyên dùng, các sân chơi thể thao (sân tennis, golf,...)
Các công trình phục vụ thông tin văn hoá bao gồm: Trung tâm văn hoá thông tin, phòng chiếu phim, nhà hát, câu lạc bộ, phòng triển lãm. Hoạt động văn hoá thông tin có thể được tổ chức thông qua đêm văn nghệ, chiếu phim,...
Cùng với tài nguyên du lịch, ngày nay, các khu vui chơi giải trí có sức thu hút du khách mạnh mẽ và trở thành một bộ phận không thể tách rời khỏi cơ cấu vật chất kỹ thuật của các trung tâm du lịch. Thực tế, các khu vui chơi giải trí thường thu hút lượng lớn khách vào các ngày nghỉ, đặc biệt ở các công viên chuyên đề.
Cơ sở y tế .
Cơ sở này nhằm mục đích phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ xung tại các điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm: các trung tâm du lịch chữa bệnh (bằng nước khoáng, ánh nắng mặt trời, hay bằng bùn, các món ăn kiêng,...), các phòng y tế với các trang thiết bị trong đó (phòng tắm hơi ,massage,..).
Các dịch vụ bổ xung khác .
Là cơ sở giúp cho khách sử dụng triệt để hơn tài nguyên du lịch, tạo ra những tiện nghi khi họ đi lại và lưu trú tại điểm du lịch. Bộ phận này bao gồm: Trạm xăng dầu, thiết bị cấp cứu, cứu hộ, xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, các tiệm ảnh, giặt là,...
2. Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở sơn tây – ba vì trong thời gian qua
2.1.Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật.
2.1.1.Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển du lịch, nó đảm bảo việc đi lại và các dịch vụ cần thiết cho khách du lịch.
Giao thông vận tải.
Hoạt động du lịch gắn liền với việc di chuyển của con người nên giao thông vận tải là vấn đề then chốt. Đối với du lịch, mạng lưới và phương tiện giao thông thuận tiện có ý nghĩa rất quan trọng, khách du lịch sẽ tận dụng được thời gian để vui chơi, giải trí. Nếu giao thông không thuận tiện, con người phải mất nhiều thời gian cho việc di chuyển và phát triển du lịch bị hạn chế.
Hà Tây nói chung và Sơn Tây - Ba Vì nói riêng có vị trí địa lý rất thuận tiện, là nút giao lưu của nhiều tuyến đường quan trọng: đường ngược Việt Bắc, Tây Bắc, đường vào Thanh, Nghệ; đường xuôi đồng bằng ven biển và là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, của xứ Đoài thuộc kinh kỳ Thăng Long xưa, cho nên ở đây sớm hình thành mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh.
Đường bộ. Mạng lưới giao thông vận tải đường bộ của Sơn Tây - Ba Vì khá phát triển, nhưng do thời gian sử dụng quá lâu nên nhiều trục đường đang xuống cấp, nhất là các tuyến thuộc cấp tỉnh, huyện, xã quản lý.
Từ Sơn Tây - Ba Vì có các trục đường chính sau:
- Quốc lộ 21A (46,00km) từ thị xã Sơn Tây đến Miếu Môn.
- Quốc lộ 32 (49,00km) từ Nhổn đến bến phà Trung Hà.
- Quốc lộ cao tốc Láng- Hoà Lạc,nối Hà Nội với quốc lộ 21A.
- Tỉnh lộ 87A (20,575km) từ viện 105 (thị xã Sơn Tây) đi Bất Bạt.
- Tỉnh lộ 89 (13,0km) từ Đá Chông đi phố Chẹ.
- Tỉnh lộ 88 (23,0km) từ Vị Thuỷ (thị xã Sơn Tây) đi Bất Bạt.
- Tỉnh lộ 12 (18,0km) từ thị xã Sơn Tây lên Cốt 600 núi Ba Vì.
- Tỉnh lộ 82 (10,2km) từ Sơn Đông (Quốc lộ 21) đi thị xã Sơn Tây.
Ngoài ra còn các tuyến đường liên xã, thôn, liên kết với các trục đường chính nối các điểm du lịch của vùng tạo thành tuyến du lịch trong khu vực.
Nếu phân loại đường theo chất lượng khai thác thì loại đường xuống cấp, xấu và rất xấu chiếm 65%, trung bình 30% và tốt chỉ đạt 7%, điều này là yếu tố cản trở cho phát triển du lịch ở Hà Tây nói chung và Sơn Tây - Ba Vì nói riêng do vậy cần được quan tâm nâng cấp cải tạo lại chất lượng đường.
Đường sông. Các tuyến đường sông qua khu vực Sơn Tây - Ba Vì tới các điểm du lịch chưa phát triển nên ít được sử dụng. Tuy nhiên trong tương lai có thể khai thác phục vụ cho du lịch, gồm các tuyến:
- Tuyến sông Đà đi qua phía Tây Bắc khu vực Sơn Tây - Ba Vì từ thị xã Hoà Bình đến ngã ba Trung Hà (tính bên hữu ngạn) dài 32km, (toàn tuyến từ Lai Châu đến Trung Hà 157km).
- Tuyến sông Hồng đi qua phía Đông khu vực Sơn Tây - Ba Vì, với cảng Sơn Tây có thể đảm bảo cho sà lan 200 tấn đến 1000 tấn ra vào và các bến dân sinh thuộc huyện Ba Vì.
- Tuyến nội tỉnh theo sông Tích chảy từ núi Ba Vì qua huyện Ba Vì, thị xã Sơn Tây, huyện Thạch Thất, Chương Mỹ và đổ vào sông Đáy ở Ba Thá, dài 115km. Tuyến này không có khả năng khai thác vận tải thuỷ do có nhiều đá ngầm, bãi cạn, tuy nhiên có thể khai thác phục vụ du lịch bằng các xuồng, ca nô cỡ nhỏ.
Đường sắt. Trong vùng không có đường sắt chạy qua.
Đường hàng không. Trong vùng có hai sân bay phục vụ quân sự, không phục vụ du lịch.
Phương tiện giao thông. Do đặc điểm của mạng lưới giao thông hiện nay nên phương tiện được sử dụng nhiều nhất tới các điểm du lịch trong khu vực vẫn là ô tô các loại. Toàn tỉnh Hà Tây có tổng số ghế phục vụ vận chuyển khách là 8735 ghế trong đó quốc doanh chiếm tỉ lệ 74% và tư nhân 26%, gồm 155 chiếc xe Buýt có từ 20 đến 40 ghế và các loại khác có 303 chiếc có từ 8 đến 18 ghế. Tuy nhiên các xe đến các điểm du lịch chủ yếu là xe của khách từ các tỉnh phụ cận.
Các loại phương tiện cá nhân cũng được sử dụng nhiều cho du lịch là xe mô tô, xe gắn máy.
Ngoài ra, phương tiện vận chuyển khách trên sông của toàn tỉnh Hà Tây có khoảng 500 ghế.
Thông tin liên lạc.
Có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch, nó đảm bảo sự giao lưu cho khách và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp du lịch. Trong thời gian qua, Sơn Tây - Ba Vì đã có rất nhiều cố gắng nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, đặc biệt là thị xã Sơn Tây. Nhưng nhìn chung, mạng lưới thông tin trong vùng chưa đáp ứng được nhu cầu về thông tin liên lạc hiện đại, chủ yếu là các tổng đài nhỏ, dung lượng thấp, thiết bị cũ chưa hoà nhập với mạng lưới thông tin Quốc gia và Quốc tế.
Mạng lưới điện.
Nhìn chung mạng lưới điện ở Sơn Tây - Ba Vì đáp ứng tương đối tốt nhu cầu về điện cho sản xuất, sinh hoạt và du lịch
Trạm điện 110/35/10kv -2+16, MVA Sơn Tây là nguồn điện cho toàn khu vực. Trạm này đã cung cấp đầy đủ, hết công suất. Lưới điện phát triển dưới 3 cấp điện áp 35kv, 10kv và 6kv. Tại các điểm du lịch trong khu vực, khả năng cung cấp điện là tương đối tốt, nhưng bên cạnh đó tại một số thôn, bản khả năng cung cấp điện thấp do mạng lưới truyền tải điện chưa đủ khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng.
Khả năng cung cấp nước.
Chủ yếu dân cư và các điểm du lịch ở đây sử dụng trực tiếp hay xử lý tại chỗ nguồn nước mặt từ hồ, sông, suối. Riêng thị xã Sơn Tây có hệ thống cấp nước đô thị với công suất 10.000 m3/ngày đêm. Về trữ lượng nước ngầm thì không đáng kể. Nhìn chung, khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và du lịch tương đối đầy đủ, tuy nhiên cần quan tâm đến khả năng cung cấp nước vào mùa khô.
Các trạm thông tin liên lạc.
Tuy đã được đầu tư nhưng khả năng đáp ứng còn rất hạn chế do lượng máy điện thoại còn thấp và hệ thống thông tin chưa hoàn thiện. Các loại hình thông tin liên lạc hiện đại chưa có.
2.1.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thiết lập và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch. Do mức độ khai thác du lịch chưa cao nên tại các điểm du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì số lượng và chất lượng của các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn hạn chế.
Cơ sở lưu trú.
Tính đến đầu năm 2002 ở 11 điểm của Ba Vì đã có 171 buồng trong đó có 165 buồng khép kín, tổng diện tích buồng 3.600 m3, ngoài ra có 30 nhà sàn. ở Sơn Tây có 135 buồng khép kín và rất nhiều nhà sàn, nhà sàn kiểu camping,...
Bảng 1: cơ sở lưu trú tỉnh Hà Tây
Khách sạn
Số phòng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Đầu năm 2002
20
20
35
35
410
410
562
562
Nguồn :Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch.
Nhìn chung cơ sở lưu trú của vùng ngoài các nhà sàn và nhà nghỉ mới xây dựng có kiến trúc đẹp, phù hợp với cảnh quan, số còn lại hầu hết các phòng đều có chất lượng chưa cao do được xây dựng đã lâu, phòng cũ cải tạo lại. Các phòng nghỉ hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, chỉ có một số ít thuộc khu vực sân golf Đồng Mô nhưng các trang thiết bị còn thiếu và chưa đồng bộ.
Do tình trạng phòng nghỉ chỉ phục vụ được nhu cầu của khách nội địa, còn phục vụ khách quốc tế thì chưa đủ tiêu chuẩn về vệ sinh và trang thiết bị, nên dẫn đến tình trạng doanh thu từ việc thuê phòng chưa cao và chưa hấp dẫn được khách du lịch .Doanh thu từ lưu trú chỉ chiếm 24,2% tổng doanh thu du lịch của cả vùng.
Cơ sở phục vụ ăn uống.
ở hầu hết các điểm du lịch trong khu vực Sơn Tây - Ba Vì đều có các quầy bar và phòng ăn lớn có sức chứa khoảng 100 người mỗi phòng. ở vườn Quốc gia Ba Vì có một phòng sức chứa 100 người, hồ Suối Hai có 2 phòng ăn có thể chứa 200 người, hồ Đồng Mô - Ngải Sơn có nhiều phòng ăn tương đối sạch sẽ, bố trí đẹp,... Ngoài ra còn phục vụ ăn uống tại các nhà sàn có phong cảnh đẹp, thoáng mát.
Qua những đánh giá nhận xét của khách du lịch ở các điểm thì nhìn chung các món ăn được phục vụ là các món ăn mang hương vị núi rừng với nhiều món rau xanh hấp dẫn, giá phù hợp, thái độ phục vụ tốt. Tuy nhiên, các món ăn ở đây chưa được phong phú, trình độ chế biến chưa cao, chưa đảm bảo về chất lượng, các món đặc sản giá vẫn tương đối cao và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và đồ uống chưa được thực sự quan tâm. Các điểm du lịch chỉ chủ yếu phục vụ ăn uống cho khách đi theo đoàn, còn phần lớn khách lẻ tự trang bị đồ ăn nên doanh thu từ ăn uống chưa khai thác hết khả năng, còn tương đối khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 7,5% trong tổng doanh thu du lịch của cả khu vực.
Hội trường, phòng họp.
Ngoài cơ sở lưu trú và phục vụ ăn, uống thì việc cung cấp các hội trường, phòng họp cho các đoàn khách tổ chức các buổi nghiên cứu, hội thảo là rất cần thiết.
ở hầu hết các điểm du lịch đều có các phòng họp, hội thảo: ở khu vực Ba Vì có 6 hội trường phòng họp với 710 m2, ở khu hồ Đồng Mô đến nay đã có 700 m2 văn phòng và phòng họp... Nhìn chung các phòng hội thảo được bố trí đẹp, môi trường xung quanh thoáng đãng sạch sẽ như: Phòng hội thảo tại vườn Quốc gia Ba Vì được bố trí trên gác 2 của nhà sàn, khu Đồng Mô có 1 phòng họp được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị cần thiết,... Tuy nhiên nhìn chung, diện tích của phòng còn hạn chế và thiếu các trang thiết bị.
Khu vui chơi, giải trí.
Hiện nay các khu vui chơi, giải trí đang là vấn đề được các điểm du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì quan tâm.
Trong năm vừa qua, nhiều điểm ở Ba Vì như: Ao Vua, Khoang Xanh, Thác Đa,... đã đầu tư xây dựng các khu vui chơi thể thao nước như: hồ tạo sóng, hồ bơi, bể bơi, hệ thống làn trượt nước, hồ câu cá,...
ở hồ Suối Hai và hồ Đồng Mô - Ngải Sơn đã đầu tư xây dựng các bãi tắm, bãi cắm trại, dịch vụ thuyền đạp nước, du thuyền thăm hồ,... đặc biệt ở hồ Đồng Mô có sân Golf 36 lỗ đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nhìn chung, tại các điểm du lịch đã đáp ứng được phần nào nhu cầu về vui chơi, giải trí của du khách nhưng các cơ sở này còn tương đối nghèo nàn và rất đơn điệu về loại hình. Đối với du lịch cuối tuần, các cơ sở này cần được đầu tư phát triển mạnh hơn nữa.
2.2. Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại một số điểm trong khu vực Sơn Tây – Ba Vì.
Trong nhiều năm gần đây du lịch Sơn Tây - Ba Vì đã có nhiều bước tiến đáng kể. Ngành du lịch đã có những đầu tư lớn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch: năm 1999 đầu tư đạt 84,4 tỉ đồng, đến năm 2000 đầu tư đạt 96,8 tỉ vào năm 2001 tổng vốn đầu tư là 105 tỉ đồng.
Từ những đầu tư này, khu vực đã thu hút được lượng khách đến thăm quan nghỉ ngơi ngày một tăng. Năm 1998 là 22,1 vạn lượt đã tăng lên 38,1 vạn lượt năm 2001. Tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 21,7%. Doanh thu du lịch của vùng cũng có những bước tăng cao. Năm 1998 đạt 17 tỉ đồng, năm 1999 đạt 21tỉ đồng, năm 2000 đạt 27 tỉ đồng và năm 2001 đạt 29 tỉ đồng.
Tuy đã thu được những kết quả quan trọng như vậy, nhưng du lịch Sơn Tây - Ba Vì vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần quan tâm hơn nữa về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, về môi trường, về sự kết hợp giữa các ban ngành ....
2.2.1. Vườn Quốc gia Ba Vì.
Vườn Quốc gia Ba Vì được thành lập vào năm 1997 với diện tích 7,377ha, thuộc xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Tây, cách trung tâm Hà Nội 60km về phía Tây và được coi là " lá phổi xanh" của Hà Nội
Vườn nằm trong toạ độ địa lý: 21°01- 21°07 vĩ Bắc; 108°15- 105°251 kinh độ Đông, được chia làm hai phân khu chức năng: phân khu bảo tồn nguyên vẹn từ cốt 400m trở lên và phân khu phục hồi sinh thái từ cốt 400m trở xuống cốt 100m. Dưới cốt 100m là vùng đệm, có tổng diện tích là 14,144ha.
Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên núi Tản Viên - một quả núi đẹp nổi lên giữa đồng bằng, đồng thời là dãy núi huyền thoại mà từ bao đời người Việt Nam hằng ngưỡng mộ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của vườn.
-Cơ sở lưu trú: ở độ cao 400m - trung tâm của vườn, có 6 nhà nghỉ gồm 26 phòng đạt tiêu chuẩn phòng nội địa ( các phòng đều là nhà mái bằng, một tầng), giá thuê 120.000 đồng/1người/đêm và 80.000 đồng/3 tiếng.
-Cơ sở ăn uống: Có một nhà ăn (cốt 400m) có sức chứa một trăm người phục vụ các món ăn đặc sản của vùng.
- Có một phòng hội trường trên nhà sàn có thể cho 60 người sử dụng.
-Cơ sở vui chơi, giải trí. Có một bể bơi rộng 200m2 lát gạch men, nước tương đối sạch và được khử trùng cẩn thận, 1 sân tennis gần vườn nuôi chim đạt tiêu chuẩn quốc tế với giá 120.000 đồng/giờ.
Số lượng lao động tại vườn: Ngoài lượng nhân viên khác,ban dịch vụ du lịch của Vườn Quốc gia Ba Vì có 23 lao động, trong đó có 7 công chức do ban quản lý vườn quản lý. Tỷ lệ có tay nghề chiếm 20% còn lại chưa qua đào tạo hoặc đào tạo ngắn hạn về du lịch. Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng khoảng 360.000 đồng
2.2.2.Điểm du lịch Ao Vua.
Điểm du lịch Ao Vua nằm ở sườn phía Bắc núi Ba Vì. Suối Ao Vua chảy từ độ cao 800m, dài 8,2 km có nhiều thác nước đẹp. Các thác nước chảy từ trên núi xuống đổ dồn về đây tạo thành hồ nước lớn, nước thông thuỷ rất thuận lợi cho việc nghỉ dưỡng tắm mát vào mùa hè. Theo truyền thuyết, Sơn Tinh cùng vợ là công chúa Ngọc Hoa đã dùng nước suối tiên ở Ao Vua để gột bụi trần, bay về trời sau khi chiến thắng Thuỷ Tinh. Đền Ao Vua dựng lên từ truyền thuyết này là nơi du khách có thể rũ bỏ nhiều lo lắng của công việc vào nhiều ngày cuối tuần.
Cách đây độ một vài năm nếu đến khu du lịch Ao Vua, du khách sẽ bắt gặp một phong cảnh hết sức hoang vu: ao cạn, suối khô, các dịch vụ để phục vụ du khách hầu như không có. Lượng khách đến Ao Vua khi đó còn khiêm tốn. Đến nay Ao Vua đã trở thành một khu du lịch hấp dẫn bởi non xanh nước biếc, suối chảy quanh năm, không khí trong lành, nhiệt độ thấp hơn mức trung bình 4-5°C nên rất hấp dẫn du khách.
Năm 2001 khu du lịch Ao Vua đón 17,1 vạn lượt khách chiếm 35% khách du lịch đến khu vực Sơn Tây – Ba Vì và 11,6% lượng khách đến tỉnh.. So với năm 2000, số lượng khách đến khu du lịch Ao Vua tăng 33%. Tổng doanh thu đạt 3,5 tỉ đồng, tăng 17%. Nộp ngân sách Nhà nước 1,2 tỉ đồng, tăng 22,5% so với năm 2000, đứng đầu trong số các điểm trong khu vực.
Để đạt được nhiều thành quả như vậy, công ty cổ phần du lịch Ao Vua đã phải đầu tư rất lớn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
- Cơ sở lưu trú: Trong nhiều năm qua, Ao Vua đã nâng cấp và xây dựng mới hệ thống nhà nghỉ. Hiện nay, điểm có thể cung cấp 100 phòng khép kín tương đối đầy đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch nội địa với mức giá từ 120.00đồng-150.000 đồng/ngày đêm.
- Cơ sở ăn uống: Công ty đã xây dựng 2 nhà sàn phục vụ ăn uống cho hơn 100 người.
- Cơ sở vui chơi, giải trí: Có khu vui chơi thể thao nước với 6 làn trượt nước, bể nước rộng, khu đu quay, đường đi ven hồ.
Khu du lịch 12 con giáp , vườn khủng long, tái hiện lại truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh với lẽ hội cầu hôn và trận chiến Sơn Tinh – Thuỷ Tinh.
Khu bảo tồn động vật hoang dã bao gồm : Vườn chim được xây dựng trên diện tích 4000m2 và vườn thú rộng 4000m2.Đến năm 2002, vườn chim sẽ nuôi thả 40 loài chim với 1000 con và vườn thú sẽ có 20 loài.
Ngoài ra Ao Vua còn cho xây dựng bãi đỗ xe rộng và trồng nhiều loại cây cảnh,... (nguồn: Công ty cổ phần du lịch Ao Vua).
Khu du lịch Ao Vua phát triển đã giải quyết cho 90 lao động làm thường xuyên và thu hút 500 lao động có việc làm trong mùa hè. Công ty cũng đã kết hợp với trường Trung học Du lịch Việt Nam mở lớp bồi dưỡng kỹ năng phục vụ du lịch cho 50 cán bộ, nhân viên, tạo cho mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp phục vụ khách.
2.2.3. Điểm du lịch Hồ Suối Hai.
Hồ Suối Hai là hồ nước nhân tạo được khởi công xây dựng từ tháng 12/1958 thuộc địa phận huyện Ba Vì với hệ thống đập chính và phụ dài 4km để giữ nước từ 2 suối chính Yên Cự và Cầu Rồng từ núi Ba Vì chảy xuống làm nguồn nước cung cấp nước tưới cho trên 7000 ha đất canh tác. Hồ Suối Hai có diện tích mặt nước gần 100 ha, dài 7km, rộng 4km, chu vi hồ tới 36km với lượng nước chứa trong hồ khoảng 13 triệu m3 . Trong lòng hồ có tới 14 hòn đảo lớn nhỏ, diện tích khoảng 90 ha. Trên các đảo ven hồ đã được trồng cây gây rừng, xây dựng các vườn cây ăn quả, các trại chăn nuôi.
Hồ rộng,nước sạch, có nhiều bãi tắm đẹp kết hợp với điều kiện khí hậu mát mẻ trong lành , phong cảnh “Sơn thuỷ hữu tình “ thoáng đãng với những thảm cỏ xanh và bóng cây dâm mát nên được khách du lịch rất ưu thích.
Hồ còn có khả năng cung cấp mỗi năm hàng chục tấn cá. Đặc biệt hệ sinh thái vùng hồ còn được bổ sung thêm các đàn chim trời như: Le Le, Mòng Mòng, Két, Vịt trời, Sâm Cầm, Giang, Sếu, đông đến hàng vạn con, làm cảnh quan thiên nhiên thêm phong phú sinh động và hấp dẫn.
Hồ Suối Hai là nơi an dưỡng, tham quan nghỉ ngơi rất tốt. ở đây có những điều kiện lý tưởng để xây dựng khu nghỉ ngơi cuối tuần của thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận. Tuy nhiên, hiện trạng khai thác phát triển du lịch cuối tuần ở đây còn rất hạn chế.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch:
-Cơ sở lưu trú: ở hồ Suối Hai có nhà nghỉ Suối Hai( Công ty DL Công Đoàn) và hai nhà nghỉ tư nhân khác. Trong đó nhà nghỉ Suối Hai có 30 phòng đạt tiêu chuẩn khách nội địa phục vụ 2 mức giá 100 nghìn đồng và 70 nghìn đồng 1phòng/ngày- đêm. Ngoài ra còn có một nhà nghỉ 4 phòng, 2 nhà sàn, một nhà sàn tập thể chứa được 50-70 người, một nhà sàn 4 phòng, và nhiều nhà sàn kiểu camping cho hai người, thuộc công ty Thủy Sản dịch vụ du lịch Suối Hai quản lý.
-Cơ sở ăn uống: Tại nhà nghỉ Suối Hai có phục vụ ăn uống với các món ăn đặc sản của hồ Suối Hai, phòng ăn có sức chứa 300 khách. Ngoài ra ở trung tâm dịch vụ du lịch của hồ có phục vụ ăn uống tại các nhà sàn.
-Phòng hội thảo: Tại nhà nghỉ Suối Hai có thể cung cấp một phòng hội thảo có thể chứa 200-300 người. Hiện nay phòng được kết hợp làm phòng ăn do công suất sử dụng thấp.
-Cơ sở vui chơi, giải trí: Khách du lịch đến thăm hồ Suối Hai chủ yếu để nghỉ ngơi, bơi lội và thăm quan mặt hồ do cơ sở vui chơi giải trí ở đây chưa được đầu tư phát triển. ở đây chỉ phục vụ các dịch vụ cho bơi lội tại các bãi tắm, có hai tàu chứa khoảng 60-70 người mỗi tàu, một thuyền và một ca nô phục vụ du khách sang đảo và đi thăm hồ. Ngoài ra còn có một số tuyền đạp._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV290.doc