Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội

Tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội: MỤC LỤC Lời cảm ơn Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn là Thạc sỹ Nguyễn Thị Lệ Thuý. Bên cạnh đó trong thời gian thực tập tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất, tôi đã được các cán bộ phận thông tin lưu trữ giúp đỡ rất tận tình, tạo mọi điều kiện học tập và nghiên cứu cũng như cung cấp các số liệu cần thiết để tôi có thể hoàn thành đề tài này. Góp phần giúp tôi hoàn thành khoá luận này còn có sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ T... Ebook Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư viện Quốc gia, cán bộ Thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp tôi trong việc thu thập các nguồn tư liệu cho bài viết của mình. Nhân đây, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Lệ Thúy, các cán bộ Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất, các cán bộ thư viện đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2008 Sinh viên Trịnh Thị Mai Các ký hiệu viết tắt Sở TNMT&NĐ Sở tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội CCHC Cải cách hành chính TTHC Thủ tục hành chính HCNN Hành chính Nhà nước XHCN Xã hội chủ nghĩa UBND Ủy ban nhân dân HS Hồ sơ HSHC Hồ sơ hành chính Danh mục các bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ Hình 1.1: Sơ đồ các yếu tố cấu thành nền hành chính Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội Hình 2.2: Sơ đồ mô hình hoạt động của phần mềm một cửa Hình 2.3: Sơ đồ qui trình giải quyết TTHC hành chính theo cơ chế một cửa tại Sở TNMT&NĐ MỞ ĐẦU Cải cách hành chính từ lâu đã không còn là vấn đề xa lạ với bất cứ ai trong chúng ta. Ngày nay, đó là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Từ 1986 cùng với quá trình đổi mới đất nước về kinh tế, cải cách hành chính cũng được tiến hành đồng thời. Trải qua nhiều năm với những bước đi và lộ trình khác nhau công cuộc cải cách hành chính cũng đã thu được những thành tựu đáng kể, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên do chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên việc cải cách hành chính ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn, vì thế mà đến giờ CCHC vẫn đang là một bài toán lớn đối với Chính phủ cũng như các cơ quan hành chính Nhà nước. Ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 với 4 nội dung: cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công. Một trong các nội dung quan trọng của cải cách thể chế hành chính đó là cải cách Thủ tục hành chính (TTHC). Muốn CCHC thì TTHC phải được đơn giản hóa một cách tối đa, tránh rườm rà. Để đáp ứng yêu cầu đó Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 181 về việc thực hiện cơ chế “Một cửa” đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Đây được coi như là một giải pháp mang tính đột phá trong việc cải cách TTHC. Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất với các lĩnh vực quản lý của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực Đất đai có rất nhiều loại TTHC với số lượng ngày càng gia tăng. Cùng với tốc độ phát triển kinh tế, yêu cầu của người dân ngày càng nhiều, đòi hỏi Sở phải có những đổi mới về qui trình giải quyết TTHC để đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra. Thực hiện Quyết định 181 của Thủ tướng Chính phủ và định số Quyết 156/2003/QĐ-UB ngày 11/11/2003 của UBND Thành phố Hà Nội, năm 2003 Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà nội đã áp dụng cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết TTHC. Từ đây tình hình giải quyết TTHC của Sở được cải thiện một cách đáng kể nhưng bên cạnh đó không tránh khỏi những bất cập. Trải qua quá trình thực tập tại Sở, nhận thấy đây là vấn đề có tính chất trọng yếu đối với hoạt động của Sở, em quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội” là chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mong muốn đem lại một cái nhìn tổng quan về công cuộc cải cách hành chính trong các cơ quan hành chính Nhà nước nói chung và tình hình cải cách TTHC tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất nói riêng, đồng thời đánh giá lại quá trình áp dụng cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường Nhà đất để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện việc cải cách TTHC, góp phần thúc đẩy hoạt động của Sở. Do đặc thù của lĩnh vực nghiên cứu, đề tài được hình thành dựa trên việc sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp nghiên cứu thực tiễn (phương pháp quan sát khoa học, phương pháp điều tra, phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm), phương pháp chuyên gia, phương pháp toán học, phương pháp thống kê…, trên cơ sở đó xây dựng các giải pháp có tính khoa học. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về TTHC và cơ chế một cửa. Hệ thống lại lý luận nền hành chính nói chung, các bộ phận cấu thành cũng như các nội dung của CCHC. Các kiến thức về TTHC và sự cần thiết phải cải cách TTHC. Cơ chế một cửa là gì, vai trò của nó đối với việc giải quyết TTHC. Chương 2: Thực trạng giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội Phần này giới thiệu khái quát về quá trình hoạt động của Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất. Đánh giá lại quá trình thực hiện cơ chế một cửa tại Sở, những thành công đạt được cũng như những mặt còn tồn tại. Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách TTHC theo cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội. Dựa trên những đánh giá về những mặt tồn tại ở Sở khi thực hiện cơ chế “Một cửa” của chương 2, chương 3 sẽ đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò của bộ phận “Một cửa” trong việc giải quyết TTHC tại Sở từ đó thúc đẩy các hoạt động của Sở. Do hạn chế về tài liệu, thời gian cũng như kiến thức nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong có được sự góp ý của thày cô và bạn bè để em có thể hoàn thiện bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Trịnh Thị Mai Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CƠ CHẾ MỘT CỬA Quản lý hành chính Nhà nước và nền hành chính Nhà nước Quản lý hành chính Nhà nước Có rất nhiều khái niệm quản lý khác nhau. Khái niệm Quản lý nói chung là sự tác động một cách có tổ chức của chủ thể vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người, tập thể và các tổ chức xã hội nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã đề ra. Quản lý hành chính Nhà nước (HCNN) là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính thực hiện để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Học viện hành chính Quốc gia; Giáo trình về quản lý hành chính Nhà nước Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh: Tổ chức là sự thiết lập các mối quan hệ xã hội giữa con người, giữa các tập thể để thực hiện công việc quản lý các quá trình xã hội. Nội dung chủ yếu bao gồm thiết lập hệ thống bộ máy hành chính trung ương và địa phương theo cấp và theo phân hệ, quy định thẩm quyền và các mối quan hệ của cơ quan trong hệ thống, bố trí cán bộ, công chức và các chế độ chính sách đối với họ để làm cho hàng triệu công chức trong bộ máy mỗi người đều có vị trí tích cực đối với Nhà nước, đóng góp phần mình tạo ra lợi ích cho xã hội. Điều chỉnh là sự quy định về mặt pháp lý thể hiện bằng các quyết định quản lý, các quy tắc, tiêu chuẩn, biện pháp… nhằm tạo ra sự phù hợp giữa chủ thể và khách thể quản lý, sự cân đối hài hòa về hoạt động quản lý các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người. Sự tác động mang tính quyền lực Nhà nước: Đó là sự tác động bằng pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế. Quyền lực Nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổ chức rất cao. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, việc tổ chức và điều chỉnh của quản lý HCNN phải trên cơ sở pháp luật, làm đúng pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế. Nhà nước quản lý, quản lý Nhà nước và quản lý HCNN Chúng ta rất dễ nhầm các khái niệm nhà nước quản lý, quản lý Nhà nước và quản lý hành chính Nhà nước, chúng tưởng chừng như giống nhau nhưng thực chất rất khác nhau. Nhà nước quản lý: Đó là chủ thể duy nhất quản lý xã hội toàn dân, toàn diện và bằng pháp luật với bộ máy Nhà nước gồm 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là điểm khác cơ bản giữa Nhà nước với các chủ thể quản lý khác: Đảng, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Quản lý Nhà nước: Đó là dạng quản lý xã hội hành vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Khoa Khoa học Quản lý; Giáo trình quản lý Nhà nước về Kinh tế Quản lý HCNN là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước với chức năng chấp hành luật và tổ chức thực hiện luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp và HCNN (hệ thống Chính phủ và chính quyền địa phương) Các đặc điểm của quản lý HCNN - Quản lý HCNN xã hội chủ nghĩa (XHCN) mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước. Khách thể quản lý phải phục tùng chủ thể quản lý một cách nghiêm túc. Nếu không thì phải truy cứu trách nhiệm và phải xử lý theo pháp luật một cách nghiêm minh, bình đẳng. - Quản lý HCNN là hoạt động có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Đặc điểm này đòi hỏi công tác quản lý hành chính phải có chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm. Có chỉ tiêu chủ yếu vừa mang tính định hướng, vừa mang tính pháp lệnh và có biện pháp cơ bản để tổ chức thực hiện các chỉ tiêu đó ở tầm vĩ mô là chủ yếu. - Quản lý HCNN có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền sản xuất xã hội và cuộc sống của con người trong địa bàn của mình theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền và theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. - Quản lý HCNN XHCN không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Cán bộ quản lý HCNN phải sâu sát dân, có tác phong quần chúng, liên hệ chặt chẽ và lắng nghe ý kiến của quần chúng, biết làm công tác vận động quần chúng tham gia thật sự rộng rãi vào công việc quản lý của Nhà nước và xã hội. - Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong tổ chức và trong hoạt động quản lý HCNN. Các quyết định của cơ quan và người lãnh đạo phải được tác động liên tục. Các văn bản, giấy tờ của dân, của Nhà nước phải được gìn giữ, lưu trữ: ngắn hạn, dài hạn, vĩnh viễn. Đây là đặc điểm rất quan trọng mang tính trách nhiệm của cơ quan HCNN đối với dân, với xã hội. 1.1.1.2 Nguyên tắc và phương pháp của quản lý HCNN xã hội chủ nghĩa Học viện hành chính Quốc gia; giáo trình về Quản lý hành chính Nhà nước Các nguyên tắc quản lý HCNN Nguyên tắc quản lý HCNN là tư tưởng chỉ đạo hành động, là ý thức hành vi của tổ chức và hoạt động quản lý HCNN của các cơ quan và viên chức quản lý HCNN trước thực tiễn xã hội đang vận động. Nguyên tắc quản lý HCNN luôn luôn phát triển bởi vì các hiện tượng chính trị - xã hội mà nguyên tắc phản ánh cũng như khả năng nhận thức của chúng ta luôn luôn phát triển. a 1. Nguyên tắc phù hợp giữa tổ chức với những yêu cầu của chức năng hành chính Bất kỳ một quốc gia nào cũng phải thiết lập bộ máy hành chính từ Chính phủ đến tất cả các cơ quan trong hệ thống tương ứng với chức năng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, an ninh…trong thời kỳ nhất định. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, trình độ xã hội hóa cao của nền sản xuất xã hội, sự phát triển của phân công lao động xã hội làm nảy sinh các ngành nghề mới xuất hiện các vấn đề xã hội mới, thúc đẩy sự biến đổi, phương thức hoạt động quản lý, trách nhiệm và thẩm quyền quản lý khiến chức năng và nhiệm vụ của Chính phủ phải mở rộng, các tổ chức hành chính phải được tăng cường và do đó các cơ quan hành chính cũng theo đó mà ra đời. a 2. Nguyên tắc hoàn chỉnh và thống nhất. Ở tất cả các nước dù là đơn nhất hay liên bang, chế độ tập quyền, tản quyền hay phân quyền thì Chính phủ cũng là cơ quan chấp hành và Hành chính cao nhất của Nhà nước. Nó là chủ thể hành chính cao nhất, dưới nó còn có cấp và phân hệ. Tổ chức hành chính ở các cấp, các ngành trong hệ thống hành chính là một thể thống nhất, hoàn chỉnh. Nội dung chủ yếu và thống nhất bao gồm: - Thống nhất mục tiêu hành chính. Các mục tiêu bộ phận phải dựa vào mục tiêu chung. Mục tiêu của cục bộ, của địa phương phải phục tùng mục tiêu chung của Chính phủ. - Thống nhất và hoàn chỉnh cơ cấu bộ máy. + Trong các tổ chức hành chính phải xác định các mối quan hệ lệ thuộc và chi phối lẫn nhau: quan hệ phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, quan hệ phục tùng của chính quyền địa phương đối với trung ương… + Chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền phải hoàn chỉnh, ăn khớp. + Tên gọi của các cơ quan cần phải thống nhất. - Phương thức lãnh đạo theo chế độ thẩm quyền chung và theo chế độ thẩm quyền riêng phải được quy định đầy đủ và thống nhất a 3. Nguyên tắc phân cấp quản lý Hệ thống các cơ quan HCNN ở trung ương là rất đồ sộ. Nó vừa phải hoàn chỉnh, thống nhất vừa phải thực hiện sự phân cấp. Phân cấp là giao trách nhiệm và quyền quản lý. Nó không có nghĩa là phân chia quyền lực. Quyền lực Nhà nước về hành pháp và hành chính là tập trung và thống nhất, được tiến hành thông qua một bộ máy tổ chức gồm 1 hệ thống cơ quan Trung ương và địa phương đủ các phân hệ. Tất cả các cơ quan hành chính dưới sự lãnh đạo của Chính phủ và Thủ tướng có quyền sáng tạo, chủ động và linh hoạt trong quản lý điều hành nhưng không được sai trái với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy HCNN. a 4. Nguyên tắc có chức trách phải có quyền hạn Đây là sự nhất trí giữa chức vụ, chức nhiệm và quyền hạn. Có chức vụ là có một chức năng rõ ràng trong bộ máy. Có trách nhiệm là có nhiệm vụ hành chính bắt buộc đối với chức vụ được giao. Có quyền hạn tức là có quyền xử lý công việc theo chức vụ tương ứng. Nếu chỉ có trách nhiệm mà không có quyền hạn, thì không thể phát huy hết trách nhiệm. Nếu chỉ có quyền hạn mà không có trách nhiệm thì sẽ dẫn đến sự lạm quyền. Muốn có sự nhất trí giữa chức vụ, trách nhiệm và quyền hạn thì phải dựa vào luật pháp, quy chế đã định. Nguyên tắc này chủ yếu phải được thực hiện ở mỗi viên chức mà trước hết là viên chức lãnh đạo. a 5. Nguyên tắc dân chủ hóa quản lý hành chính, huy động tính tích cực của con người. Nguyên tắc này đòi hỏi phải nêu cao dân chủ trong quá trình quản lý hành chính. Tổ chức hành chính không chỉ là sự tiếp thu mệnh lệnh một cách thụ động của cấp trên mà còn là sự phát huy trí tuệ một cách chủ động từ dưới lên. Tổ chức hành chính phải là một tập thể dân chủ, một cộng đồng trách nhiệm. Trong quá trình ra quyết định, các thủ trưởng cần lắng nghe ý kiến của quần chúng, thu hút quần chúng tham gia vào công việc quản lý, phát huy tính sáng tạo, tích cực của quần chúng để thực hiện các công việc quản lý hành chính. a 6. Nguyên tắc hiệu quả Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tổ chức và mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động và tổchức. Không nên đánh giá công tác của tổ chức hành chính bằng những việc đã làm trên lĩnh vực tổ chức mà đánh giá nó qua những thành quả nó đã đem lại. Một tổ chức sinh ra là phải hoạt động có hiệu quả nếu không sự tồn tại của nó là vô nghĩa. Phương pháp quản lý HCNN Phương pháp quản lý HCNN là các biện pháp điều hành để đảm bảo việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan và viên chức lãnh đạo trong các cơ quan quản lý HCNN. Các phương pháp quản lý HCNN mang tính quyền lực Nhà nước nên chúng phải phù hợp với pháp luật, phải tuân thủ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền. Ở mỗi cấp quản lý khác nhau thì phương pháp quản lý cũng khác nhau về nội dung, hình thức, trình tự thực hiện… Việc lựa chọn phương pháp nào hoặc kết hợp giữa các phương pháp như thế nào, sự vận dụng chúng một cách linh hoạt, sáng tạo là tùy thuộc vào điều kiện chủ quan và khách quan, trình độ, năng lực và nghệ thuật quản lý của người lãnh đạo nhưng nhất thiết không được trái với cơ chế quản lý hiện hành, với nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý HCNN. - Quản lý HCNN sử dụng 4 phương pháp chủ yếu: + Phương pháp giáo dục tư tưởng đạo đức Đây là phương pháp tác động về tinh thần và tư tưởng để họ giác ngộ lý tưởng, ý thức chính trị và pháp luật, nhận biết được xấu, tốt, thiện, ác…Ý thức đúng thì hành động có hiệu quả. Trên cơ sở đó họ có trách nhiệm, có kỷ luật, không vi phạm pháp luật, hăng hái lao động đem hết sức mình ra cống hiến. + Phương pháp kinh tế: Đây là biện pháp mà chủ thể quản lý Nhà nước tác động gián tiếp đến khách thể quản lý dựa trên các lợi ích vật chất và các đòn bẩy kinh tế (lương, thưởng, phụ cấp, chính sách xã hội…) để cho các khách thể quản lý vì lợi ích của mình sẽ tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mình một cách tốt nhất mà không phải đôn đốc nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách đúng đắn giữa 3 lợi ích: lợi ích của người lao động, lợi ích tập thể, lợi ích của Nhà nước. Trong 3 lợi ích này lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp, lợi ích của Nhà nước là tối cao. + Phương pháp hành chính: Đây là biện pháp tác động trực tiếp của chủ thể quản lý Nhà nước lên các khách thể bằng các mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc. Mệnh lệnh này có tính đơn phương thuộc chủ thể quản lý và tính chất chấp hành vô điều kiện của khách thể quản lý. Nhưng dân chủ và kỷ luật phải đi đôi cho nên quyết định của chủ thể được đưa ra sau khi đã thực hiện đã dân chủ hóa. Trong 4 phương pháp trên, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay thì phương pháp giáo dục tư tưởng và đạo đức được coi trọng hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Biện pháp tổ chức là hết sức quan trọng, có tính khẩn cấp. Phương pháp hành chính là rất cần thiết và khẩn trương nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn. Nền HCNN và các bộ phận cấu thànhĐinh nghĩa và đặc điểm của các yếu tố cấu thành Nền hành chính Nhà nước là một hệ thống tổ chức và định chế có chức năng thực hiện quyền hành pháp, tức là quản lý công việc công hàng ngày của nhà nước. Nó được tạo thành bởi hệ thống các pháp nhân công quyền và các tổ chức lệ thuộc vào nó, có thẩm quyền tổ chức và điều chỉnh mọi quá trình xã hội và hành vi của các tổ chức (chính trị, văn hóa, kinh tế…) của mọi công dân bằng các văn bản pháp quy thuộc quyền lập quy của quyền hành pháp, mục đích của nó là nhằm giữ gìn trật tự công và phục vụ lợi ích công và lợi ích của mỗi công dân một cách có hiệu quả. Nguyễn Duy Gia; “Giáo trình quản lý hành chính Nhà nước; Học viện hành chính Quốc gia Tóm lại: Nền HCNN là một bộ phận của bộ máy Nhà nước, mang tính chính trị của quyền hành pháp, thực thi quyền lực hành pháp bằng việc nghiên cứu, đề xướng, thực hiện những nhiệm vụ chính trị do cơ quan quyền lực cao nhất và cơ quan lập pháp (Quốc hội) quy định Nền hành chính được cấu thành bởi 4 yếu tố: Thể chế hành chính, bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ công chức và tài chính công. Hình 1.1: Sơ đồ các yếu tố cấu thành nền hành chính Đội ngũ cán bộ, công chức Hệ thống tổ chức bộ máy HC NN Tài chính công Thể chế của nền hành chính NN         Có thể dẫn một ví dụ đơn giản như sau: Vận hành của nền HCNN ví như một chiếc xe đang chạy trên đường.          Thứ nhất, hệ thống thể chế hành chính ví như con đường nó bao gồm: chất lượng con đường, các chỉ dẫn , biển báo, đèn tín hiệu, hệ thống cầu vượt...mục đích là hướng dẫn người điều khiển xe tham gia giao thông thông suốt, đảm bảo trật tự, kỷ cương, đúng luật.     Thứ hai, bộ máy hành chính ví như chiếc xe nó bao gồm hệ thống máy móc, cơ chế vận hành, tính năng, tác dụng và trạng  thái kỹ thuật....-> máy móc tốt xe chạy tốt;        Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức ví như tài xế, nó đòi hỏi tay nghề, sức khoẻ, đạo đức, chấp hành luật giao thông....-> tài xế giỏi thì xe chạy an toàn, không gây tai nạn, sự cố.    Thứ tư, tài chính công ví như xăng dầu nó đòi hỏi cung cấp đúng, đủ chủng loại xăng dầu đảm bảo cho xe chạy đi đến nơi về đến chốn....mục tiêu là tiết kiệm, hiệu quả. Như vậy, để có một nền hành chính hoạt động có hiệu quả, hiệu lực và hiện đại thì việc đổi mới và cải cách là điều cần thiết để đáp ứng những yêu cầu mà thực tế đặt ra. Cải cách nền HCNN Hiểu một cách đơn giản Cải cách là thay đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách bao gồm tập hợp của nhiều cải tiến, sáng kiến, biến đổi… Cải cách hành chính: là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền HCNN (thể chế, cơ cấu tổ chức, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức…) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại. Thang Văn Phúc; Cải cách hành chính Nhà nước: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp; Chính trị Quốc gia Tóm lại CCHC là sự thay đổi có kế hoạch nền HCNN phù hợp với tình hình mới. Với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước ta xác định CCHC phải được tiến hành toàn diện trên 4 nội dung: Chương trình cải cách tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 * Cải cách thể chế hành chính: Thể chế ở đây được hiểu là một hệ thống pháp luật để tạo khung pháp lý cho bộ máy hành chính nền công vụ. Cải cách thể chế nhằm vào hai mục tiêu chính là hoàn thiện nền dân chủ, bảo đảm các quyền con người và quyền công dân trong thực tiễn cuộc sống và trong quan hệ hàng ngày giữa Nhà nước và nhân dân theo quy định của Hiến pháp và các đạo luật. Mặt khác, nó nhằm thúc đẩy và phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách kinh tế và tài chính. Một trong các nội dung chính của cải cách thể chế hành chính chính là cải cách TTHC, đây được coi là khâu đột phá của CCHC nhằm cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và các chủ thể khác nhau trong xã hội và các công dân, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nước ngoài và bảo đảm sự phát triển kinh tế. * Cải cách tổ chức bộ máy: nhằm làm cho nó trở nên thích ứng hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Bộ máy hành chính Nhà nước phải tập trung chủ yếu vào quản lý kinh tế vĩ mô (quy hoạch chiến lược phát triển, xây dựng chính sách, pháp luật…) đảm bảo an toàn, ổn định chính trị, an ninh và chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường, củng cố an ninh quốc phòng và thi hành đúng đắn chính sách đối ngoại. * Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho ngang tầm nhiệm vụ mới. Ngày nay, nguồn nhân lực (con người) được thừa nhận là trung tâm của toàn bộ hệ thống chính trị của bộ máy Nhà nước, của nền hành chính và của toàn bộ quá trình phát triển. Với nhận thức như vậy, công cuộc đổi mới nói chung của cả nước và CCHC nói riêng đặt ra yêu cầu rất lớn đối với con người. Nền hành chính hiện đại và cải cách đòi hỏi đội ngũ công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức cao, có trình độ kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp ngày càng tinh xảo. * Cải cách tài chính công: Đây là nội dung cơ bản thứ tư mà CCHC tập trung giải quyết. Trên thực tế thì nền hành chính Nhà nước là nơi chi tiêu những khoản ngân sách khổng lồ cho các hoạt động và chương trình của nó. Do vậy, mục tiêu quan trọng là nhằm cải tiến hệ thống quản lý tài chính để tăng cường nguồn thu, thực hiện chi tiêu của nhà nước một cách có hiệu quả cao hơn về chi phí và có thêm vốn để đầu tư vào các dự án phát triển mới nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, công cuộc cải cách hành chính đòi hỏi tất cả các bộ phận cấu thành nền HCNN đều phải có những bước chuyển biến tích cực cho phù hợp với tình hình mới. Trong khuôn khổ bài viết của mình em chỉ đề cập tới vấn đề cải cách TTHC theo cơ chế một cửa trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một trong những biện pháp để thúc đẩy cải cách hành chính, góp phần làm thay đổi căn bản phương thức điều hành và hoạt động của các cơ quan HCNN. Thủ tục hành chính và sự cần thiết phải cải cách thủ tục hành chính Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục hành chính * Khái niệm: Để giải quyết một công việc nhất định đều cần có những thủ tục phù hợp. Theo nghĩa thông thường, thủ tục có nghĩa là phương cách giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể thống nhất. Cũng có thể hiểu thủ tục là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định chung phải tuân theo khi làm việc công. Hoạt động quản lý Nhà nước được thể hiện qua các chính sách quản lý Nhà nước đó là những quy phạm pháp lý để hướng dẫn hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý hoạt động của con người. Để cụ thể hóa những quy phạm pháp lý này, thủ tục là loại kế hoạch qui định trình tự, cách thức khi sử dụng thẩm quyền của từng cơ quan để giải quyết công việc. Khoa học pháp lý gọi đó là những quy phạm thủ tục, quy phạm này gồm các bộ phận: Thủ tục lập pháp, thủ tục tố tụng tư pháp và thủ tục hành chính. Thủ tục lập pháp là thủ tục làm Hiến pháp và làm luật. Thủ tục tố tụng tư pháp là thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự, định tội, được thực hiện bởi các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử…Còn thủ tục hành chính là thủ tục thực hiện thẩm quyền trong hoạt động HCNN. Thủ tục hành chính (TTHC) là một loại quy phạm pháp luật qui định về trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan HCNN trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân. Học viện hành chính Quốc gia; những vấn đề cơ bản về thủ tục hành chính; NXB Giáo dục TTHC được đặt ra để các cơ quan Nhà nước có thể thực hiện mọi hình thức hoạt động cần thiết của mình trong đó bao gồm cả trình tự thành lập các công sở, trình tự bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động viên chức, trình tự lập quy, áp dụng quy phạm để đảm bảo các quyền của chủ thể và xử lý vi phạm, trình tự điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp hành chính. Đó chính là các quy tắc phải tuân thủ theo trong quá trình ra các quyết định hành chính của các cơ quan quản lý Nhà nước. TTHC là một bộ phận chế định của Luật hành chính. Nói cách khác, TTHC là một loại hình quy phạm mang tính công cụ để giúp các cơ quan Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng của mình. TTHC do các cơ quan Nhà nước ban hành để thực thi Hiến pháp và pháp luật nhằm thực hiện chức năng quản lý của nền HCNN và hoàn thành nhiệm vụ của mình, đồng thời các cơ quan HCNN có trách nhiệm thực thi các thủ tục đó. * Đặc điểm của TTHC Nguyễn Văn Thâm; Thủ tục hành chính: Lý luận và thực tiễn; Chính trị Quốc gia Từ việc xây dựng và vận dụng các thủ tục hành chính có thể thấy một số đặc điểm chung như sau: Trước hết, là tổng thể các hành động diễn ra theo trình tự thời gian, TTHC được thực hiện bởi những cơ quan và công chức nhà nước. Thứ hai, TTHC là thủ tục giải quyết công việc nội bộ Nhà nước và công việc liên quan đến quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của công dân. Do vậy, đối tượng công việc cần thực hiện thường rất phức tạp. Thứ ba, quản lý HCNN chủ yếu là hoạt động cho phép ra mệnh lệnh có tính chất đơn phương và đòi hỏi thi hành kịp thời nhằm giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả mọi công việc diễn ra hằng ngày trong đời sống xã hội. Chính điều đó dẫn đến việc quy định TTHC phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tương đối và chặt chẽ với các biện pháp thích ứng cho từng loại công việc và đối tượng để đảm bảo kịp thời giải quyết công việc theo từng trường hợp cụ thể. Thứ tư, nền hành chính hiện nay đang chuyển từ hành chính cai quản (hành chính đơn thuần) sang hành chính phục vụ, làm dịch vụ cho xã hội, từ quản lý tập trung sang cơ chế thị trường làm cho hoạt động quản lý hành chính đa dạng về nội dung và phong phú, uyển chuyển về hình thức, biện pháp đồng thời đối tượng quản lý của nó là xã hội dân sự cũng muôn hình, muôn vẻ. Nó không chỉ thuộc phạm vi nội bộ nước ta mà còn liên quan đến các yếu tố nước ngoài. Do đặc điểm này mà TTHC hiện nay rất đa dạng và phức tạp. Thứ năm, hoạt động HCNN chủ yếu thực hiện tại văn phòng của công sở Nhà nước và phương tiện truyền đạt quyết định cũng như các thông tin quản lý phần lớn là văn bản (công văn, giấy tờ). Vì thế nó gắn chặt với công tác văn thư, với việc tổ chức ban hành, sử dụng và quản lý văn bản trong các cơ quan Nhà nước. * Ý nghĩa của thủ tục hành chính Thứ nhất, TTHC đảm bảo cho các quy phạm quy định trong các quyết định hành chính được thi hành thuận lợi. Thủ tục càng có tính cơ bản thì ý nghĩa càng lớn bởi vì các thủ tục cơ bản thường tác động đến giai đoạn cuối cùng của quyết định hành chính, đến hiệu quả của việc thực hiện chúng. Thứ hai, TTHC đảm bảo cho việc thi hành các quyết định được thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như các hệ quả do việc thực hiện các quy định hành chính tạo ra. Thứ ba, TTHC khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ tạo khả năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua, đem lại hiệu quả thiết thực cho quản lý Nhà nước. TTHC liên quan đến quyền lợi của công dân do vậy khi được xây dựng và vận dụng tốt vào đời sống sẽ có ý nghĩa rất thiết thực, giảm sự phiền hà, củng cố được quan hệ giữa Nhà nước và dân. Thứ tư, TTHC cũng là một bộ phận của pháp luật về hành chính nên việc xây dựng và thực hiện tốt các TTHC sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình xây dựng và triển khai pháp luật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang tiếp tục công cuộc cải cách nền HCNN và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thì TTHC lại càng có vai trò quan trọng. Nhìn một cách tổng quát, TTHC có ý nghĩa như một chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan Nhà nước với dân, với các tổ chức khác. Chiếc cầu nối này có khả năng làm bền chặt các mối quan hệ, làm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhưng nếu xây dựng thiếu tính k._.hoa học, áp dụng tùy tiện vào đời sống thì chính TTHC sẽ làm xa cách dân với Nhà nước và hậu quả của nó là làm niềm tin của người dân với chính quyền tiếp tục bị giảm sút. TTHC trên một phương diện nhất định là sự biểu hiện trình độ văn hóa của tổ chức. Đây là văn hóa giao tiếp trong bộ máy Nhà nước, văn hóa điều hành. Nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển. Chính vì lẽ đó, cải cách TTHC sẽ không chỉ đơn thuần liên quan đến pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta mà còn liên quan đến sự phát triển chung của đất nước về các mặt chính trị, văn hóa, giáo dục và sự mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Phân loại các TTHC Kinh nghiệm thực tế của nước ta cũng như nhiều nước khác cho thấy muốn xây dựng và áp dụng TTHC một cách có hiệu quả thì cần phải phân loại chúng một cách có khoa học a. Phân loại theo đối tượng quản lý HCNN Theo cách phân loại này các TTHC được xác định cho từng lĩnh vực quản lý Nhà nước và được phân chia theo cơ cấu chức năng của bộ máy quản lý hiện hành như: thủ tục trong xây dựng cơ bản, thủ tục trước bạ, thủ tục trong hoạt động đăng ký kế hoạch… Lợi ích của việc phân chia này là giúp người quản lý xác định được tính đặc thù của lĩnh vực mà mình phụ trách. Từ đó mà đề ra yêu cầu xây dựng cho lĩnh vực này những TTHC cần thiết, thích hợp, nhằm quản lý tốt các nhiệm vụ đặt ra theo mục tiêu của nhà nước quy định. b. Phân loại theo các loại hình công việc cụ thể mà các cơ quan Nhà nước được giao thực hiện trong quá trình hoạt động của mình Cách phân loại này đơn giản, có khả năng áp dụng rộng rãi. Ví dụ: Thủ tục thông qua và ban hành văn bản pháp quy Thủ tục xét phong đơn vị và cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua. Thủ tục tuyển dụng cán bộ… Trong mỗi loại hình trên có thể phân chia thành các loại thủ tục liên quan đến những hoạt động cụ thể hơn. Ví dụ: - Thủ tục ban hành văn bản có thể có: Thủ tục ban hành quyết định hành chính Thủ tục thông qua một báo cáo… - Thủ tục tuyển dụng cán bộ có thể có: Tuyển cán bộ kỹ thuật Tuyển cán bộ quản lý … Thực tế cho thấy cách phân loại này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng bởi lẽ nó có thể giúp người thừa hành công vụ và những người thi hành các thủ tục hành chính trong thực tế định hướng theo công việc dễ dàng và chính xác hơn. c. Phân loại theo chức năng hoạt động của các cơ quan Cách này thường được áp dụng trong các cơ quan có chức năng quản lý chuyên môn. Ví dụ: - Thủ tục cung cấp các dịch vụ thông tin. - Thủ tục cho phép xuất khẩu các nguyên liệu hiếm - Thủ tục kiểm tra mức độ an toàn lao động… Cách phân loại này cũng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng như cách phân loại TTHC theo các loại hình công việc cụ thể. Nó giúp các nhà quản lý khi giải quyết công việc chung có liên quan đến các tổ chức khác hoặc công dân, tìm được các hình thức giải quyết thích hợp theo đúng chức năng quản lý Nhà nước của cơ quan mình. d. Phân loại dựa trên quan hệ công tác Đây là cách phân loại được xây dựng trên cơ sở xem xét các quan hệ trong hoạt động của các cơ quan thuộc bộ máy quản lý Nhà nước, theo cách phân loại này có thể phân chia TTHC làm 3 nhóm: - TTHC nội bộ: Thủ tục thực hiện các công việc nội bộ trong cơ quan, công sở nhà nước, trong hệ thống cơ quan Nhà nước và trong bộ máy Nhà nước nói chung. Nó bao gồm các thủ tục quan hệ lãnh đạo, kiểm tra của cơ quan Nhà nước cấp trên đối với cấp dưới, quan hệ hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp, ngang cấp ngang quyền. - Thủ tục thực hiện thẩm quyền: Thủ tục tiến hành giải quyết các công việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phòng ngừa, ngăn chặn, xử phạt các hành vi vi phạm hành chính, trưng mua, trưng thu các động sản và bất động sản của công dân và của tổ chức. TTHC kể trên có đặc điểm cơ bản là cơ quan hành chính và viên chức Nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền lực Nhà nước bằng hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết các công việc, tình huống cụ thể. - Thủ tục văn thư: Toàn bộ các hoạt động lưu trữ, xử lý, cung cấp các loại giấy tờ và đưa ra các quyết định dưới hình thức văn bản liên quan chặt chẽ với hoạt động văn thư, tạo thành thủ tục văn thư trong hoạt động HCNN. Do mọi cơ quan đều hoạt động trong những mối quan hệ nhất định và ảnh hưởng lẫn nhau nên việc phân loại TTHC theo các quan hệ đó là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tế quan trọng, có thể áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại quá nhiều các loại thủ tục ở nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí có nhiều loại không cần thiết. Điều đó dẫn đến cản trở hoạt động của nền hành chính cũng như hoạt động của các ngành, lĩnh vực liên quan, kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước. Một yêu cầu cấp thiết được đặt ra đó là phải rà soát, loại bỏ bớt các loại thủ tục không cần thiết cũng như đổi mới quy trình giải quyết các TTHC, nói cách khác đó chính là cải cách TTHC. Sự cần thiết phải cải cách TTHC ở Việt Nam Hiện nay cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trên thế giới đang phát triển hết sức mạnh mẽ, thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt, tính thời cơ nảy sinh qua cạnh tranh là rất mạnh. Có những quyết sách kịp thời và đúng đắn, có hiệu quả hành chính cao thì mới chớp được những thời cơ tốt và chiến thắng trong cạnh tranh. Vì thế không ngừng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính là nhiệm vụ chiến lược bức bách và gay gắt. Trước sự phát triển của nhu cầu và sự gia tăng của khối lượng công vụ, nền hành chính bắt buộc phải được cải cách. Quản lý hành chính của bất cứ nước nào cũng đều đụng đến ba vấn đề cốt lõi: tổ chức, nhân sự và thủ tục điều hành. Tổ chức có hợp lý, nhân viên có được sử dụng đúng khả năng và tiêu chuẩn, thủ tục điều hành có đơn giản thì quản lý mới hiệu quả. Quản lý hành chính được thực hiện bằng một loạt hành động nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định, tức là chúng diễn ra theo một thủ tục nhất định. Những thủ tục hữu hiệu là rất cần thiết vì nó đảm bảo cho tiến trình hành chính không bị phá rối hoặc cản trở. Mối quan hệ giữa tổ chức, nhân sự và thủ tục là mối quan hệ biện chứng: muốn tổ chức hợp lý phải có viên chức đủ khả năng và đúng tiêu chuẩn cũng như thủ tục điều hành rõ ràng, đơn giản. Ngược lại, thủ tục rườm rà sẽ dẫn đến phình to tổ chức, thêm nhiều tầng nấc, viên chức có thêm cơ hội dựa vào uy quyền của Nhà nước để hạch sách gây khó khăn cho nhân dân, làm giảm uy tín của chính quyền, vì người dân thường nhìn chính quyền qua các mối quan hệ qua lại giữa họ với các viên chức Nhà nước. Bộ máy Nhà nước dù có những cán bộ giỏi đi chăng nữa cũng không đương đầu nổi với những khuyết điểm căn bản về thủ tục. Hiện tượng các cơ quan đùn đẩy trách nhiệm cho nhau khi giải quyết công việc, thái độ thiếu tôn trọng nhân dân, cửa quyền, ban ơn thậm chí sách nhiễu, đòi hối lộ chính là vì TTHC do nhiều ngành, nhiều cấp đặt ra một cách tùy tiện, vừa thiếu tính đồng bộ, vừa rườm rà phức tạp. Những điều nói trên cho thấy vai trò quan trọng của TTHC. Một thực tế diễn ra ở Việt Nam đó là có quá nhiều các loại thủ tục với các tầng nấc khác nhau mà thủ tục nào cũng rườm rà, sách nhiễu. Để giải quyết một công việc nào đó người dân phải tốn không biết bao thời gian, sức lực thậm chí tiền của mới có được. Chính những thủ tục rườm rà ấy lại góp phần tạo điều kiện cho một bộ phận cán bộ công chức nhà nước có cơ hội để “hành dân”, khiến cho nhân dân mất lòng tin vào chính quyền. Vì vậy, Nghị quyết 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ đã khẳng định: cải cách TTHC là đòi hỏi bức xúc, đáp ứng yêu cầu chính đáng của nhân dân. Đây cũng là một nội dung quan trọng của cải cách một bước nền hành chính quốc gia. Mặt khác, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhiều nguy cơ và thử thách. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của đất nước, có rất nhiều lĩnh vực mới ra đời, nhu cầu của người dân ngày càng tăng, các loại TTHC cũng như quy trình giải quyết các loại cũ vốn đã quá rườm rà, phức tạp nay lại càng không phù hợp. Muốn thu hút đầu tư, muốn phát triển đất nước thì TTHC càng phải đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý, chặt chẽ và đầy đủ. Với tất cả điều đó cải cách TTHC ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Đại hội đại biểu Đảng cộng sản lần thứ IX (tháng 4/2001) đã đưa ra chương trình CCHC Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010. Trong đó chỉ rõ phải đẩy mạnh cải cách TTHC bằng các giải pháp: - Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực, xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch, giám định nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. - Mẫu hóa thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân hoặc doanh nghiệp cần phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc về sản xuất, kinh doanh và đời sống. - Ban hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc của dân; xử lý nghiêm người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm; khen thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. - Quy định cụ thể và rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ. Việc xác định quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ phải đi liền với việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức. - Thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức ở các cơ quan HCNN các cấp. Cơ quan hành chính các cấp có trách nhiệm giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy đủ mọi thủ tục, trình tự, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc. Việc thực hiện cơ chế “Một cửa” được coi là một trong những biệp pháp mang tính đột phá trong việc cải cách TTHC. Vậy cơ chế “Một cửa” là gì? Cơ chế một cửa Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc thực hiện Khái niệm Cơ chế "Một cửa" là phương thức giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan HCNN từ tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ đến trả lại kết quả thông qua một đầu mối là “bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại cơ quan HCNN. Quyết định 181/QĐ-TTg về việc thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính Nhà nước Đặc điểm * Cơ chế “một cửa” được thực hiện trong các lĩnh vực sau : 1. Tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: phê duyệt các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài, xét duyệt cấp vốn xây dựng cơ bản, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất, cho thuê đất, giải quyết chính sách xã hội. 2. Tại quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc cấp tỉnh : cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh cá thể, cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất, đăng ký hộ khẩu, công chứng và chính sách xã hội. 3. Tại xã, phường, thị trấn : xây dựng nhà ở, đất đai, hộ tịch, chứng thực. c. Nguyên tắc *Cơ chế “một cửa” được thực hiện theo các nguyên tắc sau : 1. Thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật. 2. Công khai các thủ tục hành chính, phí, lệ phí và thời gian giải quyết công việc của tổ chức, công dân. 3. Nhận yêu cầu và trả kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. 4. Việc phối hợp giữa các bộ phận có liên quan để giải quyết công việc của tổ chức, công dân là trách nhiệm của cơ quan HCNN. 5. Bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện cho tổ chức, công dân. Mục đích của việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa Việc thực hiện cơ chế “một cửa” nhằm đạt được bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan HCNN với tổ chức, công dân, giảm phiền hà cho tổ chức, công dân, chống tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền của cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Đây là biện pháp nhằm đơn giản, công khai thủ tục hành chính; mẫu hóa thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân hoặc doanh nghiệp cần phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc về sản xuất, kinh doanh và đời sống, bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện cho tổ chức, công dân. Lợi ích của việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa Sau hơn 5 năm thực hiện, từ năm 2003 đến nay, cơ chế "một cửa" đã trở thành một trong những giải pháp hữu hiệu đẩy nhanh tiến trình cải cách thủ tục hành chính, tạo bước chuyển căn bản về việc đơn giản và minh bạch hoá trong mối quan hệ giữa cơ quan HCNN với tổ chức và công dân. + Rút ngắn quy trình xử lý hồ sơ. Các qui định về TTHC được công khai, minh bạch hóa, giảm đáng kể thời gian chờ đợi cho người dân, doanh nghiệp. + Giảm bớt gánh nặng cho cán bộ lãnh đạo cơ quan hành chính để họ tập trung vào các vấn đề mang tính chiến lược. + Giảm tối đa sự phiền hà cho tổ chức, công dân, góp phần chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức; tạo lòng tin của người dân đối với mọi cơ quan nhà nước, chuyển dần từ cơ chế xin - cho sang cơ chế phục vụ + Nâng cao chất lượng phục vụ của cơ quan nhà nước, đảm bảo hạnh phúc cho nhân dân, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển + Tạo thuận lợi để người dân tham gia giám sát và xây dựng chính quyền.  Yêu cầu đối với việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa 1.3.4.1 Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm túc Xuất phát từ yêu cầu thực tế, nền hành chính nước nhà cần phải thay đổi để phù hợp với sự phát triển của đất nước, hiện đại hơn và hội nhập kinh tế quốc tế. Yêu cầu căn bản của áp dụng cơ chế "một cửa" là tập trung giải quyết hồ sơ công việc tại một đầu mối của cơ quan hành chính. Cơ chế này làm cho thủ tục thực hiện công việc gọn hơn, khắc phục tình trạng công dân khi phát sinh một việc phải giao dịch với nhiều bộ phận, nhiều nấc trong thực hiện các nghĩa vụ cũng như tiếp xúc với cơ quan chức năng Nhà nước. Như vậy khi giao dịch công việc với cơ quan chức năng theo cơ chế này, công dân chỉ phải làm thủ tục, nộp các loại hồ sơ cũng như nhận kết quả tại duy nhất một bộ phận của cơ quan hành chính theo quy định thống nhất. 1.3.4.2 Yêu cầu đối với việc triển khai 1. Thủ trưởng các đơn vị ban hành Quy chế làm việc quy định quy trình chuyển hồ sơ, xử lý, trình ký, trả lại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả; trách nhiệm của các bộ phận có liên quan trong thực hiện cơ chế "một cửa"; trách nhiệm của cán bộ, công chức làm việc ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. Lê Anh Sắc; Hướng dẫn thực hiện cơ chế một cửa trong các cơ quan hành chính Nhà nước; NXB Hà Nội 2. Niêm yết công khai các quy định, thủ tục hành chính, phí, lệ phí và thời gian giải quyết các loại công việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. 3. Bố trí cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả : là những cán bộ, công chức có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt, có khả năng giao tiếp với tổ chức, công dân. Cán bộ, công chức làm việc ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả phải đeo thẻ cán bộ, công chức, ghi rõ họ tên, chức danh. Trên bàn làm việc của cán bộ, công chức phải có bảng ghi rõ giải quyết loại công việc gì, ví dụ về đất đai, xây dựng, công chứng hoặc đăng ký kinh doanh ... 4. Bố trí phòng làm việc của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cách thích hợp, đủ điều kiện làm việc. 5. Tập huấn về nghiệp vụ và cách giao tiếp cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm việc ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. 6. Có các hình thức thông báo, tuyên truyền thích hợp để tổ chức, công dân biết về hoạt động theo cơ chế “một cửa” tại địa phương. Do đặc thù và nhiệm vụ của từng ngành, việc tổ chức đầu mối một cửa tại từng cơ quan là khác nhau và theo các phương án thích hợp. Đặc biệt, giao dịch của một số ngành như: Địa chính, Hải quan, Công an, Thuế, Kế hoạch và Đầu tư... với các tổ chức, cá nhân là rất thường xuyên và bao gồm nhiều loại hồ sơ khác nhau như hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ cấp đăng ký sử dụng tài sản, tờ khai thuế, hồ sơ hoàn thuế, các đề nghị, khiếu nại, công văn v.v. Đây là những hồ sơ quan trọng làm căn cứ để quản lý thực hiện quyền lợi cũng như nghĩa vụ với Nhà nước của các tổ chức và cá nhân. Chính điều đó đặt ra yêu cầu "khắt khe" cho bộ phận tiếp nhận và xử lý ban đầu tại các cơ quan này. Tổ chức bộ phận "một cửa" như thế nào, cơ cấu con người ra sao; phối hợp luân chuyển hồ sơ, công việc giữa các bộ phận trong cơ quan cùng cấp và giữa cấp trên với cấp dưới được quy định cụ thể như thế nào đòi hỏi trước hết người lãnh đạo đơn vị phải tính đến và tổ chức giải quyết một cách thỏa đáng. Một điểm cần nhấn mạnh là để thực hiện cơ chế "một cửa", vấn đề đồng bộ trong tổ chức các bộ phận nghiệp vụ như: quy định rõ các chức năng, trách nhiệm phối hợp công tác, thời gian giải quyết cụ thể ... tại một cơ quan là quan trọng, bởi nếu không sẽ thiếu hiệu quả hay dễ sinh ách tắc trong xử lý công việc ... Cũng cần tránh cách làm hình thức: áp dụng cơ chế "một cửa" nhưng không đồng bộ nên, gây tốn kém và tâm lý không tốt cho người giao dịch. 1.3.4.3 Yêu cầu đối với cán bộ, công chức Vận dụng cơ chế "một cửa", vấn đề năng lực của cán bộ nói chung là rất quan trọng, đặt ra như một yêu cầu đầu tiên để tăng cường và củng cố. Đặc biệt năng lực của bộ phận xử lý công việc tại "một cửa" càng phải được quan tâm. Sắp xếp cán bộ ở đây phải phù hợp với xử lý công việc thực tế. Có thể nói, cán bộ phụ trách bộ phận này cũng như những người xử lý công việc ở đây được coi là "bộ mặt" của một cơ quan. Họ phải có năng lực tổng hợp, nắm bao quát chính sách, nhạy bén và có trách nhiệm cao với các công việc đảm nhận. Đồng thời cán bộ ở đây cũng phải có kỹ năng giao tiếp hiện đại và có kiến thức cơ bản về khoa học tâm lý. Có thể nói đây là điểm yếu của nhiều cơ quan hành chính trong quá trình chuyển đổi cơ chế, khi thay đổi quan niệm giữa công dân và cơ quan HCNN theo hướng "thân thiện" hơn. Thực tế hiện nay nhiều nơi đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu này. Điều đó đòi hỏi cần thiết nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác tại bộ phận "một cửa" nói riêng. Chẳng hạn, nếu người phụ trách bộ phận "một cửa" không nắm chắc thực chất một công việc phải xử lý thì quá trình hỗ trợ hay tư vấn, trả lời văn bản cho tổ chức, cá nhân có liên quan sẽ dễ chồng chèo hoặc mất nhiều thời gian không theo mong muốn. Tương tự như vậy, nếu máy móc xử lý công việc theo kiểu một cửa nhưng cách tổ chức vẫn qua nhiều bộ phận, nhiều bước xử lý đằng sau mà không căn cứ sát thực tế để vận dụng thì sẽ thiếu hiệu quả và có thể rườm rà hơn trước. Cũng phải nói rằng việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa là không máy móc nhất nhất theo một "mô típ" mà có thể vận dụng cụ thể cho từng nơi, từng cấp của ngành, địa phương. Tất cả việc vận dụng đều phải đạt một yêu cầu đầu tiên là: hiệu quả, thiết thực, tiến bộ. Qui trình giải quyết Qui trình giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa” gồm 3 bước: Quyết định của UBND Thành phố về việc thực hiện cơ chế một cửa tại các cơ quan hành chính TP Hà Nội Bước 1: Công chức tại “ Bộ phận tiếp nhận hồ sơ hành chính” xem xét hồ sơ yêu cầu giải quyết TTHC của công dân, tổ chức. Nếu hồ sơ đã đầy đủ theo quy định thì viết giấy biên nhận và hẹn ngày trả kết quả. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ thì phải hướng dẫn cụ thể để tổ chức, công dân bổ sung, hoàn chỉnh. Trường hợp yêu cầu của tổ chức, công dân không thuộc phạm vi giải quyết thì hướng dẫn để tổ chức, công dân đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Đối với những TTHC có yếu tố chuyên môn kinh tế - kỹ thuật phức tạp cần phải giải trình trước cơ quan có thẩm quyền giải quyết, cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải thông báo bằng văn bản cho công dân, tổ chức biết nội dung, thời gian, địa điểm giải trình những vấn đề đó. Thời gian gửi thông báo phải đủ để công dân, tổ chức nhận được và chuẩn bị giải trình. Bước 2: Công chức tại “Bộ phận tiếp nhận hồ sơ hành chính” chuyển hồ sơ TTHC đến phòng chuyên môn để giải quyết. Các phòng chuyên môn nghiên cứu hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, sau đó chuyển về bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để trả kết quả theo đúng thời hạn quy định. Bước 3: “Bộ phận tiếp nhận hồ sơ hành chính” nhận kết quả giải quyết hồ sơ, lưu trữ kết quả giải quyết, thu phí, lệ phí theo quy định, trả kết qủa cho tổ chức, công dân theo đúng hạn đã hẹn. Trường hợp giải quyết hồ sơ không đúng hạn như đã hẹn thì “Bộ phận tiếp nhận hồ sơ hành chính” có trách nhiệm thông báo cho tổ chức, công dân biết lý do và hẹn lại thời gian trả kết quả. Trên đây là hệ thống cơ sở lý luận về quản lý hành chính Nhà nước, nền HCNN và cải cách nền HHNN cũng như TTHC và việc cải cách TTHC theo cơ chế “một cửa”. Tất cả mới chỉ là trên lý thuyết còn việc áp dụng vào thực tế như thế nào thì chúng ta hãy xem xét việc thực hiện cơ chế một cửa tại Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội (Sở TNMT&NĐ). Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI SỞ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG VÀ NHÀ ĐẤT HÀ NỘI 2.1 Khái quát về quá trình hình thành và hoạt động của Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà nội. Tổng quan về Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà nội Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà Nội trước 1995 là Sở Quản lý ruộng đất trải qua các lần đổi tên: - Từ năm 1995 – 1999: Sở Địa chính. - Từ năm 2000 – 2003: Sở Địa chính – Nhà đất. Đến năm 2003 UBND Thành phố Hà Nội quyết định hợp nhất sở Địa chính – Nhà đất Hà Nội và các tổ chức thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường thành Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội là cơ quan chuyên môn giúp UBND Thành phố thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc, bản đồ, quản lý nhà ở và công sở trên địa bàn thành phố Hà Nội. Website Sở Tài ngyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà Nội chịu sự chỉ đạo trực tiếp của UBND Thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo, quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và các Bộ, Ngành có liên quan; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trụ sở cơ quan đặt tại: 18 Đường Huỳnh Thúc Kháng, quận Đống Đa, thành Phố Hà Nội. Các lĩnh vực quản lý - Quản lý tài nguyên đất: xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước và khí tượng thủy văn ở Thành phố Hà Nội - Quản lý nhà nước về môi trường: tham mưu cho thành phố các chính sách, biện pháp bảo vệ môi trường ở Hà Nội. Phối hợp với các ngành, các cấp hướng dẫn, tuyên truyền giáo dục công dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường ở Hà Nội. - Quản lý đo đạc bản đồ: Thực hiện công tác quản lý các hoạt động đo đạc bản đồ trên địa bàn Hà Nội, theo dõi, giám sát, kiểm tra việc xuất bản, phát hành các sản phẩm bản đồ trên địa bàn thành phố - Quản lý nhà ở công sở: Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nhà ở, công thự, trụ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước do thành phố quản lý. Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở TNMT&NĐHN Giám đốc cơ sở Phó giám đốc 4 Phó giám đốc 3 Phó giám đốc 2 Phó giám đốc 1 Văn phòng Đăng ký Đất và Nhà Hà Nội Ban Quản lý Dự án các Công trình Địa chính Thanh tra Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Ban 61/ CP Phòng Quản lý Môi trường Khí tượng và Thủy văn Phòng Quản lý Tài nguyên và Đầu tư Phòng Quản lý Địa chính Nhà đất Phòng Tổ Chức Hành Chính Phòng Đăng kí Thống kê và Đo đạc Bản đồ Phòng chính sách Đắt và Nhà Phòng Kế hoạch Tổng hợp Trung tâm Quan trắc và phân tích Tài nguyên Môi trường Trung tâm Giao dịch Bất động sản Ban Quản lý Dự án thuộc nguồn vốn ngân sách cấp Nguồn:” Wesite Sở TNMT&NĐHN Các phòng, Ban chuyên môn nghiệp vụ + Phòng Tổ chức hành chính (gồm cả bộ phận tài chính kế toán). + Phòng Kế hoạch - Tổng hợp. + Phòng Chính sách Đất và Nhà. + Phòng quản lý môi trường khí tượng thủy văn. + Phòng Quản lý Địa chính - Nhà đất. + Phòng Thanh tra . + Phòng đăng ký, thống kê đo đạc bản đồ + Phòng quản lý tài nguyên và đầu tư Ngoài các phòng chuyên môn nghiệp vụ nói trên, Sở còn có một số Ban nghiệp vụ để giải quyết các công việc có liên quan đến công tác tiếp nhận và bán nhà, cấp Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và sử dụng đất ở tại đô thị, quản lý các dự án thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên ngành... + Ban 61/CP, thực hiện giải quyết các công việc có liên quan đến công tác tiếp nhận và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước theo Nghị định 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ. + Ban quản lý dự án các công trình địa chính, thực hiện các dự án đầu tư về công tác đo đạc và bản đồ cho Thành phố. Các đơn vị trực thuộc khác: + Văn phòng Đăng ký Đất và Nhà Hà Nội + Ban quản lý dự án thuộc nguồn vốn Ngân sách đầu tư xây dựng nhà ở, thực hiện các dự án theo chính sách phát triển nhà ở của Thành phố. + Quỹ bảo vệ môi trường + Công ty quản lý và phát triển + Trung tâm quan trắc và phân tích tài nguyên môi trường Các loại TTHC tại Sở TNMT & NĐ Hà Nội Với 4 lĩnh vực là quản lý tài nguyên đất, quản lý Nhà nước về môi trường, quản lý đo đạc bản đồ, quản lý nhà ở công sở. Các TTHC tại Sở Tài nguyên môi trường và Nhà đất Hà Nội rất đa dạng. Sau khi đã rà soát, điều chỉnh và xây dựng lại từ 63 thủ tục nay chỉ còn 30 TTHC liên quan đến các lĩnh vực quản lý và giải quyết của Sở đó là: 1. Thủ tục cấp phép khảo sát khoáng sản: 2. Thủ tục về cấp phép thăm dò khoáng sản 3. Thủ tục xin phê duyệt trữ lượng khoáng sản 4. Thủ tục về cấp phép khai thác khoáng sản 5. Thủ tục cấp phép chế biến khoáng sản 6. Thủ tục thỏa thuận, cấp phép thăm dò nguồn nước 7. Thủ tục cấp phép, kha thác nước, xả nước thải vào nguồn nước 8. Thủ tục cấp phép hành nghề khoan nước dưới đất. 9. Thẩm định Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, thẩm định và phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường và Báo cáo đánh giá tác động môi trường bỏ sung 10. Xác nhận việc thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Báo cáo tác động môi trường bổ sung. 11. Cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện bảo vệ môi trường trong kinh doanh hóa chất 12. Thủ tục hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, ký hơp đồng thuê đất, bàn giao mốc giới và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 13. Chuyển nhượng, đăng kiểm hợp đồng thuê nhà ở của Nhà nước 14. Cấp phép xây dựng, cải tạo nhà, thuộc nhà thuê của Nhà nước 15. Chuyển đổi công năng sử dụng nhà thuê của Nhà nước 16. Bán nhà cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Hà Nội. 17. Bàn giao tiếp nhận quỹ nhà ở phục vụ di dân giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố 18. Bán nhà chung cư tại các dự án phát triển nhà 19. Bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước 20. Hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước cách mạng tháng 8/1945 cải thiện nhà ở 21. Tiếp nhận nhà do cơ quan tự quản chuyển giao 22. Xác lập quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã thực hiện các chính sách quản lý nhà đất trước ngày 10/07/1991 23. Thủ tục đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở 24. Thủ tục đăng ký hoàn thành nghĩa vụ tài chính 25. Thủ tục thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà. 26. Thủ tục đính chính sai sót trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quỳên sử dụng đất ở. 27. Trình tự thủ tục đăng ký nhà mới xây 28. Trìng tự thủ tục hợp thức chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. 29. Thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. 30. Trình tự giải quyết khiếu nai tố cáo, tranh chấp về tài nguyên, môi trường và nhà đất. 2.1.3 TTHC tại Sở TNMT&NĐ trước khi áp dụng cơ chế “một Trước khi thực hiện cơ chế “một cửa” tức từ năm 2003 trở về trước, các loại TTHC tại sở TNMT&NĐ được nộp tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, sau đó lãnh đạo xem xét và phân về các phòng chức năng giải quyết. Khi công dân đến họ sẽ được biết hồ sơ của mình hiện đang ở phòng ban nào và đến trực tiếp phòng ban đó để liên hệ giải quyết. Ví dụ: Hồ sơ đăng ký và cấp phép hoạt động đo đạc & bản đồ do phòng Đăng ký thống kê và đo đạc bản đồ phụ trách, các thủ tục thuộc lĩnh vực Môi trường do phòng Quản lý Môi trường khí tượng và thủy văn phụ trách, các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về tài nguyên, môi trường và nhà đất do phòng Thanh tra phụ trách. Cứ như thế tất cả có 63 phòng ban phụ trách các lĩnh vực khác nhau. Đến lúc này họ mới được biết để được giải quyết thì hồ sơ của họ cần những giấy tờ gì, lại quay về để bổ sung các giấy tờ cần thiết. Hồ sơ đã đầy đủ họ mới được hẹn ngày trả hồ sơ. Đến hạn nhận kết quả nhưng vẫn chưa chắc đã lấy được vì không có quy định cụ thể là phải giải quyết trong bao nhiêu ngày. Việc làm này đã dẫn đến một số bất cập: * Đối với công dân và các tổ chức: - Người dân không rõ nên tới đâu? gặp ai? Thủ tục gồm những giấy tờ gì, mất bao nhiêu thời gian, chi phí khoảng bao nhiêu? - Người dân phải đi lại nhiều lần, đến nhiều phòng ban, gây mất thời gian và công sức mà vẫn không được việc. * Đối với Sở TNMT&NĐ - Cán bộ các phòng ban vừa phải tiếp nhận hồ sơ vừa giải quyết, lại vừa phải trả lời các thắc mắc của người dân, trong khi số lượng hồ sơ cần giải quyết ngày càng tăng khiến cho nhiều hồ sơ không được giải quyết đúng thời hạn đã định. - Tình trạng dân chạy ngược, chạy xuôi giữa các phong ban trong Sở lo giấy tờ, thủ tục rất mất mỹ quan. - Do có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các tổ chức, công dân với cán bộ thụ lý hồ sơ nên dễ nảy sinh tiêu cực. - Việc kiểm tra, kiểm soát của lãnh đạo Sở cũng gặp khó khăn vì có quá nhiều đầu mối → không thể đôn đốc, nhắc nhở kịp thời. Do đặc thù của ngành Địa chính – Nhà đất cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng công tác quản lý đất – nhà ngày càng trở nên phức tạp với khối lượng thông công việc ngày càng lớn. Thêm vào đó ngày 04/9/2003 Chính phủ ban hành Quyết định 181 về việc thực hiện cơ chế “một cửa” trong các cơ quan hành chính Nhà nước là nguyên nhâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12254.doc
Tài liệu liên quan