Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước tại Thành phố Nha Trang

36 MỤC LỤC Trang Mở đầu .................................................................................................................. 1 Chương 1. Tổng quan về cổ phần hóa ................................................................ 3 1.1. Lý luận về công ty cổ phần. ...................................................................... 3 1.1.1. Công ty cổ phần. ............................................................................. 3 1.1.1.1. Khái niệm .............

pdf73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước tại Thành phố Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................................................ 3 1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên TTCK............... 3 1.1.2. Cổ phần. ......................................................................................... 7 1.1.3. Cổ đông. ......................................................................................... 7 1.1.4. Cổ phiếu. ......................................................................................... 7 1.1.5. Cổ tức. ............................................................................................. 7 1.2. Lý luận về cổ phần hóa. ............................................................................ 7 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa .................................................................... 7 1.2.2. Phân loại. ......................................................................................... 8 1.2.3. Đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam. ............................................... 9 1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. ........................................................................................... 10 1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội. ....................... 10 1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho doanh nghiệp. ............ 12 1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động. ................ 13 1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới. ...................... 14 1.3.1. Hungary ........................................................................................... 16 1.3.2. Nga .................................................................................................. 17 1.3.3. Trung Quốc ...................................................................................... 17 Kết luận chương 1. .................................................................................. 22 Chương 2. Thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. ................................... 23 2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. ............................. 23 37 2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam. ............. 23 2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. ..................... 24 2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang.…27 2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. ............................ 27 2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. ...................................... 29 2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. .......................... 29 2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa. ......................................................... 29 a. Những kết quả đạt được. ................................................................. 29 b. Những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã gặp phải….. 33 2.2.2.1.2. Sau cổ phần hóa. ............................................................. 34 a. Những kết quả đạt được................................................................... 34 b. Những mặt còn hạn chế ................................................................... 40 c. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp......... 41 2.2.2.2. Những vướng mắc đối với các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa. ....................................................... 44 Kết luận chương 2. ................................................................................... 47 Chương 3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. ................................... 49 3.1. Chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Nha Trang. .............................................................................................................. 49 3.2. Các căn cứ đề xuất giải pháp. .................................................................. 49 3.3. Đề xuất một số giải pháp. ........................................................................ 49 3.3.1. Nhóm giải pháp vi mô. .................................................................... 49 3.3.1.1. Về việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. ............. 50 3.3.1.2. Công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp. ................. 53 3.3.1.3. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các công ty sau cổ phần hóa. ...................................................... 54 3.3.1.4. Phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động. .................................................. 57 38 3.3.1.5. Đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất. .................... 59 3.3.1.6. Đối mới kỹ thuật- công nghệ. ............................................. 60 3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. ....................................................................................... 61 3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô. ................................................................... 62 3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH........ 62 3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN....... 64 3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình cổ phần hóa. .......................................................................... 67 3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa. ............................................................................... 67 3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp .. 69 3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK . 70 Kết luận chương 3. ................................................................................... 71 Kết luận. ................................................................................................................ 73 Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 75 Phụ lục .................................................................................................................. 77 39 MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi quốc gia đều muốn tạo cho mình một tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ để làm đòn bẩy nâng mình lên một vị thế mới, một tầm cao mới so với khu vực và thế giới. Trước những sức ép như vậy, đổi mới thực sự là sự lựa chọn duy nhất giúp Việt Nam thoát khỏi cơ chế tập trung bao cấp và từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường năng động, nhạy bén hơn. Bên cạnh những nỗ lực hoàn thiện ngày càng tốt hơn các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và tạo lập một môi trường đầu tư thông thoáng, cũng như ra sức phát triển mạnh TTCK trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế... nhằm xây dựng cho mình một chỗ đứng trong khu vực và thế giới; với chính sách mở cửa thị trường, thúc đẩy cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế và cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ thì việc tiến hành cổ phần hóa là thật sự cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, từ đó đưa kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tại Hội nghị TW lần thứ 2 khoá VII (1991) đã đề ra chủ trương cổ phần hóa DNNN. Đây được coi là cột mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy về quản lý kinh tế và cơ cấu sở hữu trong hệ thống doanh nghiệp. Từ thời gian đó đến nay, nhiều quy định và chính sách đã ra đời có sửa đổi như NĐ 27/CP, NĐ 64/CP, NĐ 187/CP để nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới DNNN. Thực tế, qua những năm thực hiện, cổ phần hóa đã thật sự tạo ra động lực giúp các doanh nghiệp phát triển có hiệu quả hơn, theo đó quan hệ sản xuất không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất; thúc đẩy cạnh tranh và tăng cường hợp tác cùng phát triển giữa các doanh nghiệp. Không những vậy, cổ phần hóa còn góp phần phát triển TTCK - một yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Chính vì nhận thức được những lợi ích của cổ phần hóa, từ năm 1998 Nha Trang cũng đã bắt đầu thực hiện CPH và đạt được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ thì vẫn còn có quá nhiều rào cản, vướng mắc khiến cho các DNNN lo ngại CPH, 40 thậm chí một số DNNN nhận thức được tầm quan trọng của CPH và mong muốn được tiến hành CPH doanh nghiệp mình nhưng chính những khó khăn, vướng mắc này lại khiến họ nản lòng, và bối rối trong cách giải quyết, xử lý. Chính những điều này là tác nhân làm chậm tốc độ cổ phần hóa của thành phố Nha Trang, từ đó ảnh hưởng đến tiến trình CPH chung của cả nước. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập WTO thì vấn đề cổ phần hóa DNNN càng phải được thực hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn, càng khó khăn càng phải cần có sự quyết tâm, đồng thuận cao từ trên xuống dưới. Để tháo gỡ những khúc mắc này thì việc nghiên cứu thực trạng cổ phần hóa và đề xuất “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN TẠI THÀNH PHỐ NHA TRANG” được quan tâm tìm hiểu, để từ đó có thể đẩy nhanh “cỗ xe” CPH DNNN tại thành phố này nói riêng và Việt Nam nói chung. Đó cũng chính là nội dung chính của đề tài này. Mục tiêu bao quát của luận văn là đánh giá thực trạng hiệu quả CPH các DNNN ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tp. Nha Trang nói riêng; xác định những hạn chế, vướng mắc trong quá trình CPH; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện thành công và có hiệu quả công cuộc CPH DNNN ở tp. Nha Trang. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, đề tài đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến tình hình CPH DNNN ở Việt Nam; tập trung phân tích và đánh giá tác động của CPH đến hiệu quả hoạt động của các DNNN trước và sau khi tiến hành CPH diễn ra trên địa bàn tp. Nha Trang; trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp để CPH DNNN đạt hiệu quả cao hơn. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp phân tích định tính và định lượng, so sánh, phân nhóm dựa vào các biểu bảng thống kê kết hợp với phương pháp thống kê thông qua bảng câu hỏi. Nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương, chương 1 trình bày tổng quan về cổ phần hóa, chương 2 phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa các DNNN ở thành phố Nha Trang, chương 3 đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả CPH các DNNN tại tp. Nha Trang. 41 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA 1.1. Lý luận về công ty cổ phần: 1.1.1. Công ty cổ phần: 1.1.1.1. Khái niệm: Theo giáo trình luật kinh tế của đại học luật Hà Nội thì công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Theo luật doanh nghiệp thì công ty cổ phần được hiểu là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ của công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán: Có hai nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán là: cổ phiếu và trái phiếu. Cổ phiếu: Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần trong một công ty, thể hiện sự sở hữu một phần công ty đó. Giá trị cổ phần của công ty được phản ánh thông qua giá cổ phiếu trên TTCK. Thông thường, giá cổ phiếu sẽ đi lên khi công ty làm ăn phát đạt và ngược lại. Cổ phiếu trên sàn là cổ phiếu đã được niêm yết và giao dịch trên TTCK. Cổ phiếu ngoài sàn (OTC) là cổ phiếu không đủ điều kiện để niêm yết hoặc 42 đủ điều kiện nhưng chưa niêm yết trên TTCK. Cổ phiếu trên sàn thường đã qua chọn lọc, các thông tin tương đối minh bạch và đầy đủ hơn so với cổ phiếu ngoài sàn. Ưu điểm: - Đối với công ty: + Giúp công ty cổ phần có quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần. + Công ty có thể huy động một lượng vốn lớn hơn rất nhiều vốn điều lệ của công ty và tài sản hiện có mà không cần phải cầm cố, thế chấp bất kỳ tài sản nào. + Giá trị của công ty sẽ tăng lên rất nhiều nếu nhà đầu tư đánh giá cao về triển vọng phát triển và kỳ vọng về tương lai của công ty nên họ sẵn sàng mua cổ phiếu dù có thể hiện giờ công ty chưa phát triển. + Nguồn vốn huy động bằng hình thức phát hành cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ... thì hoàn toàn ngược lại. + Tùy vào chính sách cổ tức của công ty mà công ty có thể chi trả cổ tức cho cổ đông hoặc giữ lại cổ tức để tiếp tục đầu tư nhằm gia tăng giá trị của công ty trong tương lai. - Đối với nhà đầu tư: + Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần. + Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty. + Các cổ đông được quyền tham gia quản lý, kiểm soát, điều hành công ty thông qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong Ban Quản Lý, Ban Kiểm Soát và Ban Điều Hành. 43 + Cổ đông được quyền hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra dưới dạng cổ tức cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ góp vốn. - Đối với TTCK: việc phát hành cổ phiếu trở thành nguồn cung và làm đa dạng lượng hàng hoá cho TTCK, kích thích TTCK sôi động hơn. Chính điều này lại tác động hiệu quả giúp công ty dễ dàng hơn trong việc huy động vốn. Nhược điểm: - Nhược điểm lớn nhất là phải chia sẻ thu nhập và quyền kiểm soát công ty cho các cổ đông mới, pha loãng quyền kiểm soát công ty, dễ bị các thế lực bên ngoài thâu tóm. - Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế công ty phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của nhà nước. - Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chánh của công ty bị hạn chế do phải công khai và báo cáo với các cổ đông của công ty. - Sức ép cho công ty phải kinh doanh có hiệu quả khi phát hành cổ phiếu để huy động vốn hơn các hình thức huy động vốn khác là một trở ngại khiến các công ty chưa mặn mà với việc huy động vốn trên TTCK. - Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng (điều kiện phát hành còn cao, thủ tục phát hành phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát hành chứng khoán...) - Lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại quá cao (khoảng 15%/năm) cao hơn lãi suất từ ngân hàng hiện nay (khoảng 10,8%/năm) nên huy động vốn trên TTCK là "khá đắt" và khó thực hiện. - Để huy động vốn trên TTCK các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng. Trái phiếu: Trái phiếu là một khoản vay giữa nhà đầu tư (người cho vay) với nhà phát hành (người đi vay). Nhà phát hành là các công ty cần huy động vốn để đầu tư phát 44 triển kinh doanh. Trái phiếu thường có kỳ hạn cố định. Khi đến hạn, nhà phát hành sẽ hoàn trả tiền gốc. Tiền lãi sẽ được trả định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Trái phiếu niêm yết có thể được tự do mua bán trên TTCK. Ưu điểm: - Đối với công ty: + Công ty có thể huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu để hoạt động kinh doanh. + So với vay ngân hàng, vay thông qua phát hành trái phiếu là cách thức vay trực tiếp, do đó chi phí sử dụng vốn rẻ hơn. + Đồng thời hình thức vay này giúp doanh nghiệp chủ động hơn và có thể vay với khối lượng lớn hơn vay ngân hàng. + Công ty phát hành xác định được số tiền phải trả cho trái chủ đến ngày đáo hạn để đầu tư vào những dự án có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. + Không phải chia sẻ quyền quản lý cho các trái chủ. - Đối với nhà đầu tư: + Phù hợp với nhà đầu tư không thích rủi ro. Họ nhận được thu nhập định kỳ với mức lãi suất được ấn định ngay từ khi phát hành mà không phụ thuộc kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành. + Trái phiếu thường có mức độ rủi ro thấp hơn nên giá cũng ít biến động hơn. Trong môi trường lạm phát thấp và trong trường hợp thị trường chứng khoán biến động, đầu tư vào trái phiếu để có thể duy trì nguồn thu nhập ổn định mà vẫn đảm bảo được sự an toàn của vốn đầu tư. Nhược điểm: - Nguồn vốn huy động bằng hình thức phát hành trái phiếu cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ tăng lên. - Các tiêu chí phát hành không được quy định rõ ràng - Thiếu thông tin vì một số doanh nghiệp không đưa trái phiếu lên niêm yết do ngại các thủ tục công bố thông tin. 45 - Chưa có tổ chức định mức tín nhiệm (CRA) - Các quy định điều chỉnh việc chào bán riêng lẻ không đầy đủ - Hệ thống giao dịch trái phiếu không đồng bộ. - Nhà đầu tư không có quyền được chia lợi nhuận và tham dự vào các quyết định của công ty. 1.1.2. Cổ phần: Cổ phần chính là số vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau. Như vậy, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Giá trị mỗi cổ phần (mệnh giá cổ phần) do công ty quyềt định và ghi vào cổ phiếu. Cổ phần của CTCP có thể tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm các loại sau: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định. 1.1.3. Cổ đông: Cổ đông có thể được hiểu là những cá nhân, pháp nhân sở hữu cổ phần của công ty. Bao gồm cổ đông phổ thông là người sở hữu cổ phần phổ thông và cổ đông ưu đãi là người sở hữu cổ phần ưu đãi. 1.1.4. Cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác định quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. 1.1.5. Cổ tức: Là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ phần. 1.2. Lý luận về cổ phần hóa: 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa: Hiện nay khi đề cập đến vấn đề cổ phần hóa, nhiều người nhầm tưởng rằng CPH chỉ là cổ phần hóa DNNN. Đó là một thiếu sót, vì thật ra CPH là một thuật 46 ngữ chung để nói về việc cổ phần hóa các DNNN và các loại doanh nghiệp khác như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp tư nhân. Từ nhận thức trên, chúng ta có khái niệm về cổ phần hóa như sau: ¾ Cổ phần hóa là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ dạng chưa là công ty cổ phần thành công ty cổ phần. ¾ Cổ phần hóa còn là một thuật ngữ để biểu đạt quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần thuộc sở hữu của các pháp nhân và thể nhân (gọi tắt là cổ đông) đã bỏ tiền ra mua cổ phiếu của DNNN đó. 1.2.2. Phân loại: Trên thế giới hiện nay có 2 loại hình cổ phần hóa: Một là, cổ phần hóa DNNN : Ban đầu, theo QĐ 143/HĐBT (l0-5-1990) và QĐ 202/CT (4-3-1993) thì cổ phần hoá DNNN được hiểu là quá trình chuyển một số DNNN đáp ứng các điều kiện như: có quy mô vừa và nhỏ; kinh doanh có lãi hoặc triển vọng có lãi; Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần bằng cách giữ nguyên giá trị sở hữu của Nhà nước, phát hành cổ phiếu mới thu hút vốn hoặc bán một phần tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho cá nhân và pháp nhân trong và ngoài doanh nghiệp. Đối tượng được ưu tiên mua cổ phiếu là người lao động trong doanh nghiệp, DNNN khác, hạn chế bán cổ phiếu cho tư nhân trong nước và người nước ngoài Theo khái niệm trên thì đối tượng được góp vốn, mua cổ phần đã bị giới hạn lại làm hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp cũng như có sự phân biệt đối xử giữa những người lao động trong DNNN được cổ phần hoá và trong các DNNN khác với tư nhân trong nước và người nước ngoài. Vì vậy, khái niệm này đã được điều chỉnh. Theo đó, cổ phần hoá DNNN được coi là một thuật ngữ để biểu đạt một quá trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, trong đó vốn của nó do nhiều thành viên góp vào được gọi là cổ đông. Các cổ đông này có thể là pháp nhân 47 hay thể nhân. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần. Hai là, cổ phần hóa các loại hình doanh nghiệp khác: Bên cạnh cổ phần hoá DNNN thì còn cần phải cổ phần hoá các loại doanh nghiệp khác như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp tư nhân. 1.2.3. Đặc trưng cổ phần hoá ở Việt Nam: Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam là một yêu cầu bức xúc từ thực tế và được hình thành từ những thử nghiệm thực tiễn chứ không phải ứng dụng một một cách sao chép mô hình lý thuyết từ nước ngoài. Chính vì vậy, cổ phần hoá ở Việt Nam với những nét đặc trưng sau : Thứ nhất, mục đích của cổ phần hóa Việt Nam không phải là để tư nhân hóa càng nhanh càng tốt các cơ sở kinh tế thuộc sở hữu nhà nước để làm giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước, mà nhằm huy động vốn cho doanh nghiệp vì chính số tiền từ việc bán cổ phần lại được nhà nước tiếp tục đầu tư vào DNNN. Thứ hai, mục đích khác của cổ phần hóa nhằm cơ cấu lại hệ thống DNNN bằng cách du nhập hình thức công ty cổ phần hỗn hợp sở hữu nhà nước và tư nhân. Như vậy, một mặt sẽ giảm bớt vốn của nhà nước ở các lĩnh vực mà hình thức kinh tế tư bản nhà nước với sự kết hợp vai trò kiểm soát của nhà nước với các yếu tố quản lý và lao động tích cực của cá nhân tốt hơn hình thức doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước, mặt khác thành phần kinh tế nhà nước có thể mạnh hơn, kiểm soát được phạm vi rộng hơn mà không cần tăng vốn đầu tư của nhà nước. Với mục đích này, mặc dù có một phần tài sản chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân, song mục đích lại không hoàn toàn giống tư nhân hóa ở các nước TBCN. Thứ ba, ngoài ra mục đích của cổ phần hóa còn nhằm tạo điều kiện cho người lao động làm chủ và giúp doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động hiệu quả bằng những phương châm, hình thức cổ phần hóa cũng như chính sách ưu đãi đối với nguời lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hơn là mục đích chuyển 48 giao DNNN cho tư nhân. Chính vì vậy, Việt Nam không chủ trương giao bán DNNN càng nhanh càng tốt mà kiên trì con đường cổ phần hóa DNNN. Tính đặc thù của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam một mặt cho thấy xu hướng giữ vững bản chất XHCN trong các cải cách kinh tế của nhà nước, nhưng mặt khác lại khó khăn trong việc học hỏi kinh nghiệm từ các nước đi trước cũng như không tự vạch ra được một chương trình hoàn thiện ngay từ đầu nhằm đạt tới sự thống nhất trong cả quá trình cổ phần hóa. 1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam: 1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội: - Thúc đẩy TTCK phát triển: Tăng cung cho TTCK: Thông qua CPH, một lượng chứng khoán lớn sẽ được cung cấp làm tăng lượng và đa dạng hàng hoá cho TTCK, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Kích cầu cho TTCK: Bên cạnh việc cổ phần hoá DNNN, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số NHTM quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân ... sẽ cung cấp cho TTCK rất nhiều loại chứng khoán với mức độ rủi ro và lợi nhuận khác nhau, đáp ứng mọi sở thích của nhà đầu tư. Từ đó kích thích các nhà đầu tư quan tâm hơn đến chứng khoán, cả nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, cả những nhà đầu tư sành sỏi lẫn những nhà đầu tư chưa từng tham gia. Vì vậy, cổ phần hóa sẽ góp phần thúc đẩy hình thành và mở rộng TTCK. Như ta biết thì TTCK có vai trò rất quan trọng đối với xã hội, kích thích xã hội phát triển như: 9 TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm có hiệu quả vào công cuộc đầu tư. 9 TTCK là công cụ huy động vốn hiệu quả, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 9 TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát. 9 TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết và đảm bảo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. 49 9 Thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. - Xoá bỏ tình trạng vô chủ của các doanh nghiệp: Thông qua cổ phần hóa, DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Vì vậy, người chủ trước đây là Nhà nước nay đã trở thành những cổ đông, quyền lợi của họ gắn liền với các quyết định đầu tư, các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hay nói cách khác là phụ thuộc vào sự thành bại của doanh nghiệp. Những điều này khiến họ tích cực, hăng say làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, tránh tình trạng thờ ơ, vô trách nhiệm, thay đổi lối suy nghĩ tài sản này là của Nhà nước chứ không phải là của mình. Bên cạnh đó, vì có sự tham gia kiểm tra, giám sát của các cổ đông vào hoạt động của công ty nên các tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí sẽ bị phát hiện và xoá bỏ, đồng thời thúc đẩy công ty làm ăn phát đạt. - Nộp thuế nhiều hơn cho ngân sách Nhà nước: Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã làm ăn có hiệu quả hơn làm cho doanh thu và lợi nhuận tăng lên, vì vậy mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước cũng tăng lên, cụ thể là các doanh nghiệp phải nộp thuế theo quy định, còn các cổ đông cũng phải nộp thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của Nhà nước. - Cơ cấu lại hệ thống DNNN: Bằng cách du nhập hình thức công ty cổ phần hoá hỗn hợp sở hữu nhà nước và tư nhân nhằm cơ cấu lại hệ thống DNNN, một mặt sẽ giảm bớt vốn của Nhà nước ở các lĩnh vực mà hình thức kinh tế tư bản Nhà nước với vai trò kiểm soát của Nhà nước kết hợp yếu tố quản lý, mặt khác lao động tích cực của cá nhân tốt hơn hình thức doanh nghiệp 100% sở hữu Nhà nước. Chính vì vậy, thành phần kinh tế Nhà nước có thể mạnh hơn, kiểm soát được phạm vi rộng hơn mà không cần tăng vốn đầu tư của Nhà nước. - Tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết thất nghiệp: Doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả sẽ mở rộng phạm vi hoạt động, đầu tư thêm nhiều dự án mới. Do đó nhu cầu lao động sẽ tăng lên, cần thu hút thêm lao động. Từ đó, nhiều người sẽ có việc làm, giảm được những tệ nạn 50 xã hội, giúp Nhà nước tiết kiệm chi phí để giải quyết và xoá bỏ các tệ nạn đó, đồng thời đóng góp cho xã hội nhiều của cải hơn. 1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hoá đem lại cho doanh nghiệp: Cổ phần hóa là giải pháp cơ bản sắp xếp lại DNNN được thể hiện như: - Doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, tự chủ tự chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật, hạch toán kinh doanh thực sự. - Giúp doanh nghiệp xây dựng một cơ chế quản lý năng động, hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Cơ chế quản lý ở công ty cổ phần về cơ bản được đổi mới; đặc biệt, ban kiểm soát do đại hội cổ đông bầu có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty cổ phần. Tổ chức bộ máy của công ty cổ phần được sắp xếp lại gọn nhẹ, năng động, khu vực hành chính được giảm tối đa. ở nhiều công ty cổ phần, số cán bộ gián tiếp chỉ còn chiếm 7% - 8% tổng số lao động trong công ty. Vấn đề chi tiêu trong công ty cổ phần được giám sát chặt chẽ, giảm tối đa những khoản chi lãng phí. Mọi khoản chi và mức chi trong công ty đều phải công khai, do đại hội cổ đông và hội đồng quản trị quyết định. Nhờ công khai, dân chủ, nên giá cả nguyên vật liệu, thiết bị và dịch vụ đầu vào và bán thành phẩm đầu ra được kiểm soát chặt chẽ, tránh được các hiện tượng thỏa thuận tăng giá "đầu vào", giảm giá "đầu ra" để thu lợi bất chính... - Tài chính của doanh nghiệp được lành mạnh hơn một bước, doanh nghiệp sẽ cơ cấu lại các khoản nợ, xử lý tài sản, vật tư, hàng hoá tồn kho lâu ngày, kém phẩm chất, máy móc thiết bị không dùng, hạch toán vào chi phí kinh doanh, giảm vốn Nhà nước hoặc bán cho công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp. - Góp phần rõ rệt vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đối với chứng khoán của công ty. 51 - Sau khi CPH, các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Như vậy, doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn dành cho các dự án đầu tư phát triển, mở rộng quy mô. - Tập hợp trí tuệ tập thể trong quản lý và sản xuất. - Xác định rõ người chủ đích thực của công ty chính là các cổ đông (Nhà nước, các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp và người lao động). - Các DNNN khi thực hiện cổ phần hóa đã sắp xếp lại lao động một cách cơ bản theo chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa DNNN. Doanh nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát triển khá vững chắc, năng suất lao động, chất lượng._. sản phẩm được nâng lên rõ rệt. 1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động (những người lao động sở hữu chứng khoán của công ty): - Tạo điều kiện cho người lao động làm chủ và thấy được vai trò làm chủ của mình. Trên cơ sở đó, người lao động làm việc tích cực hơn và có hiệu quả hơn. Nhờ vậy, năng suất lao động sẽ được tăng lên, tiết kiệm chi phí góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động: Sau khi chuyển thành công ty cổ phần, nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy động được vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nên công ty tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lao động hơn cả số lao động đã nghỉ trước đó. - Tiền lương và thu nhập của người lao động được bảo đảm: Thu nhập của người lao động tại doanh nghiệp sau cổ phần hóa tăng đáng kể so với trước, bình quân 12%, chưa kể thu nhập có được từ cổ tức. Ngoài ra, người lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần, hằng năm còn được nhận cổ tức từ phần vốn cổ phần mà họ có trong công ty. Mức cổ tức bình quân của các công ty cổ phần cao gấp 2 - 3 lần lãi suất ngân hàng. 52 - Quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động là cổ đông được bảo đảm. Trong công ty cổ phần, người lao động là cổ đông không những có quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động mà còn có quyền và nghĩa vụ của cổ đông, đó là quyền được bầu cử, ứng cử tại đại hội cổ đông, quyền biểu quyết, quyền được hưởng cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, quyền chất vấn, phê bình, kiến nghị về công việc của hội đồng quản trị, giám đốc và kiểm soát viên về hoạt động của công ty. Nhóm cổ đông đại diện cho 25% vốn điều lệ được yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông bất thường khi có dấu hiệu không lành mạnh về hoạt động tài chính của giám đốc, thành viên hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Đây chính là những yếu tố quan trọng làm tăng tiền lương và thu nhập của người lao động. - Chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa DNNN được người lao động hoan nghênh, đón nhận tích cực vì: Đối với những người lao động với nhiều lý do khác nhau không đáp ứng được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh sẽ được giải quyết phù hợp như nghỉ chờ hưu, đào tạo lại ... Đối với những người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh nghiệp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ cảm thấy phấn khởi và yên tâm, vì được bảo lưu chế độ bảo hiểm xã hội, được tạo điều kiện để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi làm việc ở các doanh nghiệp khác thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, với nhóm đối tượng lao động dôi dư đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ 15 năm đến dưới 20 năm, nhưng vì tuổi cao (nam trên 55, nữ trên 50) không có cơ hội tìm việc làm mới, được tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ tuổi hưu để hưởng chế độ hưu trí. 1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới: Ngay từ đầu những thập niên 80, quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu các DNNN đã diễn ra mạnh mẽ và sôi động đầu tiên ở nước Anh sau đó lan rộng sang nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trước hết, các quốc gia đều xác định cho mình mục tiêu chính của việc thực hiện CPH DNNN. Đó là: nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Hơn nữa, vừa giảm thiểu số DNNN làm ăn thua 53 lỗ, vừa tối đa hoá các đơn vị làm ăn có lãi và các khoản thu cho Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, chính phủ các nước có thể chuyển một số lĩnh vực ngành nghề mà các khu vực kinh tế khác có thể đảm nhận, giảm thâm hụt ngân sách, cân đối khả năng thanh toán nợ nước ngoài và phát triển thị trường vốn trong nước. Tiếp theo, các quốc gia đều quan tâm đến việc tổ chức bộ máy chỉ đạo. Bộ máy này có thể là Bộ Tài chính hay Bộ Ngân khố, hoặc thành lập riêng một bộ chuyên trách chỉ đạo việc thực hiện CPH những DNNN có đủ điều kiện và chịu trách nhiệm nắm giữ cổ phần của Nhà nước ở các DNNN chuyển đổi sở hữu thông qua một số cơ quan quản lý tài sản hoặc công ty tài chính của Nhà nước. Việc xác định tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp chuyển đổi cũng là một trong các yếu tố được các quốc gia tiến hành cổ phần hoá quan tâm. Có hai tiêu chí đó là: Quy mô và lĩnh vực thị trường. Về quy mô: phải nói đến Mêxico vì họ đã thành công trong việc tiến hành chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và cạnh tranh hiệu quả. Một trong những lý do thành công là họ đã học tập được những kinh nghiệm quý báu từ việc bán các doanh nghiệp nhỏ, từ đó giảm thiểu được rủi ro. Về lĩnh vực thị trường: các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có thị trường đang và sẽ hoạt động tốt thường được ưu tiên cải cách trước, sau đó là đến những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có khó khăn hơn về thị trường, cuối cùng mới đến những lĩnh vực mà trước đây Nhà nước cần độc quyền hoặc tư nhân chưa có đủ điều kiện để tham gia. Thực tế có rất nhiều phương pháp đánh giá và định giá doanh nghiệp nhưng phương pháp tốt nhất là để thị trường quyết định giá bán thông qua đấu thầu, nhất là các doanh nghiệp nhỏ. Đối với những doanh nghiệp lớn, việc xác định giá bán doanh nghiệp thường được thực hiện bằng nhiều phương pháp như: phương pháp xác định theo giá thành tài sản, phương pháp giá trị tài sản thuần, phương pháp thu nhập, phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp thặng dư, phương pháp đấu giá, phương pháp dòng tiền chiết khấu. Theo đó sẽ tổ chức đấu thầu và đấu giá trên thị trường. 54 Về cơ bản, có 3 hình thức phát hành cổ phiếu tại các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu: a. Nhà nước giữ lại một phần để giữ vai trò chi phối hoặc tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu chính đặt ra khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. b. Bán một phần giá trị doanh nghiệp để thực hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước cho người lao động trong doanh nghiệp. Đây là hướng ưu tiên giải quyết của các nước như: Ba lan. Croatia, Ucraina. Nhiều nước như Achentina, Chilê, Ba lan, Pakistan và Sri Lanka đã dành 5-20% cổ phần cho công nhân viên doanh nghiệp với giá giảm và được cấp tín dụng với điều kiện thuận lợi. c. Một phần được bán cho các đối tượng bên ngoài (gồm các nhà đầu tư nước ngoài) thông qua các công ty quản lý tài chính, quỹ tài sản nhà nước hay các công ty tài chính và công ty chứng khoán. Đây là hướng ưu tiên của các nước như Hungary, Albania. Cụ thể là kinh nghiệm của Hungary, Nga và Trung Quốc: 1.3.1. Hungary: Vấn đề cổ phần hoá và đa dạng hoá các hình thức sở hữu DNNN ở Hungary đã được chính phủ phát động mạnh ngay từ những năm đầu thập niên 90. Để thực hiện chủ trương cổ phần hoá, chính phủ đã thành lập cơ quan cổ phần hoá và sở hữu cổ phần hóa do một bộ trưởng chỉ đạo. Cơ quan này sẽ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cổ phần hóa, đồng thời thẩm tra giá trị doanh nghiệp để đưa ra đấu thầu và tổ chức đầu thầu các doanh nghiệp cổ phần hóa. Cuối cùng sẽ giải quyết những hậu quả sau khi thực hiện cổ phần hóa như vấn đề quyền lợi cho người lao động, giải quyết trợ cấp cho những người không có khả năng làm việc....Với cách tổ chức như vậy, chương trình CPH sẽ nhất quán, rõ ràng hơn với sự tham gia của đông đảo người dân, hạn chế tối đa khả năng tổn thất cho Nhà nước. Hơn nữa, chính phủ còn ban hành một luật riêng nhằm tạo hành lang pháp lý cao nhất cho quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Với chủ trương như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (1990-1994) số lượng DNNN ở Hungary đã giảm xuống chỉ còn 10% (tức là khoảng 200 doanh nghiệp). 55 Hơn thế nữa quá trình này còn tạo mới 500 nghìn việc làm và thu hút gần 18 tỷ USD nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công này Hungary cũng phải đối mặt với những bất cập như: do chính phủ nước này không hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài nên một số ngành truyền thống của nước này như ngành chăn nuôi bò không phát triển được. Vì so với nguyên liệu trong nước thì nguyên liệu của nước ngoài với giá rẻ hơn nhiều nên có khả năng cạnh tranh cao hơn. 1.3.2. Nga: Với chủ trương nhanh chóng chuyển sang nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế kế hoạch mà DNNN chiếm vị trí độc tôn, chính phủ đã thực hiện tư nhân hóa ồ ạt trong thời gian ngắn (3 – 4 năm). Chính phủ đã đề ra kế hoạch tư nhân hoá 30% tổng giá trị tài sản của nhà nước vào năm 1993 và 60% vào năm kế tiếp. Để kích thích thị trường vốn trong nước phát triển, chính phủ còn thực hiện các chính sách hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp và các công dân đã đến tuổi trưởng thành. Cũng như Cộng hoà Séc, Littuania, Nga đã cho không một phần giá trị doanh nghiệp, cấp sổ ngân phiếu, biên lai chứng chỉ mua cổ phần... để xác định lại quyền mua cổ phần cho các đối tượng. Hơn nữa, Chính phủ Nga đã phát không cho mỗi công dân (đủ 18 tuổi) một phiếu voucher với mệnh giá 10.000 Rúp để họ trở thành cổ đông của các xí nghiệp. Người cầm phiếu voucher có thể sử dụng hoặc trực tiếp mua các cổ phần của các doanh nghiệp thay đổi hình thức sở hữu; hoặc đổi lấy tín phiếu của các quỹ đầu tư. Với những cố gắng như vậy, từ năm 1991-1996, CHLB Nga đã chuyển đổi sở hữu 122.000 DNNN (chiếm 53,3% tổng số doanh nghiệp). Trong đó, DNNN có quy mô nhỏ chiếm 64,8%, còn lại là các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Nhưng bên cạnh đó, việc áp dụng phiếu voucher đã vô hình tạo ra sự trục lợi của một số ít quan chức có thế lực và những người có tiền. Cuối cùng dẫn đến sự giảm sút và thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước, đẩy nhanh sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. 56 1.3.3. Trung Quốc: Ngay từ đầu thập niên 80, Chính phủ Trung Quốc đã đề cập đến giải pháp CPH. Theo đó, cổ phần hóa DNNN là một bộ phận của chương trình đa dạng hóa sở hữu và trong thập niên 90, giải pháp này đã được thể chế hóa và được coi là biện pháp hữu hiệu trong cải cách DNNN. Trái với quan điểm phải nhanh chóng chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN của các nước Đông Âu như Nga, Hungary, chính phủ Trung Quốc cho rằng phải tiến hành chuyển đổi sở hữu từ từ, không nhanh, không chậm và luôn tỉnh táo, thận trọng. Với quan điểm chỉ đạo trên, tiến trình cổ phần hoá của Trung Quốc diễn ra khá chậm, thận trọng từ thăm dò trải qua một giai đoạn thí điểm kéo dài và hình thức cổ phần hóa đơn nhất rồi mới triển khai mở rộng trên phạm vi lớn. Quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc bắt đầu năm 1984, đến cuối 1986 Quốc vụ viện đã cho phép các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Tháng 9/1997, Đại hội lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác cổ phần hóa và xây dựng doanh nghiệp hiện đại theo hướng "củng cố doanh nghiệp lớn và giải phóng doanh nghiệp nhỏ" với kế hoạch giảm dần theo 3 cấp: 1) Cấp cao nhất: Nhà nước nắm quyền sở hữu 100% vốn, khoảng 1.000 tập đoàn lớn trong các lĩnh vực chiến lược như an ninh quốc phòng, năng lượng, công nghệ cao... 2) Cấp trung gian: Nhà nước là cổ đông tham khảo (có thể là cổ đông chi phối hoặc là cổ đông thường) đối với các doanh nghiệp lớn và vừa không có tính chiến lược. 3) Cấp thứ ba: Nhà nước tiến hành cổ phần hóa, tư nhân hóa hàng loạt các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng không nắm giữ bất kỳ cổ phần nào trong các doanh nghiệp này. Sau đại hội này, Chính phủ Trung Quốc đã phát động một cuộc cải cách DNNN qui mô lớn chưa từng có với mục tiêu khoảng 100.000 DNNN sẽ được cổ 57 phần hoá, bán các xí nghiệp nhỏ cho tư nhân, sáp nhập hoặc giải thể. Vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn hàng loạt doanh nghiệp đã được "bán tống, bán tháo" nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt của ngân sách địa phương. Hậu quả là hàng loạt công nhân tại các doanh nghiệp đã bị sa thải trong khi chính phủ Trung Quốc chưa có chính sách hỗ trợ lao động dôi dư, thêm vào đó là các vấn đề phúc lợi xã hội của DNNN trước đây bị xoá bỏ đã làm cho sức ép về thất nghiệp ngày một tăng (khoảng từ 15 triệu đến 20 triệu người bị sa thải khỏi DNNN), sự ổn định chính trị bị đe doạ. Trước tình hình như vậy, chính phủ Trung Quốc đã phải kiềm chế tốc độ cổ phần hóa và bán các DNNN để điều chỉnh chính sách với người lao động và chính sách giá trong cổ phần hoá và bán DNNN. Trên thực tế, các DNNN đã tiến hành chuyển đổi sở hữu thành công ty cổ phần theo 3 cách: - Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp - Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội - Nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp như: Luật phá sản doanh nghiệp, Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân, Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, Luật Lao động, Điều lệ quản lý đăng ký công ty ... và hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân và Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của DNNN như: cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng... Thông qua luật này, các doanh 58 nghiệp sẽ có nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, từ đó tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, đưa doanh nghiệp về đúng với vòng quay thị trường. Đối với từng loại doanh nghiệp chính phủ Trung Quốc đã lựa chọn những biện pháp phù hợp. Ví như các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH đã được áp dụng những biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất - kinh doanh thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v... Bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước: Nhìn chung, việc bắt đầu cải cách từ đâu phụ thuộc vào mối quan tâm của nhà đầu tư và khả năng của chính phủ mỗi nước. Nhưng đều phải có sự đầu tư mới và thay đổi phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp chuyển đổi. Thêm vào đó, cổ phần hoá chỉ được tiến hành thành công khi đã chuẩn bị chu đáo cả về cơ chế, chính sách và vật chất để giải quyết những hậu quả do cải cách DNNN gây nên. Theo kinh nghiệm các nước, cần xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường sức cạnh tranh cho các xí nghiệp này. Theo đó, chính phủ phải có kế hoạch trung hạn trong việc đầu tư cả tiền vốn và kỹ thuật. Thêm vào đó, cần nhanh chóng bán các DNNN vừa và nhỏ có tính cạnh tranh thông qua đấu thầu cạnh tranh. Để tăng tính hấp dẫn của doanh nghiệp trước khi bán, các nước đều tiến hành giải quyết vướng mắc về tài chính đối với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp như: - giải quyết các khoản nợ dây dưa, khả năng thanh toán thấp 59 - loại bỏ những tài sản và dự án đầu tư không hiệu quả theo mệnh lệnh hành chính ở các nước DNNN trong các thời kỳ trước - giải quyết vấn đề lao động dôi dư như đào tạo lại, trả trợ cấp thôi việc và bảo hiểm thất nghiệp vì thực tế sự phản đối của lực lượng lao động trong các doanh nghiệp chuyển đổi đã gây khó khăn và ảnh hưởng đến tiến trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Nhưng nếu có những biện pháp giải quyết thoả đáng thì nó lại đem lại hiệu quả rất cao, nổi bật là ở Tuynidi, nước này đã thực hiện chính sách trả trợ cấp trọn gói thôi việc tương đối cao nên làm cho nhiều lao động tự nguyện ủng hộ việc chuyển đổi sở hữu DNNN (90% số lao động dôi dư) đến mức chẳng cần phải thải hồi công khai. Đồng thời, Nhà nước không nên can thiệp sâu và trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp để không cản trở mục tiêu phân định trách nhiệm giữa Nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời phát huy được tính năng động và tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp Phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp, kịp thời ban hành các quy chế chính sách, mà đặc biệt là các chính sách đối với người lao động và giá bán doanh nghiệp cũng như giá bán cổ phần thuộc vốn nhà nước tuân thủ nguyên tắc của cơ chế thị trường. Đồng thời, cần có cơ chế đồng bộ, quan điểm và cách hiểu nhất quán từ trung ương đến cơ sở, vừa chỉ đạo thực hiện kiên quyết, vừa theo dõi sát để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những cơ chế mới khi xuất hiện các lực cản làm chậm tiến trình thực hiện cổ phần hóa. Chính phủ cần có những chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, chuyển nợ thành vốn đầu tư làm tăng thành phần tham gia vào doanh nghiệp, giải quyết khó khăn về vốn đối với doanh nghiệp để thúc đẩy việc bán từng phần hoặc toàn bộ DNNN. Đó là những bài học từ Achentina, Chilê, Philipin, các nước này đã lôi kéo được các nhà đầu tư nước ngoài và các ngân hàng thương mại tham gia vào doanh nghiệp và bằng cách đó đã giảm được tỷ lệ nợ vốn. 60 Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, các DN đã CPH, những doanh nghiệp sau khi CPH hoạt động hiệu quả, chính phủ cần áp dụng những biện pháp phù hợp cho từng loại doanh nghiệp. Đặc biệt chính phủ và doanh nghiệp cần quan tâm giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động, chính phủ cũng cần tạo điều kiện cho các DN hưởng một số ưu đãi như: thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đồng thời, cần tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tham gia vào thị trường chứng khoán và được hưởng các ưu đãi về tài chính... Kết luận chương 1 Tác giả đã nêu một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần bao gồm khái niệm công ty cổ phần và những vấn đề liên quan như cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, cổ tức, các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần. Bên cạnh đó, chương này cũng đề cập đến lý luận về cổ phần hóa, các đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam, lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm lợi ích đem lại cho xã hội, cho doanh nghiệp và người lao động... Chương 1 đã nêu được những bài học kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Hungary, Nga và Trung Quốc... Từ đó rút ra được một số bài học cho Việt Nam trong tiến trình thực hiện công cuộc cổ phần hóa của đất nước. 61 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ VẤN ĐỀ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở THÀNH PHỐ NHA TRANG. 2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. 2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam. Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam được bắt dầu từ năm 1992, nhưng để xuất hiện chủ trương này Việt Nam đã trải qua một quá trình nhận thức, tìm toi và thử nghiệm nhiều phương thức để giúp các DNNN thoát khỏi khó khăn về vốn. Trước năm 1979, Việt Nam định hướng xây dựng mô hình kinh tế XHCN dựa trên hai loại hình sở hữu chính là toàn dân và tập thể. Tuy nhiên, để thoát khỏi tình trạng trì trệ của nền kinh tế do mô hình này với công cụ điều tiết là kế hoạch pháp lệnh, thì từ 1979 vai trò của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể đã được coi trọng, cũng như quyền tự chủ của các doanh nghiệp và địa phương đã được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ kế hoạch pháp lệnh. Từ năm 1980, nước ta đã thử nghiệm cải cách cơ chế quản lý các DNNN (lúc đó gọi là các xí nghiệp, cửa hàng quốc doanh) như: doanh nghiệp sẽ được tự chủ ở kế hoạch sản xuất phụ theo giá cả thị trường, được huy động vốn trong cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, tự chủ sử dụng lao động... Vào những năm thập kỷ 90, nhờ quá trình đổi mới thận trọng cơ chế quản lý nên các DNNN đã cơ bản chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường và góp phần to lớn ổn định nền kinh tế; mặt khác do trước đây DNNN được đầu tư tràn lan không chú trọng đúng mức đến hiệu quả kinh tế, nên vào năm 1990 đã có hơn 12.300 DNNN, trong đó đa số là doanh nghiệp có vốn nhỏ bé, kỹ thuật lạc hậu, thậm chí không đủ vốn hoạt động. Trước thực tế như vậy, chính phủ đã cho phép doanh nghiệp tự huy động vốn trong cán bộ công nhân viên và các đối tượng có vốn khác để tạm thời giải quyết khó khăn thiếu vốn. Tuy nhiên, cách thức huy động vốn như vậy có quy mô rất hạn chế và gây nhiều lộn xộn khiến người bỏ vốn không được bảo vệ, còn doanh nghiệp sử dụng vốn nhiều khi không đúng mục đích đề ra khi huy động. Thêm vào đó, theo NĐ388/HĐBT quá trình thành lập lại DNNN nhằm sáp nhập, thu gọn đầu mối DNNN đã được triển khai. Do 62 vậy, quy mô vốn của những doanh nghiệp chủ chốt đã được tăng lên và các doanh nghiệp này cũng được cấp vốn còn thiếu. Nhưng do gần 6000 DNNN sau thành lập vẫn còn là một con số lớn, trong khi ngân sách nhà nước lại quá hạn hẹp nên các DNNN vẫn ở trong tình trạng thiếu vốn. Lúc này, Đảng và Nhà nước lại phải đi tìm một phương cách mới khả thi để vừa có thể giúp cơ cấu lại hệ thống DNNN hiện có, vừa mở ra những khả năng mới cho việc duy trì ổn định năng lực sản xuất xã hội và nâng cao việc sử dụng năng lực sản xuất… Chính từ bối cảnh này, chủ trương về cổ phần hóa DNNN đã ra đời và cho đến nay vẫn được thực thi ở nước ta. 2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. CPH các DNNN vừa là xu thế khách quan, vừa là nhu cầu trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bởi vì công ty cổ phần có điểm mạnh là thu hút được nguồn vốn rộng rãi trong xã hội, tăng cường hàng hóa cho thị trường chứng khoán, tách bạch được quyền sở hữu với quyền sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ cổ phần hóa là một phương thức có hiệu quả để đổi mới các DNNN và cũng là một trong những hướng quan trọng của quá trình cải cách các doanh nghiệp này. Chỉ trong 14 năm qua, với sự chỉ đạo của Chính phủ và tinh thần chủ động trong thực hiện của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã thu được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ. Bảng 2.1: Số DNNN cổ phần hóa theo thời gian: Giai đoạn Số doanh nghiệp CPH 1992 – 1998 123 1999 – 2005 2.873 2006 (6 tháng đầu năm) 111 Tổng 3.107 Nguồn: Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương 63 Sau hơn 10 năm (1992-2005) thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, cả nước đã cổ phần hóa được 2.996 DNNN và bộ phận DNNN. Cụ thể, giai đoạn 1992 - 1998 là 123 doanh nghiệp và giai đoạn 1999 - 2005 là 2.873 doanh nghiệp. Đến tháng 9/2006, cả nước đã cổ phần hóa 3.107 DNNN và đơn vị phụ thuộc (bảng 2.1) trên tổng số 5.700 DNNN, hầu hết các doanh nghiệp này sau khi cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả, vốn điều lệ và doanh thu đều tăng, vốn nhà nước được bảo toàn và tiếp tục tăng, thu nhập của người lao động cũng được cải thiện rõ rệt. Đến 90% doanh nghiệp khẳng định rằng kết quả sản xuất kinh doanh tốt hơn trước cổ phần hóa rất nhiều, chủ yếu là sự gia tăng doanh thu và thu nhập của người lao động, vì vậy đã làm tăng tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN cổ phần hóa. Hơn nữa, nếu DNNN quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận vì doanh nghiệp kinh doanh có lãi sẽ được đánh giá là hoạt động hiệu quả thì DNNN cổ phần hóa lại chú trọng hiệu quả sử dụng vốn và việc minh bạch trong kết quả sản xuất kinh doanh vì họ bị giám sát bởi nhiều cơ chế: cổ đông, ban kiểm soát, hội đồng quản trị và nhà đầu tư... Thêm vào đó là những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của chính phủ đối với DNNN cổ phần hóa trong những năm đầu sau khi cổ phần hóa. Ví như hơn 850 DNNN đã cổ phần khảo sát năm 2005 cho thấy: vốn điều lệ tăng bình quân 44%, doanh thu tăng gần 24%, lợi nhuận tăng 140%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập người lao động tăng 12%. Những con số thực tế trên thật sự rất ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vì chúng khẳng định CPH là một trong những biện pháp hữu ích nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng sẽ tạo niềm tin và động lực cho các DNNN khác tiến hành đổi mới hoạt động kinh doanh của mình một cách tích cực hơn. Mặc dù số lượng DNNN tiến hành CPH tăng không nhiều nhưng phần đông trong số đó là các doanh nghiệp làm ăn khá, có quy mô vốn lớn, hấp dẫn công chúng đầu tư như: công ty Điện lực Khánh Hòa, công ty Nhiệt điện Phả Lại, tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) tại nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thủy điện Thác Bà, Vinamilk, Kinh Đô, Bảo Minh, công ty cổ phần vật liệu và cáp 64 viễn thông, công ty cổ phần giấy Hải Phòng, công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hòa... Một số công ty cổ phần cũng đã phát hành thêm cổ phiếu như: Sacombank, Eximbank, Bảo hiểm dầu khí..., hai mạng điện thoại lớn Vina Phone và Mobi Fone... cũng đang rục rịch chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Cùng với Vietcombank, các ngân hàng thương mại lớn khác như ngân hàng Đầu tư và Phát triển, ngân hàng Công thương, ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long... cũng đang ráo riết chuẩn bị để tiến hành cổ phần hóa trong một tương lai gần. Sự kiện này chắc chắn sẽ thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc sắp xếp lại và CPH các DNNN đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ, yếu, hoạt động kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh kém đã bị loại ra khỏi hệ thống các DNNN. Nhờ CPH mà nợ xấu, vật tư hàng hoá tồn kho kém phẩm chất, các trang thiết bị và tài sản cũ nát... đã được giải quyết. Bộ máy và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp đã CPH năng động hơn. Cơ chế định giá doanh nghiệp mới qua các tổ chức tư vấn độc lập đã được áp dụng thay vì qua hội đồng định giá như trước đây. Về phía nhà nước, trong năm 2005, Chính phủ, Bộ Tài chính liên tiếp có những quyết định, công văn chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa. Ngoài ra, hệ thống các văn bản về cổ phần hóa cũng dần được bổ sung, hoàn thiện. Trong đó, nổi bật là Nghị định 187 và Thông tư 126, hướng dẫn về xử lý tài chính, xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Hiện nay cổ phần hóa DNNN đã được mở rộng ra hầu hết các ngành, lĩnh vực, kể cả các ngành lĩnh vực cực kỳ quan trọng, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm. 65 2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang. 2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang. Thành phố Nha Trang là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của tỉnh Khánh Hòa. Hiện nay, thành phố có diện tích tự nhiên là 251 km². Nha Trang nằm trên tọa độ 12°8'33" đến 12°25'18" Bắc và 109°7'16" đến 109°14'30" Đông. Phía Bắc giáp xã Ninh Ích, huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp các xã Cam Hải, Cam Tân, thị xã Cam Ranh, phía Tây giáp các xã Diên An, Diên Phú, huyện Diên Khánh, phía Đông giáp Biển Đông. Hiện tại dân số Nha Trang vào khoảng 300.000 người và ước tính sẽ tăng lên khoảng 500.000 đến 600.000 người vào năm 2020. Thành phố có thêm nhiều khu đô thị mới ở phía Nam như Hòn Rớ, phía Bắc như Vĩnh Thái và kế hoạch xây khu đô thị phía Tây. Ngày nay, Nha Trang đã là một trung tâm du lịch khá nổi tiếng của Việt Nam và quốc tế. Kinh tế mũi nhọn của thành phố là dịch vụ du lịch và thủy sản. Từ năm 1999 đến nay (tháng 10/2006), trên địa bàn thành phố đã cổ phần hóa được 34 DNNN và bộ phận DNNN (sau đây gọi chung là DNNN) (xem bảng 2.2 và 2.3). Bảng 2.2. Tình hình cổ phần hóa DNNN ở thành phố Nha Trang Năm Số lượng DNNN đã CPH Số lượng DNNN bộ phận đã CPH 1999 1 1 2000 0 0 2001 7 0 2002 4 1 2003 7 1 2004 4 0 2005 4 1 9/2006 2 1 Tổng cộng 29 5 Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa Trong các doanh nghiệp CPH nói trên, các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp là 4 (chiếm 11,76%), các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch là 7 doanh nghiệp (chiếm 20,59%), 6 doanh nghiệp (17,65%) thuộc lĩnh vực 66 nông, lâm, thủy sản, các doanh nghiệp giao thông, vận tải, xây dựng là 12 doanh nghiệp (chiếm 35,29%), còn lại là 5 doanh nghiệp (14,71%) thuộc lĩnh vực giáo dục, văn hóa, thông tin. Bảng 2.3. Cơ cấu DNNN đã CPH phân theo ngành Lĩnh vực kinh doanh Số công ty Tỷ lệ phần trăm (%) Công nghiệp 4 11,76 Thương mại, dịch vụ, du lịch 7 20,59 Nông, lâm, thủy sản 6 17,65 Xây dựng, giao thông, vận tải 12 35,29 Giáo dục, văn hóa, thông tin 5 14,71 Tổng cộng 34 100 Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa 14.71% 14.71% 70.58% Dưới 5 tỷ đồng Từ 5 tỷ đến 10 tỷ đồng Trên 10 tỷ đồng Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa Hình 2.1: Cơ cấu DNNN CPH phân theo vốn điều lệ Trong 34 DNNN đã CPH, các doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng là 24 doanh nghiệp (chiếm 70,58%), các doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 5 –10 tỷ đồng là 5 doanh nghiệp (chiếm 14,71%) và 5 doanh nghiệp (14,71%) có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng. 2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang 2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. 2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa. a. Những kết quả đạt được: Để thấy được hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DNNN cổ phần hóa, chúng tôi dùng các chỉ tiêu sau: doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữ._. đầu tư các thiết bị hiện đại như: dây chuyền rửa - phân cỡ, băng chuyền tự động, tủ cấp đông thế hệ mới, máy đóng gói qua hút chân không, thiết bị kiểm tra dư lượng kháng sinh và các máy chế biến thực phẩm chuyên dụng khác... Tuy nhiên, để đổi mới và phát triển kỹ thuật công nghệ đòi hỏi phải có đầu tư lớn, phải có thời gian dài và doanh nghiệp cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau: - Dự đoán đúng nhu cầu của thị trường và của doanh nghiệp về những loại sản phẩm doanh nghiệp có ý định đầu tư phát triển. Dựa trên những dự đoán này doanh nghiệp đưa ra những mục tiêu cụ thể trong đổi mới công nghệ. - Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra, mỗi doanh nghiệp đưa ra biện pháp đổi mới công nghệ phù hợp, lựa chọn cho mình công nghệ thích hợp, tránh nhập công nghệ lạc hậu, lỗi thời, tân trang lại, gây ô nhiễm môi trường... - Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì doanh nghiệp cần sử dụng vốn có hiệu quả, đúng mục tiêu nguồn vốn đầu tư công nghệ. Muốn như vậy, công ty cần có giải pháp đúng đắn về huy động và sử dụng vốn, đặc biệt là vốn cho đổi mới công nghệ. 94 - Các doanh nghiệp cần xem công nghệ như một loại hàng hóa đặc biệt đem lại nhiều tiềm năng to lớn có thể khai thác trong quá trình sử dụng thay vì chỉ tiếp nhận công nghệ được chuyển giao như hàng hoá tiêu dùng thông thường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần nghiên cứu sâu để làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ nhập từ bên ngoài, dẫn tới có khả năng tạo ra công nghệ và tham gia chuyển giao công nghệ cho nơi khác. Thêm vào đó, trong đổi mới công nghệ nên quan tâm đến nghiên cứu sử dụng vật liệu mới và vật liệu thay thế vì giá trị nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng cao trong giá thành của nhiều loại sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa, việc sử dụng nguyên vật liệu mới thay thế còn có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Máy móc, trang thiết bị cũng là nhân tố quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp cần bảo quản máy móc thiết bị, đảm bảo cho máy móc luôn hoạt động đúng kế hoạch và tận dụng công suất của thiết bị máy móc. Đổi mới công nghệ phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện tốt công tác kiểm tra kỹ thuật và nghiệm thu sản phẩm, tránh để cho những sản phẩm chất lượng kém ra tiêu thụ trên thị trường. 3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sản xuất của các doanh nghiệp mở rộng theo hướng sản xuất lớn, xã hội hóa và mở cửa làm cho mối quan hệ lẫn nhau trong xã hội ngày càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết sử dụng mối quan hệ sẽ khai thác được nhiều đơn hàng, tiêu thụ tốt. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao cần tranh thủ tận dụng các lợi thế, hạn chế khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Đó là: -Giải quyết tốt mối quan hệ với khách hàng: là mục đích ý đồ chủ yếu trong kinh doanh, vì khách hàng là người tiếp nhận sản phẩm, người tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Khách hàng có được thỏa mãn thì sản phẩm mới được tiêu thụ một cách nhanh chóng và rộng rãi trên thị trường. 95 -Tạo ra sự tín nhiệm, uy tín trên thị trường đối với doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm, tác phong kinh doanh, tinh thần phục vụ,... bất cứ doanh nghiệp nào muốn có chỗ đứng trên thị trường đều phải gây dựng sự tín nhiệm. Đó là quy luật bất di bất dịch để tồn tại trong cạnh tranh trên thương trường. -Giải quyết tốt mối quan hệ với các đơn vị cung ứng để họ trở thành khách hàng quen thuộc của công ty nhằm tiết kiệm được chi phí và ổn định nguồn đầu vào cho doanh nghiệp. -Giải quyết tốt mối quan hệ với các tổ chức quảng cáo, các cơ quan lãnh đạo doanh nghiệp,... thông qua các tổ chức này để mở rộng ảnh hưởng của doanh nghiệp, tạo cho khách hàng, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn, đồng thời bảo vệ uy tín và sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp. -Có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên sinh thái: bảo vệ rừng đầu nguồn, chống sự ô nhiễm của bầu không khí, nguồn nước, sự bạc mầu của đất đai trong phát triển sản xuất kinh doanh... 3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô: Để đẩy nhanh công tác cổ phần hóa, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa; bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình CPH; đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa, tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp... Hơn nữa, đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK cũng là giải pháp hỗ trợ cho tiến trình CPH DNNN. 3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa: Tâm lý lẩn tránh, bảo thủ, trì trệ vẫn đang tồn tại ở một số cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý DNNN và cả người lao động trong các doanh nghiệp cần CPH trên địa bàn tp. Nha Trang. Nhận thức về cổ phần hoá DNNN chưa đầy đủ và thống nhất, vướng mắc trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời. Hầu hết doanh nghiệp trên địa bàn tp. Nha Trang không muốn hoặc tìm cách né tránh 96 thực hiện CPH do chưa thấy được lợi ích của cổ phần hoá đem lại và muốn được an toàn hơn cũng như không muốn mất đi lợi ích hay lợi thế đang có. Một trong những lợi thế mang lại quá nhiều lợi ích đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà chỉ DNNN mới có được. Do đó, khi các doanh nghiệp được chỉ định cổ phần hóa thì thực hiện một cách miễn cưỡng, dẫn đến hiệu quả không cao trong phương thức quản trị, điều hành doanh nghiệp cũng như trong sản xuất kinh doanh. Để khắc phục thực trạng này, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giải thích, vận động chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa cho các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và toàn thể xã hội. Cụ thể: + Bộ tài chính cần phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan như các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty tiếp tục tổ chức tập huấn, phổ biến tuyên truyền sâu rộng chủ trương cổ phần hoá cho những đối tượng tham gia công tác cổ phần hóa, phải làm cho các doanh nghiệp ý thức được tầm quan trọng của cổ phần hoá trong lộ trình hội nhập. Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về đào tạo nâng cao năng lực trước, trong và sau CPH. + Nên đa dạng hóa các hình thức và nội dung tuyên truyền, lựa chọn các hình thức tuyên truyền phù hợp, kết hợp phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền về cổ phần hóa. Thời gian qua chúng ta chủ yếu mới tuyên truyền thiên về thuyết phục, vận động doanh nghiệp tự nguyện CPH. Giờ đây cần mở rộng cách thức và nội dung tuyên truyền thông qua giáo dục kiến thức về công ty cổ phần, về quyền và trách nhiệm của cổ đông, của Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành cho các doanh nghiệp, đây là những kiến thức cần thiết để người lao động và các nhà quản lý doanh nghiệp tự giác lựa chọn CPH cũng như đủ sức điều hành công ty sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả. + Thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật nói chung và đặc biệt luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư, luật Thương mại, luật Cạnh tranh… làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý doanh 97 nghiệp và người lao động, các cổ đông, người góp vốn hiểu và thực hiện đầy đủ, đúng quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình mà pháp luật quy định. + Tuyên truyền phổ biến các tấm gương doanh nghiệp sau CPH hoạt động hiệu quả để kích thích các doanh nghiệp thuộc diện CPH tích cực hơn nữa. Thường xuyên kiểm tra, sơ kết rút kinh nghiệm để chỉ đạo chặt chẽ và có hiệu quả chương trình, kế hoạch CPH DNNN. Tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh nghiệp sau CPH để rút ra những kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của các doanh nghiệp. Qua đó làm cho doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng, những bài học cụ thể từ cổ phần hóa. Làm tốt công tác này sẽ có tác động làm thay đổi nhận thức, tạo những hiểu biết tốt hơn, từ đó tạo niềm tin và động lực từ bên trong của doanh nghiệp. + Các chủ trương chính sách về cổ phần hóa của Nhà nước cũng phải được truyền tải đến tận người lao động để mỗi người biết lựa chọn phương thức hành động tốt nhất cho mình. + Cần đưa các kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, về thị trường chứng khoán, về công ty cổ phần, và cổ phần hóa DNNN... vào các chương trình đào tạo từ phổ thông đến đại học nhằm hình thành một cách có hệ thống nhận thức về nền kinh tế thị trường cho thế hệ tương lai của đất nước. 3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN Bộ tư pháp cần liên tục rà soát các thể chế phục vụ việc CPH, phát hiện những bất hợp lý, mâu thuẫn, những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi; đồng thời đề xuất giải pháp tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng trong việc thực hiện cổ phần hóa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình CPH DNNN theo hướng đơn giản, gọn nhẹ hơn, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. Đặc biệt là quy trình về kiểm kê tài sản, xác nhận nợ, xử lý tài chính và định giá doanh nghiệp. Sử dụng các dịch vụ của thị trường tài chính và thị trường bất động sản để định giá doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định liên quan đến bán đấu giá cổ phần, đa dạng hóa hình thức đấu giá để doanh nghiệp lựa chọn phù hợp 98 với thực tế của doanh nghiệp khi thực hiện đấu giá cổ phần, thực hiện các biện pháp ngăn chặn tình trạng liên kết thông thầu trong quá trình bán đấu giá cổ phần... Các cơ chế, chính sách sửa đổi theo hướng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong quá trình CPH DNNN; tăng cường kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan tài chính đối với công tác CPH DNNN; nâng cao tính công khai, minh bạch và thị trường trong quá trình sắp xếp, đổi mới. Nghị định của Chính phủ số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần đã quy định, hướng dẫn một cách chi tiết hơn những vấn đề bất cập trong những văn bản trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm cần xem xét lại như: thẩm quyền phê duyệt phương án CPH và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần, chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp CPH, quyền lợi của người lao động trong công ty cổ phần... Trước mắt Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 187/2004/NĐ-CP cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn như bổ sung đối tượng CPH bao gồm các DN hoạt động công ích, các đơn vị sự nghiệp; phương thức bán cổ phần lần đầu; nhà đầu tư chiến lược và chính sách đối với nhà đầu tư chiến lược; gắn CPH với niêm yết trên TTCK ngay từ khi phê duyệt phương án CPH; ưu đãi cho các DN CPH... Có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo giá đất đã được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện tích đất được giao) quy định và công bố. Nếu giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần hóa thì UBND tỉnh, thành phố trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày gửi đủ hồ sơ, nếu chưa nhận được văn bản của UBND tỉnh, thành phố trung ương về giá đất thì cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp được quyền xác định giá trị doanh nghiệp theo giá đất doanh nghiệp đã đề nghị. 99 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu lần đầu. Bên cạnh đó, ra sức thu hút các công ty cổ phần niêm yết để đa dạng mặt hàng, mở rộng thị trường và trở thành kênh thu hút đầu tư quan trọng cho các doanh nghiệp. Bổ sung các quy định bắt buộc những DNNN có quy mô vốn lớn và hoạt động có hiệu quả phải niêm yết và đăng ký giao dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khoán. Để đẩy mạnh tiến trình CPH các DNNN, cần phải có một môi trường vững chắc và sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước. Tuy vậy, để tiến trình CPH được thông suốt hơn, các ngành, bộ cần nghiên cứu ban hành các văn bản dưới luật ngày càng hoàn chỉnh hơn nhằm tạo điều kiện cho quá trình CPH các DNNN ở các tỉnh thành thực hiện có kết quả. Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm cải thiện môi trường pháp lý chung, tạo khuôn khổ cạnh tranh bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp. Các DNNN và DNNN sau CPH cần được Nhà nước quan tâm như nhau về tài chính, thông tin, thủ tục hành chính… Nhà nước xoá bỏ nhanh bao cấp dưới mọi hình thức để không còn chỗ dựa tạo đặc quyền, đặc lợi như trước đây mà hiện vẫn còn ở mức độ khác nhau của các DNNN. Trong thời gian tới, Nhà nước cần ban hành luật doanh nghiệp thống nhất chung cho mọi loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp chưa xóa bỏ được vị thế độc quyền kinh doanh. Cần tạo môi trường pháp lý, tổ chức, xã hội giúp các DNNN khi trở thành các công ty cổ phần thoát khỏi mặc cảm bị bỏ rơi khi gặp khó khăn không biết kêu cứu ai. Nhà nước cần thi hành chính sách tài chính cứng với tất cả các loại hình doanh nghiệp nhằm đưa yếu tố tự chủ, cạnh tranh vào nhận thức và hành vi của doanh nghiệp, không để các DNNN tồn tại tư tưởng trông chờ, ỷ lại quá nhiều vào Nhà nước như hiện nay. 100 3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình cổ phần hóa: Mỗi khâu cổ phần hóa cần tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng quy định của Nhà nước nhưng phải khẩn trương, nhanh chóng. Đặc biệt có khả năng rút ngắn được nhiều thời gian hiện nay ở các khâu: lập Ban đổi mới doanh nghiệp, định giá, quyết định giá, phê duyệt phương án cổ phần hóa và đăng ký kinh doanh. Các công ty được cổ phần hóa hoàn toàn khác với một doanh nghiệp mới thành lập đi vào kinh doanh. Các công ty đó đều đã có hồ sơ gốc, sẵn có địa điểm, có tên và thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, đã đăng ký từ trước, có thị trường truyền thống; nếu có khác, chỉ là số yếu tố mới phát sinh hoặc bổ sung trong và sau cổ phần hóa. Do vậy, thủ tục đăng ký kinh doanh cần được đơn giản hóa và rút ngắn hơn nhiều về nội dung, thể thức và thời gian. Thực hiện cải cách hành chính hướng tới mục tiêu phục vụ doanh nghiệp: đổi mới phương thức quản lý, hạn chế việc ban hành các giấy phép kinh doanh, cải cách nâng cao hiệu quả cơ chế “một cửa” trong thực hiện thủ tục hành chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp gia nhập thị trường và tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh. 3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa: Để chủ trương cổ phần hóa đến được với từng doanh nghiệp, cần phải có một bộ phận chuyên trách tham mưu hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cho quá trình cổ phần hóa. Không chỉ vậy, bộ phận này sẽ chuyên nghiên cứu quá trình thực hiện cổ phần hóa, nắm bắt được những vướng mắc, trở ngại để từ đó đề xuất các phương án cổ phần hóa khoa học, khả thi lên chính phủ. Theo kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số nước, cần phải thiết lập một cơ quan chuyên trách đủ mạnh để dồn tâm lực vào quá trình xây dựng chương trình, mục tiêu, phương án CPH khoa học, khả thi trên phạm vi tổng thể bỏ qua lợi ích cục bộ của các cơ quan chủ quản và kiên quyết thực hiện tới cùng chương trình đó. Cách làm theo kiểu phong trào những năm qua đã dẫn đến các hậu quả không mong 101 muốn như: CPH diễn ra chậm do phải chờ các cơ quan chủ quản và doanh nghiệp tự nguyện; các DNNN dễ CPH và có lợi cho các bên liên quan khi CPH thì làm nhanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc xin rút, hoặc tìm mọi cách lẩn tránh, kéo dài quá trình làm thủ tục; nhà nước không kiểm soát được quá trình CPH nên đôi khi bị thất thoát vốn nhà nước... Bộ phận này phải hoạt động thực sự có hiệu quả, không chỉ tồn tại trên giấy tờ hay làm việc một cách quan liêu, cho có lệ, qua loa. Cơ quan này cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, các ngành trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện các chương trình kế hoạch được thủ tướng Chính phủ phê duyệt, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc trong: xác định giá trị doanh nghiệp, xử lý nợ tồn đọng, giải quyết chế độ cho lao động dôi dư, những vấn đề liên quan đến tổ chức, quản lý công ty theo luật Doanh nghiệp và luật DNNN... kịp thời kiến nghị với thủ tướng Chính phủ có cơ chế, chính sách thúc đẩy tiến trình CPH DNNN. Cơ quan chuyên trách của tỉnh sẽ cùng các doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình cổ phần hóa. Đối với những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề hơi đặc biệt, có ít doanh nghiệp cùng lĩnh vực cổ phần hóa để học hỏi kinh nghiệm, đồng thời các quy định của chính phủ khi đưa ra chưa xét đến những trường hợp đặc biệt này, ban đổi mới DNNN địa phương cần xem xét những kinh nghiệm CPH cho doanh nghiệp đó ở các địa phương khác hoặc nhanh chóng kiến nghị với tỉnh hoặc trung ương về những trường hợp chưa xử lý được, để có biện pháp xử lý nhanh giúp tiến trình CPH được thực hiện nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, không làm các doanh nghiệp hoang mang, lo lắng, mất nhiều thời gian trong tiến trình cổ phần hóa. Đồng thời, cơ quan này phải đủ năng lực và tâm huyết để giải quyết nhanh gọn, không để tình trạng ùn tắc giấy tờ, bắt các doanh nghiệp phải đợi lâu trong tiến trình cổ phần hóa. Do vậy, cần thiết phải thiết lập cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa để thực sự đặt quá trình CPH trên cơ sở khoa học và kiểm soát được từ phía nhà nước cũng như linh hoạt, kiên quyết khi giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa. 102 3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp Nhà nước cần định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, đảm bảo thực sự bình đẳng đối với mọi loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh và đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước. Từ đó, các doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả hơn theo cơ chế thị trường, phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta với thế giới. Điều 36 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ đã quy định “Doanh nghiệp sau khi CPH được tiếp tục vay vốn ngân hàng tại các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế như đối với các công ty nhà nước”. Nhưng trên thực tế đang có sự bất bình đẳng trong thế chấp vay vốn giữa doanh nghiệp Nhà nước với các công ty cổ phần ra đời từ chính các doanh nghiệp Nhà nước trước đây. Các công ty nhà nước có cơ chế cho vay ưu đãi hơn so với công ty cổ phần. Do vậy, các DNNN sau khi CPH gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các ngân hàng thương mại yên tâm hơn khi cho các DNNN vay vì được sự bảo lãnh của Nhà nước, còn đối với công ty cổ phần thì họ ngần ngại cho vay do các công ty này không được Nhà nước bảo lãnh nên đòi hỏi nhiều thủ tục, giấy tờ hơn. Vì vậy, nhà nước cần từng bước điều chỉnh, dẫn đến xoá bỏ trên thực tế (không phải chỉ trên giấy tờ, văn bản) sự phân biệt đối xử trong các chính sách nhằm khuyến khích các DNNN thực hiện cổ phần hoá, tạo sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt giữa loại hình doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần. Để đáp ứng yêu cầu trên, trong thời gian tới Nhà nước cần đưa DNNN trở thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp thống nhất, đồng thời xác định cơ chế, chính sách, quyền lợi của công ty cổ phần trong việc vay vốn, nhằm tăng khả năng tạo nguồn vốn như: -Các ngân hàng sẽ áp dụng chung mức lãi suất cho các đối tượng đi vay thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay công ty cổ phần mà chỉ xem xét cho vay dựa trên tính khả thi của dự án. Từ đó xoá bỏ hoàn toàn việc Nhà nước gián tiếp bao cấp cho các DNNN thông qua lãi suất vay ưu đãi. 103 -Khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty để vay vốn dài hạn. Trái phiếu của các doanh nghiệp sẽ được các nhà đầu tư mua nếu lãi suất cao, hấp dẫn, được bảo hiểm và có tính thanh khoản cao. Do đó, để thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển, đã đến lúc Nhà nước cần thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm nhằm thông tin về rủi ro của các công cụ nợ và định hướng cho người đầu tư. 3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK. Các DNNN sau khi chuyển thành công ty cổ phần có khả năng huy động vốn đầu tư thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên TTCK. Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp. Một thị trường chứng khoán với quy mô lớn và chất lượng cao sẽ tạo điều kiện cho thị trường vốn hoạt động mạnh. Các nhà đầu tư dựa vào khả năng sinh lợi và tính thanh khoản của chứng khoán để quyết định có nên đầu tư vào chứng khoán hay không. Có thể nói trong giai đoạn hiện nay, tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam chưa cao do số lượng công ty cổ phần niêm yết trên thị trường còn khiêm tốn và chất lượng chứng khoán chưa cao. Vì vậy, đối tượng mua chứng khoán chủ yếu là người lao động trong doanh nghiệp, nhưng do thu nhập thấp nên số lượng cổ phần mà họ mua được không nhiều. Khi cần chuyển nhượng, người lao động chủ yếu chỉ bán theo hình thức “sang tay” trong nội bộ, mà không tham gia thị trường chứng khoán. Mặt khác, với quy mô nhỏ và chất lượng hàng hóa chưa cao, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa thật sự khuyến khích các công ty cổ phần niêm yết cũng như chưa thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ của các nhà đầu tư. Do vậy, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, Nhà nước cần mở rộng các hình thức bán cổ phần lần đầu thông qua hình thức đấu giá, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành...; đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sau khi được CPH nhanh chóng niêm yết cổ phiếu của mình trên TTCK; gắn việc phát hành cổ phiếu với niêm yết công khai trên thị trường. Thậm chí, đối với những DNNN đã tiến hành CPH có đủ điều kiện, Nhà nước cần quy định cụ thể lộ trình thực hiện niêm 104 yết trên thị trường chứng khoán. Song song đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn cung hàng hóa có chất lượng cao trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, cần phát triển hệ thống các tổ chức tài chính trung gian để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK. Để tăng quy mô của TTCK, mặt khác Chính phủ cần đưa ra những chính sách ưu đãi cụ thể đối với các doanh nghiệp CPH khi thực hiện niêm yết, giảm thiểu quy định không phù hợp về thủ tục và điều kiện niêm yết để những doanh nghiệp đủ điều kiện, khi tiến hành CPH sẽ thích thú, tự giác niêm yết trên TTCK như: 9 Cần có chính sách hỗ trợ thiết thực như hỗ trợ phí kiểm toán, tư vấn niêm yết, hỗ trợ nâng cấp hệ thống quản trị doanh nghiệp. 9 Thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp cổ phần hóa niêm yết căn cứ theo thời gian doanh nghiệp tham gia niêm yết sau khi cổ phần hóa. 9 Khuyến khích và ưu tiên niêm yết đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có vốn lớn, có quy mô hoạt động rộng, có uy tín thương hiệu nhằm tăng chất lượng hàng hóa niêm yết và quy mô cho thị trường. Kết luận chương 3. Trên cơ sở thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và những vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp đã và đang tiến hành cổ phần hóa, chương 3 đã đưa ra chủ trương cổ phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang, đồng thời đề xuất một số giải pháp vi mô cũng như vĩ mô nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN trên địa bàn tp. Nha Trang. Các giải pháp vi mô được luận văn đề cập đến bao gồm: giải pháp cho việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH, công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp, tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các công ty sau cổ phần hóa, phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động, đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất, đổi mới kỹ thuật- công nghệ và tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất 105 các giải pháp vĩ mô đó là: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình CPH; đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa; tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp và đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK. Trên đây là một số giải pháp với hy vọng góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả và đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang. 106 KẾT LUẬN Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trương cổ phần hóa DNNN của chính phủ đã được xem là một quyết định đúng đắn và tất yếu nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Vì vậy, ngay trong chương đầu của đề tài này đã nêu ra những vấn đề có tính chất tổng quan về cổ phần hóa như: các vấn đề liên quan đến công ty cổ phần; khái niệm, phân loại và đặc trưng của CPH cũng như vai trò quan trọng của nó đối với xã hội, doanh nghiệp và cả người lao động. Bên cạnh đó, việc phân tích những kinh nghiệm CPH của một số quốc gia đã rút ra những bài học quý giá để có thể vận dụng linh hoạt vào các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và tp.Nha Trang nói riêng dựa trên hoàn cảnh và điều kiện kinh tế hiện nay. Từ việc nghiên cứu những lý luận tổng quan này đã xây dựng cơ sở cho đề tài đi sâu vào phân tích tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH của DNNN tại tp.Nha Trang. Với những kết quả so sánh và phân tích các chỉ số về doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần bình quân… đã cho thấy những kết quả rất khả quan, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN sau CPH được nâng lên rõ rệt, những kết quả này đã góp phần vào sự thành công của chủ trương CPH. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được thì đề tài cũng đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở cả các DN sau khi CPH cũng như ở các DN đang trong tiến trình CPH phải đối mặt. Đó là những hạn chế, rào cản làm giảm hiệu quả của quá trình CPH. Như vậy, thiết nghĩ để nâng cao hiệu quả CPH các DNNN ở tp. Nha Trang thì cần có sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền nhằm tạo một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các DNNN đã CPH, nhanh chóng có những định hướng để giúp các DN trước và sau CPH có thể tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, về phía DN cũng cần có sự hợp tác thật sự để thực hiện đồng bộ những giải pháp nhằm tự mình giải quyết những bất cập, vướng mắc đó. Đặc biệt khi tiến trình gia nhập 107 WTO đang tiến gần kề thì việc mau chóng CPH các DNNN càng trở nên cần thiết và đặt ra nhiều thách thức cho DNNN chủ động đổi mới nhằm đáp ứng cao trong thời kỳ hội nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (10/2006), Báo cáo kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN và phương hướng, nhiệm vụ 2006-2010. 2. Bộ tài chính (2000), Các văn bản thực hiện luật doanh nghiệp, NXB Xây dựng. 3. Bộ Tài chính, Thông tư số 126/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần. 4. Lưu Quang Định (2005), “Năm 2005: Đẩy mạnh thị trường hoá cổ phần hoá”, Báo Lao Động. 5. Nguyễn Đỗ (2006), Chứng khoán đầu tư và quản lý, NXB Lao động xã hội. 6. Lâm Du Hải (2006), “Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa: Cần có thêm những nghiên cứu bổ sung”, VNECONOMY. 7. Lâm Du Hải (2006), “Đẩy nhanh cổ phần hoá: Đề xuất ba phương pháp tính giá trị doanh nghiệp”, VNECONOMY . 8. Đoàn Văn Hạnh (1998), Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần, NXB Thống kê. 9. Hồ Sỹ Hùng (2002), “Cổ phần hoá DNNN - bước đi tất yếu”, Đầu tư. 10. Thu Huyền - Ngọc Quyết, “Cổ phần hóa phải hướng tới thị trường”, Tiền Phong. 11. Nhật Linh (2005), “Chấm dứt cổ phần hóa khép kín”, Báo Tuổi Trẻ . 12. Hà My (2005), “Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc”, TCCN. 13. Nguyễn Văn Nghĩa, CPH giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, NXB CTQG. 14. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp. 108 15. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Khánh Hoà (2005), Báo cáo tình hình thực hiện sắp xếp DNNN năm 2005 và kế hoạch năm 2006. 16. Lê Sơn, “Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: DNNN cần cơ cấu theo hướng đa sở hữu”, Pháp luật TP.HCM. 17. Đoàn Văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động công ty cổ phần, NXB Khoa học và Kỹ thuật. 18. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật kinh tế, NXB Tư pháp, Hà Nội. 19. Lê Tuấn ( 2005), “Đẩy nhanh vững chắc cổ phần hóa công ty nhà nước”, Cục Tin học và Thống kê tài chính. 20. Văn phòng Chính phủ (2004), Nghị định của Chính phủ số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần. 21. Ngô Việt - Hải Yến, “Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn”, Nhà quản lý 22. TS.Bùi Kim Yến (2006), Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động xã hội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1002.pdf
Tài liệu liên quan