Lời mở đầu
Trước Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986. Việt Nam là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, trì trệ, lạc hậu, và kém xa các nước khác trên thế giới. Sau Đại hội Đảng 1986 thực hiện phương châm, chính sách của Đảng đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế, mở cửa nền kinh tế để thu hút vốn Đầu tư nước ngoài. Do vậy đến nay nền kinh tế của Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt và đang trên đà phát triển thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo con đường xã hội chủ
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa. Qua đó ta cũng thấy được tầm quan trọng của Đầu tư nước ngoài là như thế nào đối với nền kinh tế của một đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu thế chung. Theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, thông thoáng hơn.
Hơn 15 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư nước ngoài đã đạt được những hiệu quả cao những thành tựu quan trọng góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, đưa đất nước Việt Nam phát triển bền vững trở thành một nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những thập kỷ tới. Tuy nhiên để đạt được những mục tiêu đặt ra như vậy không phải là dễ, bởi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qua quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế, những thiếu xót chưa kịp sửa đổi bổ sung, cơ sở hạ tầng - kinh tế kỹ thuật còn nhiều khó khăn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Mỹ, Pháp, Anh... Môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa được hoàn thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nhất là các vấn đề về thủ tục pháp lý. Môi trường đầu tư còn những hạn chế như vậy làm sao có thể thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều như mong muốn? Làm sao có thể phát triển nền kinh tế ? Trong khi đó ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới nhất là Trung Quốc và Đài Loan.. ngày càng cải thiện môi trường đầu tư cho thông thoáng hơn, thủ tục đầu tư ít rườm rà hơn, cơ sở hạ tầng phát triển hơn..
Trong mấy năm qua mặc dù số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng nhưng số lượng không đáng kể, số dự án giải thể trước thời hạn ngày càng tăng, đến hết năm 2003 có trên một nghìn dự án giải thể trước thời hạn với vốn đăng ký khoảng 12,3 tỷ USD chiếm gần 18,6% số dự án và 23% tổng vốn đăng ký của tất cả các dự án được cấp phép. Tại sao số dự án giải thể trước thời hạn lại tăng như vậy? Chúng ta cần phải xem xét lại các yếu tố của môi trường đầu tư ở Việt Nam về những mặt tích cực và hạn chế, hệ thống chính sách pháp luật ở Việt Nam những vấn đề cần sửa đổi bổ sung. Chúng ta có lợi thế là mặt chính trị ổn định hơn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới chúng ta nên phát triển lợi thế này cùng với các yếu tố kinh tế và pháp luật của môi trường kinh doanh để nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển hơn.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu những quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nghiên cứu về những chính sách của Nhà nước về tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Mục tiêu của đề tài: Nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp truyền thống như phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích...
Qua đó ta thấy việc hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho phù hợp với các yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ những yêu cầu trên mà tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".
Về bố cục Luận văn bao gồm :
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Lời nói đầu
Chương 1: Một số vấn đề chung về Môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt nam.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện Môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Kinh tế quốc tế.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện Môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Kinh tế quốc tế.
Kết Luận
Danh mục tài liệu tham khảo
chương 1
Một số vấn đề chung về môi trường đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam
1.1. Khái niệm chung về đầu tư nước ngoài
1.1.1. Một số quan niệm về đầu tư nước ngoài
Ngày nay Đầu tư nước ngoài đã trở thành một chìa khoá vàng để mở cửa nền kinh tế. Mặc dù Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) được nghiên cứu và giải thích ở nhiều giác độ khác nhau nhưng có một điểm chung được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận đầu tư nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng để có thể thúc đẩy và phát triển kinh tế của đất nước mình. Tuy nhiên trong thực tế cũng có một số nước vì những lý do khác nhau đã tìm mọi cách hạn chế việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước mình và tăng cường bảo hộ đầu tư trong nước.
Do vậy trên thế giới đã có những quan điểm khác nhau liên quan đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Quan điểm của các nước đang phát triển: Xuất phát từ chính sách bảo hộ mậu dịch,bảo hộ sản xuất trong nước nên các nước này đang e ngại, lo sợ, hoài nghi về việc tư tưởng nước ngoài xâm nhập vào đất nước mình, nên tìm mọi cách để che chắn dòng đầu tư, ngăn cản dòng đầu tư từ nước ngoài vào nước mình. Song song với việc ngăn cản dòng đầu tư nước ngoài vào nước mình các nước này cũng tìm mọi cách che chắn bảo hộ đầu tư trong nước trước sự tấn công của đầu tư nước ngoài, tạo ra những rào cản chặt chẽ đối với việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
việc thành lập các vốn cơ bản có ở nước ngoài. Còn trong Từ điển bách khoa về kinh tế chính trị thì đầu tư nước ngoài là các chi phí cơ bản về phương tiện, vật chất, lao động, tiền tệ nhằm tái sản xuất vốn cơ bản ở nước ngoài. Trong Hiệp định mẫu về khuyến khích và bảo hộ đầu tư Liên Xô còn quan niệm đầu tư nước ngoài là tất cả các loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư của nước này đưa đến nhà đầu tư nước khác theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
Quan điểm của các nước công nghiệp phát triển: Đầu tư nước ngoài đối với họ đã quá quen thuộc, nó không những có lợi cho nước đầu tư mà còn lợi cho cả nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy quan niệm về đầu tư nước ngoài đúng đắn là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài có thể đem lại phúc lợi cho mọi người, có thể hỗ trợ cho các nước khác phát triển, việc tiếp nhận đầu tư có thể làm cho các nước xích lại gần nhau hơn. Các nước phát triển thấu hiểu được vai trò của đầu tư nước ngoài nên họ tìm mọi cách để đầu tư thông suốt và đầu tư nước ngoài tự do hơn. Các nước này quan niệm đầu tư nước ngoài là tư bản của nhà đầu tư nước này ở nước khác được đưa vào theo những điều kiện nhất định nhằm những mục đích nhất định (Anh, Mỹ...)
Theo quan niệm của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì đầu tư nước ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (ODA). Các nguồn đầu tư cho nước ngoài có tài trợ phát triển chính thức gồm viện trợ phát triển chính thức và các hình thức khác như tín dụng xuất khẩu, tài trợ tư nhân vay từ ngân hàng quốc tế, vay tín phiếu, đầu tư trực tiếp các nguồn tài trợ tư nhân khác... Như vậy theo quan niệm của tổ chức này thì FDI là một trong những nguồn tài trợ tư nhân, quan niệm này chưa đầy đủ vì chủ thể của FDI không phải duy nhất chỉ có tư nhân mà còn có nhà nưóc và các tổ chức quốc tế khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người nước ngoài trực tiếp bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý điều hành và có thể quyết định toàn bộ hoạt động hoặc có thể tham gia quyết định.
Trong lịch sử thế giới đầu tư nước ngoài đã tồn tại từ lâu nay, từ thời tiền tư bản, các công ty của Anh, Mỹ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu á để khai thác đồn điền nhằm cung cấp nguyên liệu cho nghành công nghiệp của chính quốc, cùng với khai thác đồn điền là khai thác khoáng sản nhằm mục tiêu thu lợi nhuận để kinh tế phát triển .
Do quan niệm của các nước khác nhau như vậy nên rất khó khăn cho vấn đề đầu tư nước ngoài. Muốn đầu tư thuận lợi, các nước phải kí kết với nhau các hiệp định quốc tế song phương cũng như đa phương về vấn đề đầu tư, cuộc đấu tranh để xây dựng các văn bản pháp lý quốc tế nhiều bên về đầu tư cho đến nay vẫn còn nhiều khó khăn do quan điểm khác nhau, hệ thống các hiệp định hiện hành của WTO còn chưa có một hiệp định chung về đầu tư cho nên vấn đề đầu tư nước ngoài được giải quyết trong các hiệp định khác nhau của WTO như hiệp định Trims, hiệp định Trips, hiệp định Gatts... Sau vòng đàm phán DoHa tổ chức thưong mại thế giới đang phấn đấu để xây dựng một hiệp định chung nhiều bên về đầu tư hi vọng rằng sẽ kết thúc đàm phán trong năm tới (2005).
1.1.2. Định nghĩa về đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật về đầu tư tại Việt nam
Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 (khoản 1 Điều 2) đầu tư nước ngoài được hiểu là đầu tư trực tiếp nước ngoài tức là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ điều chỉnh những quan hệ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không điều chỉnh các quan hệ đầu tư gián tiếp như tín dụng quốc tế, viện trợ quốc tế và các quan hệ đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Theo quy định của các hiệp định song phương và đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa vào từ nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật nước sử dụng đầu tư. Các giá trị vật chất đó có thể là động sản, bất động sản,tiền tệ và các cổ phiếu các hình thức tham gia cổ phần khác, các quyền của nguyên đơn đối với các tài sản được góp để tạo ra các giá trị kinh tế hoặc quyền được kiện đối với các dịch vụ có giá trị kinh tế, quyền tác giả, quyền đối với các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu thương phẩm, know-how, các giá trị vật chất khác được pháp luật nước nhận đầu tư công nhận (biên bản kỳ họp thứ 3 của ban thường trực pháp lý thuộc ban thư ký SEV trang 19-20)
Đầu tư gián tiếp nước ngoài chủ yếu do các quốc gia và các tổ chức liên chính phủ tiến hành, đầu tư gián tiếp không gắn với hoạt động kinh doanh sản xuất của nhà đầu tư mà nó được thể hiện dưới hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc viện trợ, do đó nó không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trực tiếp và trước mắt nào từ vốn đầu tư. Khác với đầu tư gián tiếp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư trực tiếp đưa vốn vào để kinh doanh và trực tiếp tham gia vào quản lý và sử dụng vốn của mình, đầu tư trực tiếp chịu ảnh hưởng của những quy luật thị trường, tìm kiếm lợi nhuận trực tiếp bằng vốn đầu tư của mình. Trong đầu tư trực tiếp người nào có vốn có thể bỏ vốn để làm tăng thêm năng lực sản xuất hoặc tạo ra những năng lực sản xuất mới, song cũng có thể mua lại một số cổ phần để thu hút được lợi tức cổ phần. Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà cũng có thể là người nước ngoài nếu được luật pháp của nước nhận đầu tư cho phép, nó không chỉ dựa vào nguồn vốn của nước tiếp nhận mà cùng với vốn có thể có cả kĩ thuật công nghệ, bí quyết kĩ thuật, sản xuất kinh doanh, năng lực Marketing của chủ đầu tư khi đầu tư vốn là đã tiến hành sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra phải được tiêu thụ ở thị trường nước chủ nhà hoặc thị trường lân cận. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới nhiều hình thức song những hình thức cơ bản là chủ đầu tư bỏ vốn thành lập xí nghiệp 100% vốn của mình, mua lại toàn bộ hoặc một phần xí nghiệp của nước chủ nhà, cùng góp vốn với nước chủ nhà, bỏ vốn xây dựng công trình vận hành sau đó chuyển giao cho nước chủ nhà theo hợp đồng thoả thuận giữa hai bên nhưng hình thức liên doanh là hình thức được ưa chuộng nhất từ trưóc đến nay.
1.2. Các yếu tố cơ bản hình thành môi trường đầu tư nước ngoài
Môi trường là một khái niệm có nội hàm rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo định nghĩa thông thường môi trường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại phát triển trong mối quan hệ với con ngưòi hay sinh vật ấy hay môi trường là sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại phát triển của một thực thể hữu cơ. Khái niệm môi trường thường đi kèm với một khái niệm khác sau nó, môi trường đầu tư là một trong những ví dụ... Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế, pháp luật...các yếu tố này có liên quan mật thiết với nhau và tác động đến hoạt động của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại một nước, các yếu tố này cấu thành môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư thuận lợi sẽ tạo điều kiện tốt cho cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động đầu tư tại nước đó, môi trường đầu tư thuận lợi là một môi trường đầu tư trong đó bản thân từng yếu tố cấu thành nên môi trường đầu tư phải thật hoàn chỉnh, thuận lợi và sự vận hành giữa các yếu tố này phải ăn khớp với nhau để có thể tạo thành một chỉnh thể thống nhất, một chỉnh thể hoàn hảo, hấp dẫn, thu hút, lôi cuốn các nhà đầu tư. Các yếu tố cấu thành phải có tính đồng bộ, nhất quán với nhau, hỗ trợ nhau để có thể tạo thành một môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư. Sau đây sẽ đi sâu phân tích một số yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư :
1.2.1 Sự ổn định về chính trị
Đây là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất quyết định đến việc thu hút vốn ĐTNN. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tài nguyên phong phú, hạ tầng cơ sở phát triển, nhân lực dồi dào và nhiều điều kiện thuận lợi khác cho nhà đầu tư mà chính trị không ổn định thì không thể nào tạo ra được sự chuyển dịch tích cực của các nguồn vốn ĐTNN. Khi tình hình chính trị không ổn định nhất là thể chế chính trị không ổn định đi liền với nó là pháp luật thay đổi dẫn đến những mục tiêu đặt ra cũng sẽ thay đổi cả phương thức thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Những cái mà ngày hôm qua đã xây dựng được dưới chế độ chính trị cũ đã có thể trở thành lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Như thế sẽ thiệt hại về lợi ích trong đó nhà ĐTNN phải gánh chịu một phần vậy rõ ràng không đáp ứng được mục tiêu lợi nhuận của nhà ĐTNN. Chưa kể đến những trường hợp còn, mất hoặc thất thoát vốn đầu tư nếu như chính quyền mới thực hiện quốc hữu hoá. Sự mất ổn định thường biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau đi liền với nó là những hậu quả phát sinh khác làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư. Chẳng hạn một số nước trong khu vực như : Inđônêxia, Philippin thường xuyên có xung đột vũ trang, bắt cóc, khủng bố khiến các nhà đầu tư lo ngại hoặc CHLB Nga và một số nước SNG thường xuyên có khủng bố và bất ổn về chính trị khiến các nhà đầu tư không dám đầu tư mạnh vì lo ngại có nhiều rủi ro …
Tiêu chí của sự ổn định chính trị mà các nhà đầu tư quan tâm là sự ổn định về đường lối, về tổ chức và nhân sự của cơ quan Nhà nước từ TW đến địa phương, mức độ tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị, sự hoạt động của các đảng phái. Nếu các điều kiện khác của môi trường đầu tư không đổi chính trị càng ổn định thì độ tin cậy càng cao, càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt trên thị trường đầu tư sự ổn định chính trị có thể được xem là một lợi thế so sánh cần phát huy. Đối với Việt Nam từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới sự ổn định chính trị luôn được đảm bảo. Tuy nhiên đứng trước nguy cơ diễn biến hoà bình và sự phá hoại của thế lực phản động trong nước cũng như quốc tế chúng ta phải luôn cảnh giác đồng thời tiếp tục duy trì và tăng cường sự ổn định hơn nữa. Để giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị cần phải tiếp tục thực hiện đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về kinh tế, văn hoá, giáo dục, tư tưởng, y tế…đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện cải cách hành chính quốc gia. Yếu tố quyết định sự thành công đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của thế lực phản động, bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế với khẩu hiệu Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển. Đây là xu thế lớn phản ánh đòi hỏi của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Việt Nam đặt ra chính sách đối ngoại nhằm phục vụ đường lối phát triển kinh tế của đất nước mình đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, khai thác nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp của đất nước, nhiều nước đang cố gắng giữ ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình, thực hiện chính sách hoà giải, hoà hợp dân tộc nhằm xây dựng một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, bình đẳng, hợp lý. Mở rộng quan hệ đối ngoại Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị kinh tế quốc tế lớn. Chính việc mở rộng quan hệ ngoại giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có việc thu hút ĐTNN. Sự ổn định chính trị có mối quan hệ nhân qủa với sự ổn định và an toàn xã hội nó là nhân tố tác động trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư, xã hội ổn định, trật tự, có kỷ cương pháp luật là điều kiện tối cần thiết cho các nhà đầu tư. Sự ổn định này có quan hệ với hàng loạt các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đến pháp luật. Những năm vừa qua Việt Nam đã giữ được sự ổn định chính trị mà dư luận thế giới đánh giá rất cao, quan hệ ngoại giao được mở rộng và Việt Nam càng ngày càng thu hút được nhiều ĐTNN tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước.
1.2.2. Sự phát triển kinh tế – kỹ thuật
Cùng với yếu tố ổn định chính trị, yếu tố phát triển kinh tế–kỹ thuật cũng đóng vai trò quan trọng trong môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . Sự yếu kém của nền kinh tế Việt Nam là nguồn gốc dẫn đến những hậu qủa bất lợi về chính trị, xã hội, quân sự và các quan hệ quốc tế. Do vậy từ Đại hội VI Đảng và nhà nước ta quyết tâm đưa đất nước sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế ở vị trí ưu tiên hàng đầu của chiến lược. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việt Nam sẽ ngày càng phát triển và không ngừng cải thiện về kinh tế.
Cải thiện nền kinh tế là một đòi hỏi khách quan, là một thách thức lớn đối với Việt Nam , rõ ràng nước ta không thể cải thiện môi trường đầu tư khi nền kinh tế thiếu thốn, chắp vá, không thể cạnh tranh trên trường quốc tế. Nước ta là nước có vị trí địa lý thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi, giàu tài nguyên thiên nhiên, giàu tiềm năng, dân số gần 80 triệu người, nền văn hoá phong phú đậm đà bản sắc riêng xuyên suốt bề dày lịch sử hàng nghìn năm đã hun đúc nên những con người cần cù, ham học và sáng tạo. Tuy Việt Nam tài nguyên thiên nhiên phong phú, tiềm năng dồi dào nhưng điều kiện kinh tế–kỹ thuật của đất nước chưa đủ sức để có thể khai thác tốt, có hiệu quả cao tài nguyên thiên nhiên đó. Ngày nay giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới đang diễn ra một cuộc chạy đua quyết liệt nhằm cải thiện môi trường đầu tư để hấp dẫn được nguồn vốn đầu tư nước ngoài của các nước khác trên thế giới. Việt Nam đã và đang cố gắng khẳng định mình trong cuộc chạy đua này, một đất nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CNH-HĐH) chắc chắn sẽ là một điểm đến đầy tiềm năng cho những ai biết sử dụng và phát triển nó.
Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm cạnh tranh, kiến thức thị trường, khoa học công nghệ của nước ngoài để tạo cho mình một nền kinh tế vững chắc. Hơn nữa chúng ta cũng cần thu hút vốn đầu tư trong nước, nhà nước ta cần chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cho mình một nền kinh tế khá vững vàng có như thế mới có thể thu hút được vốn ĐTNN. Nếu chỉ chú trọng thu hút vốn ĐTNN mà không chú trọng phát triển kinh tế trong nước thì đất nước sẽ không phát triển được bởi ĐTNN chỉ là một bộ phận của nền kinh tế nhưng nó không phải là hình ảnh thu nhỏ của nền kinh tế quốc dân. Do vậy Việt Nam cần phải có những chính sách phát triển kinh tế–kỹ thuật thích đáng để thu hút vốn ĐTNN.
Thu hút ĐTNN thuộc lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại vì vậy chỉ có thể thu hút được đối tác bên ngoài nếu như quốc gia có chủ trương mở rộng quan hệ, nói cách khác là thực hiện chiến lược kinh tế mở. Có thể nói đó là điều kiện tiên quyết, tuy nhiên trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế như hiện nay sẽ không thể có một nước nào lại tự mình đóng cửa không quan hệ với bên ngoài. Song tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, mở rộng phương thức mở cửa khác nhau mà mức độ hiệu quả khác nhau. Năm 1987 Ngân hàng thế giới đã điều tra 41 quốc gia đang phát triển và đã rút ra nhận xét là tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với mức độ mở cửa nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng đó tác động qua lại rất chặt chẽ với việc thu hút vốn ĐTNN. Kinh nghiệm của các nước ASEAN thập kỷ 60 và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng đã khẳng định điều đó. ở Việt Nam nếu so sánh thời kỳ trước 1987 đến bây giờ cũng thấy phù hợp với nhận xét đó. Do vậy Việt Nam cần mở cửa bên ngoài đồng thời tăng cường mở cửa bên trong, giữa mở cửa bên ngoài và mở cửa bên trong có mối quan hệ mật thiết lẫn nhau, càng mở cửa bên trong càng thu hút được nhiều ĐTNN, điều này liên quan đến vấn đề về nhu cầu thị trường, lao động, thông tin trong và ngoài ngoài nước ( thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ ) đặc biệt là phát triển liên lạc viễn thông quốc tế.
Để thu hút ĐTNN từ năm 1987 Việt Nam đã xây dựng và duy trì sự ổn định các hoạt động về tài chính, ngân hàng, không có những đợt biến động về giá cả, tỷ giá hối đoái…Điều đó làm yên lòng các nhà đầu tư và chứng tỏ môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có nhiều cải thiện.
Một trong những điều kiện mang tính chất tiên quyết hấp dẫn các nhà đầu tư đó là sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Kĩ thuật càng cao càng đòi hỏi một kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại như đường giao thông, đường sắt, đường bộ, hàng không, đường biển... đồng bộ, thông tin liên lạc thuận lợi, kịp thời. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, khi các nguồn vốn đều vận động thông qua thị trường, sự biến động nhanh chóng của thị trường hàng hoá tiền tệ, tài chính, kĩ thuật tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, buộc các chủ đầu tư phải ứng phó kịp thời, điều đó đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật hiện đại, để không một nhà đầu tư nào phải gánh chịu những thiệt hại và những chi phí trực tiếp do cơ sở hạ tầng yếu kém gây ra. Những khoản thuế mà họ nộp cho nhà nước nhận đầu tư đã bao hàm cả những chi phí về hạ tầng vật chất kĩ thuật đó. Do đó tư bản nước ngoài chỉ nhảy đến nơi có môi trường đầu tư thuận lợi mà sự thuận lợi trước hết là nơi có cơ sở hạ tầng vật chất hoàn chỉnh hiện đại. Thường thì các quốc gia đang phát triển không có một hệ thống hạ tầng vật chất đầy đủ, đồng bộ như đường giao thông, bến cảng sân bay, thông tin liên lạc phục vụ đủ mức ngay từ đầu, những yếu tố này chỉ hình thành từng bước, có trọng điểm và cùng với sự phát triển kinh tế ngày càng được hoàn thiện hơn. Vì đầu tư vào xây dựng một kết cấu hạ tầng vật chất hiện đại, đồng bộ đòi hỏi những khoản vốn, kỹ thuật vô cùng to lớn, vốn lại luân chuyển chậm nên lợi nhuận không cao nếu tư bản tư nhân không chịu bỏ vốn vào khu vực này đòi hỏi chính phủ nước nhận đầu tư phải gánh vác. Bước vào thực hiện chiến lược kinh tế mở, cơ sở hạ tầng Việt Nam còn yếu kém và chưa đầy đủ, chưa phù hợp với các yêu cầu hoạt động chuyển giao kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Song sau hơn 15 năm khôi phục và xây dựng từ đống đổ nát của chiến tranh việt Nam bước đầu đã có những hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, đặc biệt các cảng biển, cảng hàng không được xây dựng duy trì và củng cố từ chiến tranh cùng với hệ thống những xí nghiệp quốc doanh là cơ sở vật chất không kém phần hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hạ tầng cơ sở phải được cải thiện và có đầu tư thích đáng để tạo niềm tin và sự an tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi họ đầu tư vào Việt Nam như hệ thống điện, nước, bưu chính viễn thông, giáo dục, y tế, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng... tất cả đều phải được quan tâm và đầu tư một cách triệt để để nâng cấp, làm mới, ngày càng cải thiện cho phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ sở hạ tầng yếu kém là trở ngại rất lớn đối với các nhà đầu tư. Nó là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế, là điều kiện quyết định đến chi phí sản xuất, tiến độ đầu tư, chất lượng sản phẩm và lợi nhuận của nhà đầu tư. Vấn đề tổ chức giao thông và chấp hành luật lệ giao thông ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đang là một vấn đề nan giải, gây nhiều bức xúc cho xã hội, cho nên giao thông cần được đặc biệt quan tâm và không ngừng cải thiện để đảm bảo không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn giữ vững trật tự an toàn xã hội. Từ năm 2000 trở lại đây Việt nam đã có nhiều giải pháp khắc phục yếu kém về giao thông như khôi phục giao thông công cộng bằng các biện pháp trợ giá xe buýt, trang bị cơ sở hạ tầng giao thông đô thị như đèn tín hiệu giao thông, biển báo giao thông, hạn chế xe máy tham gia giao thông, nâng lệ phí đăng kí xe máy, ô tô, quy định mỗi người chỉ được đăng kí một xe. Tăng cường giáo dục mọi người tuân thủ luật lệ giao thông, trong vận tải hàng hoá cần hạn chế thời gian xe tải cỡ lớn ra vào nội đô thị, cần xây dựng các cảng, điểm tập kết hàng hoá ở xung quanh thành phố. Được sự giúp đỡ của Đức, Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng hệ thống tàu điện ngầm, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh, nguồn điện cần phải ổn định để phát triển sản xuất kinh doanh, giá điện, giá nước phải rẻ để giảm chi phí đầu vào cho các nhà đầu tư, giá bưu chính viễn thông quá cao cần hạ xuống ngang bằng với các nước trong khu vực, hoàn thành đường dây 500 KV Bắc - Nam, triển khai các dự án nâng cấp, sửa chữa, mở rộng các tuyến đường quan trọng, thêm vào đó Ngân hàng thế giới đã chấp nhận cho Việt Nam vay với lãi suất ưu đãi trong đó các khoản vay để thực hiện dự án nâng cấp hệ thống thanh toán hiện đại cho ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Qua đó ta thấy yếu tố kinh tế ảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư. Sự phát triển kinh tế kĩ thuật là điều kiện để có một môi trường đầu tư vững chắc, an toàn và hấp dẫn.
1.2.3. Sự phát triển của hệ thống pháp luật về Đầu tư
Cũng như yếu tố kinh tế, chính trị, yếu tố pháp luật cũng có vai trò quan trọng không kém đối với môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư có hấp dẫn hay không? Có hoàn thiện hay không? Là phụ thuộc không nhỏ vào các quy định của pháp luật về đầu tư. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết phải được thể hiện ở Luật. Đối với mọi quốc gia, Luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà các nhà đầu tư đều quan tâm.
Cùng với luật là các văn bản dưới luật trong hệ thống pháp luật là không kém phần quan trọng, nghiên cứu các văn bản pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài chúng ta thấy các văn bản ban hành sau đó bao giờ cũng thoáng hơn các văn bản trước thể hiện đúng chủ trương của Nhà nước Việt Nam là tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư đủ sức cạnh tranh với các nước xung quanh. Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước sẽ phải đụng chạm rất nhiều vấn đề về luật pháp. Tuy nhiên cái mà họ quan tâm nhất đó là các vấn đề về quyền kinh doanh, các biện pháp ưu đãi và bảo đảm đầu tư, các thủ tục cấp phép đầu tư và các phương thức giải quyết tranh chấp về đầu tư. Đối với nước ta kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được công bố các cơ quan quản lý thường theo dõi tình hình thực tế, kịp thời kiến nghị những sửa đổi bổ sung, đặc biệt đã được Quốc hội sửa đổi bổ sung nhiều lần cho phù hợp với cơ chế thị trường và quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, sửa đổi lần một năm 1990 sau đó sửa đổi năm 1992, 1996 và sửa đổi gần đây nhất năm 2000. Vì thế cho nên về cơ bản Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã phù hợp với nền kinh tế mở, phù hợp với tình hình trong nước và trên thế giới, vừa đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội của Việt Nam, vừa tăng tính hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục sửa đổi bổ sung như hệ thống pháp luật của nước ta chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh doanh của các nhà đầu tư nên gây nhiều khó khăn cho họ. Như đối tượng được hưởng ưu đãi thì Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định chỉ dành một số ưu đãi cho một số dự án liên doanh, không ưu đãi cho xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Thực tế xí nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn như không có sự hỗ trợ của đối tác Việt Nam, chịu rủi ro một mình, trong khi nhiều dự án này cũng thuộc diện ưu tiên của Việt Nam. Vì vậy cho nên pháp luật cần có những biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư nhiều hơn cho các nhà đầu tư, pháp luật cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nâng cao tính hấp dẫn. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh doanh gây khó khăn cho nhà đầu tư dẫn đến khó khăn trong vấn đề đầu tư. Dù luật đầu tư có mềm dẻo thông thoáng nhưng thủ tục đầu tư rườm rà phức tạp tạo ra những khe hở cho quan chức địa phương sách nhiễu gây phiền hà, tham ô, hối lộ, gây thiệt hại đến lợi ích nhà đầu tư làm họ nản lòng. Thủ tục đầu tư là một vấn đề nổi cộm đang được chúng ta cải tiến từng bước. Để đảm bảo tính hấp dẫn cần kiên quyết thực hiện '' một cửa '' và quy định chặt chẽ thời gian tối đa để giải quyết thủ tục, kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm những trường hợp gây phiền hà, ăn hối lộ. Chẳng hạn việc thẩm định thiết kế do Bộ Xây Dựng đề ra gồm 4 nội dung: Tư cách pháp nhân; kiến trúc; an toàn xây dựng; giải pháp xây dựng và phòng chống cháy nổ như hiện nay là quá phiền hà. Trong vấn đề này có lẽ chỉ nên kiểm tra tư cách pháp nhân của nhà thiết kế và kiến trúc phải hợp quy hoạch cảnh quan, còn các nội dung khác chỉ cần ban hành tiêu chuẩn, quy phạm xây dựng để nhà đầu tư thực hiện và chịu trách nhiệm là đủ. Hướng sắp tới cần nha._.nh chóng thực hiện tối ưu hoá các thủ tục hành chính, rút ngắn tối đa thời gian mà các nhà đầu tư phải chi phí cho các công việc thủ tục. Kinh nghiệm quốc tế trong những năm qua cũng đã cho ta bài học kinh nghiệm mặc dù độ thông thoáng như nhau tạo ra tính hấp dẫn do luật đầu tư mang lại cao như nhau nhưng ở nước nào có thủ tục đầu tư đơn giản gọn nhẹ thì ở đó thu hút đầu tư mạnhhơn. Chẳng hạn trong số các nước ở khu vực ASEAN như Thái Lan là nước thực hiện đơn giản hoá thủ tục đầu tư khá mạnh, cơ quan hợp tác đầu tư là cửa duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết công việc tiếp theo đồng thời thay mặt nhà đầu tư liên hệ với cơ quan hữu quan rồi trả lời nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nhanh chóng trong thủ tục hành chính khi đầu tư vào nước mình. Do vậy mà Thái Lan thu hút được nhiều vốn đầu tư nhất trong khu vực. Trái lại thủ tục ở Philippin quá rườm rà có đến 45 cơ quan liên quan đến việc thực hiện dự án. Riêng việc xét duyệt cho phép đầu tư cũng đã có 4 cơ quan có thẩm quyền xét duyệt gây cản trở đối với việc thu hút đầu tư. Đối với nước ta thủ tục đầu tư là vấn đề trở ngại việc thu hút đầu tư chẳng hạn thời gian chuẩn bị dự án kéo dài thường 6 tháng đến 1 năm hoặc dài hơn, cơ quan này cũng có quyền buộc nhà đầu tư trình dự án để họ xem xét góp ý mặc dù nhiều khi không đủ trình độ, thêm vào đó việc chuẩn bị dự án của bên Việt Nam thường sơ suất, khi đàm phán phải sửa đổi bổ sung nhiều lần. Các nhà đầu tư Đài Loan đánh giá thủ tục đầu tư của Việt Nam quá rườm rà, gây lãng phí thời gian. Do những khó khăn, phức tạp cộng sự thay đổi của cơ chế thị trường mà pháp luật về đầu tư cũng phải thay đổi như thế nào cho phù hợp với sự thay đổi của đất nước và thế giới. Luật đầu tư nước ngoài 1987 quy định cụ thể về các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, các biện pháp bảo đảm đầu tư, chính phủ quản lý về đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài 1987 ban hành vẫn mắc phải những sai lầm những nhược điểm vốn có của hệ thống pháp luật thời kì bao cấp, bởi chúng được ban hành trong bối cảnh đất nước mới bước vào thời kì đổi mới sau Đại hội Đảng VI năm 1986 nền kinh tế còn vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quan hệ kinh tế đối ngoại tập trung vào Liên Xô và Đông Âu. Luật đầu tư nước ngoài 1987 chỉ tập trung hướng dẫn xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà coi nhẹ hợp đồng hợp tác kinh doanh; giới hạn tư nhân phải chung vốn với tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân để thành bên Việt nam; cho xí nghiệp liên doanh được miễn giảm thuế lợi tức và chuyển lỗ 5 năm mà không áp dụng vấn đề này với các hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngày 30.9.1990 tại kì họp thứ 7 Quốc hội khoá VIII đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 sửa đổi, bổ sung 15 điều trên 42 điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 tập trung chủ yếu ba vấn đề :
1. Cho phép tư nhân hợp tác đầu tư với nước ngoài.
2. Quy định liên doanh nhiều bên và liên doanh tiếp.
3. Quy định hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Sau khi sửa đổi bổ sung lần 1 Luật đầu tư nước ngoài 1990 đã có hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Với sự sửa đổi bổ sung đồng bộ này hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt nam vào những năm 1990 thêm hấp dẫn. Luật đầu tư nước ngoài bước sang một giai đoạn phát triển mới đánh dấu sự thành công của chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên Luật Đầu tư nước ngoài 1990 chỉ giải quyết được 3 vướng mắc nêu trên còn có những vướng mắc khác chưa kể những vướng mắc phát sinh mới đã cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài 1992 đã sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 và đã giải quyết những bức xúc này. Năm 1992 tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều biến chuyển tích cực việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về đầu tư nước ngoài nói riêng đã tạo hành lang pháp lý mới cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Hơn nữa giai đoạn này hệ thống pháp luật Việt Nam có sự ra đời của Hiến pháp 1992, Điều 25 quy định những nguyên tắc về hợp tác kinh tế với nước ngoài, liên quan đến Đầu tư nước ngoài đã tạo cơ sở pháp lý mới cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Vấn đề thu hút vốn Đầu tư nước ngoài ngày càng có tính cạnh tranh gay gắt số nước kêu gọi đầu tư nặng nhất là các nước đang phát triển. Cải thiện môi trường Đầu tư nước ngoài là vấn đề bức xúc của các Quốc gia cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thực tiễn Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992 cho thấy các mục tiêu kinh tế xã hội và tài chính của hoạt động Đầu tư nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, không khuyến khích đúng mức sẽ không thu hút được đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài vào ít thì các mục tiêu kinh tế xã hội cũng không đạt được vì vậy việc điều chỉnh hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài trong đó có vấn đề mở rộng, khuyến khích và ưu đãi là vấn đề có tính khách quan, ngày 23.12.1992 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài, đã sửa đổi bổ sung 9 Điều, bổ sung mới 3 Điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng là cho phép doanh nghiệp tư nhân hợp tác đâù tư với nước ngoài; quy định hạn chế góp vốn bằng nguồn tài nguyên; tăng dần tỉ trọng góp vốn của bên Việt Nam, tăng thời hạn đầu tư lên 50 năm đến 70 năm; Mở tài khoản vốn vay ở nước ngoài; quy định về khu chế xuất; bổ sung phương thức BOT; bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự thay đổi của pháp luật; cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh. Sau đó Nghị định số 18 ngày 26.12.1992 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài 1992 thay thế Nghị Định 28/HĐBT ngày 6.2.1991 và 17 văn bản pháp luật liên quan đến Đầu tư nước ngoài cũng được ban hành. Do sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội và sự thay đổi của tình hình thế giới mà Luật Đầu tư nước ngoài (LĐTNN) 1996 được ban hành sửa đổi LĐTNN 1992 tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt động ĐTNN tại Việt nam. Giai đoạn này đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhịp độ tăng bình quân của tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Sản xuất công nghiệp tăng 13,2%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt hiệu quả tốt, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong hiệp hội các nước ASEAN, diễn đàn APEC, tăng cường quan hệ với các nước phát triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực quốc tế khác. Xây dựng Nhà nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất và kinh tế hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, an ninh vững chắc, LĐTNN 1996 tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể hiện chính sách nhất quán thu hút ĐTNN vào Việt nam của Đảng và Nhà nước ta. Nó được ban hành trong bối cảnh hệ thống pháp luật về kinh tế đã được sửa đổi bổ sung tương đối đầy đủ so với trước kia, nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành vào thời điểm này như Bộ Luật Dân sự, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ... nhằm thu hút tối đa mọi nguồn vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. LĐTNN 1996 gồm có 6 chương, 68 điều có nội dung cơ bản sau:
- Lĩnh vực địa bàn khuyến khích đầu tư.
- Lĩnh vực địa bàn hạn chế đầu tư hoặc cấm đầu tư.
- Quy định miễn, giảm thuế nhập khẩu.
- Miễn giảm tiền thuê đất.
- Bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện hình thức đầu tư.
- Quản lý ngoại hối.
- Nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh ( DNLD).
- Quy định đối với người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
- Mở chi nhánh.
- Quản lý Nhà nước về ĐTNN
-Thủ tục đầu tư.
- Khiếu nại, khiếu kiện.
- Phân cấp cấp giấy phép đầu tư.
Nghị Định 12/CP ngày 18.2.1997 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành LĐTNN 1996 và 15 văn bản pháp lý khác có liên quan ban hành tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động ĐTNN phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng, phát triển mở cửa nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu thời điểm đó.
Sớm khắc phục những quy định chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN như về một số loại thuế, về đất đai, ngoại hối... hiện đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN đồng thời tình hình mới cũng đặt ra yêu cầu phải xem xét để đưa vào LĐTNN một số vấn đề mà trong các đợt sửa đổi bổ sung Luật trước đây chưa có điều kiện làm được như điều chỉnh cơ cấu tổ chức và cơ chế điều hành doanh nghiệp liên doanh, thiết kế rõ ràng cơ chế chế tài xử lý tranh chấp, phá sản, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để tranh thủ nhiều hơn các đối tác có tiềm năng về vốn và công nghệ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giúp đỡ họ vượt qua tác động của khủng hoảng kinh tế. Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt do cung cầu về vốn ĐTNN luôn luôn căng thẳng. Các nước trong khu vực nhất là các nước ASEAN đã và đang cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư theo hướng dành nhiều ưu đãi hơn cho ĐTNN nhằm vượt lên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược để vượt qua khủng hoảng và phục hồi phát triển kinh tế. Chính điều này tạo sức cạnh tranh mạnh là thách thức lớn đối với Việt Nam vì trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN (AFTA) các nhà đầu tư Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ chỉ cần đầu tư ở các nước ASEAN khác do môi trường kinh doanh thuận lợi hơn mà vẫn bán được hàng vào Việt Nam với thuế suất giảm dần 0 - 5%. Trong bối cảnh đó, pháp luật chính sách về ĐTNN ở Việt nam trước 97 được coi là hấp dẫn thông thoáng đang mất dần tính cạnh tranh, trong khi độ rủi ro của việc đầu tư ở Việt nam năm 96 là rất cần thiết góp phần nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư ở Việt nam so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn này nước ta đã chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới, trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), tổ chức kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC); Diễn đàn hợp tác kinh tế á - âu (ASEM) và đang đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO); đang thực hiện những cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN ( AFTA) ... Do vậy mà ngày 9.6.2000 Quốc Hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN 1996. LĐTNN 2000 đã đưa ra những quy định nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nghị Định 24/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành LĐTNN 2000 tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh của Việt nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với một số nước trong khu vực. LĐTNN 2000 sửa đổi 4 nội dung và 26 vấn đề:
- Nội dung thứ nhất là các vấn đề cần đến sự tháo gỡ của chính phủ gồm: Nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự thay đổi về chính sách, pháp luật, cân đối ngoại tệ; nguyên tắc không hồi tố; đền bù giải phóng mặt bằng; thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất, bảo đảm bảo lãnh của Chính phủ; áp dụng pháp luật nước ngoài.
- Nội dung thứ hai là các vấn đề mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN; Thành lập văn phòng điều hành; nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh, việc tổ chức lại doanh nghiệp; cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định, chuyển nhượng vốn; Thanh lý phá sản doanh nghiệp đối với doanh nghiệp (DN) có vốn ĐTNN; quy định về xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường; tuyển dụng lao động.
- Nội dung thứ ba là các vấn đề mở rộng các ưu đãi về thuế, tài chính; thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, miễn thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, chuyển lỗ của DN, quy định về lập quĩ.
- Nội dung thứ 4 là các vấn đề về cải tiến thủ tục hành chính, tăng cường sự quản lý nhà nước về ĐTNN; Điều kiện cấp giấy phép đầu tư, thời hạn cấp phép đầu tư, khen thưởng, chế độ thanh tra, kiểm tra, quản lý nhà nước về ĐTNN, các phụ lục và danh mục.
Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung điều quan trọng nhất mà chúng ta cần quan tâm là phải rút ra bớt những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp gây khó khăn cho nhà đầu tư, thứ hai phải xoá bỏ những văn bản pháp luật chồng chéo trái với những văn bản mà cơ quan quyền lực cấp trên ban hành, có như vậy pháp luật mới trở thành một chỉnh thể thống nhất, hoàn chỉnh từ trên xuống dưới, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh với đội ngũ luật sư có đầy đủ khả năng tư vấn về mọi lĩnh vực pháp luật theo yêu cầu của khách hàng là yếu tố hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư. Trong khi đó ở nước ta vấn đề tư vấn của các Luật sư ở các đoàn Luật sư còn hạn chế chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các nhà đầu tư. Việt Nam cũng cần phải quy định cho phép các công ty Luật nước ngoài đầu tư vào Việt Nam để nâng cao chất lượng của dịch vụ tư vấn Luật trong nước, như thế luật sư trong nước mới có thể học hỏi được kinh nghiệm và mở rộng quan hệ với luật sư nứớc ngoài. Ngoài ra Nhà nước còn phải tổ chức các buổi toạ đàm, trò chuyện để thông báo, giao lưu với doanh nghiệp, giúp các nhà đầu tư cập nhật được pháp luật mới ban hành hay mới sửa đổi bổ sung như vậy sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, bảo đảm an toàn pháp lý cho nhà đầu tư khi họ đầu tư vào Việt Nam. Chế độ hai giá đối với người nước ngoài cũng nên bãi bỏ để tạo sân chơi bình đẳng giữa người Việt Nam và người nước ngoài một khi họ đã tham gia đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.
Các yếu tố chính trị, kinh tế - kĩ thuật, pháp luật có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau và cùng có vai trò quyết định đến môi trường đầu tư mà các nhà đầu tư hết sức quan tâm. Không có sự ổn định chính trị thì hệ thống pháp luật không đầy đủ, không đồng bộ thì không thể phát triển kinh tế nói chung và thu hút nguồn vốn ĐTNN nói riêng. Không có sự phát triển của kinh tế kĩ thuật thì không thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, không thể thực hiện được nguyên tắc độc lập, tự chủ, bình đẳng cùng có lợi và không thể cạnh tranh nổi với các đối thủ trên thị trường đầu tư. Do vậy 3 yếu tố này yếu tố nào cũng quan trọng và có tính chất quyết định đến sự thành công trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1.3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế
Nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương nhất quán và lâu dài nhằm góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Hơn 15 năm qua kể từ khi ban hành Luật ĐTNN 1987 thì hoạt động đầu tư nước ngoài đã đạt được những kết quả khả quan góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế phát triển kinh tế xã hội, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy ĐTNN đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Qua đó ta thấy ĐTNN có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. ĐTNN làm tăng nguồn vốn đầu tư xã hội trong khi tích luỹ xã hội của nền kinh tế còn thấp, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu cũng như hàng hoá tiêu thụ trong nước. ĐTNN nhất là đầu tư trực tiếp (FDI) luôn kèm theo chuyển giao công nghệ dẫn đến tăng năng xuất lao `động; FDI góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách, mở rộng nguồn thu thuế của địa phương và đóng góp cho nguồn thu của Chính phủ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở những vùng có ĐTNN tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người dân. ĐTNN còn khuyến khích đầu tư trong nước phát triển. Thực tế những năm qua cho thấy ĐTNN không những không lấn sân của đầu tư trong nước mà còn khuyến khích phát triển đầu tư trong nước. Điều này thể hiện ở chỗ doanh nghiệp trong nước có cơ hội trở thành nhà cung cấp hoặc nhà phân phối cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Ngoài ra các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn tạo ra sự cạnh tranh trong một số lĩnh vực kinh tế mà trước đây do một hoặc một vài doanh nghiệp trong nước độc quyền.
ĐTNN góp phần mở rộng quy mô và thị trường xuất khẩu. Việc tăng cường thu hút ĐTNN tăng xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu của khu vực ĐTNN thời kì 1996-2000 đạt trên 16 tỷ USD chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, chiếm tỷ trọng cao là các mặt hàng giày dép, may mặc, điện tử. Xuất khẩu năm 2003 của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tiếp tục có chiều hướng gia tăng, đạt mức 6,225 tỷ USD tăng 38,5% so với năm 2002. Đến hết năm 2003 tỷ trọng xuất khẩu của ĐTNN đã chiếm tới 31% xuất khẩu cả nước, vượt chỉ tiêu 25% đề ra năm 2005 trong nghị quyết 09 năm 2001 của Chính phủ về tăng cường nâng cao hiệu quả FDI thời kì 2001-2005.
Ngoài ra khu vực ĐTNN góp phần mở rộng thị trườngtrong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh đặc biệt là khách sạn, du lịch và các dịch vụ tư vấn pháp lý, chuyển giao công nghệ....tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường quốc tế. Nghị quyết 01/2004 của Chính phủ coi việc đẩy mạnh xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt của năm 2004. Như vậy ĐTNN góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển nhất là vấn đề xuất khẩu trong khu vực ĐTNN cũng như mở rộng quy mô xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra ĐTNN còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng lực sản xuất và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hiện nay ĐTNN đóng góp trên 13% GDP, chiếm 18% tổng số vốn đầu tư xã hội, trên 50 % kim ngạch xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp và khoảng 7% thu ngân sách cả nước. Khu vực ĐTNN cũng đã thu hút được gần nửa triệu lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác. Nhờ nguồn vốn này mà Nhà nước đã chủ động hơn trong việc bố trí cơ cấu đầu tư góp phần khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước theo tinh thần kết hợp giữa nội lực và ngoại lực để tạo sức mạnh tổng hợp cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Hoạt động của khu vực ĐTNN có tác động tích cực đối với các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, mở rộng nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán ...Đến hết năm 2002 khu vực có vốn ĐTNN chiếm tới 35,3% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước, ĐTNN năm 2003 tiếp tục xu hướng đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với trên 70% dự án và vốn đăng kí tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế trọng điểm Miền Nam và Miền Bắc. ĐTNN đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước đạt 14,5% .ĐTNN đã tạo thêm nhiều ngành nghề sản phẩm mới góp phần làm tăng đáng kể năng lực các ngành công nghiệp Việt Nam. Chỉ riêng 4 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, TPHCM đã chiếm gần 60% số dự án và gần 51% tổng số vốn cấp mới của toàn quốc, các dự án ĐTNN có tác dụng lan toả ảnh hưởng, thúc đẩy cạnh tranh, hình thành các xí nghiệp vệ tinh để tăng thêm giá trị của sản phẩm từ thị trường trong nước.Nhờ được trang bị công nghệ mới, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến nên sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá của nhiều doanh nghiệp đã được nâng cao đáng kể. Nhiều sản phẩm đã có chỗ đứng và chiếm thị phần tương đối khá trên thị trường nội địa và xuất khẩu ra thị trường thế giới. Sự cạnh tranh về nhiều mặt của các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước đã thúc đẩy tính cạnh tranh của nền kinh tế và làm cho sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung này ngày càng được nâng lên.Thu hút vốn ĐTNN có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác dầu khí, công nghiệp chế biến, điện tử ....
ĐTNN tạo điều kiện cho nước tiếp nhận vốn đầu tư tiếp thu công nghệ mới và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến; đội ngũ lao động được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ về nhiều mặt. Khu vực ĐTNN đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ kĩ thuật của nhiều ngành sản xuất để tạo điều kiện nâng cao tay nghề, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần quản lý nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Ngoài ra khu vực ĐTNN đã thu hút được một lượng đáng kể lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, thu nhập của người lao động được tăng, mức sống được cải thiện. Khoa học công nghệ mới được đưa vào áp dụng sẽ tăng năng suất lao động, sản phẩm đạt hiệu quả cao, khai thác triệt để tiềm năng và nguồn nhân lực dồi dào của đất nước kết hợp với kinh nghiệm quản lý tiên tiến sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước càng ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ.
chương 2
Một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện
môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987; 1990; 1996; 2000.
2.1.1. Các quy định về bảo đảm Đầu tư
Biện pháp đảm bảo đầu tư là một trong nhiều quy định cơ bản của LĐTNN tại Việt Nam. Quy định này khẳng định sự cam kết của Chính Phủ không trưng thu, không quốc hữu hoá, trưng mua tài sản của nhà đầu tư. Nếu trong điều lệ ĐTNN năm 1977 chưa khẳng định việc nhà nước Việt Nam có quốc hữu hoá các xí nghiệp có vốn ĐTNN hay không thì trong LĐTNN 1987 đã quy định những nguyên tắc và những biện pháp bảo đảm đầu tư nhằm làm cho các nhà ĐTNN yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam '' Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi nhất định, các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam”. Trường hợp bị trưng thu tài sản thì các nhà ĐTNN được đền bù thoả đáng. Tuy nhiên giống như các nước đang phát triển khác Việt Nam không cam kết đảm bảo đối với các rủi ro không chuyển đổi được các khoản thu nhập từ đồng tiền trong nước ra đồng tiền nước ngoài đặc biệt Việt Nam không công nhận và không đảm bảo về quyền sở hữu về đất như các nước Malaixia, Thái Lan. Trong khi đó Việt Nam lại có quy định Hiến pháp về bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản khác, các quyền lợi hợp pháp khác và bảo đảm không quốc hữu hoá đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, cụ thể Điều 21 LĐTNN 1987 khẳng định '' Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng thu trưng dụng hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá ''. Ngoài ra LĐTNN năm 1987 còn cho phép nhà đầu tư chuyển lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ (Đ22) cho phép các nhân viên nước ngoài làm việc trong các xí nghiệp có vốn ĐTNN được chuyển về nước thu nhập hợp pháp của mình sau khi đã nộp đủ thuế thu nhập (Đ23).
Biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi có sự thay đổi về chính sách pháp luật. Đối với các nhà kinh doanh , yêu cầu hàng đầu của họ khi có một dự án đầu tư muốn đầu tư vào một nước là pháp luật cũng như chính sách của nhà nước phải ổn định để không làm đảo lộn các tính toán kinh doanh của họ, nhưng dưới góc độ quản lý vĩ mô của nhà nước khi tình hình thay đổi thì chính sách, pháp luật cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Để giải quyết mâu thuẫn nói trên cần có giải pháp thích hợp về mặt pháp luật.Trong trường hợp do thay đổi của pháp luật Việt nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép thì nhà nước có biện pháp giải quyết thoả đáng với quyền lợi của nhà đầu tư. Chủ trương đảm bảo về vốn và tài sản của nhà ĐTNN không những được thể hiện trong Luật ĐTNN 1992 mà còn thể hiện trong nghị định số 18/CP ngày 26.12.1992 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam 1992 như sau: Trong trường hợp nếu những thay đổi của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi ích của các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam quy định trong giấy phép đầu tư và giấy phép kinh doanh thì Uỷ Ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (Nay là Bộ kế hoạch và Đầu tư) có biện pháp giải quyết thoả đáng để bảo đảm quyền lợi của các chủ đầu tư bằng cách thoả thuận với họ theo các hướng :
1. Thay đổi mục tiêu hoạt động của các dự án.
2. Giảm miễn thuế trong khuôn khổ của pháp luật.
3. Thiệt hại của chủ đầu tư là khoản lỗ, khoản lỗ này được chuyển sang năm tiếp theo không được vượt quá 5 năm.
4. Cho phép xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được tiếp tục hoạt động theo quy định của giấy phép đầu tư đã cấp trong một số trường hợp nếu thấy việc cho phép dự án tiếp tục hoạt động không ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia. Theo tập quán quốc tế giấy phép đầu tư do nhà nước cấp không những xác định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của nhà đầu tư mà còn được coi là cam kết giữa nhà nước và nhà đầu tư. Thực tiễn thời gian qua cho thấy có những trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam đã làm đảo lộn kế hoạch kinh doanh được hoạch định từ trước, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư, đồng thời để phù hợp với luật pháp quốc tế, LĐTNN sửa đổi 1992 đã đưa ra nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư, nhà nước khi có sự thay đổi chính sách, pháp luật của Việt nam nhưng chưa đầy đủ.LĐTNN sửa đổi bổ sung năm 2000 đã thay khoản 3 Điều 21 trong LĐTNN 1996 bằng điều 21a trên cơ sở Luật hoá điều 01 Nghị định 12/CP ngày 18.2.1997của chính phủ quy định chi tiết thi hành LĐTNN năm 1996 nhằm quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư trong trường hợp do có những thay đổi trong quy định của pháp luật Việt nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư theo hướng: Cho phép nhà đầu tư tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong giấy phép đầu tư và LĐTNN hoặc áp dụng các biện pháp như cho phép thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án, miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật, thiệt hại của DN có vốn ĐTNN được xem xét bồi thường thoả đáng trong một số trường hợp cần thiết. Việc sửa đổi cũng nêu rõ những quy định mới ưu đãi hơn ban hành sau khi cấp giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho các DN có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Biện pháp bảo đảm bảo lãnh của Chính phủ đối với các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) và các dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng. Nhà ĐTNN mong muốn được Chính phủ bảo lãnh các nghĩa vụ về tài chính, chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư nước ngoài thậm chí có cả những cam kết bảo lãnh mà pháp luật chưa quy định. Những mong muốn về cam kết, bảo lãnh với các dự án này là chính đáng, việc tôn trọng đầy đủ các cam kết đó là điều kiện quan trọng nhiều khi mang tính tiên quyết để nhà ĐTNN bỏ vốn đầu tư, tìm kiếm được nhà tài trợ và để triển khai dự án thành công. Các cam kết này thường đa dạng và các dự án khác nhau biện pháp bảo lãnh sẽ khác nhau. LĐTNN 2000 đã bổ sung cơ chế quản lý, cơ chế pháp lý về bảo lãnh đối với một số dự án đặc biệt quan trọng là căn cứ vào nguyên tắc quy định của LĐTNN tại Việt Nam. Chính phủ có thể khuyến khích các thoả thuận với nhà ĐTNN hoặc chia ra các biện pháp bảo đảm, bảo lãnh về đầu tư.
Biện pháp bảo đảm đối với việc chuyển các khoản liên quan đến đầu tư. Mục đích của kinh doanh nói chung và của đầu tư nói riêng là lợi nhuận. Muốn thu hút được nhiều vốn ĐTNN thì nhất thiết pháp luật phải đảm bảo cho nhà đầu tư có thể chuyển vốn, lợi nhuận và các tài sản hợp pháp khác của họ ra nước ngoài một cách thuận tiện. Về vấn đề này Điều 22 LĐTNN 1992 quy định các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh; những khoản tiền trả cho việc cung cấp kĩ thuật, dịch vụ; tiền gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động; vốn đầu tư; các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình. Nội dung của Nghị định 18 cũng nêu rõ việc chuyển tiền trích từ khấu hao tài sản cố định trong vốn đầu tư chỉ được chuyển sau khi đã góp đủ số vốn pháp định. Số tiền này được rút tương ứng với quỹ khấu hao được lập phù hợp với tỷ lệ khấu hao tài sản do Bộ Tài chính quy định. Việc chuyển các khoản tiền chỉ được thực hiện sau khi đã nộp đủ các khoản thuế phải nộp và phải bảo đảm số vốn còn lại của xí nghiệp không ít hơn vốn pháp định quy định tại giấy phép đầu tư. Khi kết thúc và giải thể xí nghiệp tổ chức kinh tế và cá nhân được chuyển ra nước ngoài vốn đầu tư vào các xí nghiệp sau khi thanh toán mọi khoản nợ. Trong trường hợp số tiền chuyển ra nước ngoài cao hơn vốn ban đầu và vốn tái đầu tư thì số tiền chênh lệch đó chỉ được chuyển ra nước ngoài khi Bộ kế hoạch và Đầu tư chuẩn y. Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc trong hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng được chuyển ra nước ngoài lương và các khoản thu nhập hợp pháp khác sau khi đã nộp thuế thu nhập trừ các khoản chi phí.
Biện pháp bảo đảm áp dụng pháp luật nước ngoài.Về nguyên tắc mọi hoạt động ĐTNN tại Việt Nam phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật ĐTNN tại Việt Nam. Tuy nhiên hệ thống chính sách pháp luật của nước ta đang trong quá trình xây dựng và tiếp tục hoàn chỉnh. Do tính đa dạng và phức tạp của ._.c. Kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm những trường hợp gây phiền hà, nhận ăn hối lộ. Thủ tục hành chính ở các khâu mua bán hoá đơn, khắc dấu, đăng ký thuế của doanh nghiệp cần sớm được cải cách mạnh mẽ theo hướng đơn giản hoá và khoa học hơn.
Việc quá tập trung vào cải cách, cải tiến khâu thẩm định cấp giấy phép đầu tư mà lại coi nhẹ khâu sau cấp giấy phép đầu tư trong những năm qua đã gây cản trở không ít cho các nhà ĐTNN. Thực tế cho thấy khâu đền bù, giải toả, xây dựng, xuất nhập khẩu, tuyển dụng lao động, sản xuất kinh doanh…là yếu tố quyết định cho sự thành công của dự án nói riêng và toàn bộ hoạt động ĐTNN nói chung. Do vậy cần nhanh chóng giải quyết các thủ tục giao đất, cho thuê đất. Sở địa chính ở các tỉnh, thành phố chỉ tiến hành đo đạc lập bản đồ một lần, đơn giản hoá mọi thủ tục giấy tờ về đất đai. Coi trọng công tác kiểm tra giám sát thực hiện tiến đọ đầu tư theo đúng quy định khi cần có thể điều chỉnh ngay tránh phiền hà, lãng phí. Tình trạng chồng chéo của nhiều giấy phép được coi là một trở ngại lớn đối với sự phát triển của các công ty, yêu cầu bỏ một số giấy chứng nhận đối với người Viêt kiều đầu tư vào Việt Nam như giấy chứng nhận không phạm tội hình sự, giấy chứng nhận không bị phá sản…biện pháp này sẽ giúp các Việt kiều đầu tư về nước nhiều hơn.
Cải thiện môi trường kinh doanh trước hết phải tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh và ổn định ta cần nhanh chóng triển khai thực hiện một số luật sửa đổi bổ sung mới được Quốc Hội thông qua. Đồng thời chú trọng đến việc cải cách hệ thống thuế, cải tiến phương thức tổ chức quản lý thu thuế theo phương thức phù hợp với cam kết quốc tế và đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO và cam kết AFTA, phấn đấu đến hết năm 2005 phải giảm hàng hoá dịch vụ đang còn độc quyền xuống ít nhất ngang mức giá trung bình của sản phẩm cùng loại trong khu vực. Ngoài ra chúng ta cần tiếp tục chú trọng nâng cao năng lực của ngân hàng thương mại, đảm bảo có điều kiện để ngân hàng thực sự chuyển sang kinh doanh, tăng nguồn vốn tự có của các ngân hàng, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
3.1.3. Xúc tiến Đầu tư.
Trong thời gian dài chưa xây dựng được chiến lược và quy hoạch thu hút, sử dụng FDI phù hợp với yêu cầu và điều kiện mới làm cơ sở cho vận động xúc tiến đầu tư, xử lý các dự án FDI. Việc quy hoạch các nghành kinh tế kỹ thuật và một số sản phẩm chủ yếu làm chậm, một số dự báo không được chính xác làm cho việc đầu tư dư thừa công suất và hoạt động kém hiệu quả. Do vậy công tác vận động xúc tiến đầu tư cần được đẩy mạnh theo hướng chương trình, dự án trọng điểm, hướng mạnh vào các nước lớn có tiềm năng như Châu âu, Bắc Mỹ…chú trọng các tập đoàn có tiềm lực về vốn và công nghệ. Phối kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành liên quan để thường xuyên trao đổi thông tin thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao để vận động xúc tiến đầu tư, giúp đỡ hợp tác lẫn nhau giữa các tổ chức xúc tiến đầu tư quốc tế ASEAN,APEC…tạo điều kiện cho việc thành lập các Câu lạc bộ hoặc Hiệp hội các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam.Về ngành, lĩnh vực cần tập trung vận động đầu tư cho các dự án áp dụng công nghệ thông tin, dầu khí điện tử. Về đối tác cần mở rộng đa phương hoá, hợp tác các nhà đầu tư thuộc EU, Hoa kỳ, Nhật bản và các nước ASEAN…Tăng cường công tác nghiên cứu đối tác, nâng cao chất lượng thông tin, bố trí ngân sách phục vụ cho công tác đầu tư. Ngân sách về xúc tiến đầu tư không có kinh phí thường xuyên, không thể chỉ trông chờ vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư cả ở trong nước và ngoài nước. Việc bố trí một khoản ngân sách dành riêng cho hoạt động xúc tiến đầu tư giống như dành cho hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế hoặc xúc tiến thương mại là hết sức cần thiết. Ngay cả đối với một loại hàng hoá cụ thể để bán được doanh nghiệp cũng phải có ngân sách để quảng cáo, tuyên truyền, xúc tiến đầu tư cũng vậy, chúng ta cần có kinh phí để in ấn tài liệu để phát không cho các nhà đầu tư, cung cấp một số dịch vụ miễn phí và cần đưa khoản kinh phí này về một đầu mối để chủ động điều phối các hoạt động xúc tiến đầu tư chung cho cả nước,trong đó có các địa phương, các ban quản lý KCN-KCX…làm như vậy xúc tiến đầu tư sẽ được tổ chức một cách có hệ thống, bài bản hơn.
3.1.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế.
Một trong những trở ngại nghiêm trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam là tình trạng lạc hậu của hệ thống cơ sở hạ tầng. Trở ngại này vốn dĩ đã tồn tại từ nhiều thập kỷ nay và càng trở nên gay gắt khi nên kinh tế đã tạo được những bước chuyển mới với kết quả tích cực trong việc gia tăng sản xuất trong nước và mở mang quan hệ kinh tế với bên ngoài. Tình trạng lạc hậu và quá tải của một số cảng biển, cảng hàng không và hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt. Điện năng thiếu hụt, nguồn cung cấp nước công nghiệp chưa đảm bảo, thông tin liên lạc chưa kịp thích ứng với cơ chế thị trường. Việc phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư triển khai dự án, kế hoạch đầu tư của mình mà nó còn là cơ hội để nước ta tăng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực hạ tầng.Vì vậy cần ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều nguồn vốn: ngân sách nhà nước, vốn ODA, vay trong nước,phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế, khuyến khích vốn tư nhân đầu tư vào các dự án nhà nước đặc biệt khuyến khích ,khuyến khích vốn ĐTNN vào các dự án BOT, BTO, BT để phát triển hạ tầng theo quy định thống nhất, đảm bảo tính liên tục, đồng bộ, hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng.
Trong gần 20 năm đổi mới cơ sở hạ tầng của Việt Nam cũng có những bước tiến đáng kể, những kết quả đạt được này là do nhà nước đã cố gắng đầu tư ngày càng lớn cho lĩnh vực này. Từ năm 1985 đến nay hàng năm nhà nước dành từ 15% đến 20% ngân sách đầu tư cho giao thông vận tải, năm cao nhất là 30%. Bảo đảm giao thông thông thoát trong mọi thời tiết của các tuyến đường giao thông huyết mạch, tuyến xương sống và các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi trong từng vùng, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc được đáp ứng tuỳ theo yêu cầu của mức độ phát triển. Phát triển cơ sở hạ tầng vùng miền núi, nông thôn, giao thông vận tải đã được khắc phục sự xuống cấp, từng bước nâng cấp các công trình, các tuyến giao thông trọng yếu.
Nâng cao hiệu quả vận tải lưu thông: Từ năm 1993 ngành giao thông vận tải đã sử dụng vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng nhờ đó mà tạo được môi trường cạnh tranh, vận tải trong nước phần nhiều là vận tải đường bộ bằng xe tải nhưng đối với các trường hợp vận tải bằng cự ly dài thì vận tải ven biển là chủ yếu, lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt còn ít. Trong vận tải bằng đường biển thì cảng biển của Việt Nam chủ yếu là cảng sông nên mực nước sông ở đó tàu chở côngtenơ lớn không cập cảng được, cần xúc tiến xây dựng các cảng biển tạo điều kiện cho tàu chở lớn côngtennơ lớn cập cảng và cung cấp dịch vụ vận tải trực tiếp đến các nước đầu tư. Cần cho phép doanh nghiệp vận tải 100% vốn nước ngoài tham gia vào thị trường vận tải là thúc đẩy thị trường này ở trong nước đạt hiệu quả cao và áp dụng chính sách khuyến khích đầu tư ngay cả trong lĩnh vực vận tải.
Về điện lực: trong vòng 10 năm tính đến năm 2000 tỷ lệ gia tăng trung bình năm của lượng điện tiêu thụ tại Việt Nam là 13,7% và dự tính trong thời gian tới đây nhu cầu tiêu thụ điện có xu hướng tăng mạnh. Nguyện vọng của các nhà đầu tư vào lĩnh vực điện lực là thúc đẩy hoạt động tư nhân trong lĩnh vực điện lực, xây dựng cơ chế cho phép doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này, xoá bỏ tỷ lệ hạn chế ĐTNN dưới hình thức BOT (hiện nay là 20%). Nếu như vậy tư nhân nước ngoài sẽ dễ dàng thâm nhập vào lĩnh vực này và các nhà máy phát điện sẽ được xây dựng có thể đã phát triển ứng nhu cầu điện, đảm bảo nguồn cung cấp điện năng. Giá điện của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, doanh nghiệp nằm trong KCN không gặp vấn đề gì về điện nhưng các doanh nghiệp nằm ngoài KCN đều phàn nàn về việc mất điện. Việt nam vẫn còn tồn tại cơ chế hai giá trong lĩnh vực điện lực, cùng trong một ngành nhưng doanh nghiệp nhà nước lại rẻ hơn doanh nghiệp có vốn ĐTNN, do vậy chính phủ Việt Nam không áp dụng hạn chế vốn ĐTNN vào lĩnh vực điện lực (20%) và không quy định vấn đề này trong Luật điện lực mà thực hiện ngay. Chính phủ Việt Nam giảm gía điện cho sản xuất xuống mức trung bình của khu vực, nỗ lực thực hiện cung cấp điện một cách ổn định cho nhà sản xuất điện năng lớn.
Cải thiện hạ tầng viễn thông: Giá cước điện thoại trong nước và quốc tế của Việt Nam đều cao hơn so với các nước trong khu vực. Việt Nam đã giảm giá cước Internet mức sử dụng 30h/tháng xuống còn 12 USD vào năm 2002 các doanh nghiệp cho rằng độ tin cậy của dịch vụ internet của Việt Nam không cao, thư điện tử bị mất hoặc tốn khá nhiều thời gian để đến nơi, cước điện thoại quốc tế ngày càng giảm nhưng các nước trong khu vực cũng có xu thế giảm giá nên Việt Nam cần giảm giá tương xứng với các nước trong khu vực, xu hướng hiện nay là tăng cước nội hạt, hạ cước điện thoại liên tỉnh và quốc tế. Chính phủ Việt Nam trên cơ sở quan sát động thái của các nước trong khu vực tiếp tục giảm giá cước viễn thông quốc tế(đặc biệt là phí thuê kênh riêng, phí kết nối internet) tới mức trung bình trong khu vực, nâng cao công tác an ninh mạng nhằm đảm bảo độ tin cậy của hình thức thông tin bằng thư điện tử đồng thời đẩy mạnh lộ trình gia nhập thị trường nước ngoài.
3.2. Một số kiến nghị của bản thân góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
* Cải thiện chế độ thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài: Hiện nay thuế suất thu nhập cá nhân cao nhất đối với người nước ngoài là 50% từ trước đến nay thuế suất bị phê phán từ các nhà đầu tư nước ngoài là quá cao so với các nước khác trong khu vực. Quy tắc 7/30 trong giai đoạn chuyển đổi được phát triển dụng trong một thời gian dài. Tuy nhiên trong năm 2002 quy tắc này đã bị huỷ bỏ cùng với việc chính phủ thực hiện giảm thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam. Do đó mức nộp thuế thu nhập của người nước ngoài trong doanh nghiệp cơ vốn đầu tư nước ngoài lại tăng thêm một lần nữa (Thời điểm này lao động Việt Nam được giảm thuết thu nhập. Ngoài ra còn có vấn đề thuế suất đối với lao động Việt Nam đã ở mức cao hơn với người nước ngoài). Còn một vấn đề nữa ở Việt Nam không có Luật thuế thu nhập cá nhân mà chỉ có pháp lệnh có liên quan. Thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm 2% trong tổng giá trị thuế thu, đối tượng nộp thuế chủ yếu là lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mức thuế suất thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập vào Việt Nam có thuế suất cao hơn các nước khác trong khu vực: Việt Nam 50%; Thái Lan 37%; Malaixia 28%; Singapo 26%: Philippin 12%; Inđônêxia 35%; Trung Quốc 45%.
Khác với thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài là chi phí cố định phát sinh không liên quan đến lợi nhuận. Các doanh nghiệp cho rằng thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài hiện nay là khá cao. Thuế suất quá cao so với các nước trong khu vực là nguyên nhân làm cản trở đầu tư mới. Mặc dù tại diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam vấn đề về thu nhập thuế cá nhân trong nhiều năm liền được xếp ở vị trí cao nhất trong danh sách các nội dung đề nghị cải thiện môi trường đầu tư nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết. Cũng có ý kiến phần nào cho rằng trong thời gian gần đây một số người Việt Nam có thu nhập cao song không hề khai báo đầy đủ. Như vậy phải chăng cơ quan thuế vụ chỉ nghiêm khắc đối với người nước ngoài hay sao? Các doanh ngiệp mong muốn chính phủ giảm thuế thu nhập cá nhân và xây dựng một cơ chế bình đẳng về thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay chính phủ Việt Nam đang xem xét đến việc sửa đổi trong hai giai đoạn. Trước hết sẽ xem xét việc sửa đổi pháp lệnh về thuế thu nhập và cá nhân đối với người nước ngoài có thu nhập cao hiện nay và đưa vào áp dụng năm 2005. Trong đó việc thóng nhất thuế suất giữa người Việt Nam và người nước ngoài cùng với việc giảm thuế suất tối đa cũng sẽ được đề cập đến. Tiếp theo sẽ xem xét việc thiết lập và ban hành luật thuế thu cá nhân vào năm 2006. Điều đó thể hiện ý nghĩa định hướng xây dựng từng bước khung luật pháp mới của chính phủ Việt Nam với chủ trương người lao động nộp thuế tương ứng với thu nhập tiền lương trong bối cảnh xây dựng nền kinh ttế thị trường. Bên cạnh đó chế độ khấu trừ thuế thu nhập từ tiền lương cũng sẽ được đưa vào thực hiện xuất phát từ thực tế rất khó có thể thu thuế trực tiếp từ người lao động nếu xét về khía cạnh kỷ luật. Do đó chính phủ Việt Nam cần có các biện pháp cụ thể.
Giảm mức thuế suất cao nhất, sửa đổi Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao nhất trong năm 2004 và thực hiện áp dụng năm 2005. Trong áp dụng Pháp lệnh thuế sửa đổi này, thuế suất thu nhập cá nhân sẽ được giảm xuống (giảm xuống 40% tính đến việc cạnh tranh đối với Trung Quốc). áp dụng chế độ khấu trừ thu nhập: Chính phủ Việt Nam xây dựng thuế thu nhập cá nhân mới vào năm 2005 và thực hiện vào năm 2006. Trong luật thuế thu nhập cá nhân mới này áp dụng chế độ khấu trừ thu nhập cá nhân phù hợp với chính sách.
*Nâng cao năng lực của cơ quan thực thi.
Các cơ quan thực thi của Chính phủ, các cơ quan Hải quan, Thuế vụ, Toà án, cơ quan quản lý Quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan Thống kê, là những đơn vị hành chính quản lý trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong cơ chế và năng lực điều hành. Công cuộc cải thiện môi trường kinh doanh thông qua việc nâng cao năng lực của các cơ quan này gắn liền với việc cải thiện tình hình kinh doanh của nhà đầu tư và có những đóng góp to lớn trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Cơ quan Hải quan: Có nhiều vấn đề được chia ra đối với tính minh bạch và độ tin cậy của nghiệp vụ Hải quan. Mặt khác Hải quan Việt Nam đang đứng trước yêu cầu đơn giản hoá và đồng bộ hoá quy trình thủ tục Hải quan, chế độ để trình trước kế hoạch nhập khẩu và kiểm dịch, thủ tục xuất nhập khẩu tại cảng biển…đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẩn còn rất nhiều thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan hành chính cần phải được cải tiến kịp thời. Để thúc đẩy quá trình cải thiện những vấn đề trên, cần cũng cố chức năng về mặt tổ chức của Hải Quan và nâng cao năng lực cán bộ. Bên cạnh đố việc thực hiện cải cách và kiện toàn hệ thống pháp luật trên cơ sở tham khảo. Công ước kyôto đã được sửa đổi cho phù hợp với quy ước với WTO cũng rất cần thiết. Thêm vào đó nên kết hợp và rút gọn một cách phù hợp thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà phức tạp liên quan đến những cơ quan hành chính, tiến hành đơn giản hoá thủ tục một cách toàn diện.
Về cơ quan thuế vụ: Với những nỗ lực của chính phủ Việt Nam, cơ quan thuế vụ đã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn tồn động một số vấn đề cần cải thiện như rút ngắn thời gian làm thủ tục, rút ngắn thời gian hoàn thuế, áp dụng chặt chẽ các điều khoản pháp luật về thuế, xoá bỏ sự chồng chéo trong các quy định về thuế, xoá bỏ chế độ kiểm tra thường xuyên đối với các doanh nghiệp, làm bản hướng dẩn chỉ đạo còn chưa rõ ràng… củng cố chức năng của cơ quan thuế vụ và nâng cao năng lực cán bộ là không thể thiếu trong việc giải quyết triệt để các vấn đề trên.
Toà án: Số lượng và trình độ của các chuyên gia pháp luật chưa đạt yêu cầu. Trước đó thời điểm thực hiện chính sách đổi mới, công tác giáo dục và đào tạo về luật pháp ở Việt Nam là trì trệ nên tình trạng hiện nay là đội ngũ thẩm phán và luật sư không những thiếu về số lượng mà còn về trình độ chuyên môn, có nhiều trường hợp là thẩm phán nhưng chưa được đào tạo về luật. Do tình hình trên về cơ bản độ tin cậy đối với toà án là tương đối thấp. Có nhiều doanh nghiệp bày tỏ thái độ tiêu cực đối với các vấn đề đưa các vụ việc tranh chấp ra toà để giải quyết. Vì vậy việc nâng cao năng lực thẩm phán và củng cố chức năng của Toà án là rất cần thiết.
Cơ quan chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ: có rất nhiều các cơ quan chính phủ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ bao gồm Cục Sở trí tuệ trực thuộc bộ khoa học công nghệ, Cục quản lý thị trường trực thuộc Bộ Thương mại, Cục Cảnh sát kinh tế, Hải quan, cơ quan Thanh tra trực thuộc Bộ Khoa học công nghệ, uỷ ban nhân dân các cấp… thị trường Việt Nam tràn ngập hàng nhái, hàng giả xâm phạm đến quyền sỡ hữu trí tuệ. Tình trạng hàng nhái, hàng giả đang trở thành một vấn đề nhức nhối đối với doanh nghiệp. Có nhiều ý kiến cho rằng việc không thể loại trừ hàng nhái là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với môi trường đầu tư của việt nam. Do cán bộ của các cơ quan chuyên trách về việc phát triển và đầu tư chống hàng giả chưa có đầy đủ kiến thức về quyền sở hữu trí tuệ cho nên thực trạng đang tồn tại hiên nay là việc đấu tranh chống hàng nhái, hàng giả vẫn chưa được tiến hành triệt để. Mặt khác cũng có ý kiến cho rằng một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn còn thiếu và việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ. Đứng trước tình trạng này, chính phủ Việt Nam cần hướng dẫn nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn của cán bộ, đồng thời điều chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng, thực hiện chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống hàng giả.
Cơ quan thống kê: số liệu thống kê hay còn gọi là thống kê kinh tế được sử dụng để phân tích đánh giá về tình hình đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, nghành thống kê của Việt Nam còn tồn tại những vấn đề như độ tin cậy về số liệu thống kê còn thấp, thu nhập và sử dụng số liệu khó khăn, thông tin thống kê ít được công bố rộng rãi, quyền hạn công khai số liệu thống kê được quy định chưa rõ ràng… Do đó nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải củng cố chức năng và nâng cao năng lực của các cơ quan chuyên trách và thống kê là Tổng cục thống kê. Do nhận thức được tính cần thiết trong việc hoàn thiện nghành thống kê nên Chính phủ Việt Nam trong năm 2002 đã công bố “ Định hướng củng cố nghành thống kê cho đến năm 2010”. Ngoài ra Luật Thống kê mới sẽ được thi hành từ tháng 1 năm 2004. trong Luật Thống kê mới có đề cập đến các quy định như: sử dụng hiệu quả số liệu thống kê, áp dụng chính sách tập trung các hoạt động thống kê về Tổng cục thống kê. Do hiện nay có nhiều doanh nghiệp đặt hy vọng vào hoạt động điều tra thống kê nhanh chóng và công tác thúc đẩy quá trình sử dụng số liệu thống kê một cách hiệu quả nên cần nâng cao năng lực thống kê cho các cơ quan chuyên trách thống kê.
*Tuân thủ lộ trình gia nhập thị trường.
Các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa ra yêu cầu với chính phủ Việt Nam cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào một lĩnh vực thuộc ngành dịch vụ như thương mại, dịch vụ vận tải lưu thông trong nước, tài chính, bảo hiểm, quảng cáo cũng như cho phép các doanh nghiệp sản xuất được nhập nhập khẩu các sản phẩm của mình. Ví dụ như quy định chi tiết về việc hướng dẫn thực hiện luật đầu tư nước ngoài xếp dịch vụ nhập khẩu và dịch vụ vận tải lưu thông trong nước vào lĩnh vực hạn chế đầu tư. Đầu tư vào lĩnh vực này cần có giấy phép của Thủ tướng Chính phủ theo từng dự án của đầu tư. Theo hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, quảng cáo được xếp vào nhóm A và cũng được cấp giấy phép riêng sẽ theo từng dự án đầu tư. Dịch vụ viễn thông được phân loại vào lĩnh vực hạn chế đầu tư và chỉ được cấp giấy phép đầu tư dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC). Vai trò của công ty thương mại nước ngoài, các công ty có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp phát triển trên toàn thế giới cũng rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Về một Marketing và hỗ trợ đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên môi trường kinh doanh của các công ty này (xuất nhập khẩu) hiện nay vẩn còn nhiều hạn chế và cần các biện pháp của nhà nước Việt Nam.
Nhiều doanh nghiệp mong muốn đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ nói trên cho nên Chính phủ Việt Nam nới lỏng hạn chế đầu tư thì đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng nhanh chóng. Các nhà đầu tư mong muốn Chính phủ làm rõ về các điều kiện đối với trường hợp cấp giấy phép đầu tư và đối xử công bằng đối với tất cả các nhà đầu tư. Đối vối các công ty thương mại, các công ty này hiện chỉ được thực hiện chức năng xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng và bằng các phương thức nhất định. Điều này hạn chế các doanh nghiệp thương mại quốc tế thực hiện các hoạt động khác của mình như Makettinh quốc tế, thương mại và du lịch FDI. Hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp thương mạicũng chính là hạn chế xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam và thu hút đầu tư nước ngoài.
Căn cứ vào đường lối được quy định trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, phương châm cơ bản của chính phủ Việt Nam về hoạt động đầu tư vào dịch vụ là sẽ từng bước nới lỏng quy chế đầu tư không chỉ đối với Mỹ mà còn đối với các nước khác. Cụ thể là chính phủ Việt Nam sẽ tiến hành cấp phép thành lập các công ty liên doanh trong lĩnh vực vận tải lưu thông trong nước với số vốn đóng góp phía Mỹ không vượt quá 49% chậm nhất trong vòng 3 năm tính từ thời điểm ký kết hiệp định sau 7 năm tính từ thời điểm ký kết hiệp định sẽ cấp phép thành lập doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài. Giấy phép nhập khẩu hoàn chỉnh thuộc sản phẩm ngành chế tạo cần thiết phải gia hạn nhưng không hạn chế về mặt thời gian. Phía Việt Nam cũng hy vọng phía các nhà đầu tư hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong các vấn đề và luật đầu tư mới về qui định liên quan. Hiệp định đầu tư thông qua các điều khoản liên quan đến WTO. Liên quan dến thương mại và lưu thông hàng hoá. Chính phủ chỉ định áp dụng các biện pháp nới lỏng quy chế đối với các doanh nghiệp ĐTNN. Tuy nhiên luật pháp hiện hành chưa có quy định cụ thể về mô hình công ty thương mại kinh doanh đa ngành nghề.
Chính phủ Việt Nam nới lỏng các hạn chế có liên quan đến đầu tư vào các ngành nhập khẩu lưu thông (bao gồm việc nhập khẩu các sản phẩm hoàn chỉnh và bản trên thị trường nội địa), tín dụng, bảo hiểm, viển thông dựa trên các lộ trình đã được quy dịnh tại các Hiệp định mà Việt Nam ký kết nhất là Hiệp định đầu tư Việt - Nhật. Chính phủ Việt Nam ngay lập tức cho phép mở rộng chức năng hoạt động của chi nhánh các công ty thương mại kinh doanh đa ngành nghề, mở rộng các chủng loại mặt hàng xuất nhập khẩu và giảm bớt các hạn chế liên quan đến hạn ngạch xuất nhập khẩu.
* Xoá bỏ các quy định bất hợp lý liên quan đến Đầu tư.
Nhà đầu tư nước ngoài tại việt nam mong muốn chính phủ Việt Nam bãi bỏ các quy định bất hợp lý liên quan đến đầu tư như quy định về nghĩa vụ xuất khẩu, quy định về tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc, nguyên tắc thống nhất toàn bộ trong hội đồng quản trị công ty liên doanh, chế độ hai giá…
Theo các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay quy định về tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc 80% đang từng bước được dỡ bỏ và chỉ được áp dụng với 14 danh mục hàng hoá (quyết định 718/2001/QĐ-BKT) chế độ hai giá cũng đang được dỡ bỏ dần dần. Nguyên tắc thống nhất toàn bộ trong hội đồng quản trị công ty liên doanh tuy hiện nay vẫn còn hiệu lực nhưng quy định này có thể được xoá bỏ trong luật đầu tư mới sắp được hoàn thành. Tỷ lệ xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc đối với các giấy phép đầu tư trước đây sẽ được huỷ bỏ như là một biện pháp ưu đãi nhằm thu hút đầu tư. Khi Hiệp định mậu dịch đầu tư Việt-Nhật bắt đầu có hiệu lực thì các quy chế trên dự kiến sẽ được dỡ bỏ căn cứ vào lịch trình đã định .
Quy chế đầu tư về nghĩa vụ xuất khẩu và tỉ lệ nội địa hoá bắt buộc đang còn là rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp. Nguyên tắc thống nhất trong toàn bộ trong hội đồng quản trị công ty liên doanh không thấy được áp dụng trong cơ chế của các nước trong khu vực. Trong nhiều trường hợp quy định này cản trở trong hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh. Chế độ hai giá cũng có ảnh hưởng nhất tương tự. Nguyện vọng của nhà đầu tư là nhanh chóng dỡ bỏ các quy chế này.
Về cơ bản Chính phủ sẽ xoá bỏ các quy định trên căn cứ vào phương hướng của hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Chính phủ Việt Nam đang tích cực rà soát lại các quy định này. Chính phủ xoá bỏ các quy định về nghĩa vụ xuất khẩu và nguyên tắc nhất trí toàn bộ trong hội đồng quản trị, đồng thời loại bỏ các quy chế về tỷ lệ nội địa hoá và chế độ hai giá dựa trên lộ trình đã được quy định trong các Hiệp định mà Việt Nam đã ký kết với các nước và dựa vào sự phản ánh của các nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam.
Ngoài ra vấn đề còn nhiều điểm bất hợp lý ở các giấy tờ, thủ tục trong cả quy trình cấp mã số thuế, mua hoá đơn và khắc dấu. Doanh nghiệp phải tiến hành các khâu này theo trình tự xong khâu này mới bắt đầu khâu khác. Ví dụ phải có con dấu mới được kê khai mã số thuế, có mã số thuế mới làm thủ tục mua hoá đơn. Tờ khai mã số thuế có tới 26 nội dung với nhiều chi tiết trùng lặp, như kê khai đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc, đơn vị chủ quản, chủ doanh nghiệp, giám đốc…trong khi đó, danh sách thành viên góp vốn đã có trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nộp trong bộ hồ sơ xin mã số thuế. Còn đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, theo quy định của pháp luật chỉ có giám đốc hoặc chủ tịch Hội đồng quản trị mới là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thì việc kê khai người góp vốn cao nhất là không cần thiết, chưa kể công ty có rất nhiều thành viên góp vốn bằng nhau thì kê khai như thế nào? Sự bất hợp lý có thể nhìn thấy ngay trên văn bản. Đó là quy định thời gian để cơ sở mới thành lập, đăng ký nộp thuế chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nhưng tờ khai đăng ký thuế lại phải có đóng dấu, song để có dấu doanh nghiệp phải xin phép và chờ cấp giấy phép thêm 7 ngày nữa. Vậy làm sao doanh nghiệp có thể đáp ứng thời hạn trên.
Để xoá những thủ tục rườm rà không cần thiết như hoàn tất thủ tục pháp lý cho kinh doanh phải mất hai tháng, rườm rà phiền toái trong thủ tục cấp mã số thuế, thủ tục mua hoá đơn, tạo môi trường thông thoáng cho nhà đầu tư, báo cáo khảo sát của Hiệp hội công thương đã đưa ra kiến nghị rằng Nhà nước nên nghiên cứu ban hành quy định mỗi doanh nghiệp chỉ có một mã số duy nhất là mã số thuế đồng thời là mã số đăng ký kinh doanh và mã số hải quan mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong mọi trường hợp giao dịch cần thiết, giống như số chứng minh nhân dân của mỗi người dân.Việc thống nhất này có thể đơn giản hoá quy trình hoàn tất các thủ tục pháp lý để doanh nghiệp nhanh chóng khởi động kinh doanh. Cụ thể là ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp có quyền xuất trình giấy này yêu cầu cơ sở khắc cho đơn vị mình. Cùng lúc, doanh nghiệp có thể dến cơ quan thuế làm tờ khai đăng ký mã số thuế mà không nhất thiết phải có đóng dấu. Người đến lấy mã số thuế mang theo giấy giới thiệu có đóng dấu của doanh nghiệp để cơ quan thuế lưu vào hồ sơ, trong khi chờ cấp mã số thuế doanh nghiệp có thể xuất trình chứng nhận đăng ký kinh doanh và phiếu nhận hồ sơ làm mã số thuế đến Chi cục thuế để xin mua hoá đơn. Theo cách này hoàn toàn có thể rút ngắn được một nửa thời gian hoàn tất thủ tục pháp lý để khởi động kinh doanh so với quy trình hiện nay. Vấn đề chỉ là năng lực và ý muốn chủ quan, sự hợp tác giữa các cơ quan Đăng ký kinh doanh, Công an và Tài chính./.
kết luận
Luật đầu tư nước ngoài từ khi ra đời 1987 đến nay đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung 1990,1992,1996 và gần đây nhất là năm 2000 theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn tạo môt trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam mang lại cho nền kinh tế nước nhà sự đổi mới và phát triển. Thực tế đã chứng minh rằng mở cửa nền kinh tế và phát triển đầu tư nước ngoài là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế quốc tế hoá - toàn cầu hoá của toàn thế giới.
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của toàn nhân loại, hội nhập kinh tế quốc tế là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Sự phát triển kinh tế cùng với sự phát triển của văn hoá - xã hội…tạo nên một đất nước phát triển toàn diện, và nó sẽ phát triển hơn nữa nếu có môi trường đầu tư thông thoáng thu hút nhiều đầu tư nước ngoài, đúc rút nhiều kinh nghiệm từ các nước khác nhau trên thế giới. Do vậy, phát triển kinh tế khu vực có yếu tố nước ngoài là trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta và nhiều nước trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng đó môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không ngừng được cải thiện ngày một thông thoáng hơn, hấp dẫn hơn. Đó là một sự nỗ lực rất lớn của Việt Nam mà không ai có thể phủ nhận được trên con đường hội nhập và đổi mới. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư nước ngoài sau hơn 15 năm thực hiện vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định cần được khắc phục kịp thời nhất là khi xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra hết sức sôi động và phức tạp. Như vậy, vấn đề cốt lõi bây giờ không phải là đánh giá vai trò của đầu tư nước ngoài, mà là tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài và các nghành luật khác liên quan. Đồng thời có những biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả trên thực tế những quy định pháp luật đó… Có như vậy Việt Nam mới có thể thành công trong hoạt động đầu tư nước ngoài và xem nó như là một chiến lược trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Do những hạn chế về khả năng và trình độ hiểu biết, lại tiếp cận với đề tài rộng, lượng thông tin tương đối lớn tôi sẽ không hoàn thành một cách thuận lợi Luận văn của mình nếu không có sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội, thầy cô giáo Khoa pháp luật Quốc Tế, của gia đình và bạn bè mà đặc bịêt là sự hướng dẫn nhiệt tình và sự cung cấp những thông tin quý báu mà Thầy giáo – Tiến sỹ Phạm Sỹ Chung Vụ phó Vụ Đầu Tư Bộ Thương Mại đã dành cho tôi.
Mặc dù luận văn này đã được hoàn thành song không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy, tôi mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để nâng cao nhận thức và tiếp tục hoàn thiện đề tài này khi có điều kiện.
danh mục những từ viết tắt
Luật Đầu tư nước ngoài LĐTNN
Đầu tư nước ngoài ĐTNN
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá CNH-HĐH
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Khu công nghiệp KCN
Khu chế xuất KCX
Doanh nghiệp DN
Doanh nghiệp liên doanh DNLD
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5256.doc