chương 1
Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
I. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mai
Theo luật các tổ chức Tín dụng ở Việt Nam: Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp được thành lập theo luật các tổ chức Tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và các hoạt động khác có liên qua
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm góp phần hạn chế và xử lý nợ quá hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) 2 - Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n.
2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Tín dụng Ngân hàng Thương mại là một quan hệ giao dịch giữa Ngân hàng với doanh nghiệp, cá nhân và Chính phủ trong đó Ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng tiền cho họ với những điều kịên thỏa thuận nhất định (thời gian, lãi suất, khối lượng, điều kiện đảm bảo…)
Quan hệ tín dụng ngân hàng có thể diễn tả theo sơ đồ sau:
Ngân hàng
Khách hàng
Tại thời điểm t2 (t2 > t1): T’ = T.DT
Tại thời điểm t1: T
Trong đó:
T: Số tiền Ngân hàng cho phép người vay sử dụng trong khoảng thời gian từ t1 đến t2.
T’: Số tiền người vay trả cho Ngân hàng tại thời điểm t2
D: Tiền lãi ngân hàng nhận được, do ngân hàng và người vay thoả thuận và phụ thuộc vào thời gian vay vốn, quy mô tiền vay, uy tín của người vay…
2.1. Các hình thức tín dụng.
2.1.1. Theo tính chất hoạt động.
- Cho vay: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khác hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
- Chiết khấu: Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá trị ngắn hạn thanh toán với giá bằng mệnh giá trừ đi số tiền triết khấu và hoa hồng.
- Bảo lãnh: Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
- Cho thuê: Cho thuê là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.
2.1.2. Theo thời gian:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm, thường được sử dụng trong cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tái sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian hoàn vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn như cơ sở hạ tầng,…
2.1.3. Theo bảo đảm:
Tín dụng không có bảo đảm: Là hình thức cho vay chỉ dựa trên uy tín của người vay, thường chỉ cấp cho những khách hàng truyền thống và có uy tín.
Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn thì tổ chức tín dụng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
2.2. Vai trò tín dụng của Ngân hàng.
2.2.1. Đối với Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng thương mại thực chất cũng là một doanh nghiệp. Vì vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng luôn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Để tạo ra được lợi nhuận và thu nhập cho Ngân hàng thì các Ngân hàng thương mại phải biết sử dụng và khai thác nguồn vốn một cách triệt để và có hiệu quả. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng bao gồm: hoạt động cho vay, đầu tư, phục vụ nhu cầu chi trả của khách hàng…
Trong bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng, khoản mục cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản. Đây là khoản mục có tính lỏng kém và rủi ro vỡ nợ cao. Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng và là nghiệp vụ mang lại lợi tức cao nhất cho Ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp cj của Ngân hàng. ậ Việt Nam tỷ lệ này là 85 – 95%, còn ở Hoa Kỳ – quốc gia có công nghiệp Ngân hàng phát triển vào loại nhất nhì- thì tỷ trọng này là 60%-70%. Như vậy, cho vay vẫn là hoạt động cơ bản của các Ngân hàng thương mại. Thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ khoản chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Lợi nhuận này là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Cho vay là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng nhận tiền gửi mà không sử dụng số tiền đó để cho vay thì Ngân hàng sẽ không thực hiện được vai trò cầu nối của mình. Đồng thời, Ngân hàng sẽ bị thua lỗ do vẫn phải trả lãi cho tiền gửi trong khi không có hoặc có rất ít thu nhập.
Khi cho vay, Ngân hàng sẽ đưa ra tỷ lệ lãi suất theo nguyên tắc:
Lãi cho vay thu được = Chi phí vốn + Chi phí quản lý + Lợi nhuận + Mất vốn
- Thu nhập từ hoạt động khác.
2.2.2. Đối với người đi vay.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp hầu như đều nhỏ hơn nhu cầu sử dụng vốn. Trong hoạt động của doanh nghiệp tín dụng Ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hơn nữa, dù thị trường tài chính có phát triển đến đâu thì nguồn vốn đi vay Ngân hàng của doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp.
Đó là do tín dụng Ngân hàng thoả mãn được nhu cầu vốn cho thanh toán, kinh doanh, đầu tư của người đi vay mà không tốn nhiều công sức, chi phí thời gian cho việc tìm kiếm nguồn vốn như khi tự thân đi tìm. Nguồn vốn vay Ngân hàng là nguồn mà khách hàng dễ tiếp cận ở mọi nơi, mọi lúc, với các điều kiện và phương thức thanh toán phong phú, đa dạng giúp cho họ tranh thủ được các cơ hội sản xuất kinh doanh. Vốn vay Ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Tín dụng Ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn lớn có thời hạn dài cho khách hàng. Mặt khác, sử dụng vốn vay Ngân hàng làm cho khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn vì họ không những trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng mà còn chịu sự kiểm tra giám sát và nhận được sự tư vấn của Ngân hàng trong quá trình sử dụng vốn vay cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2.2.3. Đối với nền kinh tế.
+Tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, hoạt động tín dụng Ngân hàng làm nhiệm vụ thông dòng để vốn vay chảy từ nơi thiếu vốn sang nơi thừa vốn.
Tín dụng Ngân hàng chuyển vốn từ nơi chưa có nhu cầu sử dụng sang nơi có nhu cầu sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh làm cho nền kinh tế phát triển, đời sống xã hội ngày càng cao. Có thể khẳng định rằng: tín dụng Ngân hàng luôn luôn tồn tại và nhanh chóng phát triển, nó là nhân tố để thúc đẩy.
Tín dụng có tác dụng quản lý tích cực đối với nền kinh tế. Ngoài việc tích luỹ, tập trung vốn, tạo ra tính xã hội hoá trong sản xuất, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn thông qua việc huy động toàn bộ vốn nhàn rỗi đưa vào sử dụng, nó còn là công cụ điều hành lưu thông, là công cụ kiểm soát các hoạt động của cac doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh.
+ Tín dụng đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Nguyên tắc có hoàn trả tín dụng, Ngân hàng biến các phương tiện nhàn rỗi thành phương tiện hoạt động có hiệu quả, động viên vật tư lao động và các tiềm năng sẵn có khác đưa vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, lưu thông làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong xã hội, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Việc phân phối tín dụng góp phần điều hoà vốn giúp cho quá trình sản xuất được liên tục. Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư.
+Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều hoà lưu thông tiền tệ, thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Tín dụng Ngân hàng tập trung vốn nhàn rỗi nằm phân tán trong nền kinh tế, trong các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước, cá nhân… và cho các đơn vị kinh tế vay. Tuy nhiên, đầu tư tín dụng không rải đều cho vay đến mọi nhu cầu mà chỉ đầu tư vào các đơn vị kinh tế hoạt động có hiệu quả, có triển vọng phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo vừa tránh rủi ro vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
+ Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế phát triển và các ngành mũi nhọn.
Trong quá trình phát triển, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực nước ta đã có những thành công nhất định. Một số ngành kinh tế đã khẳng định được vị trí của mình và thực sự trở thành mũi nhọn của kinh tế Việt Nam . Tuy nhiên, đó chỉ là một con số rất nhỏ đối với một nền kinh tế đang muốn khẳng định mình, phần lớn các ngành kinh tế khác đang trong tình trạng khó khăn, kém phát triển đòi hỏi cần có sự đầu tư .
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế kém phát triển nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội. Do đó, đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội, đồng thời tạo điều kiện để các ngành kinh tế khác phát triển luôn là một quyết định đúng đắn. Bên cạnh đó, nhà nước tập trung tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, làm cơ sở thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác như: xuất khẩu, khai thác dầu khí…
Có thể khẳng định rằng, chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp cũng như các ngành kinh tế kém phát triển khác sẽ góp phần tạo ra sự phong phú, sự đa dạng về chủng loại cho người tiêu dùng, giảm giá thành và giá bán, đồng thời từng bước cải thiện tình trạng nhập ngoại và đẩy nhanh quá trình hội nhập, tự chủ nền kinh tế. Trong khi đó, việc tập trung phát triển các ngành mũi nhọn sẽ tạo ra sắc thái riền cho Việt Nam. Nó sẽ là thế mạnh thúc đẩy khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế và là nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nóơc. Do vậy, Nhà nước luôn phải có biện pháp, chính sách để tín dụng thực sự là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển cũng như các ngành mũi nhọn.
+Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế ngoại thượng.
Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với thị trường thế giới, kinh tế đóng đã nhường bước cho kinh tế mở. Tín dụng Ngân hàng là một phương tiện nối liền kinh tế của các nước lại với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung, cũng như Việt Nam nói riêng, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng thương quốc tế, xuất nhập khẩu hàng hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
ii. nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng
Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng mang tính rủi ro, và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng vậy. Do vậy, bất kỳ một Ngân hàng nào dù là Ngân hàng kinh doanh có hiệu quả nhất cũng không tránh khỏi hoặc loại bỏ hoàn toàn được rủi ro mà phải chấp nhận nó ở một mức độ nhất định. Mục tiêu đầu tiên của phân tích nợ quá hạn là giúp Ngân hàng nhận biết và dự đoán trước các nguyên nhân gây ra nợ quá hạn để đưa ra các phương pháp phòng ngừa hữu hiệu, nhằm hạn chế các tác hại của nó.
1. Định nghĩa và đo lượng nợ quá hạn:
1.1. Định nghĩa:
Các khoản vay được phân loại dựa vào việc xác định các tiêu chí định lượng và định tính. Mỗi một Ngân hàng có một quan điểm riêng, tuy nhiên có thể lấy cơ sở dựa trên các gợi ý sau đây của Ngân hàng Thế giới:
- Đạt tiêu chuẩn: Là có tài sản thế chấp theo nghĩa đầy đủ hoặc không quá hạn.
- Cận chuẩn: Là có tài sản thế chấp đầy đủ, nhưng có biểu hiện các điểm yếu tín dụng. Những điểm này bao gồm các yếu tố chậm trễ đến việc trả lãi nợ vay có thể trễ hơn 30 ngày nhưng chưa đến 90 ngày, nguồn vốn (luân chuyển vốn) của người vay có biểu hiện không đủ đáp ứng cho các cam kết nợ, cần phải có thêm nguồn vốn vay lưu động.
Mặc dù trên giấy tờ và theo thông tin mới nhất, giá trị của tài sản thế chấp có đầy đủ, nhưng vẫn tồn tại sự không chắc chắn về hồ sơ thế chấp, khả năng tiêu thụ trên thị trường và nguồn thông tin tài chính hiện có để biết được tình hình thế chấp có thể được giải quyết trọn vẹn hay không khi phát mại.
- Có vấn đề: Khoản cho vay được đánh giá là có vấn đề gồm tất cả các khoản vay cận chuẩn kèm theo các điểm sau đây:
+ Dựa trên thực tiễn, các điều kiện và giá trị hiện tại sẵn có, việc thu đủ nợ là không chắc chắn và rất đáng ngờ. Không thể chắc chắn về việc đánh giá và tính khả mại của tài sản thế chấp. Tính đầy đủ của hồ sơ pháp lý thế chấp cũng cần xem lại.
+ Các khoản vay cận chuẩn đang đình trệ hoạt động và việc trả lãi nợ vay vượt quá thời hạn 90 ngày nhưng không quá 365 ngày.
- Không thu hồi được: Khoản cho vay bị liệt vào loại này là khoản cho vay không thể thu hồi được hoặc thu hồi rất ít. Sự tồn tại của nó trong danh mục tài sản Ngân hàng được coi là không đảm bảo. tài sản này có thể có một số giá trị thu lại được hoặc còn lại giá trị sau khi khấu hao. Nhưng khả năng thiệt hại cao nên khả năng thua lỗ cần được ghi nhận ngay hoặc là tài sản nên được xoá sổ. Các khoản nợ khó đòi hoặc tài sản lỗ còn có thêm các tính chất như sau:
+ Người vay hoặc cổ đông chiếm đa số vốn, giám đốc không còn khả năng trả nợ hoặc tuyên bố phá sản, hoặc được đặt dưới sự kiểm soát của người quản lý tài sản.
+ Việc thế chấp cầm cố có những khuyết điểm lớn, bao gồm khả năng không bán được trên thị trường do vấn đề kiện tụng về mặt pháp lý, thị trường kém phát triển hoặc hồ sơ không đầy đủ, có những điều khoản đặc biệt khiến cho việc thanh toán tài sản trở nên khó khăn…
Hai loại nợ trên được coi là nợ quá hạn, như vậy nợ quá hạn là các khoản nợ mà người vay không có khả năng thanh toán đầy đủ hoặc đúng hạn như đã cam kết cho Ngân hàng khi đến hạn trả nợ. Khi đáo hạn người vay không trả được nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ này từ nợ trọng hạn sang nợ quá hạn.
Khi nghiên cứu về nợ quá hạn, ta cần biết rằng số liệu thống kê về nợ quá hạn và dư nợ của Ngân hàng là một chuyển biến điểm được xác định tại một thời điểm nhất định (có thể là cuối tháng, cuối quý, cuối năm).
1.2. Đo lường nợ quá hạn:
nợ quá hạn là biến cố xảy ra ngoài mong đợi trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, ta không thể loại bỏ được nó nhưng có thể nghiên cứu nó để có giải pháp nhằm quản lý và hạn chế nợ quá hạn, hướng tới một mức độ hợp lý có thể chấp nhận được.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn/ Dư nợ:
Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này phản ánh với 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng không thể thu hồi đúng hạn taịo thời điểm xác định. Nếu chỉ số này lớn hơn 7% thì Ngân hàng được xem là yếu kém, nếu chỉ số này nhỏ hơn 5% thì Ngân hàng đó được đánh giá là Ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chiến lược cho vay cao.
Tuy nhiên, dư nợ và tổng dư nợ được đo tại một thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ quá hạn không phản ánh đúng thực chất chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Do vậy:
- Tỷ lệ này chỉ phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn thanh toán, chưa phản ánh được độ rủi ro của các khoản nợ chưa đến thời hạn thanh toán. Một số các khoản nợ loại này còn chứa đựng nhiều rủi ro hơn các khoản nợ đã được xác định là nợ quá hạn. Chúng có thể trở thành nợ quá hạn, nợ khó đòi, thậm chí là khoản mất vốn trong tương lai. Đó là các khoản nợ cho vay được gia hạn nhiều lần, được dùng để trả nợ cũ cho chính bản thân Ngân hàng hoặc Ngân hàng khác. Với các khoản nợ quá hạn thông thường, Ngân hàng có thể thu hồi được gốc và lãi trong một thời gian tương đối ngắn kể từ khi trở thành nợ quá hạn.
- Các khoản nợ khó đòi mới là vấn đề nghiêm trọng đối với hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng phải tốn nhiều công sức, chi phí để thu nợ từ chúng. Trong các khoản nợ khó đòi còn tiềm ẩn các khoản mất vốn. Khoản mất vốn này có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và vốn chủ sở hữu của Ngân hàng.
- Các Ngân hàng ít khi chấp nhận khoản cho vay của mình là có vấn đề. Họ luôn tìm cách “tự chối mình” và tạo ra một hình ảnh đẹp về tình hình tài chính của mình. Trước thời điểm thông qua kê nợ quá hạn, họ có thể làm giảm số dư nợ quá hạn bằng cách lập các khế ước mới thay thế cho khế ước cũ hoặc đưa các khoản nợ khó đòi vào các khoản phải thu hoặc chuyển ra theo dõi ngoại bảng. Chính vì vậy tỷ lệ nợ quá hạn sẽ thấp trong khi thực tế là khá cao.
+Tỷ lệ nợ khó đòi/ Nợ quá hạn (Dư nợ):
Tỷ lệ này đánh giá khả năng thu hồi của các khoản nợ qúa hạn (các khoản cho vay). Nó cho biết trong 100 đơn vị nợ quá hạn (các khoản cho vay) thì có bao nhiêu đơn vị khó thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi.
+Tổn thất ròng/ Nợ khó đòi (Nợ quá hạn):
Tổn thất ròng = Tổn thất của Ngân hàng – Giá trị tài sản thế chấp thu
hồi được
2. Phân loại nợ quá hạn.
Phân loại nợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau là nhằm tìm ra cách biện pháp xử lý nợ quá hạn phù hợp. Trên cơ sở đó, Ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi được các món nợ để bảo toàn vốn kinh doanh cho mình.
2.1. Nợ quá hạn theo khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn thông thường: Đó là các khoản nợ đến ngày đáo hạn người vay chưa trả nợ cho Ngân hàng nhưng khả năng hoàn trả là khá cao. Sự chậm trễ trong việc trả nợ ngắn hạn. Đối với các khoản nợ này, con nợ thường là các cá nhân, tổ chức kinh tế có vị thế và uy tín vững chắc trên thị trường. Họ là những doanh nhân làm ăn có hiệu quả, có trình độ chuyên môn quản lý kinh doanh tốt. Tuy nhiên, do những nguyên nhân bất ngờ làm cho dòng tiền vào của họ không khớp với dòng tiền ra tại thời điểm trả nợ đã được xác định trước trong khế ước. Do đó họ không có khả năng trả nợ như đã cam kết và nợ quá hạn phát sinh. Đối với khoản nợ quá hạn này, người vay sẽ thanh toán ngay khi có luồng tiền vào phù hợp.
- Nợ quá hạn khó đòi (Nợ khó đòi): đó là những khoản nợ đã quá hạn một thời gian dài mà con nợ không có khả năng thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng, khả năng thu hồi khoản nợ này là thấp và quá trình thu nợ thường khó khăn và phức tạp. Con nợ thường là cá nhân, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả nên không có khả năng thanh toán cho Ngân hàng hoặc con nợ cố tình trây lỳ không trả nợ Ngân hàng. Để thu được nợ Ngân hàng thường phải sử dụng nhiều biện pháp.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (mất vốn): Đó là những khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để thu nợ nhưng không thể thu được toàn bộ hoặc một phần nợ gốc. Con nợ không còn nguồn để trả nợ cho Ngân hàng cả hiện tại và trong tương lai. Khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng là bằng không và Ngân hàng xác định khoản nợ này là không thu hồi được và đã mất.
Mối quan hệ giữa các loại nợ quá hạn được mô tả theo hình sau:
4
1
2
3
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn khó đòi (Nợ khó đòi)
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (mất vốn)
Xóa nợ
2.2. Nợ quá hạn theo thời gian quá hạn:
- Nợ quá hạn dưới 6 tháng: Đó là các khoản nợ tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là dưới 6 tháng và doanh nghiệp vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho ngân hàng.
- Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: Đó là khoản nợ tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán từ 6 tháng đến 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: Đó là khoản nợ tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
2.3. Nợ quá hạn theo biện pháp đảm bảo tiền vay.
Nợ quá hạn có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba: Đó là các khoản nợ đã quá hạn thanh toán mà người vay đã có cam kết thế chấp, cầm cố tài sản hợp pháp của mình cho Ngân hàng để vay vốn hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba mà Ngân hàng có quyền xử lý tài sản đó hoặc theo yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
Nợ quá hạn không có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba: Đó là những khoản nợ đã quá hạn thanh toán mà người vay khi vay vốn tại Ngân hàng sử dụng hình thức bảo đảm là tín chấp hoặc do Chính phủ chỉ định cho vay không có bảo đảm (ở Việt Nam trong những năm trước đây, các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn Ngân hàng không cần có tài sản thế chấp).
2.4. Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế của người vay.
- Nợ quá hạn của các doanh nghiệp quốc doanh.
- Nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Nợ quá hạn của các cá nhân
3. Các nguyên nhân gây ra nợ quá hạn.
Các nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn bắt nguồn từ cả yếu tố chủ quan về phía Ngân hàng cũng như yếu tố khách quan về phía doanh nghiệp và nền kinh tế. Nghiên cứu các nguyên nhân này sẽ giúp Ngân hàng tìm ra được gốc rễ của các khoản nợ quá hạn đó. Từ đó có biện pháp phòng ngừa và xử lý thích hợp.
3.1. Nguyên nhân chủ quan.
- Thiếu sót trong quản lý, số con nợ cố tình không trả nợ ngày càng tăng, mà họ có lợi thế về hệ thống pháp lý chậm trễ và quá tải.
- Vô kỷ luật về mặt tài chính, đầu tư không đúng hướng cho các mục tiêu chưa được chấp nhận.
- Không ưu tiên cho việc cải tiến công nghệ và lưu tâm thích đáng cho việc nghiên cứu và phát triển.
- Việc kiểm tra, giám sát chưa hợp lý dẫn đến tốn kém và mất nhiều thời gian.
- Bất đồng, tranh chấp giữa những người quản lý.
- Nhiều đơn vị Quốc doanh, Trung ương vay Ngân hàng đã không trả được nợ.
3.2. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
3.2.1.Nguyên nhân chủ quan.
- Thiếu sự đánh giá phê phán trước khi phê chuẩn, các dự án phi thực tế và kế hoạch hoàn trả tiền vay.
- Không có thị trường đáng tin cậy và các dự liệu cung cầu liên quan đến các ngành.
- Chậm chạp trong việc ra quyết định phê chuẩn, giải ngân các thể thức tín dụng.
- Thiếu sự quản lý và giám sát có hiệu quả các tài khoản cho vay, việc phát hiện các tín hiệu cảnh báo và khởi xướng các biện pháp khắc phục chậm.
- Thiếu các hệ thống mạng làm việc, thông tin giữa các chi nhánh, các Ngân hàng tạo điều kiện cho khách hàng vay có thể lạm dụng vốn của Ngân hàng.
3.2.2. Nguyên nhân khách quan.
- Không có quyền hạn để hiệu lực hoá các tài sản đảm bảo (sở hữu và bán) không như các quyền hạn mà các công ty tài chính được hưởng.
- Hệ thống pháp lý thu hồi các khoản nợ Ngân hàng chậm chạp và mất thời gian.
- Thiếu sự trao đổi tông tin, phối hợp giữa các tổ chức tài chính và các Ngân hàng.
3.3. Nguyên nhân vượt qúa sự kiểm soát của doanh nghiệp và Ngân hàng.
- Suy thoái chung của nền kinh tế và khuynh hướng suy sút trong một số ngành nghề.
- Thị trường vốn bị đình trệ dẫn đến chậm hoàn thành các dự án và triển khai các chương trình.
- Các chính sách của Chính phủ, thuế hải quan và nhập khẩu thay đổi thường xuyên gây ảnh hưởng xấu đến nhiều đơn vị.
- Các thể thức hạ tầng cơ sở chưa thích hợp đặc biệt là việc đưa ra quyền hạn và các điều kiện cần thiết khác.
- Các biến động chính trị.
- Hệ thống pháp luật lỗi thời, sự không yên tâm của người lao động, đóng cửa, bãi công…
4. Sự phát sinh nợ quá hạn từ một số nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng.
4.1. Nợ quá hạn trong nghiệp vụ cho vay.
Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người có nhu cầu vốn vay và người vay này sẽ trực tiếp trả nợ và lãi theo đúng kỳ hạn trả nợ mà Ngân hàng và họ đã thoả thuận và cam kết trong hợp động. Khi đến hạn trả nợ, người vay không có khả năng trả nợ hoặc không có ý muốn trả nợ. Ngân hàng sẽ phải trực tiếp đôn đốc thu nợ từ người khách hàng này hoặc bán nợ cho doanh nghiệp khác. Đây là nghiệp vụ dễ phát sinh nợ quá hạn nhất và biện pháp xử lý rất đa dạng và phức tạp.
4.2. Nợ quá hạn trong nghiệp vụ chiết khấu.
Trong khi mua bán chịu hàng hoá, người bán giao hàng cho người mua và nhận được một giấy nợ: hối phiếu hoặc lệnh phiếu. Người bán chỉ thực sự nhận được tiền khi các giấy nợ đến hạn thanh toán. Trong trường hợp các giấy nợ chưa đến hạn thanh toán nhưng người bán lại cần tiền để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình, họ có thể nhượng lại cho Ngân hàng mà không cần phải đợi đến lúc đáo hạn. Ngân hàng sẽ trở thành người hưởng thụ. Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người bị ký phát nếu là hối phiếu hoặc là người phát hành nếu là lệnh phiếu tức là người mua hàng trong quan hệ mua bán chịu khi đến hạn thanh toán. Khi đáo hạn nếu tình hình tài chính của người mua chịu và người chuyển nhượng yếu kém thì sẽ dẫn đến sự sai hẹn trong việc thanh toán cho Ngân hàng. Hoặc các thương phiếu đó là thương phiếu giả, tức là thương phiếu được lập ra không dựa trên quan hệ thương mại tương ứng thì Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề thu tiền. Do đó làm phát sinh nợ quá hạn tại Ngân hàng.
4.3. Nợ quá hạn trong nghiệp vụ bảo lãnh.
Đây là nghiệp vụ mà Ngân hàng bằng uy tín của mình cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng của mình (người được bảo lãnh) khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình với đối tác (người nhận bảo lãnh). Khi Ngân hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người nhận bảo lãnh thì đồng thời Ngân hàng cho vay bắt buộc đối với người được bảo lãnh. Kể từ lúc này, khoản cho vay bắt buộc này trở thành khoản nợ quá hạn. Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ từ người được bảo lãnh.
4.4. Nghiệp vụ bảo lãnh trong nghiệp vụ cho thuê.
Ngân hàng mua tài sản gồm bất động sản và động sản để cho thuê. Trong thời gian thuê, tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng và người thuê có quyền sử dụng tài sản đó đồng thời có trách nhiệm thanh toán tiền thuê cho Ngân hàng. Khi đến kỳ thanh toán, nếu người thuê không thanh toán tiền thuê cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền chấm dứt hợp đồng cho thuê và khoản tiền chậm thanh toán đó được coi là khoản nợ quá hạn phát sinh. Sự phát sinh nợ quá hạn từ nghiệp vụ này là rất ít.
5. ảnh hưởng của nợ quá hạn.
5.1. Đối với hoạt động của Ngân hàng.
Sức bền của một Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng các khoản mục tài sản. Kinh nghiệm cho thấy một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến sự thất bại của Ngân hàng xuất phát từ những khoản tín dụng gặp khó khăn khi thu hồi. Nợ quá hạn làm cho mất khả năng thanh toán cũng như đổ vỡ của Ngân hàng là rất lớn.
5.1.1. Giảm lợi nhuận.
Lãi suất của nợ quá hạn cao hơn lãi suất thường nên thu nhập của Ngân hàng lớn. Nhưng thực ra đây chỉ là khoản thu nhập ảo vì Ngân hàng khó có thể thu được. Tỷ lệ nợ quá hạn quá cao không chỉ báo động sẽ phát sinh khoản chi phí quản lý, giám sát, thu nợ, khoản phải thanh lý lớn trong tương lai mà còn thể hiện sự giảm sút thu nhập thực tế ở hiện tại do các khoản nợ này không còn đêm lại thu nhập hoặc rất ít không đáng kêt. Mặt khác, Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản huy động được trong khi một bộ phận tài sản của Ngân hàng bị đóng băng không thu được lãi cũng như không chuyển được thành tiền để cho người vay và thu lãi. Với tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn cao, Ngân hàng sẽ phải trích quỹ phòng ngừa rủi ro từ chi phí hoặc lợi nhuận lớn. Do đó lợi nhuận của Ngân hàng bị giảm sút.
5.1.2. Giảm khả năng thanh toán.
Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới…) và dòng tiền ra (tiền gửi nhận được, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay,…) tại các thời điểm trong tương lai. Khi món nợ không được thanh toán đúng hạn sẽ dẫn đến sự không ăn khớp (hay tạo ra khoảng trống) giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào của Ngân hàng. Lúc này Ngân hàng buộc phải đi vay, bán các tài sản của mình để xoá bỏ khoảng trống đó. Trong điều kiện như vậy Ngân hàng bỏ lỡ cơ hội tối đa hoá lợi nhuận. Nếu gặp khó khăn trong trong quá trình này thì khả năng thanh toán các khoản tiền gửi tại Ngân hàng bị suy yếu và hạn chế.
5.1.3. Giảm uy tín.
Nếu tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ giảm sút. Tỷ lệ nợ quá hạn còn là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cho thấy tình trạng hoạt động kinh doanh kém hiệu quả của ngân hàng và uy tín của ngân hàng bị đe doạ. Hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường sẽ yếu đi, ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động tiền gửi của dân cư và thiết lập giao dịch với các doanh nghiệp và ngân hàng khác. Các ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế thị trường khi đã để mất niềm tin của các thành viên trong xã hội thì việc khôi phục lại rất khó khăn.
5.1.4. Mất vốn (vốn tự có) dẫn đến phá sản ngân hàng:
Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng bị đổ vỡ, nhất là những doanh nghiệp vay nhiều vốn của ngân hàng và không có khả năng khắc phục được được thì sau đó sẽ dẫn đến sự đổ vỡ của chính bản thân ngân hàng.
Với các khoản nợ quá hạn lớn, đặc biệt là những khoản mất vốn lớn, quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng không đủ bù đắp thì ngân hàng phải lấy vốn chủ sở hữu ra bù đắp. Như vậy vốn chủ sở hữu ngày càng giảm thì hoạt động của ngân hàng sẽ càng gặp khó khăn.
Nếu ngân hàng nhiều lần chậm trễ khi thanh toán tiền cho người gửi tiền sẽ làm cho người gửi tiền mất lòng tin vào ngân hàng, ồ ạt kéo đến rút tiền gửi ra. Ngân hàng nếu không kịp thời chuẩn bị cho tình huống này, thậm chí nếu có cũng không đủ khả năng thanh toán, điều này sẽ dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng nếu Ngân hàng Trung ương không can thiệp kịp thời hoặc không thể can thiệp.
Nếu ảnh hưởng trên không được ngăn chặn kịp thời, cứ âm ỉ phát triển, thì đến một lúc nào đó với sự cộng hưởng của chúng sẽ đưa ngân hàng đến bờ vực phá sản.
5.2. Đối với nền kinh tế.
Hệ thống Ngân hàng – Tài chính là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro. Chỉ cần một tổn thương nhỏ cũng có thể gây nên những xáo động lớn trong quá trình điều hành nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động có tính xã hội hóa cao, có nhiều mối quan hệ phức tạp với các chủ thể kinh tế như người gửi tiền, người vay vốn, người sử dụng các dịch vụ trung gian (gồm Nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cá nhân) trong và ngoài nước. Khi một ngân hàng bị thua lỗ, phá sản gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các thành viên trong xã hội. Tâm lý hoang mang mất tin tưởng vào hệ thống ngân hàng sẽ lan truyền nhanh chóng và nhiều người gửi tiền kéo đến ngân hàng để rút tiền. Điều này sẽ kiến hàng loạt ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Và trường hợp xấu nhất có thể xảy ra là sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Hậu quả của nó là sự khủng hoảng xã hội, kinh tế và chính trị.
Dân chúng sẽ không còn tin tưởng vào ngân hàng trong nhiều năm. Dù sau đó khi hệ thống ngân hàng hồi phục thì cũng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề huy động vốn cho phát triển kinh tế. Để khôi phục lòng tin của công chúng không thể thực hiện ngay trong một sớm một chiều.
Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nền kinh tế cũng bị ngưng trệ. Do một lượng vốn nằm tồn đọng trong các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, nên ngân hàng không còn đủ vốn ._.để cho vay các dự án có hiệu quả, mở rộng và phát triển sản xuất. Trong khi tiền cho vay của ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, trôi nổi trên thị trường mà ngân hàng không thể kiểm soát nổi. Kết quả là sản xuất đình đốn, nền kinh tế không phát triển, sản xuất bị rối loạn.
Như vậy, nợ quá hạn dù xảy ra ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng đến sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, việc tập trung thu hồi các món nợ quá hạn là vấn đề bức xúc không chỉ của riêng ngân hàng mà phải là trách nhiệm của cả nền kinh tế. Thực hiện các biện pháp xử lý nợ quá hạn phù hợp sẽ giảm tổn thất cho ngân hàng cũng như nền kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống tài chính ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh, tạo điều kịên cho nền kinh tế tăng trưởng.
Có thể nói, nợ quá hạn là một hiện tượng khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng ở bất kỳ một môi trường, điều kiện nào cũng đều phát sinh nợ quá hạn. Trong nợ quá hạn có một bộ phận khó thu hồi hoặc không thu hồi được. Đó chính là rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, điều này cũng tất nhiên như sự rủi ro của các ngành nghề kinh doanh khác. Tuy nhiên, các ngân hàng khác nhau có trạng thái nợ khác nhau, điều này phụ thuộc vào nhận thức, vào dự đoán và hành động khống chế rủi ro của mỗi ngân hàng. Mỗi ngân hàng xác định cho mình một tỷ lệ nợ quá hạn tối ưu của ngân hàng sẽ thỏa mãn đồng thời cả ba mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh và an toàn trong kinh doanh của ngân hàng.
III. các biện pháp phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn của ngân hàng thương mại.
Nếu không có rủi ro, nguồn thu nhập của ngân hàng từ khoản cho vay có giới hạn là lãi thu được từ khoản cho vay đó, còn ngược lại thậm chí ngân hàng bị mất một phần hoặc toàn bộ phần lãi thậm chí cả gốc. Để giảm thiểu tối đa các rủi ro có thể xảy ra, đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn thích hợp.
1. Các biện pháp phòng ngừa.
Các Ngân hàng Thương mại rất quan tâm đến các biện pháp ngăn ngừa nợ quá hạn nhằm hạn chế các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Ngay từ khi có bằng chứng là người vay đã gặp khó khăn tài chính, nhà quản lý ngân hàng cần áp dụng kịp thời các biện pháp để điều chỉnh tình huống và bảo vệ lợi ích của ngân hàng.
Để làm được các việc này đòi hỏi ngân hàng thực hiện các biệp pháp sau:
- Tiến hành trích lập quỹ dự phòng rủi ro để sẵn sàng đối phó với những nguyên nhân xảy ra ngoài sự kiểm soát của ngân hàng cũng như khách hàng khi khoản cho vay gặp rủi ro.
- Đổi mới, cải tiến phương pháp cho vay thu nợ.
- Ngân hàng cần có các biên pháp tiến hành thẩm định dự án cho vay một cách chặt chẽ kết hợp với việc phân tích cụ thể tình hình tài chính của khách hàng (vốn tự có, khả năng thanh toán…). Từ đó có thể đưa ra những đánh giá xác đáng nhất về tính khả thi của dự án cho vay và sự lành mạnh tài chính của khách hàng.
- Tiến hành giải ngân các khoản cho vay gắn liền với giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Có biện pháp theo dõi, đôn đốc khách hàng trả nợ khi đến hạn.
- Cần thường xuyên phân tích khách hàng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro. Kiểm soát sát sao tài khoản của khách hàng, nhanh chóng phát hiện những dấu hiệu nghi vấn gây ảnh hưởng xấu tới khoản cho vay của ngân hàng từ đó đưa ra các biện pháp xử lý hữu hiệu, kịp thời.
- Thực hiện chiến lược Marketing nhằm tiếp cận, phân loại khách hàng theo từng nhóm với những tiêu thức phù hợp. Từ đó có thể đưa ra các biện pháp tài trợ hiệu quả đối với mỗi đối tượng khách hàng nhằm đem lại thu nhập cho bản thân ngân hàng cũng như khách hàng. Song việc thực hiện giải pháp này thường đặt ngân hàng vào tình huống buộc phải lựa chọn rất khó khăn, đòi hỏi phải có chuyên môn cao, đôi khi còn là sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Biện pháp này đòi hỏi ngân hàng phải tiến hành tốt những nguyên tắc quản lý các khoản cho vay: sàng lọc, giám sát, thiết lập các mối quan hệ khách hàng lâu dài và hạn mức tín dụng…
2. Các biện pháp xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng Thương mại
2.1. Đối với các khoản nợ quá hạn thông thường.
Một khoản nợ quá hạn không có nghĩa là mất tất cả. Nhiệm vụ quan trọng và đầu tiên trong việc xử lý những món nợ này là ngân hàng cần tạo ra bầu không khí tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng với người vay, tạo ra thái độ sẵn sàng trả nợ của người vay.
2.1.1. Khai thác:
Khai thác là quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần hay toàn bộ mà không dùng đến các công cụ pháo lý để thu nợ.
Trong trường hợp khách hàng là người có ý thức trách nhiệm đối với món nợ nhưng đang thực sự gặp khó khăn về tài chính thì ngân hàng có thể xem xét xử lý bằng biện pháp khai thác, nghĩa là người vay tự khắc phục các khó khăn về tài chính và hoàn trả món nợ cho ngân hàng càng nhanh càng tốt. Đây là biện pháp nâng đỡ tạo điều kiện cho bên vay không bị lâm và tình trạng phá sản.
áp dụng phương pháp khai thác để giải quyết các món nợ quá hạn có thể được mô tả là một chương trình phục hồi khắc khổ áp đặt lên người vay và chủ yếu dựa vào sự thỏa thuận hợp tác của họ. Biện pháp này có một số hình thức như sau:
+ Gia hạn nợ: Gia hạn nợ thực chất là việc kéo dài thời gian trả nợ sau thời điểm cam kết trả nợ trong khế ước nhận nợ. Việc gia hạn nợ có thể tiến hành trước ngày đáo hạn của khoản vay nếu doanh nghiệp có đơn xin gia hạn. Nếu vì lý do nào đó đến ngày đáo hạn của khoản vay, khách hàng không có đơn xin gia hạn thì khoản vay hiển nhiên bị chuyển thành nợ quá hạn. Nhưng sau đó nếu có đơn và ngân hàng xét thấy nếu hợp lý thì khoản nợ quá hạn sẽ được chuyển thành nợ thông thường chịu lãi suất gia hạn. Các khoản nợ loại hình này thường xảy ra ở các doanh nghiệp có trình độ chuyên môn cao, nhạy bén với thị trường và có khả năng điều chỉnh hoạt động kinh doanh để thu hồi vốn hoàn trả khoản vay trong chu kỳ kinh doanh tới. Các khoản vay có thể được gia hạn một lần hoặc nhiều lần.
+ Ngân hàng có thể đề nghị chủ doanh nghiệp tăng thêm vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
+ Nếu người vay đang trù tính mở rộng quy mô hoạt động, ngân hàng sẽ khuyên người vay từ bỏ ý định đó cho đến khi doanh nghiệp đã cải thiện tình hình tài chính. Ngân hàng đề nghị người vay giảm bớt kế hoạch phát triển dài hạn để tăng cường vốn cho kinh doanh. Ngân hàng có thể khuyên hoặc cố vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới.
+ Ngân hàng gia tăng khối lượng khoản vay giúp khách hàng thực hiện kinh doanh có hiệu quả hơn. Đây gọi là phương pháp lấy nợ để nuôi nợ. Giải pháp này chỉ thực sự có hiệu quả khả thi khi doanh nghiệp có phương án phục hồi sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao, cả doanh nghiệp và ngân hàng cùng nỗ lực vực doanh nghiệp đi lên. Nếu không có sự gia tăng các khoản cho vay của ngân hàng càng làm cho món nợ của doanh nghiệp mất khả năng thu hồi.
+ Chuyển khoản tiền cho vay thành vốn cổ phần trong doanh nghiệp:
Việc chuyển khoản vay ngân hàng thành vốn cổ phần của doanh nghiệp là một biện pháp nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Phương pháp này được áp dụng khi lĩnh vực đầu tư hoặc hoạt động của doanh nghiệp mang tính khả thi cao, có khả năng đem lại hiệu quả cao nhưng gánh nợ nần quá lớn khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai dự án. Trình độ quản lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp cũng không thích ứng với dự án hoạt động mới. Việc chuyển vốn vay thành vốn cổ phần sẽ giúp lành mạnh hóa tình trạng tài chính, giảm gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Với uy tín, kinh nghiệm và sự góp mặt của mình, ngân hàng với tư cách là cổ đông của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp. Ngân hàng nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng được quyền tham gia điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp.
+ Yêu cầu doanh nghiệp bổ sung thêm tài sản thế chấp: Yêu cầu này được đưa ra ngay khi khoản vay bị coi là có vấn đề.
+ Trong một số trường hợp nhất định, ngân hàng có thể thay doanh nghiệp trực tiếp điều hành doanh nghiệp. Điều này được thực hiện khi giám đốc đương nhiệm không có khả năng điều hành doanh nghiệp, có hành vi lừa đảo, gian dối. Ngân hàng quản lý tất cả các hoạt động tài chính, kế toán của doanh nghiệp.
+ Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản chi phí, tìm kiếm trên thị trường để tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp cần có các biệp pháp xử lý hàng hóa, sản phẩm, vật tư tồn đọng, thu hồi các khoản phải thu và tài sản bị chiếm dụng, thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, bảo lãnh nợ, giảm xóa nợ, tìm kiếm các khoản tài trợ và trang trải các khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
Với mỗi cách xử lý này, ngân hàng và doanh nghiệp phải xác định được tất cả các nguồn chi trả, số lượng hoàn trả từ các nguồn vốn đó và thời điểm dự tính hoàn trả đủ vốn cho ngân hàng.
Để tổ chức khai thác thành công, ngân hàng phải giám sát doanh nghiệp liên tục. Đồng thời doanh nghiệp phải cung cấp các báo cáo tài chính thường xuyên. Cả hai bên đều phải quan tâm và làm tích cực hơn.
Nếu tổ chức khai thác thành công, rõ ràng là doanh nghiệp được lợi nhiều nhất. Đồng thời, trong trường hợp đó, ngân hàng cũng thu được lợi lớn. Quả vậy, nếu ngân hàng giúp doanh nghiệp giải quyết vấn đề và giúp doanh nghiệp thành đạt thì trong vài năm tới ngân hàng sẽ có một khách hàng trung thành. Như vậy, ngân hàng sẽ được lòng cả khách hàng cũng như giới kinh doanh, vì bất cứ một doanh nghiệp hay cá nhân cũng thích quan hệ với một ngân hàng có uy tín, quan tâm đến lợi ích của khách hàng và sẵn sàng phục vụ họ hơn là một ngân hàng nổi tiếng đối xử khắc nghiệt với người vi phạm hợp đồng tín dụng.
2.1.2. Cho phép công ty mạnh mua lại công ty yếu.
Khi một tập đoàn đứng ra mua lại các công ty, doanh nghiệp yếu, tập đoàn này sẽ trở thành pháp nhân chịu hoàn toàn mọi nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bị mua lại. Biện pháp này để tiến hành cần có sự đồng ý của các cơ quan hữu quan.
Việc sát nhập vào các tập đoàn mạnh sẽ tạo ra một quá trình tích tụ tư bản tạo ra một khối lượng vốn lớn. Sự sát nhập vào tập đoàn mạnh có nghĩa là giảm chi phí, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, chấn chỉnh phong cách làm việc, cải tổ cơ cấu và hệ thống quản lý. Trong điều kiện này các khoản nợ quá hạn đối với ngân hàng sẽ được thanh toán từ tập đoàn lớn. Khả năng thu hồi được các khoản nợ là hoàn toàn chắc chắn.
Phần nợ quá hạn thông thường chưa chuyển thành nợ quá hạn khó đòi nếu được tổ chức xử lý theo những phương pháp phù hợp là con đường ngắn nhất và có hiệu quả nhất để giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Ngược lại nếu phần nợ quá hạn này không được xử lý kịp thời sẽ chuyển thành nợ khó đòi và việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn trở nên rất khó khăn.
2.2. Đối với các khoản nợ khó đòi và mất vốn:
Nếu những nỗ lực của ngân hàng và doanh nghiệp trong việc xử lý nợ quá hạn thông thường không thu được kết quả dẫn đến phát sinh các khoản nợ khó đòi thì ngân hàng phải tiến hành các biện pháp mạnh để xử lý các khoản nợ đó, đây là một việc rất phức tạp và không thích thú gì đối với cán bộ ngân hàng.
Các khoản nợ này có khả năng thu hồi thấp nên có tác động không nhỏ tới toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy việc xử lý các khoản nợ khó đòi này đòi hỏi có sự quan tâm đặc biệt không chỉ của riêng ngân hàng mà còn cả các cơ quan có thẩm quyền có liên quan để cùng giải quyết.
2.2.1. Thanh lý tài sản thế chấp:
Sau khi xem xét các yếu tố, ngân hàng thấy khả năng cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp là rất khó khăn, và thậm chí không thực hịên được. Các biện pháp khai thác được áp dụng mà không có hiệu quả thì cách xử lý tốt nhất là tiến hành các thủ tục pháp lý để thu hồi các khoản nợ.
Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng mà hai bên đã thỏa thuận, áp dụng và sử dụng tất cả các biện pháp pháp lý để thu nợ. Ngân hàng thường không muốn tiến hành các thủ tục pháp lý rắc rối, chi phí lớn và mất nhiều thời gian. Hơn nữa, giá thị trường của các tài sản thế chấp thay đổi không đảm bảo bù đắp khoản vay.
Việc thanh lý có thể được tiến hành bằng một số biện pháp sau:
- Ngân hàng cố gắng thuyết phục khách hàng tự bán tài sản thế chấp, cầm cố của mình để trả nợ. Việc khách hàng tự nguyện bán tài sản thế chấp, cầm cố thường được đánh giá cao hơn là bị buộc phải phát mại. Khi đó khách hàng cũng đỡ bị mất uy tín của mình trên thương trường, đồng thời ngân hàng cũng tránh được những chi phí và thủ tục pháp lý gắn liền với việc sở hữu và phát mại các tài sản thế chấp, cầm cố. Trong số các biện pháp thanh lý thì việc khách hàng tự bán tài sản thế chấp, cầm cố có lẽ là có lợi nhất đối với cả khách hàng và ngân hàng.
- Gán nợ cho ngân hàng và ngân hàng tự bán tài sản thế chấp để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Hướng giải quyết này không mấy dễ dàng vì đây không phải là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường mua lại tài sản thế chấp đó để làm văn phòng làm việc, trụ sở giao dịch, cho thuê, góp vốn liên doanh, liên kết.
- Ngân hàng đề nghị cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thế chấp, cầm cố. Trong trường hợp tài sản thế chấp, cầm cố bán đi không đủ để bù đắp nợ thì ngân hàng có thể nhận phán quyết của tòa án về phần chênh lệch chẳng hạn ngân hàng được phép thu thêm nếu người vay còn có các tài sản khác.
- Ngân hàng chỉ hạch toán giảm nợ cho bên vay sau khi đã xử lý xong tài sản thế chấp, cầm cố và thực sự thu được tiền sau khi làm thủ tục sang tên trước bạ cho ngân hàng nếu ngân hàng nhận gán nợ. Tiền thu được từ bán tài sản thế chấp, cầm cố sau khi trừ các chi phí xử lý tài sản ưu tiên toàn bộ để trả nợ ngân hàng theo thứ tự trả nợ gốc trước. Nếu tiền thu được từ việc bán tài sản dùng để thanh toán nợ còn thiếu thì tiếp tục theo dõi để tiếp tục xử lý thu hồi nợ.
Để tiến hành xử lý các khoản nợ khó đòi các ngân hàng có thể tiến hành một trong số các biện pháp dưới đây tuỳ thuộc vào từng loại nợ khó đòi phát sinh.
2.2.2. Bán nợ:
Đây là một biện pháp được áp dụng khá nhiều ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Các khoản nợ quá hạn sẽ được ngân hàng chào bán.
Thông qua các công ty môi giới sẽ có các công ty khác đứng ra mua khoản nợ này. Tất niên việc chào bán chủ yếu là các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi thấp. Ngân hàng không có đủ khả năng để tiếp tục theo dõi và thu nợ có vấn đề sẽ có các biện pháp thu nợ thích hợp.
Việc bán nợ sẽ giúp ngân hàng thu hồi được vốn trong thời gian ngắn mặc dù số nợ thu được sẽ giảm đi. Đó là cái giá của việc chuyển nhượng rủi ro sang các đối tượng khác.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể bán các khoản nợ khi gặp khó khăn tạm thời về tiền mặt.
2.2.3. Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Trong trường hợp doanh nghiệp có phát sinh những khoản nợ khó đòi, Ngân hàng đã tiến hành mọi biện pháp để thu hồi nợ mà doanh nghiệp vẫn không có khả năng thanh toán các khoản nợ đối với ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp mắc nợ mà không trả được cho các chủ nợ thì chủ nợ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bán toàn bộ tài sản còn lại của doanh nghiệp và trả nợ cho chủ nợ. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp đó mất khả năng thanh toán nợ một cách trầm trọng sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết. Chủ nợ không có tài sản đảm bảo và chủ nợ có tài sản bảo đảm một phần (chủ nợ có đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ mà giá trị tài sản đảm bảo ít hơn khoản nợ đó) có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chủ nợ có đảm bảo không có quyền nộp đơn bởi số nợ mà doanh nghiệp không thanh toán thì chủ nợ này có quyền bán tài sản đảm bảo để lấy lại khoản nợ của mình.
Tòa án kinh tế thuộc Toà án Nhân dân cấp tỉnh uỷ thụ lý đơn và quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không được thực hiện thanh toán nợ có đảm bảo từ tài sản của doanh nghiệp mà không có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán. Quyết định này được đăng báo Trung ương và địa phương để các chủ nợ gửi giấy đòi nợ doanh nghiệp đến cho tòa án trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đăng báo. Trên cơ sở đó, tòa án lập danh sách các chủ nợ.
Tòa án tiến hành hội ngị để đồng ý với phương án hòa giải, giải pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (do chủ doanh nghiệp lập), thực chất đó là phương án xin hoàn nợ, tạm đình chỉ giả nợ và doanh nghiệp được tồn tại thêm hai năm nữa. Nếu phương án không được thông qua thì yêu cầu kiến nghị thẩm phán về việc phân chia tài sản doanh nghiệp.
Thẩm phán được giao phụ trách tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không có phương án hòa giải hoặc có nhưng không đựơc hội nghị chủ nợ thông qua hoặc hết thời hạn tổ chức lại sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp không đạt được mục tiêu và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản hoặc trong quá trình giải quyết việc phá sản chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ trốn hoặc chết mà không có người thừa kế hoặc những người thừa kế từ chối quyền được hưởng thừa kế.
Sau đó Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính quản lý tài sản của doanh nghiệp và phát mại tài sản. Trong quá trình yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thẩm phán ra quyết định bào toàn tài sản cầm cố, thế chấp không đủ thanh toán nợ cho chủ nợ có bảo đảm thì chủ nợ được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo đảm khác. Nếu giá trị tài sản cầm cố, thế chấp đó lớn hơn số nợ, thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị còn lại của doanh nghiệp phá sản.
Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo thứ tự ưu tiên sau:
- Chi phí giải quyết phá sản doanh nghiệp.
- Nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội.
- Nợ thuế.
- Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ.
Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình. Nếu giá trị tài sản còn lại không đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
Như vậy, ngân hàng khi bán tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp mà không thu được đủ số nợ đã cho vay dễ trở thành chủ nợ không có bảo đảm và có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để thu nốt số nợ còn lại.
2.2.4. Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro bù đắp:
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro nhất. Do đó phải lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp các rủi ro gặp phải trong kinh doanh tiền tệ. Việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro nhằm bảo vệ người gửi tiền, giúp cho ngân hàng bảo tồn vốn kinh doanh, tạo nền tảng vững mạnh cho ngân hàng trong hoạt động của mình. Do luôn có khoản mất vốn cho nên ngân hàng phải tìm kiếm nguồn bù đắp, nguồn này được tập hợp vào quỹ dự phòng rủi ro . Quy mô của quỹ dự phòng rủi ro được quyết định căn cứ bởi mức rủi ro của các khoản nợ và khả năng quản lý rủi ro của Ban Giám đốc ngân hàng.
Theo thông lệ, đây là một khoản được tính trong chi phí hoạt động hàng năm của ngân hàng. Cơ sở để xác định tỷ lệ % các khoản tín dụng bị mất (không thu hồi được) so với tổng các khoản cho vay của năm trước. Tỷ lệ đó được dùng để trích cho năm hiện tại. Nếu cuối năm số tiền cho vay bị mất nhỏ hơn phần không sử dụng, khi đó sẽ tạo thành nguồn vốn của ngân hàng. Nếu khoản tín dụng bị mất lớn hơn phần đã trích dự phòng thì phần thiếu hụt sẽ được lấy từ nguồn vốn của ngân hàng để bù đắp. Giải pháp này nhằm đảm bảo nguyên tắc: Ngân hàng phải chịu những rủi ro trong kinh doanh, ngân hàng không được phép lấy nguồn tiền gửi của khách hàng để bù đắp những tổn thất. Điều này giúp tình hình tài chính của ngân hàng được lành mạnh hơn đồng thời buộc ngân hàng phải thận trọng khi cấp tín dụng.
Sau khi xác định khoản nợ là mất vốn, ngân hàng tiến hành xóa nợ bằng cách đưa khoản nợ ra khỏi dư nợ cho vay đồng thời giải quỹ dự phòng rủi ro. Như vậy sẽ đưa dư nợ về tình trạng thực tế, đồng thời tài sản và nguồn vốn của ngân hàng sẽ bị giảm xuống.
Sau khi loại bỏ các khoản mất vốn ra khỏi bảng tổng kết tài sản, ngân hàng phải tiếp tục theo dõi ở phần ngoại bảng. Nếu sau này thu hồi lại được khoản nợ đã mất thì phần thu này được tính là thu nhập bất thường của ngân hàng.
Theo luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam, tổ chức tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động.
Ngân hàng lựa chọn các biện pháp xử lý nợ quá hạn căn cứ vào:
- Tính chất của khoản nợ quá hạn đó.
- Nguyên nhân gây ra nợ quá hạn.
- Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan.
- Vị trí vai trò của ngân hàng, của khách hàng trong nền kinh tế.
- Môi trường kinh tế.
Chương II
Thực trạng và một số giải pháp nhằm góp phần hạn chế và xử lý nợ quá hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương II – Hai Bà Trưng
1. Vài nét về chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng.
1.1. Ngân hàng Công thương Việt Nam:
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn của Việt Nam và được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt.
Ngân hàng Công thương Việt Nam có mạng lưới kinh doanh rộng lớn với 2 Sở Giao dịch, 104 chi nhánh, 143 Phòng giao dịch, 358 Quỹ tiết kiệm ở hầu hết các tỉnh thành và trung tâm thương mại trong cả nước. Ngoài ra, Ngân hàng công thương Việt Nam còn có các chi nhánh trực thuộc như: Văn phòng đại diện tại TP.HCM, Trung tâm Đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông tin, Công ty cho thuê tài chính,…
Ngân hàng Công thương Việt Nam cung cấp các dịch vụ: Mở tài khoản và nhận tiền gửi tiết kiệm, cho vay tín dụng ngắn, trung và dài hạn, cho vay hợp vốn, đồng tài trợ, bảo lãnh và thanh toán quốc tế,… và các dịch vụ đa dạng khác.
Khách hàng chính của Ngân hàng Công thương Việt Nam là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất công nghịêp, xây dựng, Giao thông vận tải, Bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch, dịch vụ,… và các khách hàng cá nhân tại các khu tập trung đông dân cư như thành phố, thị xã. Với phương châm hoạt động “Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp”, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước và sự phát triển thành đạt của các doanh nghiệp.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng thương mại Việt Nam đi đầu trong việc cải tiến Công nghệ thông tin Ngân hàng. Năm 2001, Ngân hàng Công thương Việt Nam là Ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên xây dựng và triển khai mạng máy tính rút tiền tự động ATM trong toàn quốc.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội Ngân hàng Châu á (ABA), thành viên của Hiệp hội thanh toán viễn thông liên Ngân hàng toàn cầu (SWIFT), thành viên chính thức của Hiệp hội Visa, Hiệp hội các Ngân hàng Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
1.2. Hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng.
1.2.1. Lịch sử hình thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng.
Ngân hàng Công thương khu vực II Hai Bà Trưng là một chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sau khi thực hiện Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng hai cấp, Ngân hàng Nhà nước quận Hai Bà Trưng, gồm một chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp quận và một chi nhánh Ngân hàng kinh tế cấp quận, chuyển thành các chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực I và II quận Hai Bà Trưng trực thuộc chi nhánh Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tại quyết định số 93/NHCT-TCCB ngày01/4/1993 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức Ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của Ngân hàng Công thương Việt Nam, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực I và II Hai Bà Trưng là Chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam được tổ chức hạch toán kinh tế và hoạt động như Chi nhánh Ngân hàng Công thương cấp tỉnh, thành phố. Kể từ ngày 01/9/1993, theo quyết định của Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam, sát nhập chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực I và chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II Hai Bà Trưng. Như vậy kể từ ngày 01/9/1993 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) chỉ còn duy nhất một Chi nhánh Ngân hàng Công thương.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức:
Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng có trụ sở chính đặt tại 285 đường Trần Khát Chân – quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Hiện nay chi nhánh có biên chế gần 340 cán bộ công nhân viên trong đó hơn 65% có trình độ cao đẳng, đại học. Bộ máy tổ chức Chi nhánh bao gồm Ban Giám đốc, 8 phòng chức năng, 2 phòng Giao dịch, 2 tổ nghiệp vụ và 13 Quỹ tiết kiệm được thể hiện qua sơ đồ sau:
Ban giám đốc
Phòng Kinh doanh
Phòng Kế toán
Phòng Tổ chức
Hành chính
Phòng kinh doanh đối ngoại
Phòng Giao Dịch
chợ hôm
Phòng nghiệp vụ
bảo hiểm
Phòng Kho quỹ
Phòng nguồn vốn
Phòng kiểm soát
Phòng T.T điện toán
Cửa hàng kinh doanh vàng bạc
Phòng Giao Dịch trương định
Tổ cân đối tổng
hợp
13 Quỹ tiết kiệm
1.2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhành Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng:
Quận Hai Bà Trưng chiếm vị trí rất quan trọng của thành phố Hà Nội và mạn Đông Nam. Có diện tích đất 13,53km2, dân số 335.300 người theo thống kê năm 1999. Trên địa bàn quận tập trung khối sản xuất công nông nghiệp Trung ương và địa phương, nhất là khu công nghiệp Sợi – Dệt – May và CN cơ khí, Công ty thương nghiệp, và nhiều loại hình kinh doanh khác… Ngoài ra, quận có vị trí hết sức thuận lợi cho việc hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc thuận lợi của giao thông đường bộ và giao thông đường thủy (Cảng Phà Đen) đã thúc đẩy lưu thông nhanh hàng hóa, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh. Từ đó tạo ra môi trường kinh doanh cho Ngân hàng, đó là cung ứng vốn, dịch vụ sản xuất kinh doanh. Không dừng lại ở đó, hoạt động của ngân hàng không chỉ bó hẹp trong địa bàn quận Hai Bà Trưng mà còn vươn ra bình đẳng kinh doanh với tất cả các ngân hàng khác địa bàn thành phố, hòa nhập vào sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới hoạt động của ngành. Tập thể lãnh đạo cán bộ công nhân viên Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II Hai Bà Trưng đã quyết tâm phấn đấu thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ của cấp trên giao phó với mục tiêu “Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp, sự thành đạt trong doanh nghiệp cũng chính là sự thành đạt của Ngân hàng”, thực hiện tiếp tục đổi mới nâng cao trách nhiệm tôn trọng khách hàng.
Cùng với sự thăng trầm của kinh tế nước ta, Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng nhiều lúc cũng phải đối mặt với những khó khăn nhất định, hạn chế khả năng huy động tiền vốn cũng như cho vay đối với các tổ chức kinh doanh ở một số lĩnh vực như: khách sạn, cơ khí… Tuy vậy với sự cố gắng không ngừng, đến nay Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình đối với nền kinh tế thủ đô, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ Ngân hàng thường xuyên tăng cường nguồn vốn có hiệu quả, thay đổi cơ cấu đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tăng cường vật chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ góp phần vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, điều nà được tể hiện ở những mặt chủ yếu sau:
1.2.3.1. Huy động vốn.
Chi nhánh đã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công tác huy động vốn dưới mọi hình thức, để đảm bảo quy mô nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng theo kế hoạch xác định. Bằng biện pháp đúng đắn thích hợp như:
- Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn thanh toán qua Ngân hàng, thực hiện tốt những chính sách khuyến khích lợi ích khách hàng mở tài khoản và thanh toán.
- Bên cạnh đó là công tác huy động vốn tiền gửi dân cư được phát triển với mạng lưới các quỹ tiết kiệm hợp lý, thái độ phục vụ văn minh lịch sự. Thông qua công tác tự kiểm tra kiểm soát đảm bảo an toàn tiền gửi dân cư, đã tạo được truyền thống cao cho Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng. Đặc biệt đã triển khai thực hiện tốt quy trình giao dịch tiết kiệm bằng máy vi tính, đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, tạo thuận lợi cho khách hàng.
- Trong công tác huy động vốn, mặc dù lãi suất huy động không cao so với mặt bằng trung của các Ngân hàng thương mại khách hệ thống trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động USD giảm mạnh, nhưng do thường xuyên coi trọng chất lượng giao dịch vụ kết hợp tốt chính sách khách hàng, nê nguồn vốn của chi nhánh tăng đều, đảm bảo được cân đối vốn cng cầu tạo thế chủ động cho hoạt động kinh doanh.
- Công tác quản lý tiền gửi của dân cư được chi nhánh thực hiện thường xuyên nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra với nhiều hình thức. Qua đó đã khắc phục những sai xót, đảm bảo an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi dân cư và các giấy tờ in quan trọng, nâng cao uy tín của Ngân hàng với khách hàng.
Kết quả của những nỗ lực trên của Ngân hàng là trong nhiều năm liên tục nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng luôn tăng trưởng đáng kể và cơ cấu nguồn vốn cũng thay đổi theo hướng tích cực cụ thể là:
Biểu 1: sơ đồ cơ cấu huy động vốn năm 2000 – 2002
Đơn vị: Tỷ đồng
Qua bảng phân tích số liệu và biểu đồ, ta thấy tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưngtrong thời gian qua có một số điểm chú ý:
Nguồn vốn tăng trưởng đều đặn trong những năm qua với tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn đạt và vượt kế hoạch. Tính đến 31/12/2001, tổng nguồn vốn huy động được là 1838 tỷ đồng, tăng 259 tỷ so với năm 2000, tốc độ tăng là 16,4%. Cuối năm 2002, con số này là 2013 tỷ đồng, bằng 109,5% so với cùng kỳ năm trước. Với nguồn vốn khá dồi dào, chi nhánh không những đủ khả năng chủ động kinh doanh, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn mà còn điều chuyển lên Ngân hàng Công thương Trung ương hàng năm trung bình trên 600 tỷ đồng, điều hoà lại cho các Chi nhánh thiếu vốn để phục vụ cho vay và đầu tư phát triển kinh tế.
Cơ cấu._.sinh. Rõ ràng việc xử lý theo hai biện pháp trên chỉ mang tính tình thế chứ không giải quyết tận gốc nguyên nhân của vấn đề nợ quá hạn.
3.2. Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng trực tiếp xử lý.
Bên cạnh việc xử lý nợ quá hạn như trên, Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng còn có các biện pháp riêng để xử lý nợ quá hạn trong cho vay thương mại hoặc các khoản nợ không được xử lý theo chỉ đạo của cấp trên.
3.2.1. Gia hạn nợ, điều chỉnh hạn nợ.
Gia hạn nợ: là việc Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thừi gian ngoài thời hạn cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Khi đến hạn trả nợ, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ do nguyên nhân khách quan gây nên và có văn bản đề nghị gia hạn nợ thì Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng xem xét cho gia hạn nợ.
- Thời gian gia hạn nợ đối với ngắn hạn tối đa bằng thời hạn cho vay đã thoả thuận hoặc bằng một chu kỳ sản xuất, kinh doanh nhưng không quá 12 tháng.
- Thời hạn gia hạn nợ vay trung dài tối đa bằng 1/3 thời hạn cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ đến hạn trả chưa trả được và nếu không được gia hạn nợ thì Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Số lần gia hạn nợ không hạn chế.
Sau khi đã được gia hạn, khoản nợ này trở thành khoản nợ thông thường. Trong thời gian gia hạn, khoản vay này phải chịu một lãi suất lớn hơn lãi suất thông thường nhưng nhỏ hơn lãi suất nợ quá hạn. Điều này kích thích khách hàng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời cảnh báo cho họ biết nếu họ tiến hành sản xuất kinh doanh không có hiệu qủa, không tìm được nguồn trả nợ cho Chi nhánh thì món vay sẽ trở thành nợ quá hạn.
Điều chỉnh kỳ hạn nợ: là việc Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về việc thay đổi các kỳ hạn trả nợ trong thời gian cho vay đã được xác định trong hợp đồng tín dụng.
Trường hợp khách hàng không trả nợ vay đúng kỳ hạn đã thoả thuận như trong hợp đồng tín dụng do nguyên nhân khách quan và có văn bản đề nghị thì Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng xem xét cho điều chỉnh kỳ hạn trả nợ. Cán bộ tín dụng sẽ tiến hành xác định lại số lần trả nợ và số tiền mỗi lần trả phù hợp với tình hình thực tế của khách hàng và môi trường kinh tế. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ thì Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng chuyển số nợ đến hạn trả của kỳ hạn đó sang nợ quá hạn. Việc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ được thực hiện đối với các khoản cho vay trung và dài hạn và cả ngắn hạn.
Việc đề nghị gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của khách hàng cũng như việc giải quyết cho gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ của Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng được thực hiện trước khi đến hạn trả nợ.
Khi đến hạn trả nợ, khách hàng phải trả nợ có 3 trường hợp xảy ra:
- Khách hàng trả cho Chi nhánh đầy đủ số tiền nợ gốc và lãi vay.
- Khách hàng chi trả một phần tiền gốc, chi nhánh chuyển số tiền nợ gốc từ nợ trong hạn sang nợ quá hạn.
- Khách hàng không có khả năng trả nợ, chi nhánh chuyển số tiền nợ gốc từ nợ trong hạn sang nợ quá hạn.
Các khoản nợ quá hạn phải chịu lãi suất cao hơn lãi suất trong hạn. Đây là một hình phạt kinh tế do khách hàng đã không thực hiện đúng cam kết trả nợ cho Chi nhánh.
3.2.2. Khai thác.
Biện pháp này được Chi nhánh với khách hàng truyền thống, có quy mô hoạt động lớn.
Chi nhánh tiến hành tổ chức buổi gặp gỡ tiếp xúc, hội thảo với doanh nghiệp tại Chi nhánh hoặc tại doanh nghiệp nhằm cùng bàn bạc để giải quyết các khoản nợ quá hạn, tìm ra các giải pháp để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể từng bước trả được gốc và lãi. Thông qua các buổi gặp gỡ cởi mở, Chi nhánh hiểu rõ hơn về doanh nghiệp, từ đó đưa ra các lời khuyên về quản lý doanh nghiệp, về quy mô hoạt động, về thị trường, về đối tác làm ăn cho doanh nghiệp.
Chi nhánh cho khách hàng vay ngắn hạn tạo nguồn thu để trả nợ khi khách hàng đệ trình được phương án sử dụng có hiệu quả, có tính khả thi. Trước khi quyết định cho vay, cán bộ tín dụng xen xẻét kỹ lưỡng các phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, các hợp đồng mua bán hàng hoá, tình hình và triển vọng thị trường sản phẩm mà họ kinh doanh, khả năng tạo nguồn vốn với kỳ vọng là khách hàng sẽ cải thiện được tình hình tài chính và thanh toán được nợ gốc lẫn nợ mới và lãi cho Chi nhánh.
3.2.3. Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn thông thường.
Khi đến hạn trả nợ, khách hàng không tự giác trả nợ cho Chi nhánh thì Chi nhánh tiến hành trích tài khoản tiền gửi của khách hàng tại các để thu nợ, thu lãi hoặc nhờ thu qua Ngân hàng bạn nếu tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Chi nhánh không đủ để thanh toán toàn bộ và khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng khác hoặc yêu cầu người bảo lãnh vốn vay trả thay.
Đối với các khoản nợ quá hạn thông thường, cán bộ tín dụng phụ trách tích cực bám sát, theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng, liên tục đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để kiểm tra và gửi giấy nhắc nợ (có ghi rõ số nợ quá hạn, lãi suất, thời gian quá hạn, biện pháp xử lý có thể áp dụng khi khách hàng không trả được nợ), theo dõi tài khoản tiền gửi của họ có phát sinh số dư Có.
Kiểm soát trưởng hoặc kiểm soát viên cùng với trưởng phòng tín dụng, cán bộ tín dụng phụ trách đơn vị kiểm tra lại việc thực hiện theo quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng để xác định lại xem có bỏ qua bước nào không, xác định lại nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn là do Chi nhánh, khách hàng hoăc do nguyên nhân khác. sau đó sẽ đến địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để rà soát tổng dư nợ vay các loại của khách hàng, xác định khả năng trả nợ của khách hàng, nguyên nhân chi tiết dẫn đến nợ quá hạn để xác định định tính chất của khoản nợ quá hạn và đưa ra các biện pháp xử lý có hiệu quả nhất.
3.2.4. Giảm miễn lãi cho khách hàng.
Quy chế giảm miễn lãi vay đối với khách hàng vốn vay tại Ngân hàng Công thương Việt nam được ban hành kèm theo QĐ số 053/QĐ-HĐBT-NHCT ngày 13/6/2002. Quy chế này được áp dụng đối với bên vay thực sự có khó khăn về tài chính do các nguyên nhân khách quan, nhằm tạo điều kiện cho bên vay khắc phục khó khăn, khôi phục sản xuất kinh doanh và trả được nợ vay của Chi nhánh. Theo quy chế này, Ngân hàng giảm miễn lãi cho những khách hàng vốn vay taị Ngân hàng Công thương thuộc một trong các trường hợp sau:
- Bị tổn thất về tài sản, có liên quan đến vốn vay do nguyên nhân khách quan dẫn đến khó khăn về tài chính.
- Các trường hợp bất khả kháng mà pháp luật có quy định khách hàng được miễn một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự
- Các khoản vay của khách hàng được xem xét giảm miễn lãi theo quy định của cấp có thẩm quyền.
- Lãi vay của các khoản nợ tồn đọng khó đòi từ trước 01/01/2001 được xử lý theo đề án cơ cấu lại tài chính Ngân hàng Công thương Việt nam đã được Chính phủ phê duyệt.
- Mức lãi được giảm, miễn phải phù hợp với khả năng tài chính và việc thực hiện chính sách khách hàng của Ngân hàng Công thương Việt nam từng thời kỳ. Ngoài ra chỉ giảm miễn lãi đối với khách hàng chưa trả phần lãi khách hàng đã trả không được tính giảm miễn lãi. Việc giảm miễn lãi được tiến hành hàng quý và phải thông qua hội đồng giảm miễn lãi theo quy định tại Quy chế này.
Hồ sơ xét giảm miễn lãi gồm;
- Đơn xin giảm miễn lãi của khách hàng.
- Bảng kê các khoản nợ gốc, lãi đã trả, chưa trả của món vay hoặc hợp đồng vay vốn xin giảm miễn lãi.
- Bản sao các hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, hợp đồng cầm cố , hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản (nếu có).
- Tờ trình thẩm tra của bộ tín dụng hoặc của người được giao thẩm tra.
- ý kiến đề nghị giảm miễn lãi của cán bộ thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro, lãnh đạo phòng kinh doanh.
- Biên bản họp hội đồng miễn giảm lãi.
Ngoài hồ sơ, giấy tờ theo quy định trên, các trường hợp cụ thể phải có thêm các giấy tờ theo quy định.
Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Công thương được quyền quyết định giảm miễn lãi đối với khách hàng vốn vay thuộc các mức sau:
- Toàn bộ phần lãi phạt quá hạn.
- Phần lãi tính theo lãi suất trong hạn.
Mức quyết định của Chi nhánh được xét giảm miễn lãi cho mỗi khách hàng trong một năm tối đa không quá:
- 300 triệu đồng đối với khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước.
- 100 triệu đồng đối với khách hàng là các pháp nhân khác, doanh nghiệp tư nhân công ty hợp danh.
30 triệu đồng đối với khách hàng là cá nhân Việt nam, cá nhân nước ngoài, hộ gia đình, tổ hợp tác.
Đối với các trường hợp khoản nợ vay đủ điều kiện được giảm miễn lãi nhưng số lãi xin giảm miễn có một phần hay toàn bộ lãi vay mượn mức trên, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng lập tờ trình và sáo hồ sơ gửi về Trụ sở chính Ngân hàng Công thương Việt Nam.
3.2.5. Thanh lý.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên mà vẫn không thu được nợ thì Chi nhánh thực hiện các biện pháp sau;
- Đối với các khoản nợ quá hạn có tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Chi nhánh khuyến khích khách hàng tự bán tài sản. Đồng thời Chi nhánh giám sát chặt chẽ quá trình bảo quản và bán tài sản của khách hàng để có thu nợ ngay sau khi người bán nhận đựơc tiền.
+ Các tài sản mà Chi nhánh đã siết nợ hoặc gán nợ có đầy đủ hồ sơ và quyền sở hữu hợp pháp thì Chi nhánh tiến hành làm việc với cơ quan nội chính, trung tâm bán đấu giá tài sản để thực hiện việc phát mại, hoá giá để hồi thu nợ.
+ Các tài sản mà Chi nhánh chưa có quyền sở hữu hợp pháp thì Chi nhánh tích cực làm việc với khách hàng, các cơ quan hữu quan để hoàn thành thủ tục theo quy định hiện hành và có thể xử lý một cách nhanh nhất.
- Các trường hợp tình hình tài chính của khách hàng bình thường nhưng lại cố tình dây dưa không chịu trả hết nợ cho Chi nhánh sẽ thông báo cho bộ chủ quản (nếu là doanh nghiệp trực thuộc bộ, ngành), UBND tỉnh, thành phố (nếu là doanh nghiệp địa phương),UBND quận, huyện, thị xã, phường, xã, thị trấn sở tại (nếu là công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân) để cùng đôn đốc và dùng các biện pháp cưỡng chế để thu nợ.
3.2.6. Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp.
Theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, trong năm 1999, Chi nhánh đã tiến hành trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro trong hoạt động của chi nhánh được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh mức trích lập của chi nhánh được xác định như sau:
Nhóm 1: những khoản cho vay chưa đến kỳ hạn trả nợ (kể cả kỳ hạn nợ ra hạn) : 0% dư nợ.
Nhóm 2: những khoản cho vay có bảo đảm quá trình trả nợ dưới 180 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm quá hạn trả nợ dưới 90 ngày, số tiền trả vay cho người được bảo lãnh nhưng chưa hồi được trong thời gian dưới 30 ngày: 20% tài sản nhóm này.
Nhóm 3: Những khoản cho vay đã quá hạn trả nợ từ 180 ngày đến 360 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày, số tiền trả thay được người bảo lãnh nhưng chưa hồi phục được tổng thời gian từ 30 ngày đến 90 ngay: 50% tài sản nhóm này.
Nhóm 4: những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 360 ngày trở lên, số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được từ 90 ngày trở lên: 100% tài sản nhóm này.
Khi bị tổn thất về tài sản, chi nhánh xác định nguyên nhân, trách nhiệm và xử lý:
- Nếu tài sản bị tổn thất do lỗi của tập thể và cá nhân gây ra phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Sau khi đã tận thu mọi khoản thu, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện các nghĩa vụ của mình, phát mại tài sản cầm cố, thế chấp và các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ, chi nhánh sử dụng khoản dự phòng rủi ro để bù đắp với các rủi ro:
+ Khách hàng vay vốn, người bảo lãnh vay vốn, người được bảo lãnh là các tổ chức đã bị phá sản, giải thể hoặc không thực hiện được nghĩa vụ do nguyên nhân khách quan bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh hoặc do Nhà nước thay đổi chính sách.
+ Cá nhân vay vốn bảo lãnh vay vốn đã chết, mất tích, bị tòa án kết tù giam hoặc không thực hiện được nghĩa vụ do nguyên nhân khách quan bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn hoặc do Nhà nước thay đổi chính sách.
Ngoài ra trong trường hợp xử lý các khoản nợ có vấn đề, nếu không thu đủ giá trị của các khoản nợ đó thì ngân hàng có thể sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp lượng thiếu hụt đó.
Trường hợp số tiền dự phòng trích đầu năm không đủ để xử lý rủi ro, cần báo cáo với Ngân hàng Công thương Việt Nam cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước xem xét.
Số tiền dự phòng sau khi xử lý rủi ro còn lại thời điểm 31/12 hàng năm, chi nhánh phải hoàn lại để trả số tiền dự phòng đã trích.
Số tiền thu hồi được từ những rủi ro đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro sau khi trừ các chi phí có liên quan và thuế (nếu có) hoặc hạch toán vào thu nhập bất thường trong hoạt động của chi nhánh.
Nhận xét:
CNNHCTII – Hai Bà Trưng có đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ, được đào tạo cơ bản, có đạo đức nghề nghiệp. Khách hàng của CNNHCT II – Hai Bà Trưng đa dạng, nhiều tiềm năng, không ngừng tăng trưởng, đặc biệt tập trung nhiều Tổng công ty 90, 91 có doanh số hoạt động lớn tại chi nhánh. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp là do chi nhánh thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, phân tích kỹ tình hình tài chính của khách hàng trước khi quyết định cấp tín dụng, nâng cao vai trò kiểm tra nội bộ, tăng cường gặp gỡ nắm vững tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, tìm kiếm các biện pháp tích cực tháo gỡ, giúp đỡ khách hàng khi gặp khó khăn, cố gắng và tích cực thu nợ đến hạn, đặc biệt là các dự án có dấu hiệu khó khăn. Tất cả các yếu tố trên đã góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng.
Do thực hiện một cách linh hoạt các biện pháp hạn chế và giải quyết nợ quá hạn nêu trên, trong thời gian qua Chi nhánh đã thu hồi được một lượng lớn các khoản nợ quá hạn tồn đọng. Bên cạnh đó, với các cố gắng không được pháp sinh thêm nơ quá hạn nên dư nợ quá hạn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng luôn có xu hướng giảm theo thời gian qua.
****************************
- Phân loại theo thời gian quá hạn (dưới 180 ngày, từ 180 ngày đến 360 ngày, nợ khó đòi – trên 360 ngày).
- Phân loại theo nguyên nhân:
+ Nguyên nhân chủ quan: Đây là những nguyên nhân thuộc trách nhiệm của Ngân hàng như: vấn đề về quản trị điều hành; không thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát thường xuyên việc sử dụng vốn vay của khách hàng; cán bộ chi nhánh không thực hiện đúng quy chế, quy trình nghiệp vụ; cán bộ chi nhánh bị thoái hóa biến chất.
+ Nguyên nhân khách quan:
Do nguyên nhân bất khả kháng như: cơ chế chính sách, thiên tai dịch hoạ, sắp xếp lại doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp, thay đổi cơ chế chính sách, chỉ thị của cấp trên.
Do nguyên nhân về phía khách hàng như: kinh doanh thua lỗ, sử dụng vốn sai mục đích, khách hàng có chủ ý lừa đảo hoặc do khách hàng vay bị phá sản.
- Phân tích theo tài sản đảm bảo (có đảm bảo, không có đảm bảo, giá trị tài sản đảm bảo, khả năng xử lý tài sản…).
- Phân tích khả năng thu hồi của các khoản nợ quá hạn.
Thông qua phân tích nợ phải đề ra được hướng giải quyết và biện pháp xử lý thích hợp đối với từng nhóm khách hàng cũng như từng nhóm vay cụ thể. Các biện pháp xử lý nợ phải dựa trên cơ sở chính sách , chế độ, các quy định của pháp luật và tình hình thực tế trong từng thời kỳ.
2.2.2. Đẩy mạnh công tác thu nợ.
Trên cơ sở phân tích nợ định kỳ, Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng cần áp dụng các biện pháp đôn đốc thu hồi thích hợp với thực trạng từng khoản nợ quá hạn nhằm đạt hiệu quả thu hồi cao nhất, thời gian ngắn nhất, chi phí xử lý nợ thấp nhất.
Khi người vay đến để thanh toán khoản nợ quá hạn thì Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng tiến hành thu nợ theo trình tự sau: Thu gốc quá hạn, thu lãi trong hạn, thu lãi quá hạn. Vì vậy đối với các khoản nợ đã quá hạn trên 12 tháng, nếu khách hàng chỉ có khả năng trả gốc và lãi theo lãi suất thông thường thì Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng nên xem xét và quyết định chỉ thu lãi theo lãi suất thông thường. Trong trường hợp khách hàng thực sự khó khăn, Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng nên thu hồi phần gốc trước và thu hồi lãi sau. Như vậy sẽ đề phòng trường hợp người vay mất khả năng trả nợ trong tương lai, giảm gánh nặng lãi quá hạn cho bên vay. Mặt khác, nếu thu lãi trước sẽ tạo thành thu nhập và phải nộp thuế cho ngân sách Nhà nước trong khi chưa thể thu hết nợ của người vay và đâyn là điều bất lợi cho Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng. Nếu bên vay đã trả được nợ gốc, chưa trả lãi thì khế ước vay vốn vẫn được lưu lại tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng và Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng cùng khách hàng thoả thuận về kế hoạch trả lãi.
2.2.3. Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả có nợ đọng kéo dài mặc dù Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng đã tiến hành các biện pháp để giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng có thể yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, Hội đồng quản trị tổng công ty 91 lựa chọn và quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp này. Ngoài ra, có thể tiến hành cho thuê, bán, khoán các doanh nghiệp Nhà nước. Sau khi áp dụng các biện pháp này, các Giám đốc doanh nghiệp sẽ là người có năng lực, có quyền tự chủ trong kinh doanh cùng với người lao động tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, dần dần phục hồi và phát triển doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương II – Hai Bà Trưng sẽ từng bước thu hồi được nợ.
Ngoài ra, với số tiền thu được do cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp có thể được dùng để trả nợ cho Chi nhánh hoặc Chi nhánh có thể tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hoá và tham gia điều hành doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không trả được nợ trong một số trường hợp, Chi nhánh có thể chuyển vốn vay thành vốn góp vào doanh nghiệp kèm theo là việc cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Chi nhánh chuyển số tiền đó từ hình thức cho vay sang hình thức đầu tư và trở thành người “ngồi cùng thuyền với doanh nghiệp”. Biện pháp này phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu của Chi nhánh. Để thực hiện biện pháp này còn cần có sự đồng ý của Ngân hàng Công thương Việt Nam vì nó có liên quan đến việc đem vốn tự có của Chi nhánh đi đầu tư.
2.2.4. Chuyển giao cho tổ chức mua bán nợ tồn đọng (ODNI).
Để thực hiện được biện pháp này đòi hỏi không chỉ nỗ lực của bản thân Chi nhánh mà còn đòi hỏi sự hướng dẫn, giúp đỡ của Chính phủ và Nhà nước trong việc ra đời ODNI. Các khoản mà Chi nhánh bán có thể là nợ có hạn thông thường, nợ khó đòi mà chi phí của nó là quá lớn hoặc Chi nhánh không muốn trực tiếp xử lý. Các khoản nợ này sẽ được bán cho ODNI và Chi nhánh nhận được một khoản tiền nhỏ hơn mà mình đã cấp tín dụng. Như vậy, Chi nhánh vẫn phải chịu một khoản rủi ro tín dụng, những chi phí này có thể nhỏ hơn chi phí mà Chi nhánh phải gánh chịu nếu giữ lại nó. Biện pháp này làm tăng tính chủ động của Chi nhánh trong việc xử lý nợ quá hạn. Yêu cầu đặt ra với biện pháp này là Chi nhánh cần xác định rõ khoản nợ nào được bán và giá bán là bao nhiêu là phù hợp, nhằm đảm bảo được lợi ích của Chi nhánh mà ODNI có thể mua được.
2.2.5. Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Đây là biện pháp được dùng để xử lý các khoản nợ khó đòi mà khả năng thu hồi là rất thấp. Các khoản nợ này thường được Chi nhánh cho vay không có đảm bảo hoặc đảm bảo một phần, do đó Chi nhánh có quyền đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp bị phá sản, Chi nhánh có thể thu hồi được tất cả hoặc một phần của khoản nợ gốc. Điều này tốt hơn trường hợp Chi nhánh không thu được nợ gốc, mà lại còn mất thêm chi phí giám sát, quản lý khoản nợ khi doanh nghiệp chưa bị phá sản.
Khi khoản cho vay có tài sản thế chấp, cầm cố thì Chi nhánh là chủ nợ có đảm bảo và do đó Chi nhánh sẽ không có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Nhưng tình hình sẽ khác đi nếu sau khi bán tài sản thế chấp, cầm cố mà không đủ thanh toán nợ cho Chi nhánh thì Chi nhánh sẽ có chủ nợ không đảm bảo và có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để thu được nợ từ tài sản còn lại của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng cần theo dõi tình hình của doanh nghiệp để có thể bán tài sản thế chấp, cầm cố trước khi doanh nghiệp bị các chủ nợ khác yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu đến khi có quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Chi nhánh muốn bán tài sản thế chấp, phải có được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán Toà án, hoặc phải để cho tổ thanh toán tài sản bán. Tất nhiên giá bán lúc này không thể cao được. Như vậy, Chi nhánh đã bỏ lỡ cơ hội tối đa hoá số tiền thu được.
Chi nhánh cần xác định đúng mình là loại chủ nợ nào của doanh nghiệp khi thực hiện biện pháp này nhằm có biện pháp xử lý hợp lý nhất.
Các doanh nghiệp bị áp dụng biện pháp này là các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ cho Chi nhánh sau khi đã áp dụng các biện pháp khai thác hoặc cố tình dây dưa không chịu trả nợ.
2.2.6. Xử lý bằng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro.
Sau khi thực hiện các biện pháp trên mà vẫn không thu hồi được nợ gốc hoặc nợ khó đòi của doanh nghiệp Nhà nước không được phép phá sản nhưng không được xử lý theo Thông tư 03, Chi nhánh sẽ ghi giảm khoản nợ khó đòi vào quỹ dự phòng rủi ro.
Xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng bằng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro là một trong những biện pháp quan trọng để làm lành mạnh hoá hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Tại Việt Nam, biện pháp này mới được thực hiện từ năm 1999, sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5 ngày 08/02/1999. Các khoản nợ được xử lý theo biện pháp này sau đó sẽ được theo dõi ở tài khoản ngoại bảng. Khi sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, Chi nhánh cần kiểm tra tính pháp lý, đầy đủ của bộ hồ sơ xin xoá nợ theo hướng dẫn của quyết định 48/1999/QĐ-NHNN5. Việc xử lý tốt các khoản nợ bằng biện pháp này sẽ làm giảm các khoản nợ khó đòi tại Chi nhánh và giảm được thời gian, công sức theo dõi, giám sát, đòi nơ đồng thời sẽ làm tăng chi phí hoạt động của Chi nhánh.
3. Kiến nghị.
3.1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
- Đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam sớm ban hành quy chế sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, trong đó quy định rõ mức nào Trung ương tự phán quyết, mức nào uỷ quyền cho Giám đốc Chi nhánh được quyết. Làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện cho Chi nhánh chủ động giải quyết dứt điểm các khoản nợ quá hạn tồn đọng.
- Dựa trên các văn bản, pháp lệnh của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần nhanh chóng đưa ra những văn bản hướng dẫn việc thực hiện các quy định của Chính phủ đối với các thành viên của mình. Bên cạnh đó cũng cần trao quyền tự chủ cho các Chi nhánh hoạt động kinh doanh của mình nhằm giúp các Chi nhánh có thể chủ động hơn trong việc đưa ra các giải pháp xử lý các khoản nợ quá hạn, nhanh chóng thu hồi vốn đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mình.
- Ngân hàng Công thương Việt Nam cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn việc thực hiện mua bán nợ để các Chi nhánh có thể tham gia bán nợ khi tổ chức mua bán nợ được thành lập, cùng các văn bản hướng dẫn về việc góp vốn vào các doanh nghiệp mà các công ty cổ phần, liên doanh.
- Cần trang bị các thiết bị mới nhằm thu hút khách hàng thực hiện giao dịch qua mạng đảm bảo hoạt động nhanh chóng, thông suốt, hiệu quả và an toàn.
- Đề ra các mức khen thưởng hợp lý, khuyến khích tinh thần sáng tạo, tận tâm của cán bộ đối với các Chi nhánh, qua đó củng cố bộ máy tổ chức xây dựng Ngân hàng Công thương Việt Nam thành Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả, an toàn nhất Việt Nam.
3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ.
3.2.1. Điều chỉnh thời hiệu khởi kiện vi phạm hợp đồng tín dụng.
Thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế, theo quy định tại điều 31 khoản 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế, là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp trong các quan hệ tín dụng, khi đã hết thời gian vay vốn mà khách hàng chưa trả được nợ thì Ngân hàng không khởi kiện ngay mà tìm mọi cách thu nợi, đến khi có đủ căn cứ để xác định là khách hàng khong có khả năng trả nợ thì Ngân hàng mới khởi kiện ra Toà án kinh tế. Tuy nhiên, khoảng thời gian này thường kéo dài hơn 6 tháng, do đó việc khởi kiện của Ngân hàng không thể thực hiện được vì đã quá thời kiện và bị Toà án bác đơn.
Vì vậy, đối với các quan hệ tín dụng cần được xác định lại thời hiệu khơie kiện, có thể tính từ thời điểm Ngân hàng xác định là khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc thời hiệu khởi kiện vụ án sẽ kéo dài tới 12 tháng thay vì 6 tháng.
3.2.2. Kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng về xử lý tài sản thế chấp.
Những quy định trong Nghị định 178/1999/NĐ-CP ban hành ngày 29/12/1999 về việc xử lý tài sản đảm bảo rất có ích và thiết thực đối với các Ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý cho các Ngân hàng chủ động xử lý tài sản đảm bảo. Theo Nghị định này, tài sản đảm bảo sẽ được xử lý theo phương thức đã được thoả thuận trong hợp đồng trong trường hợp nợ đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với Ngân hàng.
Trường hợp các bên không xử lý được tài sản đảm bảo tiền vay theo các phương thức đã thoả thuận, thì Ngân hàng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ hoặc chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản đảm bảo tiền vay. Trường hợp tài sản đảm bảo tiền vay không xử lý được do không thoả thuận được giá bán thì Ngân hàng có quyền quyết định giá bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo tiền vay sau khi trừ đi các chi phí xử lý, Ngân hàng sẽ thu theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác (nếu có). Trong thực tế, việc Ngân hàng dùng tài sản thế chấp để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn và trở ngại. Vì vậy, Ngân hàng thực hiện quyền phát mại tài sản đảm bảo theo Nghị định 178 cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố trên thực tế không chỉ liên qua đến các Ngân hàng thương mại và khách hàng mà còn liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp mà cho đến nay chưa có hoàn chỉnh một văn bản hương dẫn cụ thể việc xử lý vấn đề này về trình tự, thủ tục, trách nhiệm và quyền hạn. Nhưng vấn đề quan trọng nhất hiện nay là cần có Thông tư liên bộ: Ngân hàng Nhà nước – Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp – Việnkiểm soát nhân dân tối cao – Toà án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tổng Cục Địa chính hướng dẫn và thống nhất các biện pháp giải quyết, xử lý tài sản thế chấp. Chính phủ cần yêu cầu các cơ quan Nhà nước hữu quan sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thuộc thẩm quyền của mình để Ngân hàng, các tổ chức – cá nhân có căn cứ thực hiện.
Bên cạnh đó, cần ban hành các quy định về xét xử vắng mặt nhằm làm giảm các khó khăn cho Ngân hàng khi phát mại tài sản thế chấp. Ngân hàng hoàn toàn có quyền được bán tài sản đó mà không cần hỏi ý kiến khách hàng, đồng thời bản hợp đồng tín dụng được coi là căn cứ pháp lý để bắt buộc, cưỡng chế người vay phải hợp tác với Ngân hàng trong việc làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản.
3.2.3. Đưa ra chính sách về xử lý tài sản thế chấp nhằm khắc phục những khó khăn của Ngân hàng thương mại khi phát mại tài sản.
Quy định nhiều hình thức xử lý tài sản thế chấp, cầm cố mà các bên có thỏa thụân lựa chọn khi ký kết hợp đồng tín dụng:
+ Bên thế chấp, cầm cố tự bán tài sản.
+ Cả hai bên cùng bán tài sản
+ Giao cho tổ chức tín dụng bán tài sản
+ Thỏa thuận bằng các phương thức khác
- Nâng cao quyền hạn của tổ chức tín dụng, quyền chủ động bán tài sản thế chấp, cầm cố trong các trường hợp tài sản thế chấp không được xử lý theo hướng tích cực để thực hiện nghĩa vụ trả nợ như:
+ Sau một thời gian quy định kể từ ngày đến hạn trả nợ mà tài sản không được các bên xử lý theo các phương thức đã thỏa thuận.
+Bên thế chấp, cầm cố tài sản vắng mặt không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, không có người thừa kế trả nợ hoặc người thừa kế không thực hiện nghĩa vụ.
- Đưa các quy định về việc xử lý quyền sử dụng đất đối với tài sản thế chấp và đất đai .
+ Quy định chi tiết trình tự, thủ tục các bước tiến hành của từng phương thức xử lý tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Đề ra nhiều phương thức bán tài sản để các bên vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện của từng nơi và của các bên (như bán trực tiếp cho người có nhu cầu, bán đấu giá thông qua trung tâm hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản,…).
+ Thu nợ bằng chính tài sản thế chấp, cầm cố nếu tổ chức tín dụng đồng ý và thấy cần thiết để dùng vào kinh doanh khai thác và dễ bán thu tiền về.
- Đối với các tài sản và công trình trên đất cần được định giá theo hiện hành.
- Ngoài ra, Chính phủ cần thành lập trung tâm bán đấu giá trong cả nước đáp ứng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nhất là đấu giá quyền sử dụng đất. Giảm phí bán đấu giá phải nộp cho trung tâm hay doanh nghiệp bán đấu giá đối với tài sản có giá trị cao. Bên cạnh đó cần đơn giản hóa thủ tục hành chính pháp lý, giảm các giấy tờ không cần thiết tạo điều kiện để tài sản mua bán chuyển nhượng dễ dàng. Chính phủ cần có những quy định rõ ràng về trật tự giải quyết tài sản thế chấp co nhiều tổ chức khác nhau.
3.2.4. Chính phủ nên cung cấp thông tin về thị trường cho doanh nghiệp và Ngân hàng.
Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) là một kênh thông tin giúp cho Ngân hàng đối phó với các vấn đề thông tin không cân xứng, từ đó góp phần ngăn ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. CIC có nhiệm vụ thu thập thông tin về các doanh nghiệp, các thông tin khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng từ các tổ chức tín dụng, các cơ quan thông tin trong và ngoài nước, các văn bản quy phạm pháp luật của ngành, của Nhà nước. Trên cơ sở đó cung cấp thông tin đáp ứng các yêu cầu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, thực tế thông tin tín dụng mà Trung tâm cung cấp trong những năm qua vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng, còn thiếu tin cậy. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Từ thực tiễn đó đòi hỏi CIC phải nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho ngân hàng. CIC cần phối hợp và thu thập thông tin từ các tổ chức
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33575.doc