Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lao động- việc làm là vấn đề kinh tế - xã hội có tính bức xúc, thu hút sự quan tâm của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội và mọi người lao động. Giải quyết tốt vấn đề việc làm, nâng cao chất lượng lao động sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tình trạng lao động thất nghiệp và thiếu việc làm luôn là nguồn gốc sâu xa của đói nghèo, các tệ nạn xã hội và sự bất ổn về an ninh trật tự xã hội.
Nghệ An là tỉnh chậm phát triển, quy
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mô dân số và lao động đứng vào hàng thứ 4 trong cả nước, số lao động thất nghiệp hơn 1 vạn người, lao động thiếu việc làm lên tới 48 vạn người, chủ yếu tập trung vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Từ nhiều năm nay, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn đã được Tỉnh uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Nghệ An hết sức quan tâm và được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức, bằng nhiều chính sách cụ thể như: hình thành và cho vay vốn tạo việc làm từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm; thực hiện các chương trình mục tiêu, chương trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn; chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển làng nghề, mở các trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm, hợp tác lao động quốc tế...Những cố gắng trên của chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ An đã đem lại những kết quả đáng khích lệ: Hàng vạn người lao động được tạo việc làm, có thu nhập ổn định, góp phần phát triển kinh tế và cải thiện đời sống.
Tuy nhiên, vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn vẫn đang là vấn đề bức xúc của Nghệ An vì đối tượng giải quyết việc làm hiện nay ngoài lượng người thất nghiệp và thiếu việc làm thường xuyên, mỗi năm còn có hàng vạn lao động đến tuổi lao động cần việc làm.
Với nhận thức trên em xin chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp một ý kiến nhỏ của mình vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn của tỉnh nhà.
2. Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm. Đánh giá thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 1996 - 2002. Để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn Nghệ An trong giai đoạn 2003 – 2005 và đến 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động trong nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế truyền thống như: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh đánh giá,..
- Phương pháp thu thập số liệu qua sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thâm nhập thực tế, khảo sát điển hình, điều tra phỏng vấn, thu thập thông tin từ cơ sở, từ các cán bộ quản lý, những người am hiểu về lĩnh vực nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn: Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được trình bày gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm trong nông nghiệp, nông thôn.
Chương II: Thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An.
Do thời gian có hạn và trình độ hiểu biết còn hạn chế nên bản luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, em mong được các thầy giáo, cô giáo cùng các cô chú ở tỉnh bổ sung, đóng góp ý kiến để sau luận văn này em có điều kiện hiểu biết hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa KTNN&PTNT, các cô chú ở công ty Thuỷ lợi Nam Nghệ An, sở NN&PTNT Nghệ An và đặc biệt là thầy giáo: PGS.TS Vũ Đình Thắng đã dìu dắt và giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập cũng như việc hoàn thành luận văn này.
Hà Nội 6/2003
Sinh viên thực hiện
hoàng vĩnh trường.
Chương I- Cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm trong nông nghiệp, nông thôn.
I - Khái niệm và vai trò của nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
Từ trước đến nay ở Việt Nam đã tiến hành rất nhiều các cuộc điều tra về dân số, lao động và việc làm. Nhưng do chưa thống nhất khái niệm và chuẩn mức về lao động việc làm, chưa có hệ thống thống kê theo dõi việc làm và đăng ký thất nghiệp nên trong các tư liệu, các báo cáo đã đưa ra những con số rất khác nhau về tình trạng việc làm và thất nghiệp. Tiếp thu có chọn lọc các khái niệm của tổ chức Lao động quốc tế, của Bộ luật lao động Việt Nam, của giáo trình tổ chức lao động khoa học đã đưa ra, sau đây chúng tôi xin trình bày một số khái niệm về lao động và việc làm để vận dụng vào việc nghiên cứu.
Sơ đồ 1: Cấu thành lực lượng lao động ở Việt Nam.
Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên
Dân số có việc làm
Dân số không có việc làm
Việc làm ổn định
Việc làm tạm thời
Muốn tìm việc làm
Không muốn tìm việc làm
Dân số không hoạt động kinh tế thường xuyên
Người thất nghiệp
Người có việc làm
Lực lượng
lao động
Dân số không thuộc
lực lượng lao động
Nguồn: Chính sách Về giải quyết việc làm ở Việt Nam.
1- Các khái niệm cơ bản.
1.1- Khái niệm lao động.
Mác cho rằng: “ Lao động là một hoạt động có mục đích để sáng tạo ra những giá trị sử dụng” và “ Lao động là sự kết hợp giữa sức lao động của con người và tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động”.
Theo William Petty- nhà kinh tế học người Anh thì: “ Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải”.
Theo giáo trình tổ chức lao động khoa học: “ Lao động là hoạt động có mục đích của con người, nhằm thoả mãn nhu cầu về đời sống của mình, là điều kiện tất yếu để tồn tại và phát triển của xã hội loài người”.
Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con người thông qua công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật chất cần thiết cho nhu cầu của mình.
1.2- Khái niệm nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
Nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn là tổng thể sức lao động tham gia vào hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn, bao gồm số lượng và chất lượng của người lao động.
Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15- 60 tuổi, nữ từ 15- 55 tuổi) và những người trên dưới độ tuổi nói trên có thể tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn.
Về chất lượng, bao gồm thể lực và trí lực của người lao động, cụ thể là trình độ sức khoẻ, trình độ nhận thức, trình độ chính trị, trình độ văn hoá, nghiệp vụ và tay nghề của người lao động.
1.3- Khái niệm dân số hoạt động kinh tế.
Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc.
Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
Tuỳ theo trình trạng việc làm, dân số hoạt động kinh tế được chia thành hai loại: người có việc làm và người thất nghiệp.
1.4- Khái niệm dân số không hoạt động kinh tế.
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm, những người này không hoạt động kinh tế vì các lý do:
- Hiện đang đi học.
- Hiện đang làm công việc nội trợ cho bản thân gia đình.
- Già cả, ốm đau.
- Tàn tật, không có khả năng lao động.
- Hoặc ở vào tình trạng khác.
1.5- Khái niệm việc làm.
Trên cơ sở vận dụng khái niệm việc làm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có khái niệm sau: “Người có việc làm là người đang làm việc trong lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội”.
Theo điều 13 Bộ luật lao động - nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1994 thì: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm việc làm, ta cần làm sáng tỏ khái niệm việc làm đầy đủ và thiếu việc làm:
- Việc làm đầy đủ: Là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm. Bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong thời gian ngắn.
- Thiếu việc làm: Được hiểu là việc làm không tạo điều kiện cho người lao động sử dụng hết thời gian lao động theo chế độ và mang lại mức thu nhập dưới mức tối thiểu, muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Thiếu việc làm có thể hiểu là trạng thái trung gian giữa có việc làm đầy đủ và thất nghiệp.
1.6- Khái niệm tạo việc làm.
Tạo việc làm cho người lao động là phát huy, sử dụng tiềm năng sẵn có của từng đơn vị, từng địa phương và của người lao động nhằm tạo ra những công việc hợp lý, ổn định và đầy đủ, song những công việc đó phải đem lại thu nhập đảm bảo thoả mãn các nhu cầu vật chất và tình thần cho bản thân và gia đình; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và trình độ chuyên môn nghề nghiệp của bản thân người lao động.
1.7- Khái niệm người có việc làm.
Người có việc làm là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận được thanh toán bằng tiền hay hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
1.8- Khái niệm thất nghiệp.
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó, theo nguồn gốc thất nghiệp có thể được chia thành các loại sau:
- Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với nguyện vọng và mong muốn của bản thân hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm…Mọi xã hội trong bất kỳ thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này. Chỉ có sự khác nhau về quy mô và thời gian thất nghiệp.
- Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu đối với người lao động. Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại khác giảm đi, trong đó mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. Loại thất nghiệp này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động, khi sự biến động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp sẽ trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn.
Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ phận riêng biệt của thị trường lao động.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: Xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống- nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề. Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế đi xuống, toàn bộ thị trường lao động xã hội bị mất cân bằng.
1.9- Khái niệm hệ số sử dụng thời gian lao động.
Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng là tỷ lệ phần trăm của tổng số thời gian làm việc thực tế so với quỹ thời gian có nhu cầu làm việc (Bao gồm thời gian thực tế đã làm việc và thời gian có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế.
2- Vai trò của nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
Lao động nói chung và lao động trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống cũng như trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển với tỷ lệ nông nghiệp, nông thôn khá lớn như Việt Nam. Điều này được thể hiện qua các mặt chủ yếu sau:
2.1- Lao động nông nghiệp, nông thôn tham gia vào quá trình phát triển các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Để nền kinh tế phát triển mạnh đòi hỏi phải có một lực lượng lao động phù hợp cả về số lượng và chất lượng. Sự phù hợp này được thể hiện khác nhau trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Đối với lao động nông nghiệp, nông thôn ở giai đoạn đầu khi đất nước bắt đầu công nghiệp hoá, năng suất lao động nông nghiệp, nông thôn tăng lên, một số lao động dư thừa được giải phóng và được các ngành khác thu hút, nhưng do tốc độ tăng tự nhiên còn cao nên tỷ trọng lao động nông nghiệp, nông thôn mới giảm tương đối, số tuyệt đối còn tăng lên. Còn khi bước vào giai đoạn sau, khi nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao động tăng nhanh. Số lao động dôi ra do nông nghiệp, nông thôn giải phóng đã được các ngành khác thu hút hết. Vì thế, giai đoạn này số lượng lao động nông nghiệp, nông thôn giảm cả về tương đối và tuyệt đối.
Như vậy, trong mỗi giai đoạn của quá trình phát triển, lao động nông nghiệp, nông thôn luôn đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển các ngành: Nông nghiệp, Công nghiệp và Dịch vụ.
2.2- Lao động nông nghiệp, nông thôn tham gia vào sản xuất lương thực, thực phẩm.
Bên cạnh quá trình gia tăng dân số hàng năm, quá trình đô thị hoá đất nước và thu nhập của người dân tăng lên đã làm nhu cầu về lương thực, thực phẩm ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư.
Để đáp ứng nhu cầu đó thì hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển phải dựa vào ngành nông nghiệp và lực lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn đóng một vai trò to lớn trong việc sản xuất lương thực, thực phẩm.
ở Việt Nam trong những năm gần đây, nhờ chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn tăng lên về mọi mặt nên sản lượng lương thực, thực phẩm tăng nhanh không chỉ để nuôi sống dân số trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu cho xuất khẩu.
2.3- Lao động nông nghiệp, nông thôn tham gia sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
Việc phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với các trình độ công nghệ, quy mô khác nhau là một nội dung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với một cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ như Việt Nam hiện nay, ngành công nghiệp chế biến phát triển sẽ tạo đà cho phát triển một nền kinh tế vững chắc, đồng thời tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ.
Tuy nhiên, vấn đề mang tính chất sống còn của công nghiệp chế biến là phải quy hoạch được vùng nguyên liệu tập trung.
Như vậy, lao động nông nghiệp, nông thôn đã trực tiếp góp phần tạo ra sự phát triển ổn định cho ngành công nghiệp này.
2.4- Lao động nông nghiệp, nông thôn
Lao động nông nghiệp, nông thôn góp phần tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nâng cao thế và lực của nước ta qua việc khai thác tối đa các nguồn lực đất đai, tài nguyên, vùng trời, vùng biển...
3- Hậu quả kinh tế xã hội của thất nghiệp và thiếu việc làm.
3.1- Hậu quả kinh tế.
Nói đến hậu quả kinh tế của tình trạng thất nghiệp cần phải nói đến những chi phí liên quan đến thất nghiệp, cả trên giác độ gia đình cũng như xã hội. Thất nghiệp dẫn đến tình trạng giảm sút thu nhập của hộ gia đình và kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực. ở Việt Nam chưa tiến hành điều tra về tình trạng thu nhập của những hộ gia đình có người bị thất nghiệp, nhưng chắc chắn rằng họ đang phải vật lộn với cuộc sống để duy trì sự tồn tại của mình
Trên khía cạnh kinh tế vĩ mô có thể chia ra làm hai loại chi phí liên quan đến thất nghiệp:
- Chi phí bằng tiền (chủ yếu bằng tiền từ ngân sách và các quỹ xã hội).
- Lãng phí sản phẩm xã hội do không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn có của sản xuất xã hội.
Những chi phí bằng tiền bao gồm: tiền từ ngân sách nhà nước và các quỹ của doanh nghiệp, cũng như của xã hội chi cho bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp mất việc làm, chi cho về hưu sớm cùng các chi phí xã hội cho đào tạo, đào tạo lại, dịch vụ việc làm từ những chương trình chống thất nghiệp. ở nước ta mặc dù chưa có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, nhưng chỉ riêng việc thực hiện trả trợ cấp mất việc làm và chi phí cho đào tạo, đào tạo lại theo Điều 17 Bộ luật lao động đối với khoảng 10% lao động trong doanh nghiệp nhà nước đã nghỉ việc nhưng chưa được hưởng chế độ (theo quy định của pháp luật) đã lên đến gần 1000 tỷ đồng (theo tính toán của vụ chính sách lao động-việc làm năm 1998).
Chi phí bằng tiền liên quan đến thất nghiệp còn bao gồm việc giảm thu ngân sách quóc gia. Người thất nghiệp không có thu nhập, không đóng thuế, chỉ đóng ít hoặc không đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Chi phí của chính phủ cho tình trạng thất nghiệp sẽ lớn và dẫn đến hậu quả gia tăng thâm hụt ngân sách. Lãng phí lớn nhất đối với xã hội là không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn có của sản xuất. Hậu quả kinh tế của thất nghiệp còn phải kể đến những mất mát liên quan đến sự di cư ra nước ngoài của một bộ phận dân cư, chủ yếu là thanh niên có trình độ học vấn, tay nghề cao nhưng không tìm được việc làm trong nước.
3.2- Hậu quả tâm lý xã hội của thất nghiệp.
Tăng nhanh thất nghiệp trở thành một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội. Thất nghiệp không chỉ đồng nghĩa với tình trạng vật chất ngày càng xấu đi mà còn kèm theo những hậu quả tâm lý xã hội mà người thất nghiệp cũng như xã hội phải gánh chịu.
Theo những kết quả điều tra xã hội học cho thấy: Người mất việc làm sẽ trải qua những diễn biến tâm lý phức tạp. Giai đoạn đầu là sự lạc quan, tin tưởng vào việc tìm được chổ làm việc mới, thời kỳ này thường ngắn. Giai đoan tiếp theo là thời gian bi quan. Thời gian thất nghiệp kéo dài dẫn đến vô vọng và buông xuôi số phận. Người thất nghiệp mặc cảm với chính mình, suy giảm tình thần và khả năng tự tìm việc làm, phôi phai dần những kiến thức và kỷ năng nghề nghiệp đã có.
Mất việc làm đồng nghĩa với không thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản: nhu cầu hoạt động trong một tổ chức, tiếp xúc với môi trường ngoài gia đình, có cơ hội tự đánh giá và so sánh với những thành viên khác của tổ chức, định hướng hoạt động và tổ chức cơ cấu thời gian hoạt động trong ngày, trong tuần. Những vấn đề xã hội cơ bản đi kèm với thất nghiệp là: suy sụp thể lực và tinh thần; mâu thuẫn gia đình tăng, gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm tăng. Thất nghiệp tao ra các điều kiện để phát triển các loại tội phạm khác nhau như: trộm cắp, giết người…và các tệ nạn xã hội như: nghiện rượu, chích hút cũng như làm băng hoại các giá trị đạo đức, văn hoá của gia đình, dân tộc.
II- Đặc điểm và những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
1- Đặc điểm của nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
1.1- Lao động nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và có tính thời vụ.
Trong nông nghiệp, nông thôn, các hoạt động sản xuất được tiến hành với các đối tượng sản xuất có nguồn gốc sinh học. Quy luật sinh trưởng và phát triển của các đối tượng đó là nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
Tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp có xu hướng dẫn tới tính thời vụ trong sử dụng các yếu tố sản xuất, nhất là sức lao động và công cụ lao động. Vì vậy lao động nông nghiệp, nông thôn mang tính thời vụ.
1.2- Chất lượng nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn thấp.
Trong chiến lược phát triển của nhiều nước, người ta luôn xác định vấn đề phát triển nguồn nhân lực là một nhân tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội chính là năng suất lao động, mà năng suất lao động lại phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguồn lao động.
Chất lượng nguồn lao động là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh các yếu tố: Trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật, tay nghề, thể trạng sức khoẻ của người lao động...
Lao động nông nghiệp, nông thôn ở nước ta mà nhất là đối với những vùng còn kém phát triển như Nghệ An, tuy trình độ văn hoá tương đối cao, nhưng đại bộ phận là không được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, cơ cấu chuyên ngành được đào tạo mất cân đối, thể lực lao động rất hạn chế...
Như vậy, có thể thấy nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn tăng nhanh về số lượng, nhưng chất lượng còn thấp. Đó là khó khăn và bất lợi lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn hiện nay.
1.3- Nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn lớn và có xu hướng tăng về số lượng nhưng kết cấu phức tạp và không đồng nhất.
Nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn khác với các ngành kinh tế khác là về số lượng, không chỉ bao gồm những người trong độ tuổi mà còn cả những người ngoài độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, với hơn 70% dân số sinh sống và làm việc ở các vùng nông thôn. Tốc độ tăng tự nhiên của dân số còn cao do đó nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn hiện nay rất lớn và đang có xu hướng tăng.
Mặt khác, do đặc thù của ngành nông nghiệp, nông thôn với nhiều loại hình sản xuất, được phân bố trên hầu hết các vùng lãnh thổ, ở mỗi loại, mỗi nơi lại có yêu cầu khác nhau về kỹ thuật sản xuất, kỹ năng lao động... nên nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn có kết cấu phức tạp và không đồng nhất.
2- Những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của lao động nông nghiệp, nông thôn.
2.1- Những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, thông qua đó nó tác động đến việc ổn định nguồn lao động.
Thực tế cho thấy, ở đâu có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi, có đời sống vật chất, tinh thần khá giả thì ở đó các ngành sản xuất vật chất phát triển, dân số, lao động tập trung nhiều hơn. Vì vậy điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
- Tình hình phân bố dân cư và mật độ dân số.
ở nước nào cũng vậy, sự phân bố dân cư và mật độ dân số của từng vùng từng địa phương ảnh hưởng rất lớn đến số lượng cũng như chất lượng nguồn lao động. ở nơi có mật độ dân số quá thấp sẽ hạn chế sự phân công lao động xã hội, giảm khả năng chuyên môn hoá và hiên đại hoá trong tổ chức sản xuất xã hội. Thiếu lao động, mọi quá trình phát triển sẽ mất đi cả động lực và mục đích của nó. ở nơi mật độ dân số quá cao, số lượng dân số gia tăng lớn, điều đó dẫn đến sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất, gây ra những trở ngại cho việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của đất nước; vì vậy, mỗi quốc gia trong quá trình phát triển đều cần phải có sự điều chỉnh, phân bố lại mật độ dân số, nhằm tạo ra một sự phù hợp giữa số lượng lao động với tư liệu sản xuất ở từng vùng, trong từng thời kỳ nhất định.
- Cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm: Nông nghiệp- Công nghiệp - Dịch vụ, nhưng phần lớn lao động ở nông thôn là làm nông nghiệp. Trong nông nghiệp có hai tiểu ngành là trồng trọt và chăn nuôi.
Mỗi một ngành, tiểu ngành đều có những đặc thù nhất định, đòi hỏi những điều kiện khác nhau về nguồn lao động. ở nước ta cơ cấu kinh tế theo từng vùng được phân bố rõ rệt; ở những vùng có cơ cấu kinh tế phát triển như vùng Đông Nam Bộ, vùng trọng điểm kinh tế phía Nam có khả năng thu hút nhiều lao động. ở các vùng khác như: Duyên hải miền Trung, Tây nguyên, đồng bằng Sông Hồng...mỗi vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau, phù hợp với từng loại cây, con khác nhau nên lực lượng lao động được thu hút và sản xuất trong các ngành cũng khác nhau.
Thực tế đó cho thấy, nơi nào có khả năng phát triển mạnh, có cơ cấu kinh tế hiện đại thì nơi đó có lực lượng lao động tập trung nhiều.
- Bên cạnh những nhân tố đó, quá trình du canh, du cư, di dân phát triển vùng kinh tế mới cũng như việc quy hoạch xây dựng đô thị, thị trấn, thị tứ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
2.2- Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
- Sức khoẻ và đời sống: Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc trước hết vào chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống được đảm bảo thì yếu tố sức khoẻ và yếu tố văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động có điều kiện phát triển; sự nhận thức của người lao động về công ăn việc làm, tinh thần, ý thức trách nhiệm cũng được được nâng lên. Điều này sẽ tạo tiền đề cho người lao động có việc làm và làm việc có năng suất cao, chất lượng, hiệu quả hơn.
- Trang bị tư liệu lao động và điều kiện sản xuất. Trong mọi nền sản xuất xã hội, trang bị tư liệu lao động và điều kiện sản xuất luôn ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng lao động. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển không chỉ làm thay đổi các bộ phận của tư liệu lao động theo hướng tinh vi, hiện đại mà còn đặt ra những yêu cầu mới đối với sức lao động, đòi hỏi người lao động phải nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, chuyên môn nghiệp vụ của mình một cách tương xứng.
Đối với nước ta, điều kiện sản xuất còn ở trình độ thấp, công cụ lao động phần lớn là thủ công, lạc hậu, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn chậm... Nên vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nói chung và trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng càng trở nên cấp thiết, đòi hỏi phải được nghiên cứu và xem xét một cách toàn diện.
- Đào tạo và tập huấn tay nghề. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh luôn diễn ra gay gắt. Để chiến thắng trong cạnh tranh, buộc chúng ta phải thường xuyên đổi mới máy móc, thiết bị, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, đổi mới thiết kế sản phẩm....Điều này đã đặt ra những yêu cầu mới đối với việc đào tạo và tập huấn tay nghề cho người lao động.
Đào tạo ở đây không chỉ là đào tạo mới mà còn bao gồm cả đào tạo lại, bổ sung kiến thức và nâng cao tay nghề. Đào tạo không chỉ nhằm vào đội ngũ trí thức mà còn phải đào tạo những người lao động bình thường nhất.
Đó chính là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng người lao động nước ta hiện nay.
III- Các chỉ tiêu phản ánh số lượng, chất lượng và hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
1- Các chỉ tiêu phản ánh số lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
1.1- Tỷ lệ người có việc làm.
Là tỷ lệ phần trăm của những người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
Trong đó:
Tvl:Tỷ lệ người có việc làm.
Nvl:Số người có việc làm.
Dkt: Dân số hoạt động kinh tế.
1.2- Tỷ lệ người thất nghiệp.
Là tỷ lệ phần trăm số người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế.
Trong đó:Tm: Tỷ lệ thất nghiệp.
Nm: Là số người thất nghiệp.
1.3- Tỷ lệ người thiếu việc làm.
Là tỷ lệ phần trăm số người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
Ttvl
=
Ntvl
x
100%
Dkt
Trong đó:Ttvl: Tỷ lệ thiếu việc làm.
Ntvl: Số người thiếu việc làm.
1.4- Tỷ lệ thời gian lao động được huy động.
Là tỷ lệ phần trăm của tổng thời gian làm việc thực tế so với quỹ thời gian có nhu cầu làm việc (Bao gồm thời gian làm việc thực tế và thời gian có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế.
Trong đó: Ttg: Tỷ lệ thời gian huy động.
Tn: Thời gian làm việc thực tế.
Tq: Quỹ thời gian làm việc.
2- Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn.
2.1- Các chỉ tiêu phản ánh mức sống của người lao động.
Mức sống của người lao động thường được phản ánh qua mức kalo bình quân cung cấp cho một người một ngày. Lượng kalo này được đảm bảo bằng mức thu nhập, trong đó yếu tố cơ bản nhất là việc cung cấp lương thực.
- GNP thực tế bình quân (tính theo phương pháp sức mua tương đương - PPP).
- Lượng lương thực bình quân: Phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu tối thiểu về mức sống cho con người, được tính từ tổng giá trị sản lượng sản xuất lương thực trong nước chia cho toàn bộ dân số.
- Tỷ lệ cung cấp kalo bình quân đầu người một ngày so với nhu cầu tối thiểu: Là số kalo thực tế được cung cấp bình quân đầu người một ngày so với số kalo cần thiết ở mức độ bình thường để đảm bảo cho làm việc, sức khoẻ có xét tới cơ cấu nam, nữ, trọng lượng cơ thể cũng như nhiệt độ môi trường.
2.2- Các chỉ tiêu phản ánh tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khoẻ
- Tuổi thọ bình quân, chỉ tiêu này không chỉ phụ thuộc vào chăm sóc y tế mà nghèo đói và bệnh tật là hai lý do cơ bản ảnh hưởng tới tuổi thọ.
- Số người trên một bác sỹ: Là sự so sánh giữa số lượng bác sỹ với số dân của một nước, phản ánh khả năng chăm sóc y tế.
- Tỷ lệ chi công cộng về sức khoẻ trong tổng số chi tiêu công cộng: Cũng là một chỉ tiêu phản ánh tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khoẻ, nó phản ánh việc lựa chọn chính sách của nhà nước trọng việc quyết định hỗ trợ chi ngân sách cho nhu cầu sức khoẻ con người.
2.3- Các chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật.
- Tỷ lệ người không có chuyên môn kỹ thuật.
- Tỷ lệ người có chuyên môn kỹ thuật nhưng không có bằng.
- Tỷ lệ người có chuyên môn kỹ thuật và có bằng.
Các tỷ lệ này được tính giữa số người đó với toàn bộ dân số từ đủ 15 tuổi trở lên.
3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra đối với từng ngành hoạt động trong nông thôn.
3.1- Năng suất lao động (tính bằng hiện vật và giá trị).
W= Q/ T
Trong đó: W: Năng suất lao động.
Q: Tổng sản lượng được sản xuất ra trong ngành.
T: Thời gian lao động được sử dụng.
3.2- Lợi nhuận tính trên một người lao động.
Là giá trị lợi nhuận tính cho một người lao động trong một năm hay một vụ sản xuất.
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả lao động của người lao động cũng như cho biết mức độ đáp ứng các điều kiện để tái sản xuất sức lao động.
3.3- Giá trị sản lượng và giá trị sản lượng hàng hoá tính trên một lao động.
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng giá trị sản lượng và tổng giá trị sản lượng hàng hoá chia cho tổng số lao động. Chỉ tiêu này cho biết quy mô sản xuất cũng như mức độ sản xuất hàng hoá của người lao động.
IV- Những đặc điểm và yêu cầu về việc làm, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
1- Đặc điểm và yêu cầu về việc làm trong nông nghiệp, nông thôn.
1.1- Đặc điểm.
- Năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp.
Lao động trong nông nghiệp, nông thôn chủ yếu làm việc trong các ngành Nông- Lâm- Ngư nghiệp; là những ngành mà kết quả sản xuất không chỉ phụ thuộc vào một vài yếu tố mà nó chịu sự tác động tổng hợp của một loạt nhân tố như: Thời tiết khí hậu, đất đai, giống, con người,... nên so với các ngành công nghiệp và dịch vụ ở thành thị thì năng suất lao động trong nông nghiệp, nông thôn thường thấp hơn.
Năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động làm việc trong nông nghiệp, nông thôn thấp. Nhìn chung, giá trị lao động bình quân hàng năm của lao động nông thôn còn rất t._.hấp: 531.000đ năm 1990, 572.000đ năm 1995 và 597.000đ năm 1997. Với giá trị lao động thấp như vậy, thu nhập của người lao động nông nghiệp, nông thôn trở nên quá ít ỏi, phần lớn họ không có tích luỹ. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo còn rất phổ biến ở nông thôn.
- Điều kiện làm việc cho lao động nông nghiệp, nông thôn khó khăn.
Các ngành sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn hầu hết đều chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, được tiến hành trên một không gian rộng lớn; mặt khác so với thành thị, nông thôn là vùng có kết cấu hạ tầng, trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hoá, trình độ văn hoá, khoa học và kỹ thuật thấp hơn. Nên lao động trong nông nghiệp, nông thôn phải làm việc trong một điều kiện khó khăn về mọi mặt.
- Việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn mang tính chất đa dạng.
Tính đa dạng của việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn được quyết định bởi tính đa dạng của nông thôn. Nông thôn mang tính chất đa dạng về quy mô, về trình độ phát triển, cũng như về các hình thức tổ chức và quản lý.
Tính đa dạng của việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn được thể hiện ở chổ có rất nhiều hình thức tổ chức sản xuất, rất nhiều loại hình làm việc, đòi hỏi về trình độ chuyên môn, khả năng thích ứng của con người cũng phải đa dạng.
Tính đa dạng của việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn không chỉ đa dạng trong các loại hình, mà ngay trong một ngành cũng đòi hỏi người lao động phải làm nhiều công việc khác nhau. Hay trong mỗi thời điểm phải làm một công việc mà tính chất khác hẳn nhau.
- Việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn có thể không cho thu nhập trực tiếp.
Trong nông thôn không phải tất cả mọi hình thức làm việc đều cho thu nhập trực tiếp, mà có những việc không mang lại thu nhập trực tiếp cho bản thân người lao động. Tuy nhiên nó mang lại lợi ích một cách gián tiếp cho người lao động. Ví dụ như: người lao động tham gia làm đường giao thông nông thôn, hay xây dựng các công trình phúc lợi khác. Mặc dù không có thu nhập trực tiếp nhưng có thể thấy người lao động được hưởng lợi từ việc điều kiện sống được cải thiện tốt hơn, xóm làng văn minh, sạch đẹp hơn,...
1.2. Yêu cầu của việc làm trong nông nghiệp, nông thôn
- Việc làm trong nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi người lao động phải cần cù chịu thương, chịu khó.
Do làm việc trong nông nghiệp, nông thôn chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên, điều kiện làm việc khó khăn, năng suất lao động thấp nên đòi hỏi người lao động phải cần cù, chịu thương, chịu khó.
- Việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn không đòi hỏi người lao động phải thật chuyên sâu về chuyên môn kỹ thuật nhưng lại yêu cầu phải có những kiến thức, những kỹ năng mang tính tổng hợp, đa dạng.
2. Đặc điểm và yêu cầu về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
2.1- Đặc điểm.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn mang tính tổng hợp và chịu sự tác động qua lại trực tiếp của nhiều yếu tố.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn mang tính xã hội hoá.
Giải quyết việc làm là một vấn đề to lớn, liên quan đến nhiều yếu tố. Nên giải quyết vấn đề việc làm không thể do một cấp, một ngành nào đó có thể thực hiện được mà phải là sự phối hợp, cùng hành động của tất cả các cấp, các ngành, các doanh nghiệp cũng như của bản thân mỗi người lao động.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn có nhiều khó khăn do sản xuất nông nghiệp, nông thôn kém hiệu quả, trình độ học vấn của người lao động thấp.
2.2- Yêu cầu.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn phải có sự phối hợp đồng bộ.
Vì giải quyết việc làm không chỉ có ý nghĩa tạo việc làm thuần tuý mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội một cách bền vững. Vì vậy phải coi giải quyết việc làm là công việc của toàn Đảng, toàn dân; phải được đổi mới cơ bản về nhận thức, cơ chế chính sách và phải có sự phối hợp đồng bộ trong tổ chức thực hiện ở các cấp, các ngành.
- Giải quyết việc làm đòi hỏi các cơ quan, các cấp, các ngành cũng như người lao động phải năng động, tích cực, chủ động.
3- Những mâu thuẫn chủ yếu của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Việc làm cho người lao động trong nông nghiệp, nông thôn đang đứng trước những mâu thuẫn rất gay gắt, có thể khái quát thành như sau:
3.1- Mâu thuẫn giữa nhu cầu việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn rất hạn chế, trong khi tiềm năng phát triển kinh tế, tạo mở việc làm còn rất lớn.
Nước ta, đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp, nông thôn còn rất nhiều nguồn lực, nếu biết khai thác, có thể tạo được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động như: một lượng lớn đất có khả năng nông nghiệp, đất trống, đất đồi trọc chưa được đưa vào sử dụng; hệ số sử dụng ruộng đất còn thấp, nên nếu thực hiện thâm canh tăng thêm vụ, nâng cao vòng quay của đất, có thể giải quyết thêm hàng chục vạn chổ làm việc mới cho người lao động. Bên cạnh đó công suất máy móc thiết bị mới sử dụng gần 50%, sản phẩm chủ yếu dưới dạng nguyên vật liệu, chưa qua chế biến; vốn trong dân còn nhiều, nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống có khả năng khôi phục và phất triển; tiềm năng lao động kỹ thuật, lao động có trình độ chưa được sử dụng có hiệu quả; nhiều chủ doanh nghiệp, chủ tư nhân và hộ gia đình làm ăn giỏi, có khả năng thu hút nhiều lao động, nhưng chưa có chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ…Vấn đề ở đây là: để giải quyết mâu thuẫn này Nhà nước phải tạo ra điều kiện và môi trường, có nguồn vật chất đảm bảo để tác động vào phát triển thị trường lao động và giải quyết việc làm, làm cho cung cầu về lao động phù hợp với nhau ở mức tối đa.
3.2- Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt khi đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế, tất yếu dẫn đến hiện tượng và xu thế đẩy lao động tách khỏi việc làm, và do đó, làm cho một bộ phận lớn lao động trở nên dư thừa.
Đây là mâu thuẫn trong sự không phù hợp giữa cơ cấu lao động cũ và cơ cấu nền kinh tế đã chuyển đổi. Trong quá trình chuyển dịch này chúng ta vừa thiếu đội ngũ lao động có kỹ thuật, lại vừa thừa khá lớn lao động phổ thông, năng suất lao động thấp. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết thông qua việc đào tạo lại, phổ cập nghề cho người lao động, song phải có thời gian.
3.3- Mâu thuẫn trong bản thân vấn đề việc làm.
Đó là vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế – xã hội cơ bản, lâu dài có tính chiến lược, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt. Nó vừa có ý nghĩa kinh tế lại vừa là vấn đề xã hội phức tạp.
Trong các vấn đề trước mắt và mang tính chất xã hội sâu sắc của việc làm, chúng ta phải tập trung giải quyết cho một số đối tượng cấp bách nhất như thanh niên mới đến tuổi lao động, con em các gia đình chính sách xã hội, lao động thôi việc từ khu vực nhà nước, bộ đội xuất ngũ, lao động hợp tác từ nước ngoài trở về, đối tượng tệ nạn xã hội…Số đối tượng này nếu không được giải quyết sẽ là mầm mống gây ra những “điểm nóng”, điểm gay cấn về mặt xã hội, dẫn đến mất an toàn xã hội, thậm chí mất ổn định về chính trị.
3.4- Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ tổ chức quản lý về mặt nhà nước trong lĩnh vực việc làm chưa phù hợp với cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm còn phôi thai, đội ngũ cán bộ làm dịch vụ việc làm còn non yếu, chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường, có sự hoạt động của thị trường lao động.
Mâu thuẫn này gây trở ngại không nhỏ đến khả năng giải quyết việc làm cho người lao động. Để giải quyết mâu thuẫn chúng ta phải khẩn trương tăng cường năng lực quản lý của nhà nước trong lĩnh vực việc làm, phát triển mạnh hệ thống sự nghiệp dịch vụ việc làm và tập trung đào tạo cán bộ dịch vụ việc làm.
V- Kinh nghiệm một số nước về vấn đề lao động và giải quyết việc làm cho người lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
1- Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia luôn dẫn đầu thế giới về dân số và lao động, theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Trung Quốc, hiện nay có khoảng hơn 152 triệu lao động dư thừa ở nông thôn, điều này gây sức ép rất lớn về việc làm, ảnh hưởng xấu tới sự phát triển nông nghiệp, nông thôn và gây hậu quả không nhỏ về mặt xã hội. Để khắc phục tình trạng này, trong những năm gần đây Trung Quốc đã thực thi nhiều chính sách và biện pháp tích cực, thực tế đã mang lại những thành công rất lớn. Trong đó đặc biệt lưu ý là phương thức tạo việc làm, sử dụng lao động tại chổ ở nông thôn.
Các biện pháp chủ yếu mà Trung Quốc thực hiện trong công tác giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn là.
Một là: Nhà nước ban hành những chính sách ưu đãi nhằm hổ trợ nông nghiệp, tăng thêm vốn đầu tư cho nông nghiệp; tăng giá thu mua lương thực, khuyến khích người nông dân đầu tư thêm cho nông nghiệp; mở rộng mạng lưới đào tạo nghề để nâng cao chất lượng nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn, hợp lý hoá cơ cấu văn hoá, cơ cấu lứa tuổi và sức khoẻ, khắc phục tình trạng “ già yếu, bệnh tật trên ruộng đất”.
Hai là: Phát triển sản xuất và kinh doanh đa dạng bao gồm nhiều ngành nghề, nhiều loại sản phẩm. Sắp xếp lại cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và lưu thông; không ngừng mở rộng lưu thông để phù hợp với sản xuất. Tăng nhanh quá trình thương phẩm hoá nông nghiệp, chuyển đổi nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp truyền thống sang nền nông nghiệp có tính hàng hoá phát triển cao.
Ba là: Phát triển mạnh mẽ loại hình xí nghiệp hương trấn, vì loại hình này có nhiều ưu thế như: sử dụng vốn ít, kỹ thuật đơn giản, mức lương tương đối thấp và có khả năng thu hút nhiều lao động. Mặt khác, cơ cấu sản phẩm của các xí nghiệp này cũng rất đa dạng và phong phú, từ hàng tiêu dùng đến hàng xuất khẩu. Trong tương lai loại xí nghiệp hương trấn có tác dụng rất lớn, không những tiếp tục sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dôi thừa ở nông nghiệp, nông thôn, mà còn “là con đường tất yếu làm phồn vinh kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, thúc đẩy hiện đại hoá nông nghiệp”.
Bốn là: Đổi mới cơ chế quản lý lao động và việc làm, theo hướng giải phóng tối đa sức sản xuất và phát huy được tính năng động sáng tạo của mỗi một người lao động. Đồng thời tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, ý thức của người dân trong việc thực hiện chương trình dân số, xây dựng mạng lưới sinh đẻ có kế hoạch ở khắp các làng, xã, huyện; hạn chế tối đa mức tăng nhân khẩu cũng như lao động ở nông thôn.
2- Kinh nghiệm của Đài Loan.
Trong những năm50, Đài Loan ở trong tình trạng quá dư thừa lao động. Từ sau năm 1961, tỷ lệ tăng việc làm trong ngành công nghiệp rất cao, thu hút phần lớn số lao động từ nông nghiệp chuyển sang, làm cho nền kinh tế Đài Loan từng bước phát triển cao; từ sau năm 1971 Đài Loan luôn giữ được sự ổn định về việc làm cho người lao động. Sở dĩ, đạt được những thành công đó là do Đài Loan đã áp dụng những biện pháp cụ thể sau:
Một là: Phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp, thu hút sức lao động vào nông nghiệp để tăng nhanh việc làm. Đây là biện pháp phổ biến trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế Đài Loan theo phương châm “ lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp để thúc đẩy nông nghiệp” nhằm chuẩn bị cơ sở vững chắc cho sự phát triển các ngành công nghiệp trong giai đoạn tiếp theo.
Hai là: Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, gắn liền với vấn đề tạo việc làm. Đây là biện pháp mà chính phủ Đài Loan đã thực hiện ngay khi ổn định được trật tự kinh tế những năm 50. Trong những năm này, công nghiệp thực phẩm là một ngành quan trọng thu hút nhiều lao động, nhưng từ sau năm 1965, vị trí của nó bị công nghiệp điện tử thay thế.
Ba là: Tích cực phát triển các ngành sản xuất cần nhiều lao động để đẩy nhanh tốc độ tạo việc làm. Thực tế ở Đài Loan cho thấy việc phát triển các ngành này có thể sử dụng kỹ thuật tương đối đơn giản, tiền vốn không nhiều nhưng thu nhận được một số lượng lớn sức lao động.
Bốn là: Tích cực mở rộng mậu dịch đối ngoại và tăng cường khai thác thị trường quốc tế để tạo ra việc làm, nâng cao mức tăng việc làm cho người lao động.
Năm là: Nâng cao mức tăng tiền gửi tiết kiệm và đầu tư để gia tăng việc làm cho người lao động. Ngoài ra, chính phủ Đài Loan còn áp dụng các biện pháp cải cách chế độ thuế, nâng cao lợi nhuận độc quyền, giữ cân bằng thu- chi ngân sách và thiết lập một hệ thống ngân sách ổn định.
3- Kinh nghiệm của các nước ASEAN.
Dù mỗi nước có những nét đặc thù, nhưng nhìn chung các nước ASEAN lại tương đối giống nhau trên những mặt chủ yếu. Dưới đây là những kinh nghiệm trong việc sử dụng lao động và giải quyết việc làm ở nông nghiệp, nông thôn của các nước ASEAN.
Một là: Tập trung sức phát triển nông nghiệp, nông thôn, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động.
Hai là: Chuyển mạnh nền kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại, từ nông nghiệp chuyển dần sang công nghiệp và từ công nghiệp sang dịch vụ, coi đó là động lực để phát triển kinh tế-xã hội và giải quyết việc làm của mỗi nước.
Ba là: Phát triển mạnh mẽ các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Thực tiễn những năm qua ở các nước ASEAN đã khẳng định rằng việc phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, không những tạo được nhiều việc làm cho người lao động mà còn góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội khác.
Bốn là: Phát huy yếu tố con người- động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Chính phủ các nước ASEAN luôn khẳng định rằng dân số của các nước họ đông, mật độ dân số cao, lại đi lên từ nông nghiệp lạc hậu nên vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người lao động giản đơn, tay nghề thấp. Vì vậy, các nước ASEAN đã thường xuyên quan tâm tới đầu tư cho giáo dục, tập trung nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Đồng thời trong nội dung giáo dục đào tạo, chính phủ luôn chú trọng bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục tinh thần tự lực, tự cường, có trách nhiệm đối với sự phồn vinh của đất nước, có trình độ tay nghề cao, có tính cần cù, sáng tạo và nề nếp kỷ luật lao động, từng bước làm thay đổi cách suy nghĩ, phương thức lao động và thói quen của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu trước đây, thích ứng với những đòi hỏi của nền văn minh công nghiệp trong thời kỳ mới.
Tóm lại: Chính những giải pháp nêu trên đã làm cho nền kinh tế của các nước ASEAN không những sống động, tăng trưởng nhanh, mà còn tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra môi trường thuận lợi để mọi người có thể tự tìm được việc làm và gia tăng thu nhập; góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội của mỗi nước ngày càng phát triển cao.
Qua những kinh nghiệm thực tiễn trên đây của các nước, có thể rút ra bài học kinh nghiệm có thể áp dụng đối với Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn là:
- Phải xác định đúng vị trí của nền kinh tế trong bậc thang phát triển, căn cứ vào đó để xây dựng các chính sách phát triển. Nhiều quốc gia đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang sản xuất nông nghiệp hiện đại thành công do áp dụng những chính sách hợp lý.
- Sự quan tâm của các chính quyền các cấp là điều kiện tiên quyết cho thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nói chung và trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động nói riêng; đặc biệt trong việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn trước hết phải nhằm mục đích xoá đói giảm nghèo. Các dự án phải giải quyết được các mối quan hệ tỷ lệ thuận giảm đói nghèo và phá huỷ môi trường, hạn chế sự phát triển chênh lệch giữa thành thị và nông thôn.
- Đa dạng hoá sản phẩm, thu hút lực lượng không có đất và không có tay nghề bằng việc phát triển mô hình trang trại, đồn điền quy mô nhỏ do nông dân quản lý.
- Phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn, khuyến khích triển khai thực hiện các mô hình làng nghề để thu hút lao động địa phương, giảm sức ép di dân đối với các thành phố lớn và dần dần hình thành mạng lưới đô thị vệ tinh.
- Tăng thêm tính linh hoạt về việc làm, cho phép các doanh nghiệp giảm bớt người dư thừa, tăng cường thực hiện chính sách sử dụng tạm thời.
- Khuyến khích, thúc đẩy hoạt động của các công ty tư nhân, xoá bỏ các thủ tục hạn chế, cản trở sự thành lập và phát triển của các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan dịch vụ việc làm. Phát triển các chương trình đào tạo nghề.
- Tăng đầu tư cho khoa học và giáo dục, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài để nâng cao trình độ công nghệ, tăng thêm năng lực cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước.
Chương II: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn Nghệ An.
I- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Nghệ An có ảnh hưởng đến việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
1- Điều kiện tự nhiên.
1.1- Vị trí địa lý và địa hình.
Tỉnh Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, trên tuyến giao lưu kinh tế- xã hội Bắc- Nam, có diện tịch tự nhiên: 1.648.729 ha, dân số năm 2002 là: 2.963.572 người, mật độ trung bình là: 179 người/km2. Về quy mô diện tích và dân số đứng hàng thứ 4 toàn quốc, có 3 vùng: Ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi, là điều kiện thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Phía đông với bờ biển dài 82 km là một thuận lợi rất lớn để xây dựng kinh tế biển và kinh tế đối ngoại trong giai đoạn mới, đã mở ra cho vùng ven biển nhiều khả năng to lớn để phát triển nông nghiệp, nông thôn, thu hút lao động và giải quyết việc làm cho người lao động.
Phía tây giáp với nước bạn Lào với đường biên giới 419 km đã có quan hệ hữu nghị lâu đời là điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và khai thác những tiềm năng phát triển của đất nước bạn Lào; cộng với diện tích rừng và đất lâm nghiệp rất lớn đang đặt ra cho vùng trung du và miền núi Nghệ An những vấn đề hết sức cấp bách để phát triển kinh tế, ổn định đời sống xã hội.
1.2- Thời tiết khí hậu.
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây – Nam khô và nóng và gió mùa Đông- Bắc lạnh và ẩm ướt. Là vùng có nhiều đặc thù, phân dị rõ rệt trên toàn lãnh thổ và theo các mùa, nhiệt độ trung bình: 25,150c, lượng mưa trung bình: 1665,9mm, số ngày mưa trong năm: 166 ngày... Tất cả những đặc điểm đó đã tạo điều kiện cho Nghệ An phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới với nhiều chủng loại cây trồng, song cũng không ít phần khắc nghiệt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
1.3- Tài nguyên thiên nhiên:
Nghệ An là tỉnh có địa hình trải rộng trên cả 3 vùng: Ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi. Nên về tài nguyên đất, trong tổng diện tích đất tự nhiên: 1.684.729 ha có 195.944,4 ha đất nông nghiệp, 684.398,3 ha đất lâm nghiệp, 693.116,46 ha đất chưa sử dụng... với tài nguyên đất to lớn như thế, đặc biệt là 693.116,46 ha đất chưa sử dụng, chủ yếu là đất địa thành là một trong những thế mạnh để phát triển cây công nghiệp làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến; đồng thời tạo ra nhiều khả năng thuận lợi cho công tác di giản dân, tổ chức các tổng đội TNXP đi làm kinh tế mới, tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp, nông thôn.
Bên cạnh tài nguyên đất, ở Nghệ An tài nguyên rừng, tài nguyên biển và thuỷ sản, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên nước cũng rất phong phú và đa dạng. Với các loại lâm sản như: Gỗ, song, mây, tre.. khoáng sản như: Đá bazan, đã vôi, đất sét hay hệ thống diện tích mặt nước lớn... là những điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành nghề đa dạng trong nông nghiệp, nông thôn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.
2- Đặc điểm kinh tế-xã hội.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là những năm gần đây, kinh tế-xã hội của Nghệ An đã có những bước chuyển biến đáng kể.
Nền kinh tế liên tục có tốc độ tăng trưởng khá hơn các thời kỳ trước đáp ứng nhu cầu cơ bản trước mắt và tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo.
- Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng ngành nông nghiệp từ 49,09 % năm 1995 đã chuyển xuống còn 44,27% năm 2000; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7,27 % ; giá trị gia tăng nông nghiệp tăng 5,3%. Kết cấu hạ tầng được nâng cấp và phát triển khá toàn diện, từng bước được hiện đại hoá, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Năng lực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ tăng lên một bước, hình thành một số ngành sản xuất có quy mô lớn như xi măng, mía đường, phát triển các khu công nghiệp, các vùng kinh tế hàng hoá tập trung.
- Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên một bước, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm, bình quân hàng năm từ 4-5%; khoảng cách tụt hậu về kinh tế với bình quân chung của cả nước được rút ngắn.
- Về xã hội, giáo dục đào tạo có nhiều chuyển biến khá tích cực. Quy mô các cấp học, ngành học, phát triển khá. Mạng lưới trường lớp phân bố đều khắp đến các địa bàn; các hoạt động khoa học và công nghệ đã hướng vào việc đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhất là các giống cây con. Công tác y tế- kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc trẻ em được quan tâm đúng mức.
Tuy vậy, tốc độ tăng GDP của Nghệ An còn thấp, bình quân thu nhập đầu người mới bằng 70% so với mức bình quân chung của cả nước. Chất lượng sản phẩm hàng hoá còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa vững chắc, lao động thất nghiệp và lao động thiếu việc làm nhiều đang là một áp lực lớn đối với nền kinh tế – xã hội của tỉnh.
Nguyên nhân của những tồn tại trên gồm cả khách quan lẫn chủ quan, song xét trên góc độ kinh tế lao động, một nguyên nhân mang tính chủ quan nổi lên là: Chất lượng lao động thấp, cơ cấu phân bổ lao động chưa hợp lý giữa các ngành, các vùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội chậm, thiếu vững chắc.
II- Chủ trương, chính sách của Nghệ An về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV được tiến hành từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 01 năm 2001 đã quyết tâm hành động theo khẩu hiệu: “ Phát huy nội lực, lao động sáng tạo; thi đua làm giàu, xây dựng quê hương”. Trên cơ sở nhận thức được những yếu kém tồn tại trong phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như trong vấn đề lao động và việc làm như: “ khai thác nội lực cho đầu tư phát triển còn yếu, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư cho nông nghiệp còn thấp”; “ Chất lượng đào tạo thấp. Cơ cấu đào tạo không hợp lý, mất cân đối, xã hội hoá giáo dục thực hiện chậm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo quá thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá và xuất khẩu lao động”; “Tỷ lệ tăng dân số vẫn cao, lực lượng lao động tự nhiên hàng năm tăng 3,3 vạn người gây sức ép mạnh về giải quyết việc làm. Xoá đói giảm nghèo chưa vững chắc”.
Đại hội đã đề ra mục tiêu, phương hướng cho nhiệm kỳ 2001- 2005 và đến 2010 với những nội dung đó là: “ Nghệ An phát huy truyền thống cách mạng, phát huy tối đa mọi nguồn lực, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng Nghệ An trở thành “ một trong những tỉnh khá nhất”.
Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã chỉ ra:
- Phương hướng: “... đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, làm cho sản xuất công nghiệp tác động mạnh vào nông nghiệp, nông thôn, tăng khối lượng và giá trị hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm và phân công lại lao động...”.
- Quan điểm: “...tập trung đầu tư cao cho những ngành, những vùng sớm tạo ra hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động..”
- Mục tiêu: “...Phát huy thế và lực hiện có, tận dụng mọi nguồn lực cho đầu tư sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trọng tâm là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục và dạy nghề”.
Về công tác giải quyết việc làm; đại hội đã đề ra mục tiêu là: “ Tạo việc làm, giải quyết việc làm cho 120.000 đến 130.000 người, bình quân 25.000 người /năm.”
Như vậy có thể thấy quyết tâm của tỉnh Nghệ An trong phát triển kinh tế- xã hội, giải quyết vấn đề lao động- việc làm, nhất là đối với lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn. Tư tưởng xuyên suốt của Nghị quyết đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV là: Phát huy nội lực, huy động tối đa mọi nguồn lực để tập trung phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung chỉ đạo cho vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết việc làm cho người lao động.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV về vấn đề lao động- việc làm ở Nghệ An trong thời gian qua đã được triển khai thực hiện với rất nhiều những chính sách, chương trình, dự án...cụ thể tỉnh Nghệ An đã thành lập ban chỉ đạo về giải quyết việc làm trực thuộc sở Lao động- thương binh và xã hội. UBND tỉnh cũng đã có quyết định phê duyệt đề án giải quyết việc làm giai đoạn 2003-2005 và dự báo đến năm 2010 tỉnh Nghệ An.
Bên cạnh đó công tác giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn còn được triển khai thực hiện đồng loạt với những quan điểm chỉ đạo được thể hiện qua các Nghị quyết, Quyết định của tỉnh Đảng bộ, của UBND tỉnh như:
- Nghị quyết 17 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Trong đó đã đề ra những phương hướng và giải pháp cụ thể về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
- Nghị quyết 06/NQTU của Ban chấp hành tỉnh uỷ khoá XV về phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng làng nghề.
- Nghị quyết 07 của Ban thường vụ tỉnh uỷ về phát triển dạy nghề thời kỳ 2001-2005.
- Quyết định của UBND về việc phê duyệt phương án đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia tỉnh Nghệ An đến năm 2005.
- Quyết định của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề án “ Xây dựng làng nghề mây tre đan xuất khẩu, ươm tơ dệt lụa, dệt thổ cẩm. Mộc dân dụng và mỹ nghệ, đá mỹ nghệ tỉnh Nghệ An thời kỳ 2001-2005.”
III- Thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An.
1. Về nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
1.1- Cơ cấu.
Dân số và nguồn lao động có mối quan hệ mật thiết với nhau, dân số càng cao thì nguồn lao động càng lớn. Qua các năm từ các năm 1996 đến 2001 dân số trung bình của Nghệ An không ngừng tăng lên, điều này dẫn tới nguồn lao động của tỉnh cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận. Trong khu vực nông nghiệp, nông thôn mặc dù dân số trong các năm qua có xu hướng giảm xuống nhưng lực lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn vẫn không ngừng tăng lên.
Biểu 1: Nguồn lao động nông thôn tỉnh Nghệ An.
(Năm 1996 - 2001)
Đơn vị: người
Chỉ tiêu
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1. Dân số nông thôn trung bình
2657249
2636233
2630700
2566574
2537896
2498756
2. Lực lượng lao động nông thôn
1131899
1179056
1153176
1168196
1183430
1192043
3. Tỷ trọng LĐNT/DSTB (%)
42,60
44,73
43,84
45,55
46,63
47,71
4. Tốc độ tăng LLLĐNT (lần)
-------
0,99
1,02
1,01
1,01
1,01
Nguồn: Cục thống kê Nghệ An.
Theo số liệu điều tra dân số, năm 1996 nông thôn Nghệ An có 2.657.249 người trong đó số người trong lực lượng lao động nông thôn là 1.131.899 người, đến năm 1999 con số này là 2.566.574 người, trong đó lực lượng lao động nông thôn là 1.168.196 người và đến năm 2001 thì dân số ở khu vực nông thôn của tỉnh Nghệ An là 2.498.756 người với số người trong lực lượng lao động là 1.192.043 người.
Sở dĩ có thực tế đó là do trong các năm qua tốc độ đô thị hoá không ngừng tăng lên, cùng với sự phát triển của y tế, các hoạt động thể dục thể thao và sự cải thiện về các điều kiện chăm sóc sức khoẻ do thu nhập tăng, đã làm cho thể lực con người được nâng cao, số người tàn tật, mất sức lao động giảm, độ dài thời gian lao động, số năm làm việc thực tế tăng, dẫn đến lực lượng lao động không ngừng tăng lên trong khi dân số trong khu vực nông thôn có xu hướng giảm xuống.
1.2- Cơ cấu nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An.
1.2.1- Cơ cấu nguồn lao động nông thôn theo nhóm tuổi và giới tính.
Tuổi và giới tính là những biến quan trọng trong phân tích nguồn lao động cũng như dân số.
Do đặc điểm về giới nữ thích hợp với các ngành nghề đòi hỏi sự dẻo dai, khéo léo như tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ buôn bán... Ngược lại, nam giới thường lao động trong lĩnh vực đòi hỏi phải có sức khoẻ như công nghiệp, khai thác... vì vậy, cơ cấu nguồn lao động theo tuổi và giới tính là chỉ tiêu quan trọng giúp các nhà hoạch định xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn lao động hợp lý và có hiệu quả cao.
Biểu 2: Lực lượng lao động nông thôn tỉnh Nghệ An chia theo tuổi và giới tính.
Đơn vị: người
Nhóm tuổi
Năm 1999
Năm 2001
Tổng
Tỷ lệ
%
Trong đó
Tổng
Tỷ lệ
%
Trong đó
Nữ
%
Nữ
%
15-24
236665
20,3
133720
21,6
239601
20,1
135287
21,4
25-54
860206
73,6
454002
73,3
878536
73,7
462758
73,2
55-60
36202
3,1
16715
2,7
38145
3,2
18333
2,9
Trên 60
35123
3,0
15100
2,4
35761
3,0
15805
2,5
Tổng
1168196
100
619537
100
1192043
100
632183
100
Nguồn: Cục thống kê Nghệ An.
Biểu2 cho thấy lực lượng lao động nông thôn Nghệ An chủ yếu ở độ tuổi 25-54 (73,6% năm 1999 và 73,7% năm 2001) và độ tuổi 15-24 (20,35 năm 1999 và 20,1% năm 2001), chứng tỏ lực lượng lao động Nghệ An chủ yếu là trẻ và vẫn đang trong thời kỳ phát triển mạnh. Đây là thuận lợi và cũng là khó khăn cho tỉnh trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Vì hầu hết lao động trong độ tuổi này là học sinh, sinh viên theo học các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học…Phần lớn lực lượng này chưa tham gia hoạt động xã hội, số còn lại nếu có tham gia thì năng suất lao động còn thấp vì trình độ chuyên môn, tay nghề còn hạn chế. Tuy nhiên, đây là lực lượng lao động hứa hẹn nhiều khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội nếu được đào tạo một cách bài bản, toàn diện.
1.2.2. Cơ cấu nguồn lao động nông thôn Nghệ An theo trình độ văn hoá.
Cơ cấu nguồn lao động nông thôn theo trình độ văn hoá có thể cho chúng ta biết chất lượng của nguồn lao động và thông qua c._.i gian lao động từ 74,93% năm 2002 lên 76,5% năm 2005.
- Nâng cao chất lượng lao động, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 20,91% năm 2002 lên 30,03% năm 2005. Tăng hệ số sử dụng lao động qua đào tạo từ 67% năm 2002 lên 85% năm 2005.
III- Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn Nghệ An.
1- Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên toàn tỉnh cũng như ở từng địa phương.
Phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cơ sở để giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương cho tới nay vẫn còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp, trong đó trồng trọt vẫn là chủ yếu, chăn nuôi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong trồng trọt, diện tích gieo trồng cây lương thực, đặc biệt là trồng lúa chiếm tỷ trọng rất cao như các huyện: Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc... Các cây công nghiệp, cây ăn quả và các cây trồng có trình độ thâm canh và giá trị kinh tế cao còn chiếm tỷ trọng thấp.
Trong những năm tới để góp phần tạo thêm việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, cần đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở mỗi địa phương theo hướng phát triển các ngành chăn nuôi và phát triển sản xuất các loại cây trồng có trình độ thâm canh và giá trị kinh tế cao mà thị trường, nhất là thị trường ngoài nước, có nhu cầu. Việc phát triển chăn nuôi và phát triển các loại cây có trình độ thâm canh và giá trị kinh tế cao sẽ thu hút một bộ phận đáng kể lao động nông nghiệp, nông thôn vào sản xuất nông nghiệp.
Cụ thể trong giai đoạn 2003-2005 tiếp tục phát triển nông nghiệp toàn diện gắn với công ngiệp chế biến, tạo bước đột phá trong phát triển tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh, các làng nghề, mở rộng các loại hình dịch vụ trong nông thôn. Lao động có việc làm trong các năm tới cơ bản tập trung vào các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là thành phần kinh tế cá thể, hộ gia đình. Cụ thể phấn đấu thực hiện:
Lao động toàn ngành nông nghiệp giai đoạn 2003-2005 giảm cả về tương đối và tuyệt đối từ 995.195 người năm 2003 xuống còn 979.945 người năm 2005, tương ứng với 75, 57% xuống còn 70,09%; trong đó lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục bổ sung thêm lao động.
- Nông nghiệp: những năm 2003-2005 tốc độ tăng giá trị sản xuất phấn đấu đạt 5-6% năm. Lực lượng lao động bố trí vào nông nghiệp giảm từ 941.015 xuống còn 917.815 người. Việc rút bớt lao động nông nghiệp chỉ tập trung vào vùng đồng bằng, ven biển thuần nông; ngược lại một số vùng chuyên canh cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến vẫn tiếp tục thu hút thêm lao động. Đầu tư chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hoá, thâm canh, chuyên canh và hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với hệ sinh thái từng vùng trong thời gian tới sẽ mở ra khả năng tăng hệ số sử dụng thời gian lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Lâm nghiệp: Bằng mọi biện pháp khoanh nuôi, bảo vệ 65 vạn ha rừng đã có, thúc đẩy thực hiện chương trình trồng mới để năm 2005 đạt 50,5 ngàn ha rừng nguyên liệu và huy động mọi nguồn lực để phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nâng diện tích che phủ lên 47%. Đầu tư phát triển loại hình kinh tế trang trại, nhất là các trang trại nông lâm ở những vùng có diện tích đất rừng lớn.
- Thuỷ sản: Để đạt sản lượng khai thác 35.000 tấn, đưa sản lượng nuôi tôm ở vùng mặn lợ lên 1.500 tấn và sản lượng cá nuôi nước ngọt 15.000 tấn; nghề biển và thuỷ sản Nghệ An tiếp tục đẩy mạnh chương trình đóng mới tàu thuyền có công suất lớn để khai thác xa bờ, dài ngày. Mở rộng mạng lưới dịch vị nghề biển, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu, gắn liền chế biến hải sản với khai thác tạo sản phẩm cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, phát triển mạnh nghề chế bién thuỷ sản; tận dụng diện tích ao hồ mặt nước để mở mang nuôi trồng các loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao. Về lực lượng lao động cho thuỷ sản trong các năm tới cần tiếp tục tăng, năm 2002 bố trí 44.465 người, và tăng lên 51.158 người năm 2005.
2- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (sử dụng từ 4-5 đến vài chục lao động) có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Về thực chất các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ra đời và hoạt động trên cơ sở kinh tế hộ gia đình và tiểu chủ. Đây là loại hình doanh nghiệp thích ứng rộng rãi trong nền kinh tế hàng hoá do có thể thay đổi một cách linh hoạt về phương hướng, quy mô sản xuất kinh doanh và ứng dụng công nghệ sản xuất,...Tính thích ứng rộng tạo khả năng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đứng vững trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ với phương hướng sản xuất kinh doanh đa dạng có thể phân bố rộng khắp ở địa bàn nông thôn là một nguồn thu hút lao động tại chổ quan trọng, góp phần tích cực giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
ở Nghệ An, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn còn thiếu vắng. Mặc dù hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có hơn 825 đơn vị kinh tế vừa và nhỏ đang hoạt động trong các ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, dịch vụ....Nhưng tập trung chủ yếu chủ yếu trên một số địa bàn chủ yếu: Vinh 28%, Diễn Châu 14,8%, Quỳnh Lưu 9.8%, Thị Xã Cửa Lò 5,7%,...các vùng còn lại hầu như không có hoặc rất thiếu vắng các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp.
Trong những năm tới, để góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, các địa phương và cơ sở nhất là Hội đồng liên minh các HTX và doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải có các biện pháp khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp và phát triển các loại hình trang trại nông, lâm, ngư nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và cơ sở.
3- Tập trung phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề.
Kinh nghiệm của các nước, cũng như các tỉnh thành trong nước ta cho thấy, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trong nông thôn là một trong các hướng chủ yếu để tạo việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
Trong giai đoạn hiện nay, ở nông thôn Nghệ An, việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề có vai trò rất quan trọng đối với tạo việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn vì trong điều kiện hiện nay, phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề sẽ huy động được các nguồn lực sẵn có tại chổ để phát triển kinh tế, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các làng nghề, làng có nghề và khôi phục các nghề truyền thống nếu được tập trung quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt sẽ vừa tạo nhiều việc làm mới cho lao động, vừa sản xuất ra nhiều sản phẩm cần thiết cho xã hội, người lao động có thu nhập, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế-xã hội của địa phương. Thực tế trong thời gian qua ở Nghệ An đã cho thấy. Mặc dù mới bước đầu khôi phục phát triển 49 làng, xã có nghề tiểu thủ công nghiệp tập trung ở một số huyện như: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương, Quỳ hợp, Nghĩa Đàn,...Nhưng các nghề đó đã giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho 12.526 lao động trong nông nghiệp, nông thôn, tăng so với trước 37%; trong đó có 2500 lao động làm nghề mây tre đan xuất khẩu, 7.500 lao động làm nghề trồng dâu nuôi tằm ươm tơ, 1.526 lao động làm nghề mộc dân dụng, đóng tàu thuyền, 500 lao động làm nghề dệt thỏ cẩm và 500 lao động làm nghề chế tác đá. Tổng giá trị doanh thu đạt trên 48.700 triệu đồng, thu nhập bình quân lao động đạt trên 3 triệu đồng/ năm.
Hướng phát triển trong giai đoạn tới là khôi phục các làng nghề đã có, du nhập và phát triển làng nghề và làng có nghề mới trên cơ sở sử dụng nguyên liệu, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tay nghề của lao động tai chổ; từ nay đến năm 2005 mỗi huyện xây dựng từ 3-5 làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Tập trung ưu tiên phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có vốn đầu tư ít nhưng thu hút nhiều lao động, nhất là các nghề chế biến nông, lâm, thuỷ sản để bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2003-2005 số lao động có thêm việc làm ở lĩnh vực này đạt từ: 15000-18000 người.
Để đạt được những phương hướng cụ thể nêu trên, tỉnh Nghệ An phải thực hiện các giải pháp sau đây:
- Đổi mới nhận thức tư tưởng cho cán bộ và nhân dân về việc phát triển nghề và xây dựng làng nghề tiểu thủ công nghiệp bằng cách quán triệt Nghị quyết TW 5 về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Nghị quyết 06/TU Nghệ An về việc phát triển tiểu thủ công nghiệp và và xây dựng làng nghề 2001-2010 và bằng tuyên truyền để làm cho mọi cấp, mọi người hiểu rõ vị trí và lợi ích kinh tế của các nghề tiểu thủ công nghiệp.
- Chăm lo giải quyết nguyên vật liệu cho sản xuất. Phải đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và một số ngành sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp để nâng cao chất lượng và giảm giá nguyên liệu. Đồng thời phải có quy hoạch các vùng nguyên liệu cũng như tổ chức các kênh thu mua nguyên liệu đạt hiệu quả cao.
- Tổ chức tốt công tác đào tạo dạy nghề cho người lao động bằng các biện pháp như mời thầy, nghệ nhân tổ chức truyền nghề, tập huấn tại làng nghề theo phương châm “ vừa học vừa làm”, các làng nghề cần có biện pháp thu hút các nghệ nhân về làm ăn và truyền nghề tại địa phương. Mặt khác nên tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm tại các làng nghề các tỉnh phía Bắc và phía Nam.
- Đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác tìm kiếm và xúc tiến các thị trường tiêu thụ sản phẩm. Với các làng nghề cần phải sản xuất đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá cả hợp lý. Các hợp tác xã và doanh nghiệp của làng nghề phải coi trọng khâu tiếp thị, quảng cáo, chào hàng, tích cực thâm gia các hội chợ triển lãm; thông qua đó để giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm khách hàng, ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Đối với các cơ quan chính quyền (Sở thương mại, Hội đồng liên minh HTX và DN- NQD) cần tổ chức thu thập thông tin, dự báo thị trường. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tiêu thụ sản phẩm các làng nghề
- Tăng cường đầu tư vốn xây dựng làng nghề bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như từ các hộ gia đình, vốn tín dụng và từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó càn kêu gọi các tổ chức phi chính phủ và các doanh nghiệp ngoài nước đầu tư vốn phát triển nghề và xây dựng các làng nghề tiểu thủ công nghiệp nói trên.
- Triển khai thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển nghề và xây dựng các làng nghề như: Chính sách về đất đai, chính sách tài chính, chính sách khuyến khích phát triển dạy nghề, chính sách bảo lãnh vay vốn...
4- Phát triển dạy nghề trong nông thôn, đẩy mạnh khuyến nông, lâm, ngư và tư vấn việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, theo các kết quả điều tra nghiên cứu, số lao động trong nông nghiệp, nông thôn được đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số lao động nông nghiệp, nông thôn. Tuyệt đại bộ phận lao động trong nông nghiệp, nông thôn hoạt động sản xuất nhờ kỹ thuật do thế hệ cha ông truyền lại hoặc tích luỹ qua hoạt động sản xuất và học hỏi trực tiếp lẫn nhau. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế là một trong những nguyên nhân cản trởviệc phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn và hạn chế việc sử dụng lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Để tăng cường đào tạo nghề, đẩy mạnh khuyến nông, lâm, ngư và tư vấn dịch vụ việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn Nghệ An trong những năm tới cần:
- Tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết 07 của Ban thường vụ tỉnh uỷ về phát triển dạy nghề và đề án phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005 của UBND tỉnh để nâng cao tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
- Thực hiện đa dạng ngành nghề đào tạo, mở rộng việc đào tạo khuyến nông cho người lao động; gắn đào tạo, dạy nghề với giải quyết việc làm. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tranh thủ các nguồn hỗ trợ của trung ương và các tổ chức quốc tế để đầu tư nâng cấp trang thiết bị dạy và học phù hợp với sự phát triển của khó học kỹ thuật và việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
- Mở rộng và phát triển các loại hình tư vấn dịch vụ giới thiệu việc làm cho lao động. Quy hoạch mạng lưới Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm trên địa bàn. Cũng cố, nâng cấp các trung tâm đã có, phát triển thêm một số trung tâm khác gắn với vùng kinh tế của tỉnh, nhất là tại các huyên miền núi. Đổi mới hình thức thu thập xử lý thông tin thị trường lao động để nâng cao hiệu quả công tác dịch vụ giới thiệu việc làm trên địa bàn và với các đối tác liên quan.
- Thực hiện điều tra định kỳ thực trạng lao động việc làm hàng năm để làm căn cứ cho việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giải quyết việc làm trên địa bàn từng huyện thị và của cả tỉnh. Tổ chức hội chợ việc làm hàng năm để tạo điều kiện cho người lao động, người sử dụng lao động, các cơ sở dạy nghề, tư vấn dịch vụ việc làm trao đổi thông tin thị trường lao động và tạo cơ hội cho người lao động tìm được việc làm; người sử dụng lao động tuyển được lao động theo yêu cầu, và các cơ sở đào tạo nghề, tư vấn dịch vụ việc làm nắm được nhu cầu học nghề và tìm việc làm của người lao động.
5- Tiếp tục khuyến khích đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ trên toàn tỉnh, nhất là chế bién nông, lâm, thuỷ sản.
Xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các nhà máy chế biến nông, lâm, thuỷ sản có tác động rất lớn đến phát triển kinh tế-xã hội của địa phương; khi các cơ sở công nghiệp, dịch vụ được hình thành sẽ mở ra nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác tối đa các nguồn lực của điạ phương và phát triển kinh tế, thu hút nông nghiệp, nông thôn góp phần giải quyết vấn đề việc làm, ổn định thu nhập cho người lao động.
Trong mấy năm qua ở Nghệ An tuy chỉ mới xây dựng được một số nhà máy chế biến nông, lâm, thuỷ sản ở một số địa phương nhưng hiệu quả mang lại quả không nhỏ; ví dụ như: Liên doanh Mía đường NAT&L hay nhà máy nước dứa cô đặc được xây dựng và đưa vào hoạt động đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động của 4 huyện: Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu, Yên Thành trong việc trồng mía, dứa nguyên liệu cho nhà máy, hoạt động dịch vụ vận tải và các dịch vụ khác liên quan đến nhà máy.
ở Nghệ An trong thời gian tới trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, các nhà máy chế biến nông, lâm, thuỷ sản đã được phê duyệt tiếp tục khuyến khích đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Tập trung cao độ cả về huy động nguồn nội lực lẫn ngoại lực một cách có hiệu quả. Huy động các nguồn dự trữ trong dân bằng các hình thức mua công trái, huy động vốn tín dụng, trái phiếu...hình thành thị trường vốn cho đầu tư phát triển; tiết kiệm chi ngân sách thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển bằng nguồn từ ngân sách tỉnh. Tăng cường liên doanh, liên kết với các tỉnh bạn, với các công ty trong và ngoài nước trên một số lĩnh vực phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và bằng các cơ chế chính sách ưu đãi, tăng cường quan hệ đối ngoại và tổ chức tốt mạng lưới tiếp thị trong và ngoài nước để vừa tìm kiếm thị trương vừa giới thiệu tiềm năng và chính sách ưu đãi của Nghệ An cho các nhà đầu tư để thu hút vốn.
Thúc đẩy nhanh việc xây dựng và hình thành các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tiếp tục đầu tư đồng bộ để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đã có, tiếp tục thu hút và tạo thêm việc làm cho lao động.
6- Khai thác mở rộng thị trường lao động, cũng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, các trung tâm dịch vụ việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Khai thác mở rộng thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tầm quan trọng và lợi ích nhiều mặt rất lớn trong chương trình giải quyết việc làm. ở Nghệ An trong thời gian qua công tác xuất khẩu lao động do đã từng bước tạo được niềm tin với nhân dân và người lao động thông qua việc kiểm tra chặt chẽ các đơn vị liên hệ tuyển lao động, tạo cơ chế mở thông thoáng cho người lao động có nhu cầu đi xút khẩu lao động đều có cơ hội, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động vay vốn,...nên đã thu được những kết quả quan trọng. Tính đến năm 2002, Nghệ An có gần 9.500 lao động đang làm việc ở các nước và vùng lãnh thổ, bình quân hàng năm số ngoại tệ gửi về tỉnh khoảng 22-25 triệu USD.
Tuy vậy, số lao động đi làm việc ở nước ngoài của Nghệ An còn thấp so với nhu cầu và thực trạng lực lượng lao động của tỉnh, việc quản lý nhà nước và hiệu quả xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp, các trung tâm dịch vụ việc làm còn nhiều tồn tại và hạn chế. Đòi hỏi Nghệ An phải khai thác mở rộng thị trường lao động, cũng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiẹp, các trung tâm dịch vụ việc làm để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, cụ thể:
- Đối với thị trường lao động trong tỉnh: Đầu tư phát triển, mở mang sản xuất kinh doanh trong các ngành, các lĩnh vực trên cơ sở sử dụng có hiệu quả thế mạnh tiềm năng kinh tế của từng vùng, tạo việc làm tại chỗ cho lao động là hướng chủ yếu. Vùng miền núi của tỉnh, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình định canh, định cư, di dân, giãn dân; xây dựng và phát triển mô hình tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế, trang trại để thu hút lao động vào làm việc. Vùng đồng bằng ven biển, bên cạnh việc bố trí lao động thực hiện chương trình phát triển nông, ngư nghiệp; khuyến khích phát triển ngành nghề, xây dựng làng nghề, làng có nghề, chú trọng khai thác lợi thế mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản. Nâng cao hiệu quả dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm để cung ứng lao động của tỉnh cho các đối tác cần tuyển, giảm số lao động các tỉnh khác đến làm việc trên địa bàn.
- Đối với thị trường lao động trong nước: Để góp phần giải quyết việc làm trên địa bàn, vấn đề khai thác thị trường lao động trong nước cần được quan tâm hơn; các trung tâm dịch vụ việc làm, bên cạnh việc mở rộng quan hệ khai thác, ký kết hợp đồng, phải nắm chặt chẽ yêu cầu chất lượng của phía đối tác để có kế hoạch đào tạo dạy nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn đảm bảo yêu cầu của cung. Muốn vậy, phải có quy định cụ thể về phí dịch vụ giới thiệu việc làm trong nước để tạo điều kiện cho các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn có đủ kinh phí khai thác hợp đồng. Mặt khác, khuyến khích và có chính sách hổ trợ để các tổ chức kinh tế, các cá nhân ký kết các hợp đồng kinh tế, nhận thầu các công trình... để tổ chức đưa lao động của tỉnh đến các tỉnh làm việc.
- Đối với thị trường ngoài nước: Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiệm vụ xuất khẩu lao động, các trung tâm dịch vụ việc làm, các tổ chức kinh tế-xã hội trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với chính quyền xã, phường, các cơ sở dạy nghề để chuẩn bị nguồn lao động; mở rộng liên doanh liên kết, quan hệ tốt với các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu lao động để khai thác, ký kết hợp đồng cung ứng lao động với nước ngoài. Cũng cố về tổ chức và hoạt động của công ty cung ứng lao động. Tổ chức đào tạo nghè, dạy tiếng nước ngoài, chuẩn bị tốt nguồn lao động phù hợp với thị trường lao động các nước. Nắm vững thông tin thị trường lao động, kịp thời xử lý các vấn đề liên quan đến khai thác và ký kết hợp đồng. Thực hiện chế độ tín dụng cho vay xuất khẩu lao động theo hướng người lao động và gia đình có người đi xuất khẩu lao động vay, trung tâm dịch vụ việc làm và chính quyền xã, phường bảo lãnh và trả nợ ngân hàng qua việc khấu trừ và lương hàng tháng chuyển về. Tăng cường quản lý nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền và chính quyền các cấp trong công tác xuất khẩu lao động nhằm đảm bảo trật tự kỷ cương và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi thực hiện có kết quả mục tiêu xuất khẩu lao động.
7- Tổ chức lao động nông nghiệp, nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới, mở rộng quy mô, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng của tổng đội thanh niên xung phong làm kinh tế.
Hiện nay nhiều địa phương còn quỹ đất đai đáng kể có thể sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đặc biệt, các huyện vùng trung du- miền núi phía Tây quỹ đất có khả năng nông, lâm nghiệp còn khá lớn. Đây là một nguồn lực quan trọng cần được khai thác để phát triển kinh tế của các vùng này, đồng thời tạo việc làm cho một bộ phận lao động đang dư thừa trong nông nghiệp, nông thôn.
Trong những năm vừa qua, Nghệ An đã thành lập nhiều đội thanh niên xung phong đi xây dựng kinh tế mới. Các đơn vị thanh niên xung phong được tổ chức tốt và được sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt của chính quyền địa phương. Hiện nay ở các huyện miền Tây Nghệ An đã hình thành nhiều làng nghề kinh tế mới thanh niên xung phong. Mỗi đội viên thanh niên xung phong xây dựng gia đình và lập nghiệp trên vùng kinh tế mới.
Tuy nhiên, để việc tổ chức lao động nông nghiệp, nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới, mở rộng quy mô, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng của tổng đội thanh niên làm kinh tế đạt được hiệu quả cao hơn nữa, chúng ta cần phải:
- Phát huy những kết quả đạt được trong tổ chức xây dựng và hiệu quả hoạt động của các tổng đội TNXP xây dựng kinh tế đã có; tiếp tục cũng cố, nâng cao chât lượng và mở rộng quy mô diện tích đất quản lý của các tổng đội.
- Thành lập thêm một số tổng đội TNXP xây dựng kinh tế ở những địa bàn có điều kiện để thu hút ngày càng nhiều thanh niên và gia đình đến lập nghiệp.
- Ưu tiên vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế tiếp tục phát triển và hoạt động có hiệu quả.
8- Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về lao động-việc làm.
- Giải quyết việc làm, tự tạo việc làm để có thu nhập, ổn định cuộc sống trước hết là trách nhiệm của bản thân từng người lao động. Các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng phải tạo việc làm cho người lao động có nhận thức mới về việc làm; loại bỏ dần ý thức “thích làm thầy, không thích làm thợ”, muốn làm việc trong các cơ quan nhà nước, không muốn làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trông chờ, ỷ lại nhà nước...
- Nâng cao nhận thức đối với lãnh đạo các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội và toàn dân trong công tác giải quyết việc làm cho lao động. Giải quyết việc làm là nhiệm vụ có tính bức xúc, gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó có trách nhiệm của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Việc đầu tư phát triển phải gắn liền với mục tiêu giải quyết việc làm tại chỗ.
- Nhà nước tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để mọi người lao động có cơ hội tìm việc làm và tạo việc làm cho mình thông qua cơ chế chính sách, vốn, dạy nghề, phát triển hạ tầng,..
- Mở chuyên mục “ Lao động- việc làm” trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến hướng dẫn chương trình việc làm, các chủ trương, chính sách về lao động- việc làm, các mô hình điển hình về tạo việc làm có hiệu quả để nhân rộng.
9- Giải pháp huy động vốn, sử dụng vốn để tạo việc làm.
- Để thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm đã nêu, trên cơ sở nguồn vốn đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, và số vốn đầu tư cho một chỗ làm việc mới hoặc tăng thời gian lao động tương đương, dự tính nguồn lực giải quyết việc làm từ các nguồn liên quan trực tiếp trong giai đoạn tới.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân người lao động trong các thành phần kinh tế thực hành tiết kiệm, đầu tư phát triển sản xuất- kinh doanh. Nguồn vốn huy động của nhân dân cho chương trình giải quyết việc làm đóng vai trò cực kỳ quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm; các chương trình đầu tư giải quyết việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng của nhà nước là đòn bẩy để nhân dân bỏ thêm vốn. Duy trì và phát triển các phong trào xây dựng quỹ giải quyết việc làm- xoá đói giảm nghèo trong các tổ chức chính trị xã hội như quỹ tiết kiệm vì phụ nữ nghèo, vốn phụ nữ giúp nhau tạo việc làm không lấy lãi, vốn hội viên giúp nhau trong hội nông dân, Hội cựu chiến binh, phong trào thanh niên giúp nhau lập nghiệp...
- Tiếp tục tranh thủ tối đa các nguồn vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước để thúc đẩy thực hiện chương trình giải quyết việc làm.
- Các ngành, các cấp tiến hành rà soát, đánh giá hiệu quả đạt được của các dự án đang triển khai; thu hồi kịp thời vốn của các dự án hết thời hạn để quay vòng cho các dự án mới. Tổng kết rút kinh nghiệm việc triển khai dự án thực hiện các dự án giải quyết việc làm để chuyển hướng đầu tư vào các lĩnh vực: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống,...phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiềm năng của từng vùng.Chấn chỉnh việc cho vay vốn hỗ trợ việc làm theo hướng tập trung có hiệu quả, vững chắc, nâng cao mức vay đầu tư cho một chổ làm việc theo quy định; tránh tình trạng bình quân, dàn trải...
- Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng phục vụ người nghèo, ngân hàng nông nghiệp và các ngân hàng thương mại. Bên cạnh nâng cao doanh số và số hộ vay vốn phát triển sản xuất- kinh doanh, tiến hành thực hiện hình thức cho vay xuất khẩu lao động.
10- Đánh giá hiệu quả các cơ chế chính sách đã ban hành, tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách để đẩy mạnh xã hội hoá về lao động- việc làm.
- Đánh giá lại hiệu quả các cơ chế chính sách liên quan đến lĩnh vực tạo việc làm đã ban hành, trên cơ sở đó tiếp tục bổ sung và hoàn thiện một số chính sách ưu đãi về vốn, giá thuê đất, địa điểm, mức hạn điền, thuế...để thu hút đầu tư và khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở chế biến và dịch vụ, làng nghề, tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế gắn với việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách di, giãn dân...để khai thác tiềm năng và giải quyết việc làm tại chổ. Rà soát lại quỹ đất của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các nông, lâm trường để sử dụng có hiệu quả, số diện tích ngoài quy hoạch giao lại cho nhân dân địa phương sở tại khai thác.
- Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 64/CP, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp để ổn định và thu hút thêm lao động vào làm việc. Tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cơ sở chế biến nông, lâm, hải sản phát triển, nhất là tại các vùng nguyên liệu để làm hạt nhân cho việc giải quyết việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Ban hành chính sách khuyến khích khôi phục và phát triển các nghề truyền thống, du nhập nghề mới, hình thành làng nghề và làng có nghề. Những cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động và làm việc được vay vốn ưu đãi từ quỹ hổ trợ việc làm và xoá đói giảm nghèo hoặc được xét giảm thuế...
- Trên cơ sở quy định của chính phủ, điều tra khảo sát thực tế, sớm ban hành quy định, chi phí dịch vụ giới thiệu, tuyển chọn lao động đối với thị trường lao động trong và ngoài nước để thực hiện thống nhất trên địa bàn, đúng quy định.
Kết luận
Lao động- việc làm là một vấn đề cấp bách và có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế- xã hội của một quốc gia.
Nghệ An là một tỉnh có lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn đông đảo nếu vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn không được đảm bảo, người lao động không được đào tạo, phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý giữa các ngành, các thành phần kinh tế. Để đảm bảo tính hiệu quả cao nhất thì lực lượng lao động đông đảo đó không những không trở thành nguồn lực để phát triển mà còn là gánh nặng, là sự cản trở cho quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Thực tế, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn vừa qua mặc dù đã có những kết quả không nhỏ nhưng nhìn chung sức ép về tình trạng lao động thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn căng thẳng. Cơ cấu phân bổ lao động vẫn chủ yếu tập trung vào nông nghiệp, lao động công nghiệp, dịch vụ tuy có tăng lên nhưng còn ít chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Việc sử dụng quỹ thời gian lao động đang ở tỷ lệ thấp, gây lãng phí lớn. Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An những năm qua đang phụ thuộc lớn vào sự điều tiết của cơ chế thị trường; sự can thiệp của nhà nước tuy đã được quan tâm nhưng chưa đủ mạnh.
Mặc dù vậy, chúng ta tin tưởng rằng với một đội ngũ cán bộ tỉnh được phối hợp tốt với các cấp, các ngành và nhất là dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự nâng cao về khả năng nhân thức, trình độ học vấn của chính người lao động... Trong những năm tới Nghệ An sẽ giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, tạo ra những tiền đề quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội đưa Nghệ An trở thành một trong những tỉnh giàu mạnh trong cả nước.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XV - Tỉnh uỷ Nghệ An.
3. Bộ luật Lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà xuất bản Chính trị – 1994.
4. Giáo trình Kinh tế nông nghiệp - Nhà xuất bản Thống kê - 2002.
5. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp – Nhà xuất bản Thống kê - 2001.
6. Giáo trình Kinh tế phát triển nông thôn - Nhà xuất bản Thống kê - 2002.
7. Giáo trình Dân số và phát triển – Nhà xuất bản Thống kê - 1997.
8. Giáo trình tổ chức lao động khoa học trong xí nghiệp – Nhà xuất bản Giáo dục – 1994.
9. Thực trạng lao động và việc làm Việt Nam năm 1997,1998, 1999, 2000, 2001, 2002 – Bộ lao động – Thương binh và xã hội và Tổng cục thống kê.
10. Niên Giám thống kê tỉnh Nghệ An.
11. Kinh nghiệm sử dụng nguồn lao động trong nông thôn Trung Quốc, Đài Loan, ASEAN, Nguyễn Xuân Khoát - Tạp chí nghiên cứu Kinh tế (1/1997).
12. Đề án giải quyết việc làm giai đoạn 2003 – 2005 và dự báo đến năm 2010 Tỉnh Nghệ An – Sở Lao động thương binh và xã hội Nghệ An.
13. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An thời kỳ 1996 – 2010.
14. Một số tạp chí: Kinh tế và phát triển, Lao động – Xã hội, Nghiên cứu kinh tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quản lý nhà nước về kinh tế…
Và một số tài liệu khác.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37123.doc