Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng & khai thác sử dụng các Khu công nghiệp tại Hà Nội

Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hà nội là trung tâm kinh tế văn hoá, chính trị và xã hội của cả nước. Để đẩy mạnh sự nghiệp “ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ” theo tinh thần của Nghị Quyết TW8 , Hà nội cần thực hiện một sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc tế trên các lĩnh vực. Trong đó vấn đề đầu tư vào các khu công nghiệp ( KCN) giữ một vai trò quan trọng, đó là một trong những điêù kiện thuận lợi nhằm thu hút các

doc116 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng & khai thác sử dụng các Khu công nghiệp tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Hà nội. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy việc khai thác thành công loại hình KCN sẽ là những nhịp cầu nối nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính vì vậy việc làm thế nào để có thể xây dựng và khai thác sử dụng một cách có hiệu quả các KCN tại Hà nội đang là điều trăn trở của các nhà quản lý kinh tế vĩ mô. Thành công trong lĩnh vực này sẽ nhanh chóng đưa Hà nôi không chỉ là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước mà còn mở cửa , bước ra hoà nhập một cách bình đẳng với các thành phố khác trong khu vực và trên toàn thế giới. Hiện nay Hà nội có 05 khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích lên tới 765 ha hứa hẹn một khu vực sản xuất rộng lớn, có chất lượng cao. Thế nhưug các dự án đầu tư sản xuất tại KCN tại Hà nội vẫn chỉ là những con số rất khiêm tốn, các doanh nghiệp trong và ngoài nước vẫn còn do dự trong quá trình thăm dò tình hình trước khi đầu tư vào đây. Chính vì vậy qua khảo sát và tìm hiểu tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà nội”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là dùng những lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề : "Làm thế nào để đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà Nội?" 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài . Dùng những phương pháp lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề : " Làm thế nào đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà nội . " 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng : Nghiên cứu ở các khu công nghiệp. - Phạm vi : Nghiên cứu tại khu vực Hà Nội. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc giải quyết các vấn đề của đề tài, trong đó chủ yếu dựa vào phương pháp điều tra xã hội học. 5. Những đóng góp khoa học của luận án - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về khu công nghiệp - Khái quát những kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của các nước trong khu vực và trên thế giới, qua đó rút ra bài học cho Việt Nam. - Đánh giá thực trạng của các khu công nghiệp tại Hà Nội mặt mạnh cũng như mặt yếu. - Đề xuất ý kiến của mình về quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xaay dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà Nội. 6. Kết cấu của luận án . Phần mở đầu Chương I : Một số lý luận về khu công nghiệp . Chương II : Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các khu công nghiệp tại Hà nội trong thời gian qua . Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghịêp tại Hà nội . Kết luận Tài liệu tham khảo Chương I Những lý luận cơ bản về Khu Công Nghiệp Khái quát chung về khu công nghiệp ( KCN ) Khái niệm về KCN ( Industrial Zone ) Hình thức đầu tư vào KCN còn gọi là KCN tập trung mới xuất hiện ở Việt nam sau khi chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo hình thức khu chế xuất . Khu công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ tầng, phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển của một liên hiệp các ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh. ở Việt Nam, theo Điều 2 “Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ”, được Chính Phủ ban hành năm 1997 có quy định: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính Phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất. 1.1.2 Đặc điểm cơ bản của khu công nghiệp. Khu công nghiệp là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Khu công nghiệp có những đặc điểm chính sau đây: Khu công nghiệp có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong khu để thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ tục xin phép và thuế đất (giảm hoặc miễn thuế). Nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ nước ngoài hay các tổ chức, cá nhân trong nước. ở các nước, Chính Phủ thường bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng như san lấp mặt bằng, làm đường giao thông... ở Việt Nam, Nhà nước không có đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp được hiểu là tiến hành kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và trong nước kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng. Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp dành chủ yếu cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và hàng hóa tiêu dùng, các nhà sản xuất trong khu công nghiệp rất quan tâm đến việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao với mục đích thay thế hàng nhập khẩu. Mọi hoạt động kinh tế trong khu công nghiệp trực tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản lý kinh tế trong khu công nghiệp lấy điều tiết của thị trường làm chính. Khu công nghiệp có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là một vương quốc nhỏ trong một vương quốc như khu chế xuất. Các chế độ quản lý hành chính, các quy định liên quan đến ra, vào khu công nghiệp và quan hệ với doanh nghiệp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong khu công nghiệp sẽ là các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các điều kiện bình đẳng. Khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả doanh nghiệp 100% vốn trong nước. Ra đời cùng với loại hình khu chế xuất, khu công nghiệp cũng sớm gặt hái được nhiều thành công ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt là các nước đang phát triển. 1.1.3. Phân biệt giữa khu chế xuất và khu công nghiệp. 1.1.3.1. Khái niệm khu chế xuất ( KCX ) Khu chế xuất là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Anh là “Export Processing Zone”. Xung quanh khái niệm chung này cho đến nay có nhiều quan niệm cụ thể khác nhau với nhiều định nghĩa tương ứng. Thông thường nội hàm của khái niệm này thường thay đổi tùy theo thời gian và không gian cụ thể. Cho đến nay các nhà kinh tế học còn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm khu chế xuất. ở Việt Nam, khu chế xuất thường được hiểu theo nghĩa hẹp, theo đó, “Khu chế xuất là một khu vực công nghiệp tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất là khu khép kín, có ranh giới địa lý được xác định trong quyết định thành lập khu chế xuất, nhưng biệt lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuất bằng một hệ thống tường rào. Khu chế xuất được hưởng một quy chế quản lý riêng quy định tại Quy chế khu chế xuất " Như vậy, về cơ bản khu chế xuất là khu kinh tế tự do. ở đó, các xí nghiệp công nghiệp được tổ chức ra để chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Thông thường, nước chủ nhà đứng ra xây dựng các cơ sở hạ tầng của khu chế xuất, xây dựng công trình sản xuất và phục vụ đời sống ở đây, sau đó kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn, thiết bị, nguyên vật liệu từ nước ngoài vào và thuê nhân công của nước chủ nhà tổ chức thành lập khu chế xuất, tiến hành sản xuất hàng hoá để bán trên thị trường thế giới. Các mặt hàng dưới dạng máy móc, thiết bị, nguyên liệu nhập khẩu vào khu chế xuất và hàng hoá xuất khẩu từ khu chế xuất ra thị trường thế giới đều được miễn thuế. Tuy nhiên, ở một số khu chế xuất, cũng có hoạt động kinh doanh mua bán lại công nghệ, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu trong nội bộ khu chế xuất hoặc giữa các khu chế xuất với nhau và việc bán hàng hoá do khu chế xuất sản xuất ra trên thị trường nước chủ nhà. Chính vì vậy, nó được gọi là khu chế biến xuất khẩu (hay còn gọi là khu chế xuất). Tuy nhiên, còn có một số tên gọi khác như: Khu mậu dịch tự do (Malaysia), đặc khu kinh tế (Trung Quốc), khu chế xuất tự do (Hàn Quốc)... Mặc dù cách gọi tên cụ thể là rất khác nhau, nhưng nhìn chung ở các khu vực này chủ yếu là các hoạt động sản xuất và chế biến còn hoạt động mua bán thì rất ít hoặc không thấy . 1.1.3.2. Phân biệt giữa khu công nghiệp và khu chế xuất Điểm giống nhau Khu công nghiệp và khu chế xuất đều là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính Phủ thành lập. Về cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu chế xuất đều được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện dại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công nghiệp. Về cơ cấu ngành, khu công nghiệp, khu chế xuất đều gồm các ngành truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ hải sản... mà trong nước có lợi thế so sánh và các ngành công nghiệp mới như điện tử, lắp ráp... Điểm khác nhau Khu công nghiệp có phạm vi hoạt động rộng hơn khu chế xuất, nó không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp, khác với khu chế xuất chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đãi từ phía Chính Phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ được hưởng chế độ ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như trong khu công nghiệp. Khu chế xuất là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Khu chế xuất là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ khu chế xuất ra nước ngoài và từ nước ngoài vào khu chế xuất không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh nghiệp khu công nghiệp với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp chế xuất trong khu công nghiệp được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong khu chế xuất). Khu công nghiệp không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung. Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp khu chế xuất được hưởng thuế thu nhập 10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất; nộp 15% và miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ. Còn doanh nghiệp khu công nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm trong 2 năm; 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và trong 2 năm. Đối với nước sở tại, thì khu chế xuất có nhiều mặt lợi hơn so với khu công nghiệp. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây: + Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với nền sản xuất trong nước. + Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của khu chế xuất . + Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu. Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là khó khăn đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các khó khăn trên mà các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm đến hình thức khu công nghiệp, nhằm tận dụng lợi thế về thị trường nội địa. Do đó, việc xây dựng thành công các khu chế xuất thường gặp khó khăn hơn là khu công nghiệp. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình khu công nghiệp là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều khu công nghiệp hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa. Để khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ưu đãi nhiều hơn cho khu chế xuất, làm cho nó có đủ sức hấp dẫn mạnh hơn đối với các nhà đầu tư so với khu công nghiệp. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp và khu chế xuất là không ít khó khăn nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một khu chế xuất hay khu công nghiệp phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút được. 1.1.4. Vai trò của các KCN Với chức năng là những hạt nhân số một, những đòn bẩy của các vành đai công nghiệp, các hành lang hay tam giác tăng trưởng kinh tế của cả nước, khu công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. 1.1.4. 1. Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ Sau chiến tranh thứ hai, nhiều quốc gia đã giành được độc lập dân tộc do không muốn lệ thuộc vào chính quốc, đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế, họ thường vấp phải vấn đề thiếu hụt ngoại tệ nghiêm trọng, khả năng tích luỹ bên trong hầu như chưa có. Kết quả là họ phải chuyển hướng chiến lược từ công nghiệp hoá hướng nội sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Vì thế, một trong những biện pháp hiệu quả đối với các nước này là áp dụng mô hình khu công nghiệp và khu chế xuất để thu hút các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và thu ngoại tệ. Thực tế ở nhiều nước xuất khẩu , hàng sản xuất ra từ các khu công nghiệp chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu của nước đó. Trong giai đoạn đầu hoạt động của các khu công nghiệp , mục tiêu tăng thu ngoại tệ của các khu công nghiệp nhìn chung không đạt được, vì các doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu để nhập khẩu công nghệ, thiết bị tiên tiến. ở đây cái lợi là nhập khẩu nhưng không mất ngoại tệ. 1.1.4.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài Với qui chế quản lý và hệ thống chính sách ưu đãi, các khu công nghiệp sẽ tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh, thuận lợi; có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; từ đó giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp cận vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, học được phong cách quản lý hiện đại. Hơn thế nữa, việc phát triển khu công nghiệp cũng phù hợp với chiến lược của các công ty đa quốc gia (TNCs) trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, tranh thủ thuế quan ưu đãi từ phía nước chủ nhà, khai thác thị trường rộng lớn ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy mà số vốn đầu tư vào các địa bàn này không ngừng tăng lên. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới (WB), các dự án thực hiện trong khu công nghiệp hầu hết do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc do liên doanh với nước ngoài thực hiện (khoảng 43% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài, 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy, khu công nghiệp đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ví dụ, ở Đài Loan và Malaixia trong những năm đầu phát triển, khu công nghiệp đã thu hút khoảng 60% số vốn FDI. Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí, ưu đãi về chính sách và cơ chế, khu công nghiệp, khu chế xuất còn khuyến khích thu hút các nhà đầu tư trong nước - một nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng có ý nghĩa rất quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn còn chưa được khai thác và sử dụng một cách xứng đáng. Khu công nghiệp sẽ tạo môi trường và cơ hội phát huy năng lực về vốn cũng như sản xuất kinh doanh trong cùng một điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện và cơ hội để tiếp thu kinh nghiệm quản lý, trình độ điều hành sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại của người nước ngoài, bồi dưỡng nhân tài, thử các phương án cải cách để tiến dần đến trình độ thế giới. 1.1.4.3. Tạo công ăn việc làm Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình trạng phổ biến ở các nước kém phát triển cũng như các nước đang phát triển là dân số gia tăng hết sức nhanh chóng, song tốc độ tăng trưởng kinh tế lại rất chậm, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư thấp. Tình trạng đó dẫn tới hậu quả tất yếu là thiếu chỗ làm việc, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng, trở thành sức ép lớn đối với chính phủ. Để giải quyết vấn đề này, Chính Phủ các nước muốn tận dụng các khu công nghiệp để giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Điều này có thể làm được vì các chủ đầu tư nước ngoài cũng muốn sử dụng nguồn lao dộng dồi dào và rất rẻ của nước chủ nhà để tăng thêm lợi nhuận. Tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động ở các trình độ khác nhau. Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi. Ngoài một bộ phận được đào tạo, có một tỉ lệ lao động đáng kể là lao động phụ nữ, trẻ, chưa lập gia đình, không có tay nghề và từ vùng nông thôn ra làm việc. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng thế giới, đến nay các khu công nghiệp đã thu hút được 30 triệu lao động so với giữa thập kỷ 80 chỉ là 500.000 lao động, trong đó, châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất nhờ phát triển loại hình này. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về việc làm và thu nhập của công nhân làm việc trong các khu công nghiệp . Đó là họ không được nắm giữ các cương vị chủ cốt như tổng giám đốc và thủ quỹ mà chỉ nắm giữ các cương vị quản lý trung gian, thiết kế chế tạo... Tiền lương của công nhân làm việc cho các khu công nghiệp thường thấp hơn rất nhiều so với tiền lương trả cho công nhân ở các nước phát triển khi cùng làm một công việc tương tự. Trong các khu công nghiệp , nhất là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì hầu như không có tổ chức công đoàn bảo vệ quyền lợi công nhân hoặc nếu có thì hoạt động kém hiệu quả . Song nếu so sánh tiền công giữa công nhân làm việc trong KCN so với công nhân làm việc ngoài KCN thì mức lương của công nhân làm việc trong KCN vẫn cao hơn. Ngoài ra họ còn được hưởng những khoản phụ cấp ngoài lương khác như phụ cấp ăn trưa và có phương tiện đưa đón... Như vậy, về mặt công ăn, việc làm và thu nhập, khu công nghiệp đã mang lại lợi ích rõ rệt cho nước chủ nhà. 1.1.4.4 Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại Sau khi giành được độc lập, hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào tình trạng phổ biến là thiết bị sản xuất cũ, quy trình công nghệ lạc hậu mà những yếu tố này lại đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, họ coi việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là mục tiêu có tính chiến lược. Kinh nghiệm xây dựng kinh tế của nhiều nước cho thấy, việc ứng dụng tiến bộ công nghệ của nước ngoài là một trong những bí quyết phát triển. Sao chép những phương pháp có hiệu quả hơn, đưa chúng vào áp dụng trong nước thường là một giải pháp mang tính truyền thống. Nhưng đối với các nước nghèo thì lại không dễ dàng như vậy. Có thể nước nghèo cũng có nhiều chuyên gia kỹ thuật được trang bị những tri thức công nghệ hiện đại, nhưng chỉ riêng họ thôi thì không thể giải quyết được toàn bộ những vấn đề của một nước nghèo, bởi lẽ có quá nhiều hàng rào ngăn cản. Cần thấy rằng bản thân công nghệ tiên tiến đã được phát triển là để đáp ứng các điều kiện đặc biệt của các nước tiên tiến như lương cao, tư bản dồi dào so với lao động và có nhiều kỹ sư lành nghề, trong khi đó điều kiện này lại không có ở các nước nghèo. Chính vì vậy có một giải pháp khác thay thế giải pháp truyền thống này, đó là việc đẩy mạnh đầu tư vào các KCN. Qua đó, người nước ngoài sẽ đưa vào khu công nghiệp những thiết bị kỹ thuật tiên tiến, qui trình công nghệ hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, cũng từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp của các vùng, các khu vực đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao từng bước chất lượng sản phẩm. Xuất phát từ các trang thiết bị hiện đại, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, các cán bộ quản lý, các công nhân kĩ thuật và viên chức làm việc tại các khu công nghiệp sẽ được đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho thích hợp và trực tiếp tiếp thu tác phong công nghiệp, kinh nghiệm quản lý, phương pháp kiểm tra chất lượng hiện đại,... thích ứng với cơ chế thị trường và đạt hiệu quả cao. Những kết quả này không chỉ mang lại cho khu công nghiệp mà nó còn tác động mạnh đến việc thay đổi công nghệ, trang thiết bị, chất lượng sản phẩm, cơ chế hoạt động, kiến thức và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp bên ngoài, làm cho các doanh nghiệp này cũng đổi mới để đạt hiệu quả kinh tế cao. 1.1.4.5. Tăng cường các mối liên kết và tác động tới bộ phận còn lại của nền kinh tế Một trong những mục đích thiết lập khu công nghiệp là thúc đẩy sự phát triển toàn diện trong vùng, thực hiện marketing trên thị trường trong nước, mở cửa nền kinh tế trong nước cho hệ thống mậu dịch và tài chính quốc tế, phát triển hợp tác kinh tế đối ngoại và trao đổi kỹ thuật, đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá đất nước. Các khu công nghiệp được coi như một bộ phận gắn liền của chính sách mở cửa ra thế giới bên ngoài, tăng cường mối liên kết trao dổi kinh tế và kỹ thuật với thế giới. Hơn nữa, việc phát triển khu công nghiệp còn tạo ra sự tác động trở lại đối với những động thái phát triển của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc các khu kinh tế đặc biệt này sử dụng vật liệu trong nước, hoặc qua việc doanh nghiệp trong nước lắp ráp, chế biến và dịch vụ cho các khu công nghiệp . Người ta cho rằng ảnh hưởng của các KCN đối với phần còn lại của nền kinh tế thông qua hiệu ứng số nhân của Keynes. Thí dụ, ở Philipin, ngoài việc làm trực tiếp đem lại cho công nhân ở khu chế xuất khoản tiền bình quân hàng tháng 10 triệu peso, các KCN còn tạo việc làm gián tiếp cho các địa phương xung quanh. Tiền lương và tiền công trả cho công nhân trong KCN cộng với tiền mua các vật liệu linh kiện và dịch vụ ở địa phương của các doanh nghiệp thuộc KCN theo hiệu ứng số nhân có thể cung cấp việc làm cho hơn 10.000 công nhân bên ngoài. Và nếu như tỷ lệ tiêu dùng là 2/3 thu nhập thì 10 triệu peso thu nhập của công nhân sẽ góp phần làm tăng thu nhập của các khu vực lân cận tới 30 triệu peso. Nhìn chung, ảnh hưởng của khu công nghiệp đối với sự phát triển của nền kinh tế là rõ ràng. Tuy nhiên, ở mỗi nước, ảnh hưởng đó có mức độ khác nhau. Một điều khác cũng đáng lưu ý là dù mục tiêu của Nhà nước chủ nhà như thế nào đi chăng nữa thì cũng phải đáp ứng được ở một mức độ nhất định những yêu cầu và mục tiêu của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia. Bởi vì, có thu hút dược đầu tư của các công ty này thì khu công nghiệp mới hoạt động có hiệu quả, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực xung quanh. Tóm lại, có thể nói, khu công nghiệp là công cụ khá hữu hiệu để một đất nước khởi động sự phát triển các lĩnh vực công nghiệp hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu và sử dụng nhiều lao động trong nước, thu hút vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước đang phát triển. Về lâu dài, các khu công nghiệp tác động gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế qua khâu chuyển giao công nghệ và qua những mối liên kết khu công nghiệp với nội địa. Cho dù còn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lợi ích của các khu công nghiệp song đây vẫn là một giải pháp thích hợp với giai đoạn đầu của quá trình đẩy nhanh sự phát triển của các nước đang phát triển vì nó phù hợp trình độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ chế thị trường, là con đường mở cửa để gia nhập vào nền kinh tế thế giới. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới KCN Cũng như bất kỳ mô hình phát triển kinh tế nào, để thành lập khu công nghiệp đòi hỏi phải thoả mãn những điều kiện nhất định. Đó là những yếu tố quan trọng nhất, những điều kiện cần và những điều kiện đủ để đảm bảo cơ sở cho sự thành công của mỗi khu công nghiệp trong việc thành lập và triển khai hoạt động, nhằm thực hiện đúng vai trò của nó đối với sự phát triển chung của đất nước. Có thể nói, điều kiện thành lập khu công nghiệp chính là sự thoả mãn các yếu tố liên quan đến sự đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi và khả năng sinh lợi cho các nhà đầu tư, đồng thời liên quan đến lợi ích cho địa phương có khu công nghiệp và đảm bảo thực hiện các mục tiêu của nước chủ nhà đề ra khi quyết định thành lập khu công nghiệp bằng sự thành công của chính các dự án này. Cũng tuỳ tính chất của từng khu công nghiệp dự định sẽ thành lập mà đòi hỏi phải đáp ứng các yếu tố khác nhau, nhưng nói chung các khu công nghiệp cần thoả mãn các điều kiện chủ yếu sau: 1.2.1 . Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý Khu công nghiệp phải được xây dựng ở vị trí địa lý thuận lợi, đảm bảo cho giao lưu hàng hoá giữa khu công nghiệp với thị trường quốc tế và các vùng còn lại trong nước. Đây là một trong những điều kiện cần thiết đối với sự thành công của bất kỳ khu công nghiệp nào để đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hoá và nguyên liệu ra vào các khu công nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện nhất nhằm giảm chi phí lưu thông và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất ra. Các khu công nghiệp cần được xây dựng ở gần các khu vực đô thị, gần các trung tâm văn hoá - xã hội,có hệ thống giao thông thuận lợi ... Ngoài ra, về khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, sông, hồ... cũng cần phải lưu tâm để tránh gây khó khăn cho quá trình xây dựng và hoạt động sau này. 1.2.2. Cơ chế chính sách . Nơi có dự kiến xây dựng khu công nghiệp phải có sự ổn định về chính trị, an ninh và trật tự xã hội để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia kinh doanh và đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài nhiều khi không coi những ưu đãi về kinh tế là quan trọng hàng đầu, mà cái chính là sự ổn định về chính trị, xã hội của nước tiếp nhận đầu tư. Môi trường chính sách đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của việc phát triển khu công nghiệp vì nếu có chính sách ưu đãi thì các nhà đầu tư sẽ giảm được chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận kinh doanh gây nên sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư . Do dó chính sách đầu tư có mối liên hệ chặt chẽ với việc thu hút đầu tư vào khu công nghiệp . Các chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế công ty, thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức; không hạn chế việc chuyển vốn và lợi nhuận của các nhà đầu tư ra nước ngoài; xác định rõ quyền sử dụng đất của các nhà đầu tư,... sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Đồng thời, phải có quy chế hoạt động của khu công nghiệp rõ ràng, cụ thể và ổn định. Có như vậy, các nhà đầu tư mới an tâm đầu tư vào khu công nghiệp và nước chủ nhà mới có thể quản lý tốt được hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN . Chính sách kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công của khu công nghiệp . Đó là các chính sách về: đầu tư, thương mại, lao động, ngoại hối và các chính sách khác. 1.2.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của vùng Về các điều kiện kinh tế, các khu công nghiệp phải nằm trong khu vực có chính sách ưu tiên của Nhà nước, đặc biệt là trong các khu vực làm đòn bẩy phát triển kinh tế của cả nước. Những khu vực này có thể được Nhà nước hỗ trợ trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phục vụ chung nhưng có lợi cho cả khu công nghiệp như: nâng cấp sân bay, mở rộng cảng biển, cải tạo và nâng cấp đường bộ, đường sắt,... và được các Bộ, các ngành tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ trong việc xây dựng các công trình cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc,... . Khu công nghiệp là nơi không có dân cư sinh sống. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của các khu đô thị, các thành phố lân cận, nơi cung cấp đủ nguồn lao động về số lượng và chất lượng. Người lao động phải có đủ trình độ cần thiết để tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Đây là yếu tố hỗ trợ rất hiệu quả cho hoạt động của khu công nghiệp . Đối với các nhà đầu tư, vấn đề cũng rất được quan tâm là nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương có đủ cung cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp, địa chất khu vực khu công nghiệp phải đảm bảo khả năng để xây dựng các xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất công nghiệp. 1.2.4. Vấn đề giải phóng mặt bằng và giá thuê đất . Một yếu tố nữa cũng có ảnh hưởng là trong việc giải phóng mặt bằng quy hoạch ngoài việc cần giải phóng nhanh mặt bằng mà cần phải lưu ý đến khả năng đền bù không quá cao để tránh việc đẩy giá đất lên cao làm kém đi tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư . Giá thuê đất phải được cân đối với khung giá đất ở các địa phương lân cận và của khu vực sao cho thật sự hợp lý , có sức cạnh tranh cao . 1.2.5. Tổ chức quản lý, điều hành các KCN Mỗi KCN đều có 1 Ban quản lý riêng của từng KCN Mỗi tỉnh thành có 1 Ban quản lý KCN thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý các KCN nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố Các Ban quản lý KCN của các tỉnh, thành phố trực thuộc sự quản lý của UBND tỉnh, thành phố. Việc ban quản lý KCN hoạt động tốt, có hiệu quả , thủ tục hành chính gọn nhẹ, tạo điều kiện tốt cho các nhà đầu tư cũng có ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư vào các KCN . Trên đây tôi đã chỉ ra một số các nhân tố ảnh hưởng và điều kiện cần thiết để xây dựng được khu công nghiệp theo yêu cầu và đạt tới thành công. 1.3 . Các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác sử dụng 1.3.1. Tỷ lệ diện tích được điền đầy (TLĐĐ) Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả khai thác về việc sử dụng mặt bằng các KCN Diện tích đã cho thuê % Điền đầy = x 100 % Tổng diện tích KCN Chỉ tiêu này được đưa ra nhằm xác định tính hiệu quả của việc khai thác và sử dụng đất có ích trên tổng ._.diện tích đất được cấp phép theo dự án của KCN .Đồng thời qua đố có thể so sánh được thành công trong việc khai thác sử dụng diện tích đất giữa các KCN với nhau . Số dự án đầu tư Chỉ tiêu này nhằm xác định số dự án được đầu tư vào từng KCN và khả năng thu hút các nhà đầu tư đồng thời nó còn dùng để so sánh hiệu quả khai thác giữa các KCN với nhau . 1.3.3. Tổng số vốn đầu tư Chỉ tiêu này dùng để xác định tổng số vốn đẫ được các nhà đầu tư đầu tư cho từng KCN đồng thời qua đó so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư giữa các KCN với nhau . 1.3.4. Tỷ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đât KCN Tổng vống đầu tư (Tr USD ) Tỷ lệ vốn đầu tư ( Tr USD/ ha ) = Tổng diện tích KCN ( ha ) Chỉ tiêu này đựoc dùng để đánh giá , so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích giữa các KCN với nhau để từ đó chúng ta có thể đánh giá được tính hấp dẫn thu hút vốn của các KCN một cách chính xác hơn . 1.3.5. Số lao động Chỉ tiêu dùng để đánh giá khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm giữa các KCN về số lượng lao động đang làm việc tại KCN . Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy được lợi ích của việc xây dựng các khu công nghiệp trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp và lao động dôi dư ở các địa phương có KCN . 1.3.6. Tỷ lệ % đóng góp GDP Tổng giá trị sản lượng của KCN % GDP = x 100% GDP Chỉ tiêu này đánh giá khả năng và năng lực đóng góp của KCN vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP . Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng của khu công nghiệp đối với việc tăng trưởng GDP và tăng trưởng kinh tế để từ đó có cách nhìn nhận đúng trong việc cần thiết phải đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN. 1.4. Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng các KCN của một số nước và bài học rút ra 1.4.1.Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng KCN, KCX của một số nước ASEAN 1.4.1.1. Kinh nghiệm của Malaysia Malaysia là một quốc gia thuộc ASEAN đã bắt đầu xây dựng KCN từ năm 1970 . Malaysia là một trong những nước xây dựng KCN , KCX thành công nhất trên thế giới . Nhiều công ty siêu quốc gia có tầm cỡ trên thế giới của Mỹ , Nhật, Tây âu, Đài Loan, Singapore đã đặt cơ sở tại Malaysia. Các KCN, KCX của Malaysia đã là hạt nhân cho việc xây dựng và phát triển nhanh chóng ngành công nghiệp non trẻ của Malaysia. Một minh chứng quan trọng chứng minh sự thành công của Malaysia là năm 1990 Malaysia đã trúng thầu làm tư vấn cho dự án xây dựng KCN , KCX ở Kenya do ngân hàng thế giới tài trợ. KCN của Malaysia về hình thức rất linh hoạt, đa dạng chứ không dập khuôn máy móc. ở Malaysia việc quản lý toàn diện hoạt động các xí nghiệp trong KCN , KCX không có một cơ quan chính nào của Chính phủ trung ương đảm nhiệm mà giao cho chính quyền cấp Bang quản lý. Ngoài các chế độ được miễn thuế, giảm thuế, được ưu đãI các điều kiện thuận lợi trong KCN , KCX các doanh nghiệp của KCN, KCX còn được hưởng các chính sách ưu đãi đối với các xí nghiệp nằm ngoàI KCN, KCX như trong luật “ khuyến khích đầu tư ”. Ngoài ra tuỳ điều kiện , thẩm quyền của mình các Bang có thể có thêm ưu đãi nhằm thu hút đầu tư , chính điều này cộng với sự quản lý sát sao của các cấp có thẩm quyền đã tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các Bang trong việc thu hút đầu tư Kinh nghiệm chính của Malaysia là đã có mô hình KCN, KCX rất linh hoạt không dập khuôn máy móc. Quy mô có thể lớn, nhỏ tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể ( có thể là một khu rất rộng nhưng cũng có thể chỉ thu hẹp trong phạm vi một nhà máy). 1.4.1.2. Kinh nghiệm của Thái lan Thái Lan cũng là một quốc gia thuộc ASEAN đã xây dựng thành công mô hình KCN , tính đến nay tai Thái lan có khỏng 40 KCN hoạt động dưới sự quản lý của Cục quản lý các KCN và chịu sự điều chỉnh của Luật KCN. So với các nước khác Thái lan có đIểm khác là phân chia việc xây dựng các KCN làm 3 vùng: Vùng 1 : 6 tỉnh bao quanh Bangkok gồm 6 KCN . Vùng 2 : 10 tỉnh xung quanh vùng 1 , gồm 12 KCN . Vùng 3 : 60 tỉnh còn lại của Thái lan, gồm 11 KCN. Điểm khác nữa là diện tích các KCN có thể mở rộng hơn so với diện tích được duyệt khi thành lập KCN. Trường hợp đất trong KCN đã bán hết doanh nghiệp muốn mở rộng mặt bằng sản xuất thì họ có thể thoả thuận với người có đất ngoài hàng rào KCN nằm kề lô đất của họ để mua ( phải được phép và tuân thủ các quy định của Cục quản lý các KCN ). Điều này tạo thuận lợi cho nhà đầu tư muốn được đầu tư để mở rộng sản xuất ngay tại nơi họ đang có nhà xưởng. Để khuyến khích đầu tư vào các vùng sâu, khó khăn xa Băngkok , nhằm cân bằng sự phát triển trong cả nước Thái lan cũng có những chính sách ưu đãi cụ thể cho 3 vùng như phân chia ở trên cụ thể: Biểu 1 : Một số ưu đãi của các KCN ở Thái lan Vùng 1 Vùng 2 Vùng 3 Thuế thu nhập công ty Miễn trong 3 năm Miễn trong 7 năm Miễn trong 8 năm và được giảm 50% trong 5 năm tiếp theo Thuế nhập khẩu thiết bị máy móc Được giảm 50% Được giảm 50% Được miễn hoàn toàn Thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất ( trường hợp cả 3 vùng xuất khẩu ít nhất 30%) Được miễn trong 1 năm Được miễn trong 1 năm Được miễn trong 5 năm Nguồn: Thông tin KCN Việt nam số 6 tháng 3/1998 Một trong 5 mục tiêu xây dựng KCN Thái lan là đảm bảo môi trường trong sạch, thông qua Luật KCN và các quy chế bắt buộc để bảo vệ môi trường. Thái lan đưa ra nguyên tắc công bằng , người gây ra ô nhiễm môi trường phải đền bù thiệt hại. Do vậy khi thành lập KCN phảI có dự án thiết kế, xây dựng hệ thống sử lý nước thải và được cơ quan có thẩm quyền về môi trường xem xét, phê duyệt. Mọi chất thải phải sử lý và giải phóng triệt để, nhà đầu tư phải chi phí xử lý chất thải. Việc sử lý nước thải qua một hệ thống liên hoàn và tiết kiệm nguồn nước. Nước thải qua sử lý dùng làm lạnh nhà máy điện và tưới cây trong KCN. Các nhà máy có thải ra khí độc được sử lý bằng thiết bị lọc riêng và không thải vào không khí. Chất thải rắn có tính độc hại được chứa trong các thùng chuyên dụng và chuyển đến kho chứa. Kho chứa được xây dựng theo tiêu chuẩn của cơ quan quản lý môi trường. Chính nhờ những sự cố gắng như vậy các KCN Thái lan là KCN xanh , sạch , đẹp. Về dịch vụ một cửa: Mọi khách hàng muốn đầu tư vào KCN chỉ cần đến Cục quản lý các KCN là có đủ thông tin cần thiết. Họ sẽ được giới thiệu mạng lưới KCN, nghành nghề khuyến khích đầu tư , vị trí các KCN, các ưu đãi , các thủ tục giấy tờ cần thực hiện. Sau một ngày họ được hướng dẫn chu đáo và làm xong mọi thủ tục và một tuần sau họ được nhận giấy phép và có thể bắt tay vào xây dựng nhà xưởng. Trong trường hợp ở xa , nhà đầu tư chưa đến được Thái lan, họ thông qua mạng internet tìm hiểu KCN mình quan tâm, lô đất mình lựa chọn. Sau đó Fax cho Cục quản lý các KCN, khi được Cục quản lý các KCN chấp thuận họ sẽ đến Băngkok và ký hợp đồng. Thực tế ở Thái lan để đi đến được Luật KCN trong đó quy định chế độ một cửa phải mất 07 năm. Đến nay mặc dù có quy định chế độ dịch vụ một cửa nhưng Cục quản lý các KCN luôn đặt ra nhiệm vụ tự hoàn thiện để giải quyết nhanh yêu cầu của khách hàng. Bởi vì cho dù một cửa nhưng nhà đầu tư phải chờ đợi lâu cũng coi như nhiều cửa. Từ đó Cục quản lý các KCN tự khẳng định vị trí , vai trò của mình trong việc thu hút các nhà đầu tư và hoàn thành nhiệm vụ phát triển công nghiệp cân bằng trong cả nước của Thái lan. Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng các KCN ở Đài loan Nói đến sự thành công trong việc phát triển KCN ta không thể không nhắc tới Đài Loan. Có thể nói Đài Loan là một trong những nước đi tiên phong và thành công trong việc phát triển KCN. Từ cuối thập kỷ 50 , các nhà hoạch định chính sách kinh tế ở Đài Loan đã nhận thức được vị thế của mình trong hệ thống kinh tế thế giới và khu vực. Dựa trên những đIều kiện tự nhiên và xã hội của mình để tồn tại và phát triển thì việc hình thành một “ cơ cấu kinh tế hướng ngoại “ mang ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế Đài Loan. Đài Loan đã lựa chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển công nghiệp và tiến hành công nghiệp hoá. Xuất phát từ tình hình trong nước và thế giới lúc bấy giờ Đài Loan chủ trương phát triển mạnh các ngành công nghiệp nhẹ , sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp mới được xây dựng có quy mô vừa và nhỏ là phổ biến và được xây dựng tập trung ở các khu vực nhất định ( KCN, KCX ) theo quy định của chính quyền. Các xí nghiệp ở trong các khu vực này có nhiều thuận lợi: điều kiện hạ tầng kỹ thuật ( đIện, nước, thông tin liên lạc…) hoàn hảo , được hưởng một số ưu đãi về tài chính như được miễn, giảm thuế trong một số năm, được hưởng thuế suất thấp một số trường hợp được vay vốn ưu đãi. Chủ trương xây dựng KCN rất đúng đắn, ở đây mỗi KCN đã trở thành một trung tâm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong vùng. Một tỉnh có thể có một vài KCN, thậm chí huyện cũng có thể có KCN. Điều quan trọng là phải làm tốt công tác quy hoạch phát triển KCN nói chung và quy hoạch hình thành các KCN trên phạm vi cả nước. Trong công tác quy hoạch phát triển các KCN, Chính phủ chỉ nên công bố kế hoạch, định hướng phát triển còn các nhà đầu tư ( thuộc mọi thành phần kinh tế ) theo định hướng này sẽ tiến hành xây dựng, phát triển các KCN cho phù hợp. Để làm được đIều này thì việc tạo ra một mặt bằng pháp luật với đầy đủ các yếu tố pháp lý một cách đồng bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Từ thực tế xây dựng KCN Tân Trúc Đài Loan: được khôi phục từ năm 1980 với diện tích 2.100 ha đến năm 1995 KCN Tân Trúc có 180 công ty với 42.257 người làm việc trong đó 31.5% có bằng Đại Học trở lên; 521 người có bằng tiến sĩ. Chính quyền ở đây rất quan tâm đãi ngộ người Hoa trở về Đài Loan tham gia phát triển công nghệ. GDP bình quân đầu người trong khu là 258.890 USD gấp 18 lần GDP bình quân đầu người của cả nước ( theo số liệu thống kê Đài Loan1996 ). Từ đây ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: Sự thành công trong đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu phát triển; hai trường Đại Học Thanh Hoa và Giao Thông mỗi năm đào tạo 6000 nghìn lượt người trong khu với nhiều hình thức. Xây dựng cả văn bản pháp lý, trong đó đáng chú ý là tiêu chuẩn cho phép một công ty vào khu. Công ty nào vào khu phải theo lĩnh vực công nghệ định hướng: Đầu tư cho nghiên cứu triển khai hàng năm không dưới 5% doanh thu, riêng công ty nước ngoài trong 3 năm phải nội địa hoá 50% nhân viên kỹ thuật. Cái chưa làm được là chưa tạo được sự hài hoà về môi trường xã hội giữa KCN với bên ngoài nên đã tạo ra tâm lý không thật thoải mái cho những nhà khoa học và gia đình sống trong khu Tân Trúc. Để sửa chữa sai lầm này người ta đang có dự định hình thành ở đây một thành phố khoa học – công nghệ cao. Đây chính là điểm mà ta cần lưu ý khi xây dựng các KCN. Về việc thu hút đầu tư vào KCN Đài Loan dựa vào phương châm: Nhân dân có việc làm, thu nhập thoả đáng Chính phủ thu được nhiều thuế và nhà đầu tư nước ngoàI có lãi. Điều đáng quan tâm ở đây là Đài Loan cố gắng giữ ổn định về pháp luật đầu tư, trung bình khoảng 07 năm mới có sửa đổi, bổ sung luật, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh sớm cũng chỉ dừng lại ở những chi tiết mang tính kỹ thuật. Cùng với các biện pháp khuyến khích đầu tư được quy định bằng pháp luật là việc khuyến khích đầu tư vào các KCN bằng đảm bảo cung cấp đủ điện và chất lượng cao cho các nhà máy hoạt động trong các KCN. Để có đủ điện cho các nhu cầu này, Đài Loan cho phép các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong nước đầu tư xây dựng nhà máy điện song song với hệ thống nhà máy điện quốc doanh. Đây thực sự là một biện pháp để nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế Đài Loan so với nền kinh tế các nước khác. Về quan niệm một cửa trong việc giải quyết các thủ tục hành chính được quy định rất rõ : Người có nhu cầu giải quyết công việc chỉ cần đến một nơi, ở đó sẽ được thông báo công khai tiến trình và thời hạn xử lý công việc. Nơi nhận hồ sơ sẽ chịu trách nhiệm đôn đốc, xử lý công việc ở các khâu và theo đúng hẹn trả kết qủa cho người có nhu cầu. 1.4.3. Những bài học kinh nghiệm. Qua việc tìm hiểu tình hình , hoạt động và phát triển của KCN ở một số quốc gia trên ta có thể rút ra những kinh nghiệm thành công cũng như tồn tại cần khắc phục từ đó tìm ra con đường đúng đắn nhằm phát triển loại hình đầu tư này tại Việt nam. * Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công của KCN là: Tiền lương của người lao động có thể thấp nhưng điều kiện làm việc của họ thuận lợi hơn nhiều so với các cơ sở bên ngoài KCN . Tình hình chính trị xã hội của nước sở tại ,đặc biệt ở những khu vực gần kề KCN phải ở trạng thái ổn định . Chế độ thuế đặc biệt ưu đãi và thủ tục đơn giản Địa điểm xây dựng thuận lợi Phương tiện liên lạc thuận lợi, giá rẻ Nguồn điện cung cấp đầy đủ ổn định Nguồn nước công nghiệp theo tiêu chuẩn được cung cấp đầy đủ Các ngành công nghiệp được hỗ trợ đầy đủ ( nguyên vật liệu, thiết bị , phụ tùng ) Các quy định về thủ tục đơn giản và dễ hiểu Các tiện nghi thuận lợi ( ăn, ở , giải trí, giáo dục , y tế…) * Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của KCN là: Mất ổn định về chính trị trong nước Năng lực sản xuất của các KCN không phù hợp, công suất sử dụng thấp, thường chỉ đạt 50% dự kiến ban đầu Cơ sở hạ tầng của KCN yếu kém Chính sách khuyến kích đầu tư vào KCN kém hấp dẫn Tệ quan liêu tham nhũng và quá nhiều luật lệ địa phương Sai lầm trong lựa chọn địa đIểm xây dựng Thiếu lao động có tay nghề Tệ nạn buôn lậu giữa KCN và nội địa Hoạt động Marketing quốc tế kém Tổ chức quản lý KCN kém hiệu quả. Ngoài ra Mô hình KCN cần đa dạng linh hoạt không thể dập khuôn, máy móc được. Quy mô các KCN đến mức nào tuỳ thuộc vào đIều kiện cụ thể của từng dự án Cần đánh giá đúng mục tiêu xây dựng KCN mà từ đó đặt ra thứ tự ưu tiên đúng cho từng giai đoạn vì không thể cùng một lúc đạt được tất cả các mục tiêu. Đôi khi phải tạm ngừng lợi ích trước mắt để có thể đạt được mục tiêu lâu dài. Để thu hút vào đầu tư trong tình hình các nước đang cạnh tranh gay gắt, hiện nay ngoài lao động giá rẻ, thủ tục đầu tư là yếu tố hấp dẫn hàng đầu mang tính quyết định nếu khắc phục được tốt những vướng mắc của các nước đi trước Việt nam sẽ là một môi trường đầu tư thuận lợi với một nền kinh tế ổn định hàng đầu trong khu vực Chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư như : Thuế, giá thuê đất, thời hạn… Về luật : Số lượng các văn bản về luật không nhiều nhưng các quy định rõ ràng cụ thể, thẩm quyền rõ ràng giữa các cơ quan tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khi có sự cố. Thủ tục giấy tờ đơn giản, nhanh chóng. Hệ thống quản lý đơn giản. Trung ương ra luật, quản lý vĩ mô để đảm bảo tính tập trung, thống nhất, địa phương được phân cấp quản lý cụ thể trực tiếp Tư nhân được phép đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở KCN Phải làm sao đạt được mục tiêu là mỗi KCN là một trung tâm có tác dụng thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế – xã hội trong vùng theo chiều hướng của một nền kinh tế mở Trong công tác quy hoạch , phát triển các KCN , Chính phủ chỉ nên công bố kế hoạch, định hướng phát triển, còn các nhà đầu tư trên cơ sở định hướng này sẽ tiến hành xây dựng phát triển các KCN phù hợp với quy định của pháp luật. Điều rất quan trọng ở đây là việc tạo ra một mặt bằng pháp luật với đầy đủ các yếu tố pháp lý một cách đồng bộ Yếu tố môi trường phải được thường xuyên kiểm tra đánh giá. Cần phải nhận thức được rõ ràng là theo xu hướng tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư ngày một chiếm ưu thế do vậy KCN thuần tuý sẽ không còn giữ được vị trí vai trò như trước nữa. Để thích nghi với tình hình mới cần có định hướng chuyển đây thành KCN có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao là nơi trung chuyển , chế biến sản phẩm cao cấp không chỉ cho xuất khẩu mà còn cho cả thị trường nội địa. Về thủ tục chế độ một cửa cần phải được quy định rất rõ: Người có nhu cầu giải quyết công việc chỉ cần đến một nơi, ở đó sẽ được thông báo công khai tiến trình và thời hạn sử lý công việc. Nơi nhận hồ sơ sẽ chịu trách nhiệm đôn đốc xử lý công việc ở các khâu sao cho đúng hẹn trả được kết quả cho người yêu cầu.Thủ tục này ở các nước trong khu vực làm rất tốt vì vậy muốn thu hút được nhiều hơn ta chí ít cũng không thể thua kém họ . 1.5. Khái quát tình hình phát triển các KCN ở Việt nam 1.5.1. Số lượng các khu công nghiệp và khu chế xuất đã hình thành Đến nay, sau gần 10 năm phát triển, bước đầu Việt Nam đã hình thành được một mạng lưới khu công nghiệp và khu chế xuất trong phạm vi cả nước. Chính mạng lưới này đã đóng vai trò là cơ sở cho việc hình thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp với mục tiêu và nội dung của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tính đến đầu năm 2000, trên địa bàn cả nước đã có 67 dự án khu công nghiệp, khu chế xuất hình thành, phát triển hoặc được Chính Phủ cấp giấy phép thành lập đang trong quá trình triển khai giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng (chưa kể khu công nghiệp Dung Quất có diện tích 14.000 ha). Trong số đó, có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế xuất, 1 khu công nghệ cao với tổng diện tích lên tới trên 10.000 ha, bình quân mỗi khu có diện tích 160 ha. Các khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành tại 27 tỉnh và thành phố trong cả nước, trong đó miền bắc có 14 khu công nghiệp và khu chế xuất, miền trung có 13 và miền nam có 40. Các khu công nghiệp, khu chế xuất này tập trung nhiều ở vùng tứ giác kinh tế trọng điểm phía nam: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương . Bảng 2 : Số lượng các KCN - KCX đã hình thành 1991 - 2000 Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Số lượng 1 2 1 4 5 15 21 15 2 1 Nguồn: Ban quản lý các khu công nghiệp - khu chế xuất. Trong các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được cấp giấy phép, có thể phân thành các loại sau: Một là, : 20 khu công nghiệp (kể cả 3 khu chế xuất) hiện đại, được xây dựng mới hoàn toàn trên tổng số các khu công nghiệp do các Công ty nước ngoài đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Hai là, 16 khu công nghiệp được xây dựng trên khuôn viên đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp theo đúng quy hoạch mới, đồng thời tạo hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt việc phát triển khu công nghiệp, có điều kiện xử lý chất thải với những thiết bị hiện đại. Ngoài ra, các khu công nghiệp được hình thành nhằm đáp ứng yêu cầu việc di dời các nhà máy, xí nghiệp đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do nhu cầu chỉnh trang đô thị và bảo vệ môi trường nên phải di chuyển vào khu công nghiệp. Ba là, 21 khu công nghiệp có quy mô nhỏ gắn liền với nguồn nguyên liệu nông - lâm - thuỷ sản được hình thành ở một số vùng là những nơi có nguồn nguyên liệu, nông sản hàng hoá nhưng khu công nghiệp chế biến chưa phát triển. 1.5.2. Thực trạng xây dựng và phát triển hạ tầng khu công nghiệp và khu chế xuất Hình thức đầu tư xây dựng hạ tầng Đồng thời với sự ra đời của các khu công nghiệp, các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp - một loại hình kinh tế mới cũng ra đời với mục đích thực hiện việc xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có chất lượng cao, theo tiêu chuẩn quy định nhằm phục vụ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp trong suốt quá trình hoạt động. Hiện nay, tương ứng với 67 khu công nghiệp, cả nước đã có 67 công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp được thành lập (trừ khu công nghiệp Dung Quất). Có 3 hình thức đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp: đầu tư của các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp trong nước liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong giai đoạn đầu, đầu tư trong nước chỉ chiếm gần 50%, song đến nay đã tăng lên 60% trong tổng số 2 tỷ USD vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tương đương 1,2 tỷ USD. Hiện có 54 khu công nghiệp với vốn đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng là của các doanh nghiệp trong nước. Trong số 13 khu công nghiệp còn lại thì có đến 12 khu do các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp , phía Việt Nam phần lớn góp vốn bằng quyền sử dụng đất, phía nước ngoài góp vốn xây dựng. Về quy mô, bình quân mỗi khu công nghiệp ở nước ta có diện tích 163,3 ha, với vốn đầu tư xây dựng hạ tầng ước tính là 31,7 triệu USD. Các khu công nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng có quy mô bình quân 127 ha, ít hơn diện tích bình quân của khu công nghiệp do doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng (177 ha), nhưng lại được đầu tư với số vốn lớn hơn, 63 triệu USD so với 22,7 triệu USD. Hiện nay, mới chỉ có duy nhất 1 khu công nghiệp có cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng bằng 100% vốn nước ngoài, đó là khu công nghiệp Đài Tư (Hà Nội) do Đài Loan làm chủ đầu tư. Tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Tổng số vốn đăng ký đầu tư cho cơ sở hạ tầng khu công nghiệp là 2.039 triệu USD. Nhưng trên thực tế, đến nay các khu công nghiệp mới thực hiện được dưới 50%. Trong đó có 41 khu đã có các doanh nghiệp hoạt động, chiếm 2.300 ha, sử dụng 35% tổng diện tích phục vụ cho sản xuất công nghiệp và 20% so với diện tích đất quy hoạch chung (2.000/10.000 ha ). Dự kiến hết năm nay sẽ có 21 khu công nghiệp được lấp đầy trên 50% diện tích hiện có. Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai có 16 khu công nghiệp được lấp đầy trên 50% diện tích, dẫn đầu cả nước. Trong số 22 Ban quản lý khu chế xuất ở các tỉnh được uỷ quyền cấp phép đầu tư chỉ có 10 Ban hoạt động, số còn lại không có việc làm vì không có ai đến thuê. Theo các chuyên gia về khu công nghiệp và khu chế xuất quốc tế thì một khu công nghiệp hay một khu chế xuất được coi là thành công khi cho thuê được khoảng 80% diện tích đất công nghiệp và điều quan trọng hơn là phải thu hút nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có chất lượng cao 1.5.3. Những đóng góp của các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam Sau 9 năm hình thành và phát triển, đến nay các khu công nghiệp đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế Việt Nam. Hoạt động của nó đã và đang đem lại những kết quả đáng khích lệ cả về mặt kinh tế và xã hội. Về việc thu hút vốn đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta đến nay đã thu hút 850 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn 6,5 tỷ USD (chiếm 81% tổng vốn đăng ký kinh doanh) của 24 nước và vùng lãnh thổ, phần lớn thuộc vùng Đông - Bắc á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) và Đông - Nam á (Malaysia, Singapore, Thái Lan). Sáu tháng đầu năm 2000 đã có thêm 68 giấy phép đầu tư nước ngoài đăng ký vào các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng ký 186,3 triệu USD, tăng 97% về tổng số dự án so với cùng kỳ năm ngoái. Do kinh doanh có hiệu quả, đã có 18 dự án mở rộng quy mô sản xuất với tổng số vốn đầu tư gần 80 triệu USD. Ngoài những dự án đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước cũng từng bước khẳng định vị trí. Đến nay, trong tổng số 1.100 doanh nghiệp có tổng số vốn đăng ký 8 tỷ USD đang hoạt động tại các khu công nghiệp thì có trên 600 doanh nghiệp là vốn đầu tư nước ngoài và gần 500 doanh nghiệp trong nước với tổng số vốn 1,5 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng vốn kinh doanh các khu công nghiệp được cấp phép. Về tình hình sản xuất kinh doanh, trong những năm gần đây, tuy số lượng khu công nghiệp tăng chậm, nhưng số vốn của dự án đăng ký và triển khai lại tăng khá nhanh. Nhiều dự án đầu tư đã đi vào hoạt động ổn định, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp với số lượng lớn, chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngành nghề trong các khu công nghiệp cũng rất đa dạng: công nghiệp nhẹ, hoá chất, chế biến thực phẩm, nông sản, thuỷ sản, điện dân dụng, điện tử, tin học. Nhiều hãng công nghiệp nổi tiếng của thế giới đã có mặt tại các khu công nghiệp Việt Nam và sản xuất những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các công ty của Nhật Bản thực hiện các dự án có công nghệ cao và đạt giá trị xuất khẩu lớn như vi điện tử, động cơ điện, người máy, thuốc chữa bệnh, chế biến thực phẩm,... Các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan sản xuất các sản phẩm điện tử, sợi, dệt, may mặc, giày da, chế biến nông sản chất lượng cao,... Kết quả hoạt động của các khu công nghiệp đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất rất quan trọng, trước hết là vốn và khoa học công nghệ để thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Năm 1998, các khu công nghiệp, khu chế xuất đạt giá trị sản xuất 1.871 triệu USD, chiếm 20% giá trị sản xuất công nghiệp, trong đó xuất khẩu chiếm 1,3 tỷ USD, chiếm 14% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, 65% giá trị xuất khẩu khu vực FDI. Năm 1999, tuy hoạt động đầu tư nước ngoài chững lại, nhưng hoạt động của các khu công nghiệp vẫn có những khởi sắc và đem lại hiệu quả thiết thực cho kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất vẫn đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 20% giá trị sản xuất công nghiệp, trong đó đã xuất khẩu 1,5 tỷ USD, chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, tăng 200 triệu USD, góp phần chủ yếu tạo nên sự đột biến về xuất khẩu của khu vực FDI với giá trị 4.594 triệu USD, tăng 42,4% so với năm 1998. Trong 6 tháng đầu năm 2000, các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước đã tạo ra giá trị tổng sản lượng chiếm trên 25% giá trị sản lượng công nghiệp và chiếm 16% giá trị xuất khẩu của cả nước với doanh số đạt 1,5 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ USD (tỷ lệ xuất khẩu đạt 65% so với tổng sản phẩm làm ra), tăng 25% so với cùng kỳ năm trước cả về doanh số và giá trị xuất khẩu . Các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta đã góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng máy móc, thiết bị mới và công nghệ hiện đại vào sản xuất. Như đã nói ở trên, nhiều sản phẩm công nghiệp chất lượng cao của Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, được thị trường thế giới chấp nhận đều được sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đó là các sản phẩm công nghiệp điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, cơ khí chính xác, thiết bị bưu điện, bưu điện, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, may mặc xuất khẩu. Các khu công nghiệp, khu chế xuất là địa bàn thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình tiên tiến cả về kỹ thuật và quản lý. Nếu so sánh trình độ trang bị máy móc, quy trình công nghệ giữa các dự án trong khu công nghiệp, khu chế xuất với các dự án ngoài khu và đặc biệt là so với trình độ chung của các doanh nghiệp trong nước thì tính hiện đại của các khu công nghiệp, khu chế xuất cao hơn nhiều. Đây cũng là điều tất yếu, bởi vì các sản phẩm được sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đều có mục tiêu xuất khẩu là chủ yếu. Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất chính là điều kiện tiền đề tạo ra các yếu tố để liên kết các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng hiện đại hóa cả về kỹ thuật và quản lý. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đã và đang tạo thêm việc làm mới thu hút lao động xã hội vào làm việc lâu dài. Đến đầu năm 2000, trong các khu công nghiệp đã có khoảng 30 vạn lao động Việt Nam làm việc với nhiều ngành nghề khác nhau và tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao. Năm 1999, cả nước đã có thêm 13,7 vạn lao động vào làm việc tại các khu công nghiệp, trong đó Đồng Nai là 17.600 người, còn thành phố Hồ Chí Minh chỉ riêng 2 khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung thu hút thêm 9,3 ngàn lao động. Nếu tính cả lao động làm dịch vụ gián tiếp vào khu công nghiệp (như sản xuất nguyên liệu, vận chuyển, tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm,...) thì con số việc làm mới do các khu công nghiệp tạo ra lên đến hàng triệu người. Không chỉ tăng về số lượng, các khu công nghiệp còn là trường học để người lao động rèn luyện kỹ năng và tác phong lao động công nghiệp. Các khu công nghiệp, khu chế xuất phần lớn được xây dựng tại các vùng nông thôn ven đô thị, nên sức lan toả của nó rất lớn. Cùng với sự ra đời của khu công nghiệp, khu chế xuất là sự xuất hiện của các ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp mới ở nông thôn, thúc đẩy qúa trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Việc xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng cũng như hình thành các đô thị vệ tinh phục vụ các khu công nghiệp đang góp phần thu hẹp khoảng cách về thu nhập và đời sống giữa thành thị với nông thôn, đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và phân công lại lao động xã hội theo hướng tiến bộ, xây dựng nông thôn mới. Thực tế những năm qua cho thấy, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất là hoàn toàn đúng đắn. Vai trò của các khu công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là cần thiết, xét cả hai mặt kinh tế và xã hội. Hiệu qủa kinh tế đang có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây làm vơi đi nỗi lo về cung lớn hơn cầu của hệ thống cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Chương II Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các khu công nghiệp tại hà nội trong thời gian qua 2.1. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của Hà nội. 2.1.1. Vị trí vai trò của Thủ đô Hà Nội. Hà Nội là Trung tâm văn hoá chính trị , khoa học kỹ thuật đồng thời là một trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Thủ đô Hà nội tập trung nhiều cơ quan của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, có nhiều tổ chức Quốc tế, các văn phòng đại diện nước ngoài, nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học, là nơi tập trung trí tuệ của một đội ngũ đông đảo các nhà trí thức , các cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao và giàu kinh nghiệm thuộc nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau ở cả Trung ương và địa phương. Là một trung tâm lớn về kinh tế hiện nay trên địa bàn hà Nội có 61 Tổng công ty, 914 doanh nghiệp Nhà nước (không kể doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an) gần 4000 doanh nghiệp được thành lập theo hai luật Công ty và luật doanh nghiệp tư nhân , có 182 chi nhánh của tỉnh bạn, 324 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và gần 90.000 hộ cá thể sản xuất kinh doanh trong các ngành kinh tế. Với vị trí ấy Hà Nội đã và đang là trung tâm có tác động trực tiếp đối với phát triển kinh tế xã hội của vùng cũng như của cả nước. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội. Hà Nội ngày nay gồm 07 quận nội thành và 05 huyện ngoại thành trên diện tích 927,39km2 trong đó khu vực nội thành: 82,78km2 với gần 2,7 triệu dân chiếm 3,5% dân số cả nước. Đây cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất nước ta khoảng 2900 người/km2. Do tốc độ đô thị hoá cao trong những năm vừa qua nên tỷ lệ tăng trưởng dân số toàn thành phố trong giai đoạn 1992 - 1997 dao động trong khoảng 2,1% - 2,8%/ năm. Tuy nhiên phải nói rằng hiện nay Hà Nội là một trong nh._.ự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng Cho phép các ngân sách nước ngoài mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam Tăng cường hoạt động kiểm soát ngân hàng thông qua một số tổ chức hiệp hội ngân hàng để giảm thiểu những rủi ro không đáng có trong mỗi ngân hàng Thực hiện tốt một số biện pháp nhằm hỗ trợ các ngân hàng trong quá trình cải cách của họ như: Củng cố hệ thống tài chính bằng cách áp dụng những nguyên tắc kế toán và kiểm toán được quốc tế công nhận để nâng cao chất lượng cho vay và giảm tỷ lệ nợ khó đòi trong các ngân hàng. Tăng cường hoạt động kiểm toán để đảm bảo cho vay trên cơ sở năng lực tài chính đích thực . Khuyến khích phát triển các dịch vụ bảo hiểm để tăng nguồn tín dụng cho các Doanh nghiệp . Hạn chế việc hình sự hoá các quan hệ dân sự trong lĩnh vực tín dụng nhằm giảm sự lo ngại trong công việc của các cá nhân viên ngân hàng hiện nay Để giúp các DVN& N vượt qua khó khăn về vốn, Nhà nước cầm xây dựng (từ các nguồn ngân sách ) và khuyến khích các tổ chức trong việc hình thành các quỹ chợ DVN& N (từ các nguồn ngoài ngân sách) . Những quỹ này có thể được sử dụng theo những mục tiêu khác nhau như: cho vay, hỗ trợ về về lãi suất hoặc bảo lãnh ... áp dụng thí điểm và nhân rộng phương thức cho vay quay vòng . Quỹ đầu tư mạo hiểm (vốn mạo hiểm venture capital )có thể được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng Việt Nam đễ hộ trợ những nhà đầu tư có ý tưởng kinh doanh mới khi gặp khó khăn về vốn. Việc hình thành và điều hàng các quỹ này cần được sự hỗ trợ của Nhà nước và một số tổ chức tài chính quốc tế có kinh nghiệm. Thị trường chứng khoán là một nhân tố tích cực giúp cho các Doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn ngoài ngân hàng. Việc hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam trước hết sẽ giải quyết vấn đề vốn cho các Doanh nghiệp lớn, thông qua đó các DNV&N sẽ có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Vấn đề vốn là một vấn đề muôn thủa mà các DNV&N luôn gặp phải nhiều vướng mắc. Để có thể đầu tư phát triển sản xuất và nhất là đầu tư vào các KCN đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ một lượng vốn nhất định , không phải doanh nghiệp nào cũng ngay lập tức có đủ số vốn cần thiết đó. Chính vì vậy các doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ cho vay vốn của các ngân hàng và hệ thống tín dụng . Nếu chúng ta không có những chính sách thoả đáng và thích hợp đối với các hệ thống ngân hàng trong việc vay và cho vay thì vô hình chung chúng ta lại làm khó cho các doanh nghiệp và làm kìm hãm việc đầu tư mở rộng sản xuất .Do vậy để thu hút các DNV&N đầu tư mở rộng sản xuất và đầu tư vào các KCN thì Nhà nước và Thành phố Hà nội cần phải cải cách hệ thống tín dụng , phát triển thị trường vốn nhằm mực đích giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn về vốn . 3.3.5. Cải cách chính sách lao động, hình thành phát triển thị trường lao động Mặc dù công cuộc cải cách kinh tế đã kéo dài hơn 10 năm, song vẫn chưa có một quan điểm nhìn nhận vấn đề lao động một cách thống nhất. Lao động có phải là hàng hoá không ? sử dụng lao động có phải là bóc lột hay không ? Những câu hỏi này vẫn chưa được trả lời một cách nhất quán từ cấp cao nhất. Từ đó nảy sinh tiếp một số vấn đề như trên đã trình bày ở phần trên (Đảng viên làm kinh tế tư nhân ). Một khi Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức tập hợp những người con ưu tú của dân tộc, nhưng đảng viên lại không được làm kinh tế tư nhân thì không thể thực hiện được chính sách tạo việc làm thành công. Mặc khác chủ trương không cho phép đảng viên làm chủ Doanh nghiệp thì các Doanh nghiệp sẽ chỉ đâù tư cầm chừng, không dám thu hút nhiều lao động, không dám đầu tư dài hạn. Như vậy nạn thất nghiệp và những vấn đề khác chắc chắn sẽ nảy sinh , cản trở sự phát triển của dân tộc. Vì thế, Đảng, Nhà nước cần khẳng định sự ủng hộ các Doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích họ đầu tư để tạo thêm việc làm cho xã hội. Thất nghiệp là hệ quả yếu tố ở mỗi quốc gia trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, nhưng thất nghiệp này là thất nghiệp mang tính ngắn hạn. Một chính sách lao động mềm dẻo linh hoạt sẽ hỗ trợ tích cực cho quá trình chuyển đổi cơ cấu, do đó sẽ rút ngắn thời đoạn của thất nghiệp mang tính cơ cấu nói trên . Chính sách lao động hiện nay được thể hiện thông qua Bộluật Lao động còn mang tính cứng nhắc, thiên về bảo vệ quyền lợi người lao động. Về mặt dài hạn, xu hướng này hoàn toàn hợp lý, song trong giai đoạn hiện nay, khi sức ép về việc làm còn quá lớn thì chính sách này sẽ tạo tâm lý lo ngại ở người sử dụng lao động. Điều đó khiến họ tâm nhắc quá kỹ khi tuyển dụng lao động (về cả chất lượng lẫn số lượng) dẫn đến những thiệt hại cho số đông lực lượng lao động. Chính vì vậy trong thời gian trước mắt, cần điều chỉnh bộ luật theo hướng : - Linh hoạt hơn trong việc hình thành các tổ chức công đoàn trong Doanh nghiệp: không bắt buộc đối với quy mô nhỏ - Linh hoạt hơn trong việc tuyển dụng và thải hồi lao động + Được tự do tuyển dụng không nhất thiết phải thông qua tổ chức trung gian + Việc thải hồi lao động thuộc vào hiệu quả kinh doanh, vào thị trường chứ không nhất thiết phải có ý kiến chấp thuận công đoàn - Linh hoạt hơn trong việc ký kết hợp đồng lao động : Nới rộng khung về thời gian, về bồi thường khi thải hồi, về chế độ nghỉ phép ... -Linh hoạt hơn trong việc xác định lương, đặc biệt là lương tối thiểu, của người lao động - Mở rộng diện cho các tổ chức được hoạt động trong lĩnh vực môi giới việc làm - Linh hoạt hơn trong các nghĩa vụ bảo hiểm xã hội Lực lượng lao động ở Việt Nam đông về số lượng nhưng không mạnh về chất lượng. Hiệu quả lao động thấp đã làm giảm ưu thế tiền lương rẻ ở Việt Nam. Tỷ lệ lao động phổ thông trong số những người tìm việc còn quá cao là một vấn đề khó khăn trong qúa trình giải quyết việc làm. Vì vậy, cần gắn những biện pháp đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp với chính sách lao động, Nhà nước cần thành lập và khuyến khích thành lập các trung tâm dạy những nghề theo nhu cầu của thị trường. Đối với các KCN tại Hà nội việc tạo nguồn nhân lực và quản lý lao động đang trở thành vấn đề cấp bách đối với việc phát triển .Chính vì vậy việc cải cách chính sách lao động , hình thành phát triển thị trường lao động là một việc làm cần thiết để tạo ra một đội ngũ lao động "nhiều về số lượng , giầu về chất lượng " có tay nghề đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của các nhà đầu tư làm cân bằng cung , cầu nguồn nhân lực . 3.3.6. Xây dựng chính sách cạnh tranh, kiểm soát độc quyền trong kinh doanh Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, kiểm soát đặc quyền là những công việc cấp bách và cần thiết, không chỉ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân mà còn tạo điều kiện cho các DNV& N và phát huy khả năng của mình . Chính sách cạnh tranh không chỉ bao gồm Luật cạnh tranh mà nó cần được thể hiện ngay trong tư duy trong quá trình xây dựng chính sách ở các lĩnh vực. Để thực hiện mục tiêu này, trong thời gian trước mắt, cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau. 3.3.6.1. Những giải pháp liên quan đến vấn đề tư tưởng Biện pháp quan trọng đầu tiên là phải là thống nhất quan điểm đánh giá vai trò cạnh tranh trong nền kinh tế, xoá bỏ tư tưởng phân biệt đối sử trong quản lý kinh doanh. Vì vấn đề này liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực vì thế cần báo cáo Bộ Chính trị, đề nghị Bộ Chính trị ra kết luận về vấn đề cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Trên cơ sở kết luận trên. Chính phủ sớm ra một Nghị quyết về khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền cho kinh doanh. Nhất quán về nhận thức cạnh tranh tạo cơ sở cho việc nghiên cứu xây dựng chính sách cạnh tranh trong thời gian tới. Xác định rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế cũng như vai trò chủ đạo của DNNN, trên cơ sở đó rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực DNNN độc quyền kinh doanh. Tiến hành tuyên truyền nhận thức đúng đắn về cạnh tranh trên các phương tiện thông tin nhằm thúc đẩy tinh thần cạnh tranh thị trường. 3.3.6.2. Những giải pháp tổ chức thực hiện Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết, cán bộ, ngành, địa phương phải rà soát lại các quy định trong phạmvi quản lý để từng bước xoá bỏ những quy định mang tính phân biệt đối sử. Giao nhiệm vụ nghiên cứu chính sách cạnh tranh nói chung và soạn thảo Luật cạnh tranh nói riêng cho một vài cơ quan để có thể trình Quốc hội thông qua trong quá khoá tới những quan điểm chủ đạo trên. Nới lỏng các điều kiện gia nhập và rút lui khỏi thị trường , khuyến khích các nhà đầu tư , trước hết là thực hiện nghiêm túc Luật Doanh nghiệp và sửa đổi Luật Phá sản Doanh nghiệp. Thúc đẩy quá trình cải cách DNNN, trước hết là thực hiện Nghị định về giao, bán, khoán và cho thuê các DNNN có quy mô dưới 1 tỷ VNĐ và đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN. Đưa ra những quy định cụ thể, chặt chẽ giám sát các Doanh nghiệp khống chế thị trường (đặc biệt là giám sát giá và chất lượng sản phẩm, dịch vụ ). Bồi dưỡng cán bộ về lĩnh vực chính sách cạnh tranh và chuẩn bị xây dựng một cơ quan chuyên trách cho lĩnh vực này . Khuyến khích việc thành lập các hiệp hội người tiêu dùng với những hoạt động chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và phát hiện kịp thời các hành vi phản cạnh tranh trên thị trường . Cải thiện môi trường thông tin pháp luật và kinh tế theo hướng minh bạch và kịp thời hơn đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà Doanh nghiệp Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống quy định nhằm hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh . Việc xây dựng chính sách cạnh tranh, kiểm soát độc quyền trong kinh doanh tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giúp cho các DNV&N đang đầu tư và hoạt động trong các KCN tại Hà nội có điều kiện phát huy hết khả năng sẵn có của mình và đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác . 3.3.7. Đổi mới chính sách thương mại. Hỗ trợ DNV& N trong xuất khẩu 3.3.7.1. Đổi mới chính sách thương mại. Mặc dù đã có những đổi mới mang tính cơ bản trong chính sách thương mại, nhưng vẫn cần tiếp tục cải cách thì mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế trong thời gian tới. Những biện pháp cải cách cần hướng đến một số điểm sau: Tiếp tục thu hẹp chính sách các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu, đặc biệt là những mặt hàng có xuất nhập khẩu có điều kiện . Điều kiện để xuất nhập khẩu những mặt hàng hạn chế xuất nhập khẩu cần được cụ thể, rõ ràng để tránh hiện tượng phân biệt đối sử trong cấp giấy phép , nhất là giữa các DNNN và các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Là một nước có nền kinh tế mà tỷ trọng nông nghiệp còn tương đối lớn, hơn 70% dân số ở nông thôn, chúng ta hoàn toàn không đưa ra những biện pháp trợ giá cho xuất khẩu nông sản giống như một nước công nghiệp phát triển . Xem xét lại chính sách an toàn lương thực tạo cơ sở đề xuất những biện pháp tự do hoá trong xuất khẩu gạo. Sử dụng các biện pháp thuế quan thay thế cơ chế quota (đối với xe máy) và cơ chế " cân đối một số sản phẩm chính" (sắt thép, xi măng,...) Xoá bỏ cơ chế " đầu mối xuất nhập khẩu " đối với một số mặt hàng, tạo điều kiện cho các DNV&N chủ động hơn trong việc tìm đối tác trong xuất nhập khẩu. "Đầu mối xuất nhập khẩu, cung chỉ nên thông qua một Hiệp hội xuất nhập khẩu do các thành viên tham gia hoàn toàn với tư cách tự nguyện . Thực hiện từng bước tiến tới đấu thầu toàn bộ lượng quota xuất nhập khẩu (may mặc, xe máy) 3.3.7.2. Đổi mới quản lý ngoại hối Vấn đề quản lý ngoại hối cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho Doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu. Biện pháp bắt các Doanh nghiệp phải bán một phần lớn ngoại tệ thu được cho ngân hàng Nhà nước nhằm quản lý chặt chẽ ngoại tệ ở Việt Nam đã làm cho nhiều Doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Vì thế trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần đổi mới hình thức quản lý này, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động của Doanh nghiệp Cùng với thặng dư lớn trong cán cân vốn (chủ yếu chỉ có luồng đầu tư vào Việt Nam, hầu như không có đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài ) và chính sách hạn chế nhập khẩu, việc quản lý chặt chẽ ngoại tệ đã làm giảm mạnh mẽ " cầu về ngoại tệ " dẫn đến đồng tiền Việt Nam bị nâng giá so với trị giá thật của nó. Điều này sẽ mang lại lợi thế cho một số ngành nhập khẩu (chủ yếu là các DNNN ) và tác động tiêu cực đến sự gia tăng xuất khẩu ở các ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến (chủ yếu là DNV&N). Như vậy, rõ ràng Nhà nước cần thay đổi mục tiêu và phương thức quản lý ngoại hối, chính sách tỷ giá thì có thể khuyến khích xuất khẩu ở các DNV&N. 3.3.7.3. Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa hình thành những Trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu cho Doanh nghiệp. Việc tìm hiểu các thông tin về thị trường, luật pháp của các nước đối với DNV&N là điều hoàn toàn khó khăn. Hệ thống thương vụ của Việt Nam tại các quốc gia chưa có khả năng cung cấp những thông tin về thị trường và quy hoạch của nước đó. Xây dựng và khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu là việc mà Nhà nước cần xúc tiến khẩn trương trong thời gian tới. Biện pháp này sẽ thay thế đắc lực và hiệu quả cho biện pháp định hướng sản phẩm xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu mà Nhà nước vẫn thực hiện cho đến nay. Các trung tâm này có thể do một hiệp hội ngành nghề hoặc do các tổ chức phi Chính phủ (phi lợi nhuận )thành lập, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần tài chính, đặc biệt trong thời gian đầu, phần còn lại là thu lệ phí từ các Doanh nghiệp. 3.3.7.4. Hỗ trợ Doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới Hỗ trợ Doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới là biện pháp cần thiết để giúp Doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình. Không có sự hỗ trợ Nhà nước. DNV&N khó có thể có điều kiện tham dự những hội chợ triễn lãm Quốc tế . Cho đến nay, thông qua một số dự án ,Nhà nước đã hỗ trợ cho một phần tài chính cho Doanh nghiệp trong việc tham gia triển lãm hội chợ quốc tế. Tuy vậy biện pháp này vẫn cần được mở rộng về cả phạm vi lẫn hình thức hỗ trợ (ví dụ: hỗ trợ thêm một phần tài chính nếu Doanh nghiệp ký kết được hợp đồng cho sản phẩm mới hoặc thị trường mới, khấu trừ một phần thuế thu nhập Doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định với chi phí tham dự triển lãm, hội trợ ở nước ngoài ). 3.3.7.5. Hỗ trợ Doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn Bên cạnh khó khăn về thông tin, các DNV&N cũng gặp nhiều khó khăn về vốn (đặc biệt là vốn lưu động để thực hiện hợp đồng xuất khẩu của Nhà nước chắc chắn không đáp ứng được nhu cầu này từ các Doanh nghiệp, vì vậy Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các hội ngành nghề thành lập quỹ hội trợ xuất khẩu (có thể có sự tham gia của phía đối tác nước ngoài) . Quỹ này sẽ cấp tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh tín dụng cho các Doanh nghiệp đã có hợp đồng xuất khẩu. Nhà nước có thể nghiên cứu và áp dụng mô hình sản phẩm tương lai (mua bán các sản phẩm chưa thu hoạch ) ở Việt Nam. Mô hình này có thể giúp đỡ rất nhiều cho nông dân thông qua việc chia sẻ rủi ro và biến động giá nông sản giữa nông dân và kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như thông qua việc thanh toán trước thu hoạch giúp cho người nông dân có vốn chuẩn bị cho vụ mới. 3.3.7.6. Hỗ trợ DNV&N trong việc tìm hiểu và khai thác hình thức thương mại điện tử Thương mại điện tử đang trở thành một phương thức thương mại hiện đại, phá vỡ dần những quan niệm về không gian và thời gian trong thương mại. Với thương mại điện tử, DNV&N dù ở miền núi xa xôi vẫn có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường thế giới qua đó, những khó khăn về quy mô, về địa dư sẽ được khắc phục một phần. Trong thời gian tới , Nhà nước cần hỗ trợ các Doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề tiếp cận với TMĐT, mở các trang Web để quảng bá các sản phẩm dịch vụ của mình. Cũng với việc đó, Nhà nước cũng cần nghiên cứu để đưa ra những chính sách thuế phù hợp với hình thức thương mại mới này, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các hình thức thương mại . 3.3.7.7. Tiếp tục cải cách thủ tục Hải quan Mặc dù có những lỗ lực lớn trong thời gian vừa qua, nhưng thủ tục Hải quan vẫn là một trong những vấn đề bị các Doanh nghiệp phàn nàn nhiều nhất trong cuộc gặp mặt giữa Thủ tướng và các Doanh nghiệp trong tháng 3 /2000 . Thủ tục Hải quan đã được đổi mới tương đối cơ bản, song vẫn cần cải tiến theo một số hướng sau: - Đơn giản hoá các thủ tục trong việc mở tờ khai Hải quan, ví dụ: Giám đốc hoặc PGĐ có thể uỷ quyền cho cán bộ cấp dưới ký tờ khai, không bắt buộc Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của tờ C/O . - Nghiên cứu việc sử phạt một cách hợp lý khi chủ hàng tính thuế sai do các văn bản về thuế không rõ ràng, thường xuyên thay đổi, nên việc áp mã thuế, tính thuế hoàn toàn không đơn giản. Ngay cán bộ tính thuế có thể nhầm nên việc Doanh nghiệp tính thuế sai khó có thể tránh khỏi. Nhiều Doanh nghiệp đã bị phạt oan về việc này. - Nghiên cứu rút ngắn quy trình khai, kiểm hoá và tính thuế . Theo quy trình chủ hàng khai và tự tính thuế, sau đó Hải quan tiếp nhận tờ khai, kiểm tra về thuế rồi kiểm hoá, xong lại vòng về khâu tính thuế. Như vậy, khâu tính thuế đã bị lặp lại, mất thời gian cho Doanh nghiệp, khâu Doanh nghiệp tự tính thuế và Hải quan kiểm tra tính thuế chỉ mang tính hình thức. Có thể cơ quan Hải quan chỉ cần xem xét kiểm tra và xác định thuế khâu kiểm hoá. - Nghiên cứu hình thành mẫu khai cho lên nhiều loại hàng trong một lô hàng - Nghiên cứu phương thức chỉ mở tờ khai một lần cho Doanh nghiệp nhập khẩu một mặt hàng nhằm tại điều kiện thuận lợi cho các nhà nhập khẩu với số lượng lớn trong một thời gian đối dài. Cải tiến việc chứng nhận hàng thực xuất theo hướng rút ngắn thời gian và liên kết giữa các cửa khẩu với nhau nhằm hỗ trợ Doanh nghiệp nhanh chóng thanh khoản tờ khai. Trong các vụ án kinh tế gần đây Hải quan là ngành có nhiều công chức phải hầu toà nhất. Điều này cũng đã phản ảnh điều nào những quy định còn chưa rõ ràng, minh bạch dẫn đến sự tuỳ tiện trong việc sử lý của các cá nhân viên Hải quan đồng thời cũng nói lên những khó khăn của Doanh nghiệp khi phải thực hiện các thủ tục này. Giảm biên chế theo đường lối của Chính phủ trong điều kiện lượng hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng tăng với tốc độ tăng đã là một nguyên nhân gây ắc tắc trong quá trình hình thành thủ tục Hải quan. Nâng cao số lượng và chất lượng nhân viên (kể cả nghiệp vụ lẫn đạo đức ) là một yêu cầu cấp bách đối với ngành. Trước mắt có thể thực hiện một số biện pháp sau : - Đề nghị ngành Hải quan vẫn thực hiện làm việc 6 ngày trong tuần (theo hình thức quay vòng ). - Việc nghiên cứu xác định lệ phí hợp lý Hải quan, ngoài khoản lệ phí này Doanh nghiệp không phải nộp thêm bất kỳ một khoản nào. Qua đó, Doanh nghiệp có thể hạch toán chi phí này vào giá thành và cho phép ngành Hải quan sử dụng một phần này để tăng thu nhập cho nhân viên do làm thêm giờ, thêm ngày. - Xét sử nghiêm minh những trường hợp nhân viên Hải quan vi phạm kỷ luật Bên cạnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến Hải quan, cần thực hiện một số biện pháp có liên quan đến thủ tục Hải quan: - Sửa đổi một số hệ thống mã thuế tương ứng với hệ thống mã hàng quốc tế, tránh việc tuỳ tiện áp mã thuế xuất nhập khẩu. - từng bước hiện đại hoá trang thiết bị trong nghành và nối mạng giữa hệ thống Hải quan với hệ thống các cơ quan thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp trong việc hoàn thuế. - Tự do hoá thương mại, thực hiện chươgn trình giảm thuế quan là những biện pháp cơ bản nhất làm giảm áp lực của buôn lậu đối với nền kinh tế và qua đó sẽ giảm áp lực với nghành Hải quan. 3.3.7.8. Tiếp tục cải cách chính sách thuế . Chính sách thuế mặc dù đã được cải cách nhiều lần song vẫn còn chưa đáp ứng được như cầu phát triển của nền kinh tế. Cải cách thuế trong thời gian tới cần hướng vào một số hướng sau: - Đảm bảo tính ổn định trong các chính sách thuế trogn thời gian tối thiểu là 2 năm: - Đảm bảo tính công bằng trong chính sách thuế, giảm dần tiến tới xoá bỏ chênh lệch trong thuế suất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước và nước ngoài; - Đơn giản hoá hệ thống thuế theo hướng giảm số lượng các thuế suất làm minh bạch và cụ thể hoá các cơ chế ưu đãi thuế hạn chế việc áp dụng tuỳ tiện các chính sách ưu đãi thuế; -Đổi mới tư duy về thuế, chuyển ý tưởng " tận thu" sang ý tưởng "nuôi dưỡng nguồn thu"; -Lành mạnh hoá cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân; -Đổi mới phương thức thu thuế theo hướng cá nhân tổ chức tự khai và nộp thuế, bỏ dần cơ chế "thoả thuận thuế ". Một số vấn đề trong thuế GTGT đã nảy sinh sau hơn một năm thực hiện, vì vậy cần nghiên cứu để kịp thời đưa ra những giải pháp sửa đổi. Một số định hướng sửa đổi là: - Thống nhất các văn bản hướng dẫn ; minh bạch hoá các nội dung trong văn bản này; đặc biệt những chính sách ưu đãi về thuế GTGT; tuyên truyền và phổ biến rộng giãi các văn bản pháp quy về thuế để mọi người thống nhất cách hiểu nội dung: - Từng bước quy thuế suất GTGT về một thuế suất đơn giản hoá việc tính thuế và tạo mặt bằng cạnh tranh bình đẳng giữa các ngành - Đổi mới quy định về chứng từ hoá đơn , đổi mới hệ thống kế toán theo hướng chuẩn quốc tế - Đổi mới phương thức hoàn thuế, góp phần giải quyết khó khăn về thuế cho các Doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N - Bãi bỏ phương thức tính thuế theo giá tối thiểu đối với hàng nhập khẩu, thay thế bằng phương thức thẩm định giá. Việc thực hiện đổi mới chính sách thương mại , hỗ trợ DNV&N trong xuất khẩu có tác dụng giúp cho các doanh nghiệp trong KCN có một môi trường kinh doanh , xuất khẩu thuận lợi và bình đẳng . Kết luận Thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của cả đất nước ta trong hai thập kỷ đầu tiên của thiên nhiên kỷ mới. Loài người trên trái đất lệ thuộc vào nguồn tài nguyên của " Một Thế Giới" và vì thế đòi hỏi Việt Nam cũng như mọi quốc gia khác phải cùng nhau chia sẻ trách nhiệm bảo vệ môi trường, đảm bảo cơ sở cho sự phát triển bền vững của nước ta nói riêng và nhân loại nói chung. Việc hình thành và phát triển Khu Công nghiệp tập trung, các cụm Công nghiệp là một công cụ đắc lực theo đuổi những mục tiêu trên. Tuy vậy, mỗi quốc gia, mỗi địa phương lại có những đặc điểm xã hội, kinh tế khác nhau, đòi hỏi các Khu Công nghiệp, cụm Công nghiệp phaỉ đáp ứng những nhu cầu khác nhau. Chính vì lẽ đó, việc áp dụng một cách máy móc kinh nghiệm cuả một quốc gia. Một địa phương khác sẽ không thể thu được kết quả như mong đợi. Từ những quan điểm trên, đề tài " Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN, KCX Hà Nội " đã nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển và hiệu quả hoạt động của các KCN Hà nội trên cơ sở phân tích thực trạng của các KCN Hà nội, phân tích và học hỏi một cách có lựa chọn kinh nghiệm của các địa phương và các quốc gia khác. Do những hạn chế khách quan và chủ quan, những giải pháp này chắc sẽ chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu, thách thức của thực tiễn . Tuy vậy, tôi vẫn hy vọng rằng bằng kết quả này, đề tài sẽ đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng Thủ đô, để Hà nội không những là Thành phố của Hoà Bình, Là Thủ đô anh hùng trong sự nghiệp giữ nước mà còn là Thủ đô anh hùng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước./ tài liệu tham khảo 1. Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội VIII của Đảng 2. Đảng cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng 3. Ban CHTW Đảng, hội nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 4, khoá VIII 4. Các bộ luật, luật, Nghị định liên quan 5. Các Nghị quyết có liên quan của UBND các tỉnh 6. Nguyễn Thế Quang, báo cáo tại hội thảo kỷ niệm 5 năm thành lập Ban quản lý các KCN&CX Hà nội 7. Ban quản lý các KCN&CX Hà nội, đề tài nghiên cứu khoa học thuộc chương trình 01X- 07 của Thành phố Hà nội (TS. Nguyễn Văn Việt chủ nhiệm đề tài ) 8. Dự án US / VIE/95/004, báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNV&N tại Việt Nam tháng 1/ 1999 9. Nguyễn Văn Việt, vai trò khu Công nghiệp trong tiến trình, Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Thủ đô Hà nội 1999. Tiểu luận tốt nghiệp lớp lý luận chính trị cao cấp 10. Lê Viết Thái (chủ biên ), Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Tô Đình Thái, Hoàng Văn Thành, DNV&N Việt Nam - thực trạng và các giải pháp khuyến nghị 2000 11.Lê Viết Thái (chủ biên), Cơ sở khoa học và việc thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh tại Việt Nam, NXB Lao động, 2000 12.Một số ý kiến của các Doanh nghiệp trong cuộc gặp mặt với Thủ tướng Phan Văn Khải tại TPHCM, tháng 3/ 2000 13. Số liệu báo cáo thống kê của Cục thống kê Hà nội và Ban Quản lý các KCN & CX Hà nội 14. Một số bài báo từ tạp trí chuyên đề về Khu Công nghiệp, nhật báo và tạp chí khác. 15. Báo các của Ban Quản lý các KCN Việt nam. 16. Báo cáo kết quả chuyến đi Nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và quản lý các KCX , KCN , KCNC tại Đài loan . 17. Báo diễn đàn kinh tế , Thời báo kinh tế , Báo đầu tư . Mục lục Phần mở đầu Chương I : Những lý luận cơ bản về khu công nghiệp 3 1.1. Khái quát chung về KCN 3 1.1.1. Khái niệm về KCN 3 1.1.2 . Đặc điểm cơ bản của KCN. 3 1.1.3. Phân biệt giữa KCN và KCX 5 1.1.4. Vai trò của các KCN 8 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới KCN. 14 1.2.1. Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý 15 1.2.2. Cơ chế chính sách . 15 1.2.3. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội của vùng. 16 1.2.4. Vấn đề giải phóng mặt bằng và giá thuê đất 16 1.2.5. Tổ chức quản lý , điều hành các KCN. 17 1.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác sử dụng . 17 1.3.1 Tỷ lệ diện tích được điền đầy. 17 1.3.2. Số dự án đầu tư 18 1.3.3. Tổng số vốn đầu tư 18 1.3.4 . Tỷ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích 18 1.3.5. Số lao động. 18 1.3.6. % Đóng góp GDP. 19 1.4. Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng các KCN của một số nước và bài học rút ra. 19 1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN 19 1.4.2. Kinh nghiệm của Đài loan 22 1.4.3. Những bài học kinh nghiệm 24 1.5. Khái quát tình hình phát triển các KCN ở Việt nam 27 1.5.1. Số lượng các KCN & KCX đã hình thành. 27 1.5.2. Thực trạng xây dựng và phát triển hạ tầng các KCN & KCX . 28 1.5.3. Những đóng góp của các KCN & KCX Việt nam. 30 Chương II : Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các KCN tại Hà nội trong thời gian qua. 34 2.1. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của Hà nội 34 2.1.1. Vị trí vai trò của thủ đô Hà nội. 34 2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội . 35 2.1.3. Những lợi thế của Hà nội trong việc thu hút đầu tư 37 2.2. Thực trạng xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà nội. 39 2.2.1. Tình hình tổ chức và quản lý . 39 2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển các KCN cũ . 41 2.2.3. Quá trình xây dựng và hình thành các KCN của Hà nội. 42 2.2.4. Tình hình khai thác sử dụng và những kết quả đẫ đạt được. 46 2.3. Đánh giá chung những thuận lợi ,khó khăn và vấn đề tồn tại đối với các khu công nghiệp Hà nội . 54 2.3.1. Nhóm các vấn đề về khung pháp lý 54 2.3.2. Nhóm các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính . 57 2.3.3. Nhóm các vấn đề về tổ chức bộ máy của Ban quản lý 59 2.3.4. Nhóm các vấn đề lên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở 60 2.3.5. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ. 65 2.3.6. Nhóm các vấn đề liên quan tín dụng và thị trường vốn . 68 2.3.7. Chính sách thuế. 69 Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội 71 3.1. Quan điểm , phương hướng nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội trong thời gian tới. 71 3.1.1 Sự cần thiết phải đẩy nhanh qúa trình xây dựng và khai thác các KCN tại Hà Nội. 71 3.1.2 Quan điểm vấn đề xây dựng và khai thác sử dụng KCN tại Hà Nội. 74 3.1.3. Phương hướng xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội. 74 3.2. Một số giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại đối với các khu công nghiệp Hà nội . 77 3.2.1. Nhóm các giải pháp về khung pháp lý , quản lý nhà nước và thủ tục hành chính. 79 3.2.2. Tiếp tục củng cố tăng cường nâng cao năng lực của bộ máy quản lý KCN. 81 3.2.3. Xem xét lại quy hoạch phát triển KCN của Hà nội . 82 3.2.4. Những giải pháp liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng . 83 3.2.5. Những giải pháp liên quan đến dịch vụ 85 3.2.6. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước. 88 3.2.7. Tăng cường liên kết kinh tế giữa KCN và ngoài KCN. 89 3.2.8. Giải quyết nhanh chóng khâu đền bù giải phóng mặt bằng 90 3.2.9. Giải quyết nhà ở cho công nhân khu công nghiệp. 90 3.2.10. áp dụng phương thức đầu tư xây dựng nhà xưởng bán trả chậm cho các doanh nghiệp có nhu cầu di dời nhà xưởng từ nội thành vào các khu công nghiệp 91 3.2.11. Tăng cường công tác tiếp thị đầu tư, vận động, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp hoạt động 92 3.2.12. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp . 93 3.3. Một số giải pháp về chính sách vĩ mô để khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các KCN ở Việt nam nói chung và tại Hà nội nói riêng nhằm phát huy nội lực . 94 3.3.1. Khẳng định vai trò của DNV & N ( Đặc biệt là DNV & N ở khu vực ngoài quốc doanh ) trong sự nghiệp phát triển kinh tế, tôn vinh các nhà doanh nghiệp. 94 3.3.2. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các Doanh nghiệp, đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật 96 3.3.3. Cải cách chính sách đất đai theo hướng tận dụng cơ sở hình thành thị trường đất đai , bất động sản. 97 3.3.4. Cải cách hệ thống tín dụng phát triển thị trường vốn 99 3.3.5. Cải cách chính sách lao động, hình thành phát triển thị trường lao động. 101 3.3.6. Xây dựng chính sách cạnh tranh, kiểm soát độc quyền trong kinh doanh 103 3.3.7. Đổi mới chính sách thương mại. Hỗ trợ DNV& N trong xuất khẩu 106 Kết luận 112 Tài liệu tham khảo 113 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0069.doc