LỜI CAM ĐOAN
Trong thời gian qua em đã được Công ty và nhà trường đồng ý tham gia vào kỳ thực tập tại công ty Sản xuất và Xuất nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội - Haprosimex.
Trong thời gian thực tập tại công ty em được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình từ thầy giáo PGS.TS. Phạm Văn Vận và các anh chị trong công ty Haprosimex.
Em xin cam đoan với nhà trường, thầy giáo và công ty là những điều em viết dưới đây là đúng sự thật và được dựa trên các tài liệu của công ty, trang web, sách báo, tạp chí và tà
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty Sản xuất và XNK tổng hợp Hà Nội - Haprosimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i liệu tham khảo của thư viện trường Kinh tế Quốc dân.
Nếu vi phạm những điều cam kết trên em xin chịu mọi hình thức kỷ luật của nhà trường và công ty.
Người viết đơn
Vương Xuân Dũng
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
2
BQ TNĐN
Bình quân thu nhập đầu người
3
CBCNV
Cán bộ công nhân viên
4
CNH- HĐH
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá
5
Cty CP
Công ty cổ phần
6
SX -KD
Sản xuất kinh doanh
7
XN
Xí nghiệp
8
SX- XNK
Sản xuất- xuất nhập khẩu
9
TP
Thành phố
10
UBND
Uỷ ban nhân dân
11
KTQD
Kinh tế quốc dân
12
WTO
Ngân hàng thế giới
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 1: Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng 18
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường tiêu thụ 19
Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu chung 20
Bảng 4: Chỉ số hiệu quả sản xuất kinh doanh 21
Bảng 5: Kế hoạch xuất khẩu hàng TCMN trong 2009- 2010 23
Bảng 6: Kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty qua 5 năm 24
Bảng 7: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng 26
Bảng 8: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty vào từng thị trường 28
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá, hợp tác hoá ngày càng được mở rộng, Việt Nam cũng đã và đang thực hiện tiến trình hội nhập với khu vực và với thế giới bằng việc mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước như gia nhập các tổ chức AFTA, ký kết hiệp định thương mại Việt Mỹ, gia nhập WTO.. Chính sách đúng đắn này đã khuyến khích các hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng hàng năm là minh chứng cho sự lớn mạnh không ngừng của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của Việt Nam, được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời có một vai trò quan trọng trong giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn. Đến nay hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đây cũng là mặt hàng có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu rất lớn. Kim ngạch xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ trong những năm qua tuy không lớn nhưng có vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là ngành nghề thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu, góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Với mục đích muốn nghiên cứu sâu hơn ngành thủ công mỹ nghệ để tìm hiểu nguyên nhân tại sao ngành này lại chưa phát triển hết tiềm lực của mình, xem xét, đánh giá các thành tựu đã đạt được và các giải pháp thực hiện trước đây từ đó tìm kiếm, nghiên cứu và đưa ra "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội ( Haprosimex)". Với lý do như vậy nên em đã chọn đề tài này. Trong đề tài em tập trung đi sâu nghiên cứu vào Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty và tìm hiểu một số vấn đề vướng mắc và tìm ra giải pháp khắc phục và phương hướng phát triển để đưa mặt hàng thủ công mỹ nghệ trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chính và đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho công ty. Không kể Lời cam đoan, Danh mục viết tăt, Danh mục tài liệu tham khảo. Kết cấu của đề tài bao gồm:
Lời mở đầu
Chương I: Sự cần thiết việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex)
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex)
Kết luận.
Để hoàn thành chuyên đề này em đã được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS.TS. Phạm Văn Vận và các anh chị trong công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex)
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I:Sự Cần Thiết Việc Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ
I. Khái niệm về hàng thủ công mỹ nghệ
1. Khái niệm
Hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có rất nhiều chủng loại. Nó là những mặt hàng thuộc ngành nghề truyến thống được tạo ra bởi các thợ thủ công, những nghệ nhân có tay nghề cao, được truyền từ đời này qua đời khác và được phát triển theo nhu cầu của cuộc sống.
Hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm được tạo ra bằng lao động thủ công của con người. Các sản phẩm được tạo ra luôn mang bản sắc của dân tộc, của các nghệ nhân. Những mặt hàng này luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của nhân loại.
2. Các nhóm hàng thủ công mỹ nghệ
2.1 Đồ gỗ
Bao gồm tranh gỗ, tượng gỗ, hàng sơn mài, đồ gỗ gia dụng có chạm, khảm, sơn mài ... Mặt hàng này rất đa dạng và phong phú nhiều kiểu dáng mẫu mã đẹp chất lượng cao và có tốc độ tăng trưởng rất cao trong những năm gần đây.
2.2 Gốm sứ
Gốm sứ là một trong những mặt hàng truyền thống cuả Việt nam, mang đậm nét bản sắc dân tộc , hoa văn độc đáo đa dạng phong phú . Hiện nay nước ta có nhiều làng nghề làm đồ gốm sứ, tạo ra nhiều sản phẩm đặc trưng như : tượng phật , bình lạ , chén bát cổ v.v.. hiện nay công ty đã đặt các cơ sở ở các làng nghề này đặc biệt là hàng gốm sứ bát tràng . Với mục đích để thu gom nhanh chóng được hàng khi có hợp đồng thì có thể nhanh chóng xuất khẩu giảm chi phí, tăng nhanh vòng quay của vốn và tạo uy tín với kahchs hàng.
2.3 Mây, tre, lá
Hàng mây, tre, lá này rất đa dạng và phong phú với nhiều kiểu dáng mẫu mã đẹp chất lượng cao như : dép, chiếu thảm, rổ, rá, các hộp đựng, túi …vv với nguồn nguyên liệu rồi rào , giá rẻ , mang đạm bản sắc văn hoá phương Đông . Nó tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông hồng và sông cửu long, đây là hai khu vực đông dân vì vậy nó đã giải quyết rất nhiều công ăn việc làm cho người lao động của địa phương. Nhưng giá trị xuất khẩu của mặt hàng này trong những năm gần đây vẫn chưa cao.
2.4 Sơn mài
Đây là mặt hàng mà nó đòi hỏi sự khéo léo , tỷ mỉ, công phu , tốn nhiều thời gian , mang tính nghệ thuật cao do vậy đòi hỏi người làm gia nó phải có trình độ tay nghề cao, có sự sáng tạo và giàu kinh nghiệm. Mặt hàng này bao gồm các sản phẩm như : Tranh sơn mài , đồ trang trí nội thất , hộp đựng trang sức …vv . Đây là một trong những mặt hàng chính của công ty, nó là mặt hàng dễ thu mua, giá rẻ . Trong vài năm trước đây mặt hàng này còn hơi khó bán nhưng vài năm gần đây cùng với sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng được nâng cao thì mặt hàng này ngày càng được tiêu thụ nhiều hơn, được các bạn hàng trên thế giới ngày càng ưa chuộng và tin dùng.
2.5 Hàng thêu
Hàng Thêu có đặc điểm là nó mang đậm tính thủ công , thẩm mỹ cao, vì thế mà đòi hỏi người làm ra nó phải khéo léo, có tính kiên trì, có mắt thẩm mỹ và có tay nghề cao . Đây là mặt hàng rất phù hợp với bàn tay khéo léo và tính cần cù của người Việt Nam.Nó là mặt hàng rất được ưa chuộng ở Châu Âu, Nhật vv….
2.6 Hàng TCMN khác
Bên cạnh các nhóm hàng chính như đồ gỗ, sơn mài, gốm sứ, mây tre đan, hàng thêu. Haprosimex còn xuất khẩu rất nhiều các mặt hàng khác như khăn các loại, dệt, đan, móc, hàng gia dụng vv....Tuy nhiên đây là những mặt hàng mà nó đòi hỏi rất công phu , nguyên vật liệu đắt , cần sự khéo léo và có tính sáng tạo. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của Haprosimex về mặt hàng này còn nhiều bấp bênh , không ổn định và thị trường tiêu thụ của các mặt hàng này vẫn còn ít.
II. Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong xuất khẩu Việt Nam
1. Đối với doanh nghiệp
Trong quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế như hiện nay thì với những doanh nghiệp, trong đó đặc biệt là những doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của kinh tế khu vực và thế giới. Những cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp là rất nhiều và nó là sự sống còn của nhiều doanh nghiệp. Nếu như các doanh nghiệp có những chiến lược đúng đắn thì sẽ tìm cho mình được nhiều bạn hàng từ đó sẽ xuất khẩu được nhiều hàng hoá và sẽ thu được nhiều ngoại tệ cho doanh nghiệp cũng như cho chính Quốc gia mình để từ đó tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ việc tham gia xuất khẩu, doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiếp thu được các thành tựu khoa học kĩ thuật, từ đó củng cố tổ chức sản xuất, nâng cao được mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Uy tín và địa vị của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế cũng được nâng cao thông qua xuất khẩu hàng hóa. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần nhanh chóng hoàn thiện sản phẩm của mình, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong sản xuất và trong xuất khẩu từ đó tạo lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trên thị trường quốc tế.
2. Vai trò đối với nền kinh tế
Điều kiện để tăng trưởng và phát triển kinh tế gồm 4 yếu tố chính là: Vốn, nguồn nhân lực, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Với các quốc gia khác nhau thì khó có thể đáp ứng được cả bốn điều kiện trên vì vậy hoạt động xuất khẩu chính là điều kiện tất yếu để thúc đẩy nền kinh tế. Đây có thể coi là con đường ngắn nhất để những nước chậm phát triển như Việt Nam có thể nhanh chóng nắm bắt được kĩ thuật công nghệ tiên tiến của thế giới từ đó có thể rút ngắn khoảng cách về khoa học công nghệ so vơi các nước trên thế giới.
Xuất khẩu có những vai trò chính sau :
- Xuất khẩu sẽ tạo ra nguồn vốn cho nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc vvv…để phục vụ cho quá trình CNH-HĐH.
Với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vốn và khoa học công nghệ là hai thứ còn thiếu thốn nhất và khi muốn nhập khẩu máy móc,kĩ thuật công nghệ thì cần phải có nguồn ngoại tệ. Vì vậy hoạt động xuất khẩu được coi là nguồn thu ngoại tệ rât quan trọng cho quốc gia.
Nguồn vốn dành cho hoạt động nhập khẩu được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau trong đó có: Vồn đầu tư nước ngoài, hình thức viện trợ, vay vốn, các hoạt động du lịch, kiều hối…. từ các nguồn này cũng thu được một lượng ngoại tệ tương đối lớn, tuy nhiên việc huy động từ các nguồn này gặp rất rất khó khăn và nó bị lệ thuộc nhiều vào nước ngoài, cho nên hoạt động xuất khẩu vẫn là nguồn mang lại ngoại tệ lớn nhất và quan trọng nhất cho đất nước.
Với mỗi quốc gia thì có các tầm nhìn chiến lược về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ khác nhau để từ đó tạo nguồn vốn thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Xuất khẩu làm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất.
Ở mỗi quốc gia thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ hình thái này sang hình thái khác là điều tất yếu. Trong từng giai đoạn phát triển kinh tế thì hình thái chuyển dịch này là khác nhau, đó là sự phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế của từng nước và kế hoạch phát triển của mỗi quốc gia. Chẳng hạn như ở nước ta thì Đảng và nhà nước đặt ra mục tiêu đến năm 2020 nước ta cần đạt được mục tiêu chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp là chính sang nền kinh tế trong đó công nghiệp và dịch vụ là hai ngành chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế.
Xuất khẩu có tác dụng đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
+ Có tác dụng xuất khẩu những sản phẩm thừa so với tiêu dùng nội địa. Đối với những nước còn lạc hậu, nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất thì chưa đủ đáp ứng tiêu dùng mà nếu chỉ xuất khẩu những mặt hàng thừa tiêu dùng trong nước thì thị trường xuất khẩu sẽ bị bó hẹp lại và từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
+ Khi mà thị trường xuất khẩu được mở rộng thì sẽ thúc đẩy quá trình tổ chức sản xuất, từ đó nó sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác có liên quan. Chẳng hạn như khi xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ phát triển thì nó sẽ kéo theo các ngành nghề như đồ gỗ, gốm sứ, mây tre đan, thêu dệt vv… cùng phát triển.
+ Hoạt động xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất, cung cấp đầu vào và mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Vì mỗi một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều so với giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó.
+ Hoạt động xuất khẩu sẽ thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, tạo lợi thế kinh doanh. Xuất khẩu sẽ giúp cho quốc gia thu được một lượng ngoại tệ lớn đảm bảo cho quá trình CNH-HĐH đất nước.
+ Xuất khẩu giúp giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động đặc biệt là lao đông nông thôn từ đó làm tăng thu nhập cho người lao động.
+ Xuất khẩu chính là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, từ đó sẽ giúp cho các nước phụ thuộc vào nhau hơn, và cùng nhau phát triển.
3. Đối với xã hội
- Hàng TCMN là sản phẩm của ngành nghề truyền thống mang đậm nét truyền thống dân tộc nên nó không chỉ là vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng ngày trong cuộc sống mà còn đáp ứng nhu cầu thưởng thức tinh hoa văn hóa của dân tộc.
- Xuất khẩu sẽ tạo ra nguồn ngoại tệ nhằm nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Giúp tăng cường giao lưu văn hóa giữa các nghệ nhân, giao lưu văn hóa dân tộc, và giao lưu giữa các nước với nhau.
- Đây chính là cơ sở nhằm mở rộng, thúc đẩy và phát triển mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
1. Tình hình cung sản phẩm trên thị trường thế giới
Mặt hàng đồ gỗ, gốm sứ, thêu, mây tre đan, sơn mài vv…hiện có mặt ở rất nhiều quốc gia và sự cạnh tranh không những diễn ra ở trong nước mà cả giữa các nước với nhau, giữa những khối này với những khối khác về mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng,giá cả và phương thức thanh toán vv … Nhưng trong những sự cạnh tranh này thì riêng với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của một số nước có uy tín thì luôn chiếm được những ưu thế tuyệt đối vế số lượng sản phẩm xuất khẩu và giá cả.
+Hiện nay thì Trung quốc đang là nước đứng đầu về đồ gốm sứ. Sản phẩm gốm của họ luôn được bạn hàng trên thị trường thế giới đánh giá cao . Trong đó có những sản phẩm nổi tiếng đến từ Thượng Hải, Giang Tây, chất lượng và sản phẩm của những mặt hàng này luôn có uy tín cao trên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ thế giới.
+Về các mặt hàng như thêu, gốm sứ, sơn mài, chạm khảm vv… thì ở thị trường SNG, Việt Nam vẫn giữ được ưu thế là bạn hàng quen thuộc cho dù các sản phẩm của ta vẫn chưa có nhiều thay đổi về mẫu mã, chất lượng.
+ Các đối thủ thường sử dụng giá cả và mẫu mã để làm vũ khí cạnh tranh.Không những bán với giá hợp lý mà họ còn sử dụng nhiều hình thức khác như: Chiết khấu, hạ giá bán, phương thức thanh toán hợp lý, thuận tiện và có lợi cho cả bên mua và bên bán hàng. Từ đó có thể khẳng định vị trí của công ty mình trên thị trường .
2. Tình hình cầu sản phẩm trên thị trường thế giới
Do đời sống ngày càng cao cho nên nhu cầu của con người cũng ngày được nâng lên, song song với nó là mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn về chủng loại, sản xuất cũng đơn giản và dễ thay đổi để thích nghi với thị hiếu của người tiêu dùng. Đây chính là nhân tố quan trọng có thể mở ra nhiều thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ cho các doanh nghiệp của nước ta.
3. Doanh nghiệp và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam lên hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Sự đa dạng hóa các danh mục sản phẩm, mẫu mã và chất lượng của hàng thủ công mỹ nghệ đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải đa dạng các mặt hàng xuất khẩu của mình, từ đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng vì vậy ngoài việc liên kết với các làng nghề thì các doanh nghiệp còn cần đặc biệt chú ý đến các nghệ nhân, thợ thủ công có tay nghề cao. Chỉ có như vậy mới tạo ra được những sản phẩm mang tính độc đáo, đa dạng về mẫu mã và có thể đáp ứng được những nhu cầu khác nhau của khách hàng.
Có những khách hàng mà họ mua sản phẩm không cần để ý lắm đến giá cả và chất lượng của sản phẩm mà cái họ cần mua chính là sự sang trọng, tính độc đáo và uy tín của sản phẩm doanh nghiệp trên thị trường. Chính điều này nó sẽ là nhân tố ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu hàng hoá của công ty.
Doanh nghiệp có được uy tín khi tham gia xuất khẩu được đánh giá qua các hệ thống chi tiêu đánh giá và quá trình thực tế cuả doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Khi mà doanh nghiệp có uy tín thì công việc kinh doanh của họ thường có hiệu quả cao hơn trên thương trường.
4. Cơ chế chính sách xuất khẩu của nhà nước đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ
Các công cụ chính sánh vĩ mô của nhà nước chính là nhân tố quan trọng mà các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần phải nắm rõ và tuân theo vô điều kiện, bởi vì các công cụ này nó thể hiện ý chí của Đảng và Nhà nước. Các công cụ chính sách vĩ mô của Nhà nước nhằm bảo vệ những lợi ích chung của mọi tầng lớp trong xã hội , chính vì vậy nó bị chịu tác động của các chính sách, chế độ pháp luật ở quốc gia mình và đồng thời cũng cần phải tuân theo những quy định chung của thị trường Quốc tế .
Hiện nay chính sánh ngoại thương của Việt Nam, thường tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh,các doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào sự phân công lao động quốc tế, mở rộng các hoạt động xuất khẩu và giữ vững thị trường nội địa nhằm đạt được các mục tiêu và yêu cầu về kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Đất nước. Các hoạt động ngoại thương mà nhà nước thường sủ dụng là các công cụ về thuế hoặc phi thuế quan nhằm điều chỉnh lượng hàng hoá phù hợp với nhu cầu trong nước, đồng thời sẽ khuyến khích hoặc hạn chế xuất, nhập khẩu các sản phẩm đó.
Chương II:Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex)
I. Khái quát chung về Công ty
1. Bộ máy tổ chức, tình hình kinh doanh của Công ty
1.1 Bộ máy tổ chức
Năm 1993, Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà nội được thành lập theo quyết định số 528/QĐ-UB ngày 29/01/1993 của Ủy ban nhân dân TP Hà nội với tên gọi ban đầu là Công ty sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu – Tiểu thủ công nghiệp Hà Nội trực thuộc Liên hiệp sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà nội. Đến ngày 30/8/1993, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 3236/QĐ-UB đổi tên thành Công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (HAPROSIMEX) trên cơ sở nền tảng của văn phòng Liên hiệp sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội.
Như vậy, từ một đơn vị hành chính bao cấp, công ty đã chuyển sang hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa. Trong giai đoạn đầu, công ty phải đối mặt với những khó khăn như là cơ sở vật chất kỹ thuật quy mô còn nhỏ bé, vốn lưu động chỉ còn 250 triệu đồng, chưa có xí nghiệp sản xuất, đội ngũ cán bộ chỉ có 67 người, chưa quen với kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhưng trải qua một thời gian ngắn, công ty đã phấn đấu nỗ lực không ngừng vươn lên, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh buôn bán với các bạn hàng trên khắp trên thế giới, tạo dựng và giữ vững uy tín với thương hiệu HAPROSIMEX trên toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước, doanh thu hàng năm hơn 1.000 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước hàng năm trên 50 tỷ đồng , tạo công ăn việc làm và cải thiện điều kiện làm việc cho hơn 5.000 người lao động, thu nhập bình quân đạt 1.674.000 đ/ng/tháng.
Nhờ có những thành tích xuất sắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh qua nhiều năm, tháng 03/2006 UBND Thành phố đã ra Quyết định số 23/2006/QĐ-UB cho phép công ty HAPROISMEX chuyển đổi sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con theo chủ trương đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ. Hiện Công ty quản lý trực tiếp 24 đầu mối: 12 phòng ban tại văn phòng Công ty mẹ, 2 chi nhánh, 3 nhà máy xí nghiệp trực thuộc, 3 công ty con và 4 công ty thành viên với tổng số Cán bộ công nhân viên là 5.095 người. Tại các công ty con và các đơn vị trực thuộc còn có các chi nhánh phụ thuộc.
Cùng với quá trình cải cách cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước trong những năm của thập kỷ 90, Haprosimex đã tự tìm cho mình một cơ cấu điều hành phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đó là một cơ cấu điều hành mới gọn nhẹ, hiệu quả, phát huy được tinh thần tự chủ sáng tạo của người lao động, phục vụ tốt chiến lược kinh doanh, gắn thu nhập của người lao động với hiệu quả làm việc của họ. Bộ máy ấy phải đủ linh hoạt để đáp ứng được những biến động của thị trường, đồng thời lại có khả năng mở rộng để thích nghi với từng giai đoạn kinh doanh, thuận lợi cho đầu tư chiều sâu,nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh lãng phí, dễ quản lý gám sát và nâng cao được thu nhập cho người lao động.
Theo đó công ty đã tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình sau:
Giám Đốc
Các Phó Giám Đốc
Văn phòng công ty
P.HC
Và
Tổng
Hợp
P.TC
Kế
Toán
Cty
LD
MSA
CN
Nam
Phi
Các đơn vị trực thuộc hạch toán nội bộ
P.KH
Và
Đầu
Tư
P.
Mẫu
P.
XNK
1,2,3,4,5,6,7
C/nh
Hcm
XN
May
T.Trì
XN
Mũ
XK
Chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh trong cơ cấu bộ máy quản trị.
* Ban giám đốc
Giám đốc:
Là người lãnh đạo cao nhất trong công ty , điều hành chung toàn bộ hoạt đông của công ty thông qua các phó Tổng giám đốc và các trưởng phòng chức năng ,đồng thời là người chịu trách nhiệm trước nhà nước và cấp trên về mọi hoạt động kinh doanh của công ty.
Các Phó giám đốc:
- Trực tiếp đàm phán và ký kết một số hợp đồng kinh tế khi được Tổng giám đốc ủy quyền
- Đại diện lãnh đạo về chất lượng, về môi trường, về trách nhiệm xã hội và an toàn sức khỏe
- Chủ trì xây dựng và trình tổng giám đốc duyệt các quy chế quản lý, thưởng phạt chất lượng và tổ chức thực hiện các quy chế đó.
- Nhận lệnh và báo cáo trực tiếp các vấn đề liên quan đến chất lượng cho Tổng giám đốc. Trực tiếp phụ trách các xí nghiệp thành viên thuộc công ty Haprosimex, phòng xuất nhập khẩu 1,2,3,4,5,6,7
* Các phòng tham mưu
- Phòng hành chính tổng hợp:
Nhiệm vụ của phòng bao gồm:
+ Nắm toàn bộ nguồn nhân lực của công ty.
+ Tham mưu cho giám đốc về sắp xếp,bố trí nhân lực.
+ Quy hoạch cán bộ ngắn và dài hạn.
+ Đưa ra các chính sách về chế độ lao động và tiền lương.
+ Xây dựng kế hoạch dài hạn hoặc ngắn hạn theo quý,tháng năm,phân bổ chi tiêu kế hoạch một cách đồng bộ và cân đối.
- Phòng tài chính- kế toán: Có nhiệm vụ lập theo dõi và kiểm tra sổ sách kế toán một cách hợp lý theo đúng chế độ và luật pháp do nhà nước ban hành, quản lý tốt các tín dụng tiền tệ , đáp ứng đủ ,kịp thời nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời chịu trách nhiệm về thu chi tài chính cũng như việc cung cấp chính xác các thông tin tài chính cho giám đốc.
- Phòng kế hoạch và đầu tư:
+ Nghiên cứu mở rộng thị trường, phát triển kinh doanh thương mại xuất khẩu
+ Công tác giao dịch đối nội, đối ngoại, đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế và thanh quyết toán hợp đồng.
+ Đánh giá nhà thầu phụ cung cấp dịch vụ gia công.
+ Lập kế hoạch, theo dõi đôn đốc, chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Phòng mẫu:
+ Chuyên thu thập và gom các mẫu hàng thủ công mỹ nghệ làm từ mây tre đan.
+ Kiểm định chất lượng mẫu từ các xí nghiệp và các đơn vị thành viên
+ Điều tra thị hiếu tiêu dùng của các nước bạn hàng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng theo yêu cầu của khách hàng, từ đó truyền tải đến các đơn vị sản xuất
- Các Phòng xuất nhập khẩu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
+ Trực tiếp tiến hành các công việc liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng theo yêu cầu của bản thân đơn vị và của các đơn vị khác uỷ thác nhập khẩu
+ Theo dõi về tình hình xuất nhập khẩu của công ty theo từng tháng, quí, năm và báo cáo trực tiếp lên ban giám đốc
- Các đơn vị hạch toán nội bộ:
Toàn bộ đầu vào là do công ty mẹ chỉ đạo trực tiếp.Việc hạch toán của công ty con chủ yếu là ghi chép các nghiệp vụ kinh tế xảy ra hàng ngày để tổng hợp và báo cáo lên cho phòng tài vụ kế toán của công ty mẹ.Số liệu về lợi nhuận,doanh thu sẽ được hạch toán chung với công ty mẹ. Mặc dù vậy các công ty con vẫn phải chịu phần lớn trách nhiệm của mình đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu công ty con làm ăn có lãi thì thu nhập và phần thưởng mà công ty mẹ chia cho sẽ lớn và ngược lại thì công ty con sẽ phải chịu trách nhiệm một phần trong số lỗ đó. Với cách quản lý này buộc các công ty con phải chủ động tiết kiệm quản lý sát sao tình hình chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất.
1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty
* Hiên nay, Haprosimex xuất khẩu rất nhiều mặt hàng tới nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng công ty xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm như hàng may mặc, mũ, hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ. Trong đó may mặc chiếm 50% và tập trung chủ yếu vào thị trường Mỹ, nông sản chiếm 40% và chủ yếu hướng vào thị trường châu Á và Âu, thủ công mỹ nghệ 10% .Ta có thể thấy rõ trong bảng số liệu dưới đây:
Bảng 1: Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng
Cơ cấu mặt hàng
Mặt hàng
%
Thị trường
Hàng may mặc, mũ
50
Mỹ 28%
Châu Âu 10%
Châu Á 10%
Thị trường khác 2%
Hàng nông sản
40
Châu Á 18%
Châu Âu 13%
Trung đông 5%
Thị trường khác 4%
Hàng thủ công mỹ nghệ.
10
Châu Âu 3,1%
Châu Á 2,4%
Mỹ 3%
Trung Đông và Thị trường khác 1,5%
(Nguồn : Phòng xuất nhập khẩu Haprosimex)
* Cơ cấu xuất khẩu thị trường của công ty Haprosimex rất đa dạng với việc Haprosimex đã và đang xuất khẩu sang 60 nước và vùng lãnh thổ trong đó tập trung chủ yếu vào Châu Mỹ và Châu Âu khi cùng đạt khoảng 30% và với việc đẩy mạnh sự hợp tác của chi nhánh Haprosimex tại Nam Phi đã nhanh chóng tăng thị phần ở Thị trường châu Phi và Trung Đông với 14% và thị trường này vẫn còn rất nhiều tiềm năng để phát triển trong tương lai. Đặc biệt, tại những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, hàng hoá mang thương hiệu Haprosimex vẫn chiếm lĩnh bằng chất lượng, mẫu mã và uy tín của mình. Để thâm nhập được vào thị trường các nước, hàng năm, Công ty thường xuyên tham gia các hội chợ quốc tế, khảo sát tìm kiếm thị trường mới, mặt hàng mới, đẩy mạnh quảng cáo.
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường tiêu thụ
Cơ cấu thị trường
Thị trường
%
Châu Mỹ
30
Châu Á
26
Châu Âu
30
Châu Phi, Trung đông
14
(Nguồn : Phòng xuất nhập khẩu Haprosimex)
* Hiện nay Haprosimex Group đứng trong top 10 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê và hạt tiêu lớn nhất cả nước. Việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới, đồng thời duy trì các thị trường, khách hàng, mặt hàng truyền thống, Haprosimex Group nhờ đó có một hệ thống khách hàng ổn định tại 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tất cả các châu lục, thương hiệu Haprosimex ngày càng có uy tín trên thương trường.
Với phương châm phát triển lâu dài, bền vững, Haprosimex là đơn vị đi đầu trong việc đầu tư những dự án sản xuất hàng xuất khẩu của TP. Hà Nội nhằm kết hợp chặt chẽ giữa kinh doanh xuất nhập khẩu với trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu lớn, ổn định và có chất lượng để nâng cao uy tín trên thương trường. Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty qua các năm không ngừng tăng lên được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu chung
Năm
Tổng Kim ngạch XNK
Kim ngạch XK
Kim ngạch NK
2004
114,716
69,138
45,578
2005
98,308
72,754
33,554
2006
132,233
102,595
29,638
2007
212,125
184,321
27,804
2008
165,169
129,024
36,145
(Nguồn : Phòng xuất nhập khẩu Haprosimex)
Đánh giá hiệu quả sản xuất - kinh doanh của công ty
Trong những năm qua, dù gặp rất nhiều khó khăn do tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động, giá cả đầu vào tăng cao, tỷ giá đồng USD bất lợi cho xuất khẩu đã tác động nhiều đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Song với sự quan tâm, chỉ đạo của Thành uỷ, UBND Thành phố, các sở ban ngành, các cơ quan đoàn thể của Trung ương và Thành phố, ngay từ đầu năm 2009, cấp uỷ Đảng, Ban lãnh đạo Công ty cùng với tập thể các đơn vị đã bám sát vào các chương trình, đề án công tác, nhiệm vụ trọng tâm, tập trung vào mục tiêu chung là đẩy mạnh sản xuất để xuất khẩu. Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể CBCNV, những năm qua tập thể Công ty HAPROSIMEX đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, kết quả kinh doanh và một số mặt công tác khác của Công ty đạt được cụ thể như sau :
Bảng 4: Chỉ số hiệu quả sản xuất kinh doanh
Năm
Doanh thu
(tỷ đồng )
Nộp Ngân sách
(tỷ đồng)
Lơi nhuận
(tỷ đồng)
Thu nhập
Bquân Ng/tháng
(triệu đồng)
Tổng Vốn
TK 411 NVKD
(tỷ đồng)
2004
1,107
58.249
7.935
1.2
51.127
2005
1,170
44.086
7.984
1.35
111.868
2006
1,661
51.719
9.982
1.5
128.385
2007
2,870
101.489
20.189
1.67
137.568
2008
2,588
-
-
1.674
-
9,396
255.543
46.09
-
428.948
(Nguồn : Phòng kế toán tổng hợp Haprosimex)
Trong nhiều năm, lợi nhuận của công ty tăng đều đặn, trong khi năm 2008 doanh thu có giảm. Đó là do ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới theo chiều hướng suy giảm, công ty đã không nằm ngoài quy luật. Tuy vậy, bản thân doanh nghiệp trong giai đoạn đó đã có những bước chững về đổi mới công nghệ, thiết kế và các kênh phân phối.
Thu nhập bình quân đầu người cũng gia tăng đều đặn. Đây là một tín hiệu đáng mừng giúp công nhân viên tin tưởng và làm việc tốt hơn, nhất là trong thời kì lạm phát cao và thất nghiệp như hiện nay.
2. Đặc điểm của sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
Mặt hàng TCMN nó được coi là một hàng hóa đặc biệt và có sự khác biệt so với các hàng hóa khác.
- Về thiết kế và mẫu mã.
Đối với mặt hàng TCMN thì mẫu mã của sản phẩm không thể sản xuất theo kiểu đại trà rồi muốn bán lúc nào thì bán, mà ở đây phải sản xuất theo đơn đặt hàng với mẫu mã cụ thể được khác hàng yêu cầu. Sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu và có thể bán được cho đúng khách hàng cần tới nó.
Riêng với những mặt hàng như khảm, sơn mài, điêu khắc thì với mỗi nước xuất khẩu lại có thể sáng tạo ra cho mình những sản phẩm mang tính đặc trưng riêng. Khi nhìn vào họa tiết, hoa văn trang trí có thể thấy được đó không chỉ đơn thuần là mặt hàng xuất khẩu thuần túy mà nó còn chứa đựng bên trong nghê thuật, bản sắc văn hóa dân tộc.Nhứng sản phẩm mà nó càng mang tính văn hóa dân tộc cao thì càng có giá trị và thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Về màu sắc.
Hàng thủ công mỹ nghệ rất đa dạng và phong phú nên còn tùy thuộc vào từng mặt hàng để có màu sắc phù hợp với thị hiếu của từng khách hàng song nhìn chung có thể khái quát như sau:
+ Đồ gỗ điêu khắc là mặt hàng mỹ nghệ xuất khẩu cao cấp được chạm trổ, trang trí rất công phu và tỉ mỉ. Mặt hàng này được làm từ các loại gỗ quý như Pơmu, Gụ,vv….nên khi sản phẩm hoàn thành thì tiền gỗ chiếm khoảng 30% giá thành sản phẩm còn lại là tiền công thợ và một số chi phí khác.
+ Đồ gốm sứ: Mặ._.t hàng này đòi hỏi phải có nước men bóng, màu sắc ưa nhìn và kết hợp với các đường nét họa tiết , kích thước tạo cảm giác thích thú khi chiêm ngưỡng sản phẩm. Chất liệu làm ra sản phẩm phải mịn màng không có tạp chất và nổi bọt khí bên trong.
+ Hàng sơn mài : Khi sử dụng sản phẩm này làm sao để tránh bị cong vênh, sứt mẻ. máu sắc phải hài hòa và mang đậm tính dân tộc trong sản phẩm.
+ Hàng thêu, mây ,tre , vv…Đối với các mặt hàng này thì đòi hỏi sản phẩm phải cao về mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng, chất liệu phải phù hơp với nhau.
Về chất liệu
Nguyên liệu để sản xuất ra mặt hàng này có giá rẻ từ đó làm cho chi phí sản xuất thấp, giá thành phải chăng và chủ yếu là từ tiền công thợ. Nước ta có vùng rừng nhiệt đới rộng lớn, là một trong những nước có diện tích cây lấy gỗ lớn nên rất phong phú về chủng loại cây .
Mặt khác hàng TCMN là mặt hàng phải chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết do các nguyên liệu đầu vào như cói, gốm sứ, ngô, dừa, mây, vv…phải phụ thuộc vào thời tiết mà công ty mới có thể thu mua được.Ngoài ra trong giá thành sản phẩm thì tiền công thợ chiếm tỷ trọng rất lớn cho nên giá trị nghệ thuật và chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc nhiều vào nhu cầu thẩm mỹ và thị hiếu của người tiêu dùng.
II. Thực trạng XK hàng TCMN trong những năm qua tại Haprosimex
1. Kế hoạch xuất khẩu hàng TCMN trong 2009- 2010
Bảng 5: Kế hoạch xuất khẩu hàng TCMN trong 2009- 2010
Mặt hàng
Giá trị
(1000 $)
Tỷ trọng
(%)
2009
2010
2009
2010
Đồ gỗ
3,524
4,229
24.63
24.77
Gốm sứ
3,478
4,069
24.31
23.83
Mây, tre, lá
2,549
3,135
17.82
18.36
Sơn mài
1,830
2,159
12.79
12.64
Thêu
1,756
2,089
12.27
12.23
TCMN khác
1,170
1,392
8.18
8.17
Tổng
14,307
17,073
100
100
Nguồn : Phòng xuất Kế hoạch Haprosimex)
Năm 2009 dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam khoảng 6% nhưng với Haprosimex do đã tạo được uy tín trên thị trường và có nhiều bạn hàng lâu năm nên công ty vẫn đề ra kế hoạch cho năm 2009 là xuất khẩu hàng TCMN tăng trung bình khoảng 11%. Sang năm 2010 khi kinh tế thế giới được dự báo là sẽ hồi phục công ty cũng đã đề ra mục tiêu là tăng khoảng 18- 21 % so với 2009. Đây có thể coi la chỉ tiêu phù hợp với tình hình của công ty hiện nay.
2. Kết quả của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Haprosimex trong giai đoạn 2004- 2008
Kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty qua 5 năm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6: Kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty qua 5 năm
ĐV tính: 1000$
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng doanh thu
70,152
76,910
103,232
187,819
142,146
Doanh thu xuất khẩu
69,138
72,754
102,595
184,321
129,024
Doanh thu xk hàng TCMN
6,221
6,583
11,261
19,472
12,902
(Nguồn: phòng kế toán, tài chính)
Nhìn chung, tình hình doanh thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ biểu hiện khá khả quan:
+ Doanh thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2004 chiếm 8.87% trong tổng doanh thu và chiếm 8.99% trong doanh thu xuất khẩu.
+ Doanh thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2005 chiếm 8.56% trong tổng doanh thu và chiếm 9.04% trong doanh thu xuất khẩu tăng 0.48% so với năm 2004.
+ Doanh thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2006 chiếm 10.91% trong tổng doanh thu và chiếm 10.98% trong doanh thu xuất khẩu tăng 85.12% so với năm 2005.
+ Doanh thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2007 chiếm 10.37% trong tổng doanh thu và chiếm 10.56% trong doanh thu xuất khẩu tăng 72.92% so với năm 2006.
+ Doanh thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2008 chiếm 9.08% trong tổng doanh thu và chiếm 10.01% trong doanh thu xuất khẩu giảm 33.74% so với năm 2007.
Qua kết quả phân tích trên cho ta thấy xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn đóng vai trò quan trọng và là hoạt động sản xuất kinh doanh chính của công ty, tuy nhiên xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với các mặt hàng khác, chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng số các mặt hàng xuất khẩu của công ty. Trong tương lai, công ty sẽ tập trung khai thác mặt hàng này để đưa tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn công ty lên cao hơn nữa.
3. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu hàng TCMN của Công ty
3.1 Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng
Bảng 7: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Trị giá (triệu USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (triệu USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (triệu USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (triệu USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (triệu USD
Tỷ trọng (%)
Đồ gỗ
1.126
18.10
1.218
18.50
2.243
19.92
4.056
20.83
3.064
23.75
Hàng gốm sứ
1.215
19.53
1.285
19.52
2.561
22.74
4.728
24.28
3.162
24.51
Hàng mây, tre, lá
1.136
18.26
1.176
17.86
1.829
16.24
3.315
17.02
2.317
17.96
Sơn mài
0.896
14.40
0.915
13.90
1.457
12.94
2.632
13.51
1.679
13.86
Thêu
1.028
16.52
1.120
17.01
1.564
13.86
2.685
13.79
1.626
12.60
TCMN khác
0.82
13.19
0.869
13.21
1.607
14.30
2.056
10.57
1.054
7.32
Tổng
6,221
100
6,583
100
11,261
100
19,472
100
12,902
100
Nguồn : Phòng xuất nhập khẩu Haprosimex)
Qua số liệu trên ta thấy, so với năm 2004 doanh thu xuất khẩu hàng Đồ gỗ tăng của công ty năm 2005 tăng 0.092 triệu USD, gốm sứ tăng 0.07 triệu USD , hàng mây, tre, lá giảm tăng 0.04 triệu USD, hàng sơn mài tăng 0.019 triệu USD),Thêu tăng 0.92 triệu USD.
- So với năm 2005, doanh thu xuất khẩu đồ gỗ của công ty năm 2006 tăng 1.025 triệu USD, hàng gốm sứ tăng 1.276 triệu USD, doanh thu xuất khẩu hàng mây, tre, lá tăng 0.653 triệu USD, hàng sơn mài tăng 0,542 triệu USD , thêu tăng 0.444 triệu USD, TCMN khác tăng 0.738 triệu USD .
- Năm 2007: Doanh thu xuất khẩu so với năm 2006 của đồ gỗ tăng 1.813 triệu USD, hàng gốm sứ tăng 2.167 triệu USD , hàng mây, tre, lá tăng 1.486 triệu USD, hàng sơn mài tăng 1.175 triệu USD, , thêu tăng 1.121 triệu USD, TCMN khác tăng 0.449 triệu USD .
.- Năm 2008: Doanh thu xuất khẩu so với năm 2007 của đồ gỗ giảm 2.075triệu USD, hàng gốm sứ giảm 2.056 triệu USD, hàng mây, tre, lá giảm 0.998 triệu USD, hàng sơn mài giảm 0.953 triệu USD, , thêu giảm 1.059 triệu USD, TCMN khác giảm 1.002 triệu USD .
Nhìn chung doanh thu từ xuất khẩu hàng thủ công của công ty tăng hàng năm.Đặc biệt là năm 2007 do điều kiện thuận lợi chung của nền kinh tế và Việt nam gia nhập WTO nên công ty đã có xuất khẩu tăng vọt.Nhưng sang năm 2008 do cuộc khung hoảng kinh tế toàn cầu và công ty cũng không tránh khỏi bị tác động nên kim ngạch xuât khẩu trong năm 2008 của công ty giảm so với 2007.
3.2 Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo thị trường
Bảng 8: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu hàng thủ công mỹnghệ của công ty vào từng thị trường
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Trị giá (USD)
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Mỹ
1.941
31.20
1.967
29.88
3.362
29.85
6.037
31
3.962
30.71
Châu Á
1,602
25.75
1.723
26.17
2.805
24.90
5.106
26.22
3.050
23.64
EU
1.852
29.77
1,941
29.46
3.459
30.72
6.212
31.90
4.027
31.21
Trung Đông và thị trường khác
0.826
13.28
0.952
14.49
1.635
14.53
2.117
10.88
1.863
14.44
(Nguồn: Phòng tài chính, kế toán cung cấp)
Theo bảng số liệu trên ta thấy thị trường xuất khẩu chính của hàng TCMN là EU, Mỹ, Châu Á.Trong đó thị trường EU và Mỹ luôn chiếm khoảng 30%. Kim ngạch xuất khẩu sang 2 thị trường này chiếm khoảng hơn 60% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, còn thị trường Châu Á cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn với trên 20% , còn lại là thị trường Trung Đông và các thị trường khác.
Hiên nay công ty cũng đang tiến hành thâm nhập một số thị trường mới nổi ở Châu Á, Châu Mỹ, Phi...
4. Giá cả mặt hàng xuất khẩu
Ta đã biết giá cả chính là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá, nó là một yếu tố cấu thành thị trường, giá cả luôn biến đổi và thay đổi không ngừng do phải chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Khi sản xuất, kinh doanh thì việc xác định giá cả là việc làm hàng đầu vì nó sẽ tác động lớn nhất đến sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Điều này còn đặc biệt hơn trong hoạt động ngoại thương khi mà giá cả rất khó có thể xác định chính xác, bởi vì giá cả luôn thay đổi không ngừng mà các hợp đồng ngoại thương thì thường kéo dài thời gian hơn. Chính vì thế việc làm thế nào để không bị thua lỗ là vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải xác định rõ ràng, nếu không các doanh nghiệp sẽ khó có thể đứng vững trên thương trường.
- Một số nhân tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế :
+ Nhân tố chu kì
+ Nhân tố cạnh tranh
+ Nhân tố lũng đoạn của các tập đoàn, các công ty siêu quốc gia
+ Nhân tố thời vụ, mùa
+ Nhân tố lạm phát
+ Các nhân tố về xung đột xã hội, thiên tai, bạo loạn, đình công vv… việc xác định giá cả sao cho hợp lí sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt rủi ro, an toàn và có lãi trong kinh doanh.
Riêng với mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì giá cả lại phụ thuộc rất nhiều vào thẩm mỹ, thị hiếu của khách hàng. Đối với mặt hàng cụ thể như tranh sơn mài, bình phong, lọ lục bình, hàng chạm gỗ, thêu vv … thì giá cả của các mặt hàng này là khác nhau.
Nhìn chung trong những năm trở lại đây thì giá cả của mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang có xu hương giảm nhưng tốc độ giảm của nó chậm do sự cạnh tranh trên thị trường cảu mặt hàng này ngày càng gay gắt hơn.
III. Đánh giá kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
1. Thuận lợi
Hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước ta đã và đang chiếm một vai trò quan trọng trong số các mặt hàng xuất khẩu.Nó đang là một trong những mặt hàng được quan tâm xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế như một mặt hàng mũi nhọn của nước ta. Hàng thủ công mỹ nghệ nước ta hiện nay đang thuộc diện mười nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất nước.
Những thuận lợi trong việc sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn. Ta có thể thấy được qua các yếu tố sau:
- Thứ nhất: Về nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thì nguyên liệu được lấy chủ yếu ở trong nước, nhu cầu nhập nguyên liệu phụ cũng là tương đối thấp, trị giá của các nguyên vật liệu phụ nhập khẩu chiếm trong giá thành sản phẩm (nếu có) cũng chỉ chiếm khoảng3% là tối đa. Đây chính là yếu tố rất cơ bản vì có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm bán ra.
- Thứ hai: Việc các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thì nhu cầu về vốn đầu tư nói chung là không lớn lắm so với việc sản xuất, kinh doanh các mặt hàng khác. Mặt khác, mặt bằng sản xuất còn có thể phân tán trong các gia đình, các hộ nông nhàn chứ nó không nhất thiết phải có cơ sở sản xuất tập trung như sản xuất các sản phẩm khác. Trong sản xuất thì một số khâu có thể sử dụng máy móc để thay thế cho lao động thủ công nhằm tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng có thể làm dần từng bước, không nhất thiết đòi hỏi cần phải giải quyết ngay trong một lần, vì vậy nó cũng sẽ tạo thuận lợi cho việc chuẩn bị về vốn. Chính trong điều kiện chung của các cơ sở sản xuất kinh doanh là có sự hạn chế về nguồn vốn thì đây có thể coi là một yếu tố giúp cho các làng nghề truyền thống có cơ hội phát triển .
- Thứ ba: Vì mặt hàng này chủ yếu làm thủ công nên có thể giải quyết nhiều lao động dôi dư mà trình độ không đòi hỏi phải quá cao. Số liệu thống kê và theo kinh nghiệm cho thấy nếu ta xuất khẩu được 1 triệu USD thì có thể thu hút thêm được khoảng 3500 - 4000 lao động chuyên nghiệp mỗi năm; còn nếu như là lao động nông nhàn theo thời vụ thì có thể thu hút gấp 3 đến 4 lần số lao động nói trên. Đây là một con số rất có ý nghĩa về mặt xã hội, nên nó rất được sự quan tâm và hỗ trợ của Đảng và Nhà nước. Nếu như kim ngạch xuất khẩu hàng năm không ngừng được tăng lên thì càng có ý nghĩa trong việc tạo được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và cải thiện được đời sống của người dân.
- Thứ tư: Hiện nay và trong tương lai khi thu nhập, đời sống của con người không ngừng được tăng lên thì nhu cầu tiêu dùng về mặt hàng này cũng ngày càng tăng lên, vì bên trong giá trị sử dụng của mặt hàng này là một yếu tố rất quan trọng đó chính là giá trị nghệ thuật được xuất phát từ đặc tính thủ công của nó. Khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên thì họ thường không còn quan tâm tới giá cả của mặt hàng lắm mà điều họ muốn đó là về mặt nghệ thuật của mặt hàng đó. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng mà các nhà sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nên quan tâm đến nhiều hơn.
- Thứ năm: Hàng thủ công mỹ nghệ với ưu thế chính của ngành nghề truyền thống đã được nhà nước đưa vào vào loại ngành nghề được ưu đãi về đầu tư. Vì vậy đây có thể coi là yếu tố tạo khá nhiều thuận lợi cho người sản xuất và kinh doanh hàng TCMN. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý lớn nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì những tác động của hoạt động điều tiết mà nhà nước đưa ra là rất lớn , nó có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Kết quả đạt được
Trong những năm vừa qua, công ty Haprosimex luôn chú trọng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế, trong đó có xuất khẩu hàng TCMN. Đây là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chính của công ty bên cạnh hàng may mặc, hàng nông sản và đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
- Haprosimex đã tạo lập được uy tín, thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế và là địa chỉ vàng đáng tin cậy của bạn hàng trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đội ngũ ban lãnh đạo công ty cũng là những người rất nhạy bén trong công việc cho nên khi thâm nhập vào thị trường họ đã nhanh chóng tìm ra được các sản phẩm phù hợp với nhiều khách hàng như từ các sản phẩm thông dụng hàng ngày đến các sản phẩm cao cấp, có giá trị nghệ thuật cao. Chính vì vậy mà các sản phẩm thủ công truyền thống của Việt Nam nhanh chóng được nhiều khách hàng trên thị trường quốc tế biết đến .
- Các sản phẩm của Haprosimex cũng không ngừng được nâng cao, cải tiến về mẫu mã và chất lượng sản phẩm như :
Các sản phẩm TCMN của Haprosimex có độ tinh xảo cao. Ngoài ra các sản phẩm được làm từ những nguyên liệu đơn giản, phủ hợp và thân thiện với môi trường nên rất được bạn hàng quốc tế ưa chuộng và tin dùng. Mặc dù các sản phẩm của công ty không cầu kỳ như các sản phẩm của các công ty đến từ Trung Quốc nhưng sự mới mẻ của Haprosimex luôn mang đến những nét đặc trưng của dân tộc, cũng như tạo ấn tượng tốt cho bạn hàng quốc tế.
- Ngoài nguồn vốn điều lệ, Haprosimex đã biết tìm cách huy động các nguồn vốn khác trong kinh doanh, cộng thêm cơ sở vật chất, từ đó tạo thêm sự uy tín và đảm bảo cho công ty trong việc sản xuất và xuất khẩu.
* Một số thành tựu về thị trường xuất khẩu hàng TCMN mà Haprosimex đã đạt được trong những năm qua :
- Thị trường tiêu thụ mặt hàng này của Haprosimex cũng ngày càng được mở rộng, các sản phẩm TCMN của công ty đã thâm nhập được vào nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhât, Đài Loan vv….
- Haprosimex cũng đã tiến hành mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt việc đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu. Từ việc đa dạng hoá các sản phẩm theo yêu cầu của từng khách hàng cụ thể, từng hợp đồng, mà khả năng chỉ đạo sản xuất gia công, quản lý chất lượng sản phẩm của công ty không ngừng được nâng lên. Đa dạng hoá các sản phẩm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc tiếp xúc trực tiếp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, của bạn hàng. Từ đó tìm được bạn hàng lâu dài, tạo tiền đề cho việc ổn định sản xuất và kinh doanh trong tương lai.
- Khối lượng xuất khẩu sản phẩm của công ty nói chung và hàng TCMN nói riêng đang ngày một tăng, điều này đã được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Haprosimex.
- Hiện nay, Haprosimex với tiềm năng sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức cũng như phương thức tổ chức quản lý thì có thể đánh gíá Haprosimex là một đơn vị sản xuất kinh doanh mạnh, có đủ khả năng tiếp cận với phương thức sản xuất mới, từ đó tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp và đủ sức cạnh tranh trên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì việc sản xuất kinh doanh hàng TCMN của Haprosimex cũng gặp rất nhiều khó khăn.Cụ thể là :
- Thứ nhất: Đó là việc tiếp cận được các nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính, hàng rào về thủ tục vay vốn và những yêu cầu về thế chấp tài sản của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng là điều mà các đơn vị sản xuất kinh doanh của công ty rất khó có thể tiếp cận được. Vì thế đây là một khó khăn lớn cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của công ty.
- Thứ hai: Một khó khăn khác đó là về mặt bằng cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở hiện còn thấp kém, hệ thống đường giao thông, bến bãi, kho cảng, đường điện vv… vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất, kinh doanh của công ty.
- Thứ ba :Thị trường tiêu thụ của Haprosimex còn gặp rất nhiều khó khăn. Những năm qua mặc dù nhu cầu mặt hàng này có gia tăng nhưng để nắm bắt được thị hiếu của từng thị trường tiêu thụ, tiếp cận thị trường mới, tìm được đối tác kinh doanh, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng lâu dài và ổn định, thì lại là việc hết sức phức tạp và khó khăn. Cho nên, để làm tốt công tác tiêu thụ sản phẳm thì khâu xúc tiến thương mại là khâu rất quan trọng, tuy nhiên chi phí cho hoạt động này là tương đối tốn kém mà người sản xuất kinh doanh nếu không có được sự hỗ trợ của nhà nước thì thường không thể tự mình làm được. Còn với các doanh nghiệp kinh doanh, nhằm đảm bảo thành công trong việc xúc tiến các hoạt động xuất khẩu thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tác và các cơ quan, các cơ quan của chính phủ có liên quan .Tuy nhiên đây là một việc làm hết sức khó khăn trong tình hình kinh tế như hiện nay.
- Thứ tư : Chính vì đặc điểm của sản xuất hàng TMCN là phải sử dụng các chất đốt rắn, có rất nhiều chất thải độc. Vì vậy việc xử lý chất thải không tốt sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hơn. Đối với các làng nghề và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ thì đây là gánh nặng mà khả năng xử lý của họ là rất thấp do điều kiện về tài chính và điều này sẽ làm ảnh hưởng rất lớn chất lượng cuộc sống của người dân xung quanh.
- Thứ năm: Đó là công việc tổ chức, khai thác và cung ứng nguồn nguyên vật liệu chưa được tốt.
Đối với các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ mà muốn có nguồn nguyên liệu thường phải mua lại từ nhiều nguồn khác nhau, mà chủ yếu là cung ứng gián tiếp, thậm chí là bất hợp pháp nên phải mua với giá cao từ đó làm tăng chi phí sản xuất. Và giá thành, sản phẩm thường không có hoá đơn giá trị gia tăng để được hoàn thuế khi xuất khẩu. Bên cạnh đó còn phải kể đến khó khăn về thủ tục hành chính trong tất cả các khâu từ sản xuất cho đến lưu thông: Giao nhận, vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá còn nhiều phiền hà, gây tốn kém về thời gian và chi phí đối với người sản xuất kinh doanh. Đối với công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà nội thì hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đều được thu gom, mua lại từ các cơ sở sản xuất, của các tư nhân trong nước. Chính vì thế mà những khó khăn và thuận lợi của công ty trong kinh doanh mặt hàng này cũng xuất phát từ những thuận lợi, khó khăn của người sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nói chung.
Hiện nay, một trong những vấn đề hàng đầu mà công ty đang quan tâm đó là đẩy nhanh tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh tiêu thụ. Bởi vì trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường là rất quan trọng. Hiện mặt hàng TCMN của Việt nam đã có mặt ở khoảng 163 nước trên thế giới, chủ yếu là thị trường châu Âu, Mỹ và một số thị trường châu Á như Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc, Singapore, v.v... và một số nước trung đông, Châu Phi. Mặc dù vậy ta vẫn chưa xuất khẩu được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn, chính vì thế khả năng mở rộng thị trường mới và tranh thủ các cơ hội và khai thác sâu vào các thị trường đã có nhất là với các thị trường có nhu cầu lớn và lâu dài là khả năng hiện thực và cần phải phấn đấu khai thác thật tốt trong những năm tiếp theo.
EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc thâm nhập các sản phẩm gỗ, gốm sứ, mây tre lá, hàng thêu. Còn với thị trường Nhật được coi là thị trường lớn cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mặt hàng được ưa chuộng nhiều nhất là mặt hàng về đồ gỗ, mây tre vv…. Theo như số liệu thống kê của Nhật Bản thì hàng năm nước ta đã xuất sang nhật khoảng 80 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ,mây tre đan, Nhật Bản cũng được coi là một thị trường nhập khẩu hàng gốm sứ lớn, tuy nhiên hiện mỗi năm nước ta chỉ khai thác được khoảng 5-6 triệu USD. Muôn xâm nhập được vào thị trường này thì việc nắm bắt các thông tin và kiến thức xúc tiến thương mại là rất quan trọng.Từ đó có phương thức và các kênh bán hàng phù hợp với thị trường nước bạn. Bên cạnh đó ta cũng phải phải tính đến các thị trường truyền thống như Nga, các nước SNG, Đông ÂU, Bắc Mỹ và một số thị trường mới nổi như Đài loan, Hàn quốc, Hồng kông, Trung đông và một số nước Châu Phi.
Là một công ty lớn của miền bắc, haprosimex xuất khẩu nhiều loại hàng, có mối quan hệ làm ăn với hơn 60 nước trên thế giới. Điều này tạo khá nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Thị trường chính nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty là các nước Eu, Mỹ, Nhật bản, Đài loan, Singapore , vv…..
Nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu Haprosimex đã từng bước nâng cao chất lượng về quản trị mua hàng và tiêu thụ sản phẩm.
3 Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được ở trên, công tác xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Haprosimex vẫn còn bộc lộ khá nhiều hạn chế và cần khắc phục trong thời gian tới:
- Về kiểu dáng và mẫu mã
Hàng TCMN là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của công ty. Doanh thu của hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ hàng năm chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong tổng số doanh thu xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn rất nhiều hạn chế mà hạn chế đầu tiên phải kể đến đó là về kiểu dáng mẫu mã, chất lượng sản phẩm.
Mới đây trong một cuộc khảo sát của Phòng kế hoạch thị trường cho thấy, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty còn rất yếu ở hai khâu đó là về thông tin thị trường và kiểu dáng mẫu mã của sản phẩm. Qua khảo sát đã cho thấy, khi mà thị trường nhất là ở thị trường các nước phát triển ngày càng trở nên bão hoà với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì sản phẩm có giá rẻ, mẫu mã đơn điệu thì chưa đủ để thoả mãn nhu cầu khách hàng, chưa tạo ra được sức cạnh tranh mà cái mà khách hàng các nước này cần đó là sản phẩm phải mang tính độc đáo, kiểu dáng đẹp.
Trong xu thế hiện nay việc thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nghệ nhân công ty thường đề cao tính nghệ thuật, độc đáo, ý nghĩa văn hoá của sản phẩm được làm ra. Các thiết kế sản phẩm mang tính “ độc nhất và của riêng mình", luôn được đề cao trong khi đó khả năng ứng dụng và tính thương mại của sản phẩm lại chưa được chú ý đến nhiều .
Các sản phẩm hàng TMCN thường được làm bằng tay đã tạo ra các sản phẩm bản gốc có tính độc đáo, tinh xảo cho công ty nhưng cũng vì thế mà giá quá cao không hợp túi tiền người nông dân trong nước, làm giảm sức cạnh tranh cho xuất khẩu. Mẫu mã sản phẩm, thiết kế thì còn đơn điệu, mang tinh copy nhiều hơn.
-Nguyên liệu
Cũng như đa số các ngành khác trong nền kinh tế, Hiện nay Haprosimex vẫn còn bị hạn chế về đầu vào sản phẩm , đó chính là nguyên vật liệu đầu vào để làm ra sản phẩm
Riêng đối với nguồn nguyên liệu mây hiện có, thì từ khi trồng đến khi thu hoạch phải mất khoảng sau 5 – 10 năm thì mới thu hoạch được vì vậy nguyên liệu mây vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho sản xuất.
Ngoài mây ra thì nguyên liệu tơ tằm cũng đang là thiếu rất nhiều. Hiện nay nguyên liệu tơ mà các ngành nghề sử dụng thuộc diện quản lý của công ty mới chỉ ở cấp B, C mà vẫn chưa đạt đến cấp A, với tình hình nguyên liệu như vậy thì các sản phẩm của công ty rất khó cạnh tranh. Ngoài ra hàng năm công ty còn nhập rất nhiều nguyên liệu tơ từ các nước láng giềng.
Hiện nay đang có sự khan hiếm trầm trọng với những cánh rừng đang bị lâm tặc chặt phá. Thêm nữa là từ lúc trồng đến lúc khai thác gỗ phải mất hàng chục năm nên việc đảm bảo nguyên liệu gỗ cho mặt hàng này gặp rất nhiều khó khăn.
- Về chất lượng sản phẩm
Khả năng đầu tư của doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm vẫn chưa cao, máy móc, trang thiết bị của công ty vẫn chưa đáp ứng được so với các doanh nghiệp khác và với các công ty Trung Quốc cho nên các sản phẩm của công ty vẫn còn thấp về chất lượng sản phẩm.
- Về công tác xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu thì còn yếu kém ở nhiều khâu đặc biệt là khâu nghiên cứu thị trường, tiếp cận thị trường, chưa thực sự nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khác hàng.Từ đó làm hạn chế khả năng xuất khẩu.
- Chưa tận dụng được hết tiềm năng
Trước kia kiểu làm trước rồi tìm khách hàng và thị trường sau đến nay không còn phù hợp nữa và tính hiệu quả thì cũng không cao. Tại vì nhu cầu của khách hàng thay đổi rất nhanh và ở mỗi thị trường khác nhau thì lại có một thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Nếu như một công ty cứ làm ra sản phẩm mà không tìm được khách hàng thì đó sẽ là một sự lãng phí tiền của, công sức và thời gian rất lớn. Có khi nếu công ty tìm hiểu thị hiếu và thị trường tiêu dùng rồi mà lại không chịu thường xuyên cập nhập thông tin thì rất có thể khi sản phẩm đầu tiên của công ty ra đời thì nó đã trở nên lạc hậu, không còn phổ biến nữa. Vì vậy muốn phát triển mạnh thực sự thì khâu điều tra thị trường mà trong đó marketing cần phải đầu tư hơn nữa chứ không thể thụ động như hiện nay công ty đang làm.Chỉ có như vậy thì công ty mới có thê tận dụng được các tiềm năng sẵn có.
Nhìn chung tỷ trọng mà công ty chiếm lĩnh hiện nay vẫn chưa phản ánh hết được năng lực của công ty. Sản phẩm, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của công ty không ngừng tăng lên. Mặc dù vậy bất kỳ hoạt động nào cũng có tính hai mặt của nó, bên cạnh những thế mạnh cần phát huy thì công ty cũng còn những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
* Sau đây là một số mặt chưa hợp lý:
- Công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường của Haprosimex thực hiện chưa tốt bởi vì công tác nghiên cứu thị trường chưa có được sự thống nhất đồng bộ, chưa phát huy được thế mạnh của nó cho hoạt động tiêu thụ cho nên thông tin về thị trường còn thiếu chính xác. Ngoài ra đội ngũ nghiên cứu chưa nhiều, tất cả còn tập trung ở phòng kinh doanh, trình độ nhân viên chưa đồng đều, khả năng chuyên môn hoá của họ cũng chưa cao. Các hoạt động điều tra còn mang tính thụ động, yếu kém, chưa được đầu tư đúng mức nên các thông tin thương mại đến với công ty còn ít và thiếu kịp thời và đôi khi là thiếu chính xác.
- Chất lượng quản trị mua hàng vẫn chưa được nâng cao cho nên vẫn còn tồn tại những đơn hàng có chất lượng chưa cao, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
- Công ty vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối và kỹ thuật.
- Các văn phòng đại diện thương mại của công ty ở nước ngoài không nhiều nên việc tiếp cận các thông tin thương mại còn nhiều hạn chế, chính điều này làm giảm khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của Haprosimex.
- Những hoạt động như hỗ trợ, xúc tiến bán hàng vẫn chưa được phát huy tác dụng .
Nguyên nhân
Những tồn tại nêu ở trên chịu ảnh hưởng không ít bởi các nguyên nhân, trong đó bao gồm một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Thứ nhất đó là do sự xuất hiện ngày càng nhiều các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay cùng với nhiều khu vực mậu dịch tự do thì các quôc gia trên thế giới đều có xu hướng mở cửa nhằm hướng ra thị trường nước ngoài do đó khối lượng hàng hoá đang lưu thông trên thị trường ngày một tăng lên. Ngoài ra các cơ chế,chính sách sản xuất kinh doanh của công ty mới được đổi mới trong những năm gần đây nên chưa thể thích ứng kịp với tốc độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế như hiện nay.
- Thứ hai là do hàng thủ công mỹ nghệ đang ngày càng có ưu thế rất lớn. Vì vậy mà ngày càng nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia xuất khẩu mặt hàng này. Những cơ sở sản xuất có quy mô không lớn băng công ty nhưng sản phẩm của họ lại đa dạng, giá rẻ hơn của công ty. Ngoài ra họ cũng có những phương thức giao dịch thanh toán, vận chuyển khá linh hoạt nên các cơ sở này cũng thu hút được khá nhiều khách hàng ngoài nước.
- Thứ ba là thị trường tiêu thụ của Haprosimex là ở nước ngoài nên công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường hiện gặp rất nhiều khó khăn vì chi phí cho hoạt động xúc tiến thương mại là rất lớn, cho nên nếu không có được sự trợ giúp của cơ quan có chức năng thì bản thân công ty cũng rất khó có thể làm tốt được công tác này.
- Thứ tư là chi phí cho hoạt động như thu gom, gia công chế biến và đây là bộ phận gián tiếp làm tăng giá thành sản phẩm và giá bán cao nên sức cạnh tranh trên thị trường của công ty là không cao.
- Thứ năm là vì hàng thủ công mỹ nghệ của Haprosimex phần lớn là được thu gom từ các cơ sở sản xuất, hộ nông nhàn, từ tư nhân nên việc quản lý chất lượng cũng gặp không ít khó khăn, bởi vì người sản xuất thường chạy theo lợi nhuận mà dễ bỏ qua các yếu tố về chất lượng sản phẩm, từ đó không đáp ứng được nhu cầu thị trường, làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Thứ sáu là vì các hoạt động xúc tiến bán hàng chưa phát huy hết hiệu quả trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra còn do đội ngũ nhân viên làm công tác tiêu thụ sản phẩm và mặc dù đã có nhiều cố gắng song do năng lực có hạn và còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên hiệu quả của công việc vẫn chưa đạt được kết quả cao.
Những phần trên chính là một số nguyên nhân cơ bản, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ của Haprosimex trong những năm qua. Bên cạnh đó thì việc duy trì và mở rộng thị trường còn bị chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, giá trị của ngoại tệ có nhiều biến động do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế ở một số nước trong khu vực và trên thế giới vv... Những nguyên nhân trên cũng là tiền đề cần thiết cho việc đề ra các phương hướng và biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty trong những năm._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21941.doc