Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty XNK Tổng hợp 1

Lời nói đầu Trong công cuộc đổi mới thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế nước ta hoà nhập cùng với khu vực và thế giới, hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng được xem trọng. Đảng và Nhà nước chủ trương "quan hệ với tất cả các nước", thực hiện đa phương hoá đa dạng hoá các hình thức quan hệ đối ngoại cho phép các đơn vị tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, khi tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường tất yếu có sự cạnh tranh gay gắt và đây vừa là cơ hội, vừa

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty XNK Tổng hợp 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là thách thức đối với các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó có Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I. Trong tình hình hiện nay khi mà cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực vừa mới đi qua để lại không ít vướng mắc, khó khăn cho các doanh nghiệp. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển vững chắc thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng tìm tòi, học hỏi, thay đổi cơ cấu và phương thức kinh doanh sao cho phù hợp với tình hình hiện tại. Do đó doanh nghiệp cần phải có những bước đi thích hợp, phát huy đầy đủ những tiềm năng sẵn có của mình để tăng khả năng cạnh tranh đa doanh nghiệp đi theo con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn là "Hướng nền kinh tế vào xuất khẩu". Qua thời gian thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I với nỗ lực tìm tòi, phân tích những đặc điểm, tình hình về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty tôi thấy việc đẩy mạnh xuất khẩu là một việc rất cấp bách và cần thiết. Do đó tôi quyết định chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I" làm luận văn tốt nghiệp. Mặt hàng may mặc chiếm vị trí hàng đầu trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty và có triển vọng trong những năm tới. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại mà lĩnh vực cực kỳ quan trọng là xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu được coi là yếu tố có ý nghĩa quyết định để thực hiện chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng và các hoạt động kinh tế khác. Để làm rõ vấn đề trên ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn tốt nghiệp này bao gồm 3 chương: Chương 1: Tầm quan trọng của mặt hàng may mặc trong chiến lược xuất khẩu ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I. Chương 3: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I. Trong quá trình thực tập và làm luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Duy Bột và các cô chú ở phòng nghiệp vụ 6 của Công ty XNK Tổng hợp I - Bộ Thương mại, nhân dịp này cho phép em bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giấo Nguyễn Duy Bột và các cô chú trong cơ quan. Tuy em đã cố gắng nhiều song do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn không tránh khỏi thiếu sót, nên em rất mong được các thầy, cô giáo và các cô chú ở Công ty XNK Tổng hợp I góp ý bổ sung để luận văn này được hoàn thiện hơn. Chương 1 Cơ sở lý luận của xuất khẩu hàng may mặc I. Bản chất, nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc . 1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là một hình thức biểu hiện của hoạt động KDTMQT. Nó được biểu hiện là việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này cho nước khác và dùng ngoại tệ chuyển đổi làm phương tiện trao đổi. Đằng sau việc trao đổi này là mối quan hệ xã hội và phản ứng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Với ý nghĩa đó, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò trong việc khai thác tiềm năng của đất nước. Hoạt động xuất khẩu thực sự cần thiết vì lý do cơ bản là nó đã mở rộng được khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu và khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu. Thực tế cho thấy rằng một quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ biệt lập với bên ngoài mà vẫn có đủ mọi thứ và phát triển được. TMQT cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với chất lượng và số lượng cao hơn ngoài ranh giới khả năng sản xuất trong nước nếu chỉ thực hiện tự cung tự cấp nếu không buôn bán với nước ngoài. Trong điều kiện phát triển của khoa học và công nghệ, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng khả năng dịch vụ đáp ứng nhu cầu con người ngày càng dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng lên. Khi chuyên môn hoá tăng lên, đồng thời làm tăng sự ràng buộc của các quốc gia trong việc sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trước hết TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện thuận lợi của mình, họ có thể chuyên môn hoá mặt hàng thích hợp và xuất khẩu để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác nhằm có lợi hơn. Song phần lớn số lượng hàng hoá được đưa vào trong TMQT không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất mà quan trọng là cả hai bên đều có lợi từ sự khác nhau về sở thích, về lượng cầu. Chính vì thế phát triển ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế mà Đảng và Nhà nước đang chú trọng đến. 2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. a. Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu mức cung ứng, giá cả thị trường, từ đó đáp ứng nhu cầu thị trường. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh và phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó lập ra kế hoạch. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường. Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái. Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Ngiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính. Phương pháp nghiên cứu tại bàn là thu thập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai, xử lý các thông tin đó. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp. Thông thường nghiên cứu thị trường bao gồm: * Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì ?). Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn những mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Mặt hàng đó vừa đáp ứng nhu cầu của thị trường vừa phù hợp với khả năng cũng như kinh nghiệm của doanh nghiệp. Khi lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, các nhà kinh doanh phải nghiên cứu những vấn đề sau: * Mặt hàng thị trường đang cần là gì ? Điều này nhà kinh doanh phải nhạy bén, biết thu thập, phân tích và sử dụng các thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng các quan hệ bán hàng ... để có được những thông tin cần thiết về mặt hàng, quy cách, chủng loại ... * Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào ? Việc tiêu dùng các loại mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu ... Khi nắm vững tập quán tiêu dùng của thị trường thì người cán bộ kinh doanh sẽ dễ dàng hơn trong việc nắm bắt và thoả mãn nhu cầu, có cơ sở để tiến hành hoạt động xuất khẩu. * Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống ? Thời gian tồn tại của một mặt hàng là nhất định. Chu kỳ sống của mỗi sản phẩm bao gồm 4 giai đoạn, do vậy các nhà xuất khẩu cần phải xác định được sản phẩm mà mình muốn xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để từ đó có biện pháp thích hợp nhằm tăng doanh thu. Một là giai đoạn triển khai: Đây là giai đoạn đầu của sản phẩm, sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường và chưa có các sản phẩm khác cạnh tranh nên cần đẩy mạnh công tác quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết đến sản phẩm. Hai là giai đoạn tăng trưởng: ở giai đoạn này, sản phẩm bắt đầu được bán trên thị trường và cũng bắt đầu có sự cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh bán hàng, đưa ra nhiều chủng loại sản phẩm độc đáo để tạo môi trường tốt cho doanh nghiệp, tăng khả năng lựa chọn của khách hàng. Ba là giai đoạn bão hoà: Đây là giai đoạn có mức cạnh tranh lên tới mức quyết liệt giữa các chủ thể tham gia. Doanh số bán tăng chậm và giảm dần, lợi nhuận trong kinh doanh giảm. Doanh nghiệp cần nghiên cứu để cải tiến sản phẩm hay có một chiến lược marketing hiệu quả hơn. Bốn là giai đoạn suy thoái: Giai đoạn này, doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí tăng cao. Do vậy doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cần rút ra khỏi thị trường để tìm cơ hội kinh doanh mới. Việc rút ra khỏi thị trường cần được dự đoán và tính toán một cách thận trọng và chính xác. * Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp cần phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp mình xuất khẩu. Xem xét khả năng sản xuất, mức tiến bộ khoa học kỹ thuật ... để có thể đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định. * Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán đi đâu ?) Việc nghiên cứu thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc nghiên cứu thị trường trong nước, bởi việc nghiên cứu phải đi sâu nghiên cứu một số vấn đề khác như điều kiện tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải, tình hình giá cước ... Doanh nghiệp xuất khẩu cần phải xác định được mặt hàng nào vào thị trường nào, thời điểm nào, hình thức marketing như thế nào. Cụ thể, doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề: * Thị trường và dung lượng thị trường. Doanh nghiệp cần có các thông tin về thị trường hàng hoá theo nhóm hàng và điều kiện cần thiết, từ đó có thể hiểu sâu về những thị trường này. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường và dung lượng thị trường: + Các nhân tố là dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Sự vận động của tình hình kinh tế, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Từ đây, doanh nghiệp quyết định thời gian, địa điểm và đối tác giao dịch. + Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường. Thành tựu khoa học kỹ thuật cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình. Điều này có nghĩa dung lượng thị trường mở rộng. Các biện pháp, chính sách của chính phủ hoặc tập đoàn tư bản lớn cũng có ảnh hưởng tới sự thay đổi dung lượng thị trường. Thị hiếu, tập quán tiêu dùng của thị trường ... nhà doanh nghiệp cần phải quan tâm để tác động từ đó hướng dẫn thị hiếu hoặc thay đổi thị hiếu tiêu dùng. + Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường. Đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và các sự biến động của chính sách kinh tế xã hội, các yếu tố hoạt động khác. * Vấn đề biến động giá cả trên thị trường. Việc phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị trường quốc tế là cơ sở để giúp các nhà sản xuất xác định được mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. Trong mua bán xuất nhập khẩu, việc mua bán hàng hoá và vận chuyển chúng phải trải qua một thời gian dài và qua các nước,các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế quan, phong tục tập quán ...) đã làm giá cả biến động một cách phức tạp, dẫn đến các nhà xuất khẩu phải luôn theo dõi, nắm bắt được sự biến động của giá cả quốc tế, từ đó có mức giá chính xác, tối ưu. * Lựa chọn bạn hàng kinh doanh (bán cho ai ?) Để lựa chọn đối tác buôn bán có hiệu quả, nên tìm hiểu các nội dung sau: - Quan điểm kinh doanh của đối tác. - Lĩnh vực kinh doanh của họ. - Khả năng về tài chính (khả năng về vốn và cơ sở vật chất) - Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh. - Những người đại diện cho Công ty kinh doanh và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với Công ty, nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện cho Công ty. Việc lựa chọn bạn hàng kinh doanh sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để có sự thành công cao nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. b. Tạo nguồn hàng xuất khẩu của doanh nghiệp. Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu được (đảm bảo những yêu cầu về chất lượng quốc tế). Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy, công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính: - Loại hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì hoạt động này là cơ bản và quan trọng nhất. - Loại hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá. Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu. Thu mua tạo nguồn hàng là một hình thức hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng xuất khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Thông qua các đại lý thu mua hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng. Đẩy mạnh công tác thu mua tạo nguồn hàng là một trong những chiến lược của doanh nghiệp nhất là trong tình hình cạnh tranh diễn ra gay gắt. * Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là biểu hiện bề ngoài của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Thực tế hiện nay có một số hình thức sau: - Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng... Đơn hàng thường là căn cứ để ký kết hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu theo hợp đồng. Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng ... thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được pháp luật bảo vệ. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu không theo hợp đồng. Đây là hình thức mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán. Hình thức này thường sử dụng thu mua hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là hàng lâm sản chưa qua sơ chế. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất. Đây là hình thức doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu thông qua các đại lý. Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chọn các đại lý thu mua phù hợp. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu thông qua đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến. Các doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị ... cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm, không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường. Tóm lại, các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, của mặt hàng, quan hệ cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dụng các hình thức thu mua thích hợp. * Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau: - Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn tạo ra được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương cần phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong thời gian hợp lý, làm cơ sở vững chắc cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật không. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước so với giá cả quốc tế như thế nào. Sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, bao gói... thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, vì vậy nó sẽ quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương. - Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu. Xây dựng một hệ thống thu mua hàng thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu. - Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công. Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. - Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu. Sau khi ký kết hợp đồng với các chân hàng và các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương cần phải lập được các kê hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch. - Tiếp cận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuát khẩu. c. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu. - Các hình thức giao dịch. Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực người tiến hàng giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch cho phù hợp. Thông thường có các hình thức giao dịch sau: + Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc, thảo luận trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán ... Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp. + Giao dịch qua thư tín: Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín. Sau đó khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Nội dung cần trao đổi với bạn hàng như giá cả, mẫu mã, chất lượng, số lượng hàng hoá... bằng Fax hay thư tay... + Giao dịch qua điện thoại: Việc giao dịch qua điện thoại giúp nhà doanh nghiệp đàm phán khẩn trương, đúng thời cơ. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức này chỉ nên dùng trong những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi điện thoại cần phải chuẩn bị nội dung chu đáo. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán. - Đàm phán và nghệ thuật đàm phán: Đàm phán trong kinh doanh, bất cứ loại hình thức nào, đều là một nghệ thuật. Trong kinh doanh Thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán trong kinh doanh cũng như khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi đến ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong Thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao. Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo. - Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Hợp đồng xác nhận rõ ràng trách nhiệm của bên mua và bên bán, tránh không đồng nhất về ngôn ngữ hay trách nhiệm. Khi ký một hợp đồng kinh doanh xuất khẩu cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây: Một là, tính hợp pháp của hợp đồng xuất khẩu. - Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hàng vi. - Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. - Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. - Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt, khi ký kết phải tuân theo những thủ tục thể thức nhất định. Hai là, nội dung các điều khoản của hợp đồng. Một hợp đồng ngoại thương thông thường gồm các điều khoản sau: - Tên hàng. Tên hàng ghi trong điều khoản này đủ để mô tả chính xác hàng hoá có phù hợp với đối tượng của hợp đồng không ? - Phẩm chất. Bao gồm các đặc trưng của hàng hoá: Tính năng, quy cách, kích thước, chất lượng mẫm mã, kiểu dáng, mùi vị ... Nhà sản xuất phải kiểm tra những nội dung này có đúng với thoả thuận đàm phán không, phương pháp xác định phẩm chất có hợp lý rõ ràng không ... - Số lượng. Nhà xuất khẩu cần chú ý đến tính chính xác và đơn vị tính, số lượng được ghi trong hợp đồng. Đơn vị được ghi trong mua bán ngoại thương thường theo những tiêu chuẩn quốc tế, có nhiều điểm khác biệt với đơn vị tính toán trong nước. Phải ghi rõ tính xác định đơn vị lf thuộc loại tiêu chuẩn gì. - Điều khoản giao hàng. + Thời điểm giao hàng: Là thời hạn giao hàng có định kỳ, thời hạn giao hàng không có định kỳ hay thời hạn giao hàng ngay. + Địa điểm giao hàng: Phải tương ứng với điều kiện cơ sở giao hàng. + Phương thức giao hàng: Quy định về giao nhận sơ bộ hay giao nhận cuối cùng, giao nhận số lượng hay giao nhận chất lượng. + Thông báo giao hàng. + Một số quy định khác đối với việc giao hàng như: Hàng có khối lương lớn, hàng cần phải thay đổi phương tiện vận chuyển, hàng đến trước giấy tờ. - Điều khoản giá cả. + Đồng tiền tính giá và phương pháp tính giá. Tuỳ theo thoả thuận của hai bên mà quy định đồng tiền tính giá. Phương pháp xác định giá: Giá xác định, giá quy định sau hay giá có thể xem xét lại, giá di động hay giá trượt ... Mỗi phương pháp xác định giá sẽ có mức giá khác nhan. + Giảm giá: Quy định rõ các trường hợp giảm giá và tỷ lệ là bao nhiêu ? - Điều kiện cơ sở giao hàng. Đây là điều khoản khá phức tạp và quan trọng do liên quan trực tiếp đến giá cả. Việc xem xét điều khoản này tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng được thuận lợi, tránh những tranh chấp đáng tiệc xẩy ra. Có những điều kiện cơ sở giao hàng sau: EXW, FCA, FAS, FOB, CFR, CIF, DAF, DES, DEQ, DDU, DDP ... - Điều khoản thanh toán. Thanh toán là vấn đề quan trọng. Trong hợp đồng mua bán ngoại thương, nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi cũng như mục đích của các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Điều này càn quy định những điểm sau: + Đồng tiền thanh toán: Đồng tiền thanh toán có thể khác với đồng tiền tính giá. + Thời hạn thanh toán: Có thể là trả ngay, trả trước, trả sau hay sự kết hợp giữa các hình thức trên. + Phương thức thanh toán: Gồm các phương thức chủ yếu sau: phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ, phương thức chuyển tài khoản, ghi sổ ... Hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ đang được sử dụng phổ biến nhất. + Các chứng từ thanh toán. - Điều khoản bao bì, ký mã hiệu. + Bao bì phải phù hợp với phương tiện vận tải. + Các quy định cụ thể vật liệu làm bao bì. + Ký mã hiệu hàng hoá được viết bằng mực không phai, không nhoè, dễ đọc, dễ thấy, không làm ảnh hưởng đến phẩm chất hàng hoá. - Điều khoản bảo hành. Trước khi ký kết hợp đồng, nhà xuất khẩu nên lưu ý kiểm tra tính rõ ràng của thời hạn bảo hành và các nội dung liên quan đến bảo hành - Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại. Cần xem xét những trường hợp nào được bồi thường, phạt và mức độ bồi thường, phạt như thế nào, căn cứ vào đâu để thanh toán. - Điều khoản bảo hiểm. Ai là người mua bảo hiểm, mua theo điều kiện nào. - Điều khoản bất khả kháng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có những cản trở bất khả kháng liên quan đến từng công đoạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Ký kết hợp đồng phải rõ trường hợp nào được coi là bất khả kháng, thủ tục ghi nhận bất khả kháng và quan hệ của bất khả kháng. - Điều khoản khiếu nại và trọng tài. Quy định rõ khi có tranh chấp xảy ra thì giải quyết bằng thương lượng trực tiếp, nếu không thành thì đưa lên trọng tài hoặc toà án kinh tế nước nào: Nước xuất khẩu, nước nhập khẩu hay nước thứ ba ?. - Các điều kiện khác như: Lệ phí, thuế quan, chi phí nguồn hàng có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng là bao nhiêu ?. d. Thực hiện hợp đồng, thanh quyết toán hợp đồng xuất khẩu. - Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Thực hiện hợp đồng là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời cũng có ảnh hưởng đến doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất kỳ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng đều dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp đồng, suy giảm chất lượng hàng hoá dẫn đến những tranh chấp khiếu nại rất khó giải quyết, gây tổn hại về mặt kinh tế. Vì vậy, tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo, có bài bản dựa trên cơ sở tiết kiệm tối đa các khâu chi phí nhằm nâng cao lợi nhuận từ hoạt động nâng cao xuất khẩu. Sơ đồ 1.1. Nội dung trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau: Làm thủ tục hải quan Kiểm nghiệm hàng hoá Mua bảo hiểm Thuê tàu Kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá Giao hàng lên tàu Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại * Kiểm tra L/C Sau khi ký kết hợp đồng, nhà xuất khẩu ở nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thống báo tại Việt Nam. Nhà xuất khẩu sau khi nhận được giấy báo xin mở L/C của đối tác thì cần kiểm tra nội dung L/C thật chặt chẽ, xem có đúng như hợp đồng đã ký kết chưa. Nếu có gì chưa hợp lý cần báo lại cho phía nước ngoài để hai bên cùng thống nhất sửa lại. * Giấy phép xin xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và bằng pháp luật, hàng hoá là đối tượng quản lý có ba mức: - Những danh mục hàng hoá Nhà nước cấm buôn bán xuất nhập khẩu hoặc tạm dừng. - Những danh mục hàng hoá quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch. - Những danh mục hàng hoá được phép xuất nhập khẩu ngoài hạn ngạch. Xin giấy phép xuất khẩu trước đây là một công việc bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Nhưng theo Quyết định số 55/1998/QĐ/TTg ban hành ngày 03/03/1998 kể từ ngày 18/03/1998 (ngày quyết định có hiệu lực), tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh trong nước của mình không cần phải xin giấy phép xuất khẩu tại Bộ thương mại. Quy định này không áp dụng đối với một số mặt hàng đang còn quản lý theo cơ chế riêng (cụ thể là những mặt hàng gạo, chất nổ, sách báo, ngọc trai, kim loại quý, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm và đồ cổ). * Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Người xuất khẩu phải tiến hành chuẩn hị hàng hoá để xuất khẩu. Công việc tiến hành chuẩn bị hàng hoá gồm ba giai đoạn sau: - Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu. - Đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu. Phải lựa chọn bao bì phù hợp với mặt hàng và yêu cầu của hàng hoá xuất khẩu đúng với cam kết đã nêu ra trong hợp đồng, đồng thời có hiệu quả kinh tế là cao nhất. - Kẻ ký mã hiệu hàng hoá, Phải đảm bảo nội dung thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức và vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá. Đồng thời phải thoả mãn yêu cầu: sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu, không gây khó khăn cho việc nhận biết hàng hoá. * Thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, việc thuê tàu chở hàng dựa trên các căn cứ sau: - Những điều khoản hợp đỗng xuất khẩu hàng hoá. - Những đặc điểm hàng hoá xuất khẩu. Nếu hàng hoá có khối lượng nhỏ, không cồng kềnh, không quá gấp thì nên thuê tàu chợ. Nếu hàng hóa có khối lượng lớn, cồng kềnh đòi hỏi những đặc biệt nào đó về vận chuyển thì nên thuê tầu chuyến. Nếu xuất khẩu hàng hoá là hàng tươi sống thì cần phải thuê phương tiện vận tải có thiết bị đông lạnh. - Điều kiện vận tải. * Mua bảo hiểm: Trong chuyên chở hàng hoá xuất khẩu thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy trong kinh doanh thương mại quốc tế, hàng hoá xuất khẩu thường được mua bảo hiểm để tránh những rủi ra quá lớn. Việc mua bảo hiểm loại nào cần căn cứ vào tính chất hàng hoá, tình trạng bao bì, tình hình an ninh, chính trị xã hội của các nước có liên quan, tình hình thời tiết ... Có 02 loại hợp đồng bảo hiểm, đó là hợp đồng bảo hiểm bao (OPEN POLICY) và hợp đồng bảo hiểm chuyến (VOYAGE POLICY). Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm: - Điều kiện A: Bảo hiểm mọi rủi ro - Điều kiện B: Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng. - Điều kiện C: Bảo hiểm không có bồi thường tổn thất riêng. Ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: Bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động ... * Kiểm nghiệm hàng hoá: Kiểm tra chất lượng hàng hoá là một công việc cần thiết và quan trọng bởi vì nhờ công tác này mà quyền lợi khách hàng được bảo đảm, ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu, phân định._. trách nhiệm thuộc về ai. Công tác kiểm tra hàng hoá xuất khẩu được tiến hành ngày sau khi hàng chuẩn bị đóng gói tại cơ sở, còn hàng kiểm tra tại cửa khẩu do khách hàng trực tiếp kiểm tra hoặc cơ quan có thẩm uyền kiểm tra tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của đôi bên. * Làm thủ tục hải quan: Thủ tục hải quan là cách thức để nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu bao gồm: Bước 1: Khai báo và tiếp nhận hồ sơ Hải quan. + Người xuất khẩu phải tự khai thác đối tượng làm thủ tục Hải quan theo mẫu tờ khai do Tổng Cục trưởng Tổng Cục Hải quan quy định. + Nộp và xuất trình bộ hồ sơ Hải quan. Đối với hàng hoá xuất khẩu, bộ hồ sơ bao gồm: - Tờ khai hải quan. - Hợp đồng thương mại. - Bản kê chi tiết (đối với hàng không thuần nhất). - Các giấy tờ khác (đối với hàng xuất khẩu có điều kiện hoặc có quy định riêng). Bước 2: Xuất trình và kiểm tra hàng hoá. Đối với người làm thủ tục hải quan: + Xuất trình đầy đủ hàng hoá để cơ quan hải quan kiểm tra theo thời gian và địa điểm quy định. + Bố trí phương tiện và nhân công phục vụ việc kiểm tra hàng hoá của cơ quan hải quan. Bước 3: Thông báo thuế, thu nộp thuế. Việc tính thuế, thu nộp thuế, thu thế tiền hàng theo quy định của luật thuế xuất khẩu và các luật thuế có liên quan. Bước 4: Giải phóng hàng: + Đối với hàng hoá xuất khẩu không có thuế, hàng hoá được miền thuế, hàng có thuế suất = 0, hàng gia công, hàng đặc biệt khác sẽ được giải phóng ngay sau khi có kết luận về kết quả kiểm tra của cơ quan hải quan. + Đối với hàng xuất khẩu thuộc diện có thuế, được giải phóng hàng sau khi đã nộp thuế. Hàng có thời gian ân hạn thuế, được giải phóng hàng sau khi nhận thông báo về thuế. Bước 5: Kiểm tra sau khi giải phóng hàng. Doanh nghiệp có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ hải quan cũng như lô hàng đã giải phóng trong thời hạn 5 năm kể từ ngày giải phóng hàng hoá và có trách nhiệm xuất trình bộ hồ sơ cùng sổ sách, chứng từ có liên quan khác cho cơ quan hải quan khi cơ quan hải quan yêu cầu. * Giao hàng lên tầu: Tuỳ theo thảo luận về điều kiện cơ sở giao hàng mà việc giao hàng lên tầu là thuộc trách nhiệm của bên bán hay bên mua. Trong những trường hợp nhà xuất khẩu chịu trách nhiệm chuyên chở thì công việc giao hàng xuống tàu tiến hành theo trình tự như sau: - Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bảng đăng ký hàng chuyên chở. - Xuất trình bảng đăng ký hàng hoá chuyên chở cho người chuyên chở để xếp lấy hồ sơ xếp hàng. - Trao đổi với các cơ quan nắm vững ngày giờ giao hàng. - Bố trí việc chuyên chở hàng vào cảng và bốc xếp lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó sau khi đã bốc xếp hàng lên tàu, đây là xác nhận của tàu vận chuyển về số lượng đã bốc xếp lên tàu, sau đó lấy biên lai tàu phó đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn này có giá trị về mặt pháp lý, là cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể xảy ra về hàng hoá bảo hiểm. Nếu hàng vận chuyển bằng đường sắt hau bằng Container để chuyên chở hàng hoá. * Làm thủ tục thanh toán: Đây là khâu quan trọng và là khâu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động xuất khẩu. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu một phần nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập khẩu được hàng hoá. Trong thanh toán phải chú ý đến các vấn đề sau: - Tỷ giá hối đoái. - Tiền tệ trong thanh toán. - Thời hạn thanh toán. - Phương thức và hình thức thanh toán. - Điều kiện bảo đảm thanh toán. Có nhiều loại thanh toán được sử dụng, cần phải biết lựa chọn các phương pháp các phương tiện cũng như thời hạn, phương thức và điều kiện một cách có lợi nhất ... * Giải quyết khiếu nại (nếu có). Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất khẩu có thể xảy ra những vấn đề phức tạp, không mong muốn làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng, khi đó hai bên cần có thiện chí trao đổi, thảo luận để giải quyết. Nếu giải quyết không thành thì tiến hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài. Thông thường kiện tụng được đưa ra giải quyết ở cơ quan trọng tài quốc tài. Việc kiện lên cơ quan trọng tài hay được sử dụng để giải quyết tranh chấp vì án phí rẻ hơn so với toà án, giải quyết nhanh bảo đảm được bí mật. Phán quyết của trọng tài kinh tế là trung thẩm có giá trị bắt buộc đối với hai bên. Tóm lại: Việc tổ chức hợp đồng xuất khẩu là hết sức quan trọng, kết quả của nó phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện tốt các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là cơ sở để nâng cao uy tín đặt quan hệ kinh doanh lâu dài với bạn hàng, tạo điều kiện mở rộng phạm vi và đẩy mạnh kinh doanh. * Thanh quyết toán hợp đồng xuất khẩu: Để hoạt động kinh doanh xuất khẩu đạt hiệu quả tốt thì mỗi thương vụ phải thành công, phải đạt hiệu quả. Để xác định một thương vụ có đạt hiệu quả hay không phải tiến hành thanh quyết toán hợp đồng xuất khẩu. Doanh thu thuần = doanh thu bán hàng xuất khẩu - thuế doanh thu bán hàng xuất khẩu. Chi phí cho hoạt động xuất khẩu gồm: + Chi phí mua hàng để xuất khẩu. + Chi phí thuê tầu. + Chi phí thuế xuất khẩu. + Chi phụ lưu thông: Chi phí vận chuyển, chi phí bốc dỡ, chi phí giao nhận, chi phí kho bãi, các khoản lệ phí. + Chi phí cho ngân hàng ... Hiệu quả của thương vụ: Lợi nhuận = tổng doanh thu thuần – tổng chi phí cho hoạt động xuất khẩu. e . Công tác hỗ trợ xuất khẩu: Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt công tác hỗ trợ hoạt động xuất khẩu trở nên hết sức cần thiết để tồn tại và phát triển, xúc tiến là một công cụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh xuất khẩu xúc tiến bán là các hoạt động của daonh nghiệp nhằm tìm kiếm thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại. Xúc tiến bao gồm các hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng, các hoạt động yểm trợ sản phẩm, quan hệ với công chúng. * Quảng cáo: Theo bộ luật Thương mại Việt Nam, quảng cáo là hành vi thương mại của thương nhân nhằm giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm xúc tiến thương mại. Doanh nghiệp có thể sử dụng: - Các phương tiện quảng cáo quốc tế là những phương tiện được lưu hành ở hai hay nhiều quốc gia. Báo và tạp trí nổi tiếng, các phương tiện truyền thanh và truyền hình quốc tế. Ngày nay, quảng cáo trên các trang WEB của mạng máy tính toàn cầu INTERNET được coi là khá hữu hiệu. - Các phương tiện quảng cáo trên một quốc gia gồm: Báo, tạp trí chuyên ngành, phát thanh, truyền hình, các phương tiện quảng cáo ngoài trời... - Tuỳ từng khách hàng, sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn phương tiện quảng cáo phù hợp. * Xúc tiến bán: Xúc tiến bán hàng là tất cả các hoạt động MARKETING nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng tới một sản phẩm làm cho nó hấp dẫn hơn ở nơi bán hoặc nơi tiêu thụ. Xúc tiến bán hàng có đối tượng là các trung gian phân phối (nhất là người bán lẻ) và người tiêu dùng cuối cùng. Xúc tiến bán hàng bao gồm các hình thức sau: - Thay đổi hình thức sản phẩm: Những thay đổi về bao gói, nhãn hiệu hay các dịch vụ khác làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn với người mua. - Khuyến khích mua hàng: Bao gồm các biện pháp như bớt tiền cho người mua hàng, hạ giá tạm thời, bán trả góp, thưởng cho người mua nhiều bằng một sản phẩm khác ... - Khuyến khích mua hàng: Bán trả góp, hạ giá tạm thời ... - Các mẫu hàng: Mẫu hàng cung cấp cho các khách hàng về sự nhận biết về hình dáng chất lượng. - Trưng bầy tài liệu về địa điểm bán. * Các hoạt động yểm trợ sản phẩm. Các hoạt động liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và thông tin mà nhà sản xuất cung cấp thêm cho khách hàng. CATALOG: Là một công cụ bán hàng phổ biến có ý nghĩa lớn đối với khách hàng ở xa. Bằng việc cung cấp những thông tin cần thiết từ kích cỡ, mầu sắc, số lượng, bao gói, thời hạn cung cấp, giá cả, hình thức thanh toán có thể thu hút sự chú ý của khách hàng, gợi sự quan tâm, thuyết phục hành động mua hàng. - Các tài liệu về doanh nghiệp: Cung cấp cho nhà phân phối, đại lý hay khách hàng những thông tin về doanh nghiệp. - Quan hệ công chúng. Tham gia các cuộc triển lãm, hội trợ trong nước và quốc tế. Tổ chức các cuộc họp mặt với khách hàng, cổ đông, nhân viên... nhằm xây dựng mối quan hệ giữa doanh nghiệp với công chúng tạo thuận lợi cho việc bán hàng sau này. II. Vai trò và vị trí của xuất khẩu hàng may mặc. 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc trong nền kinh tế quốc dân. Thời đại ngày nay là thời đại hoà bình, mở rộng giao lưu kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Xu thế phát triển của nhiều nước là thay đổi kinh tế từ “đóng cửa” sang “mở cửa” từ “thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả” sang “hướng mạnh vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường duy nhất tạo ra sự tăng trưởng vượt bậc, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với nước ngoài. Đối với nước ta, nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất còn lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu là cực kỳ quan trọng. Thông qua các kỳ đại hội Đảng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn thừa nhận là mục tiêu mũi nhọn để phát triển. Trong các mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu ngày càng tăng và chiếm một vị trí quan trọng, chính vì thế, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc cũng đóng vai trò to lớn trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Cụ thể: * Thông qua xuất khẩu hàng may mặc, chúng ta có thể thu được nguồn ngoại tệ lớn, góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán ngoại thương, cán cân thanh toán, tăng trữ lượng ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, tăng tích luỹ cho sự phát triển sản xuất. * Xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần còn dẫn đến liên doanh, liên kết giữa các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước một cách tự giác, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động may mặc của Việt Nam đã thu hút gần nửa triệu lao động đây là con số không nhỏ. Điều đó thể hiện được vai trò rất quan trọng của hoạt động may mặc, nó không những tạo được công ăn việc làm mà còn góp phần ổn định kinh tế - chính trị của đất nước. * Thông qua xuất khẩu, chúng ta có thể phát huy được những mặt hàng có lợi thế so sánh, trao đổi thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiến tiến... Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá, đồng thời tăng các ngành công nghiệp chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu, sản xuất ra hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. * Xuất khẩu tất yếu dẫn tới cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia xuất khẩu bao gồm cả trong nước và nước ngoài. Dẫn đến chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế trong nước tăng lên, tạo được năng lực công nghiệp mới. * Xuất khẩu thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Xuất khẩu hàng may mặc phát triển thì các ngành sản xuất ra vải sợi ... cũng phát triển, tạo phản ứng dây chuyền làm cho cả nền kinh tế phát triển. * Xuất khẩu là để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại khác cùng phát triển như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dịch vụ du lịch quốc tế, di chuyển sức lao động, chuyển giao công nghệ. Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò như một chất xúc tác hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế mà còn cùng với nhập khẩu trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên liệu, thị trường... Đối với nước ta hiện nay, hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về công nghệ của Việt Nam đối với thế giới và trước hết là các nước thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương. 2. Vị trí của hàng may mặc trong chiến lược xuất khẩu. Trong những năm gần đây, ngành may mặc phát triển mạnh và rộng khắp. Trên cơ sở mở rộng thị trường, các ngành kinh tế đều tham gia đầu tư, tăng thêm năng lực sản xuất. Ngành công nghiệp may có những lợi thế nhất định như vốn đầu tư không lớn (một dây chuyền nhập thiết bị may chỉ khoảng 200 - 300 nghìn USD chưa kể nhà xưởng), quay vòng vốn nhanh, thu hút nhiều lao động, đặc biệt có điều kiện mở rộng thị trường (trong nước và xuất khẩu). Vì lẽ đó, trong khoảng 10 năm ngành may mặc đã có bước phát triển mạnh. Theo kết quả điều tra, hiện nay ngành may mặc có trên 92 doanh nghiệp quốc doanh, hơn 70 Công ty tư nhân, thu hút khoảng 500 nghìn lao động, có khả năng sản xuất trên 400 triệu sản phẩm hàng năm, trong đó hơn 240 triệu sản phẩm do các Công ty may công nghiệp sản xuất. Nếu so với nhiều nước trên thế giới thì kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam còn rất nhỏ bé (năm1997, Thái lan đạt 5,4 tỷ USD, ấn Độ đạt 5,9 tỷ USD, trong khi Việt Nam chỉ đạt 1,3 tỷ USD). Tuy nhiên, xét theo xu thế thì kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam từ 1991 đến nay liên tục tăng mạnh cụ thể là: Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn 1991-2001 Năm Kim ngạch (triệu USD) Tăng so với năm trước (%) 1991 143 1992 220 54 1993 360 64 1996 360 53 1997 550 36 1998 1052 40 1999 1300 23,5 2000 1350 3,8 2001 1382 2,37 (Nguồn: kinh tế và dự báo 1/2001) Có thể nói xuất khẩu hàng may mặc đã, đang và sẽ là ngành hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam rong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng hàng năm cao từ 20 - 30% (chưa kể yếu tố lạm phát) liên tục ổn định kéo dài gần chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng chủ lực khác vươn tới vị trí số 1 trong danh sách 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2001. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong cơ cấu xuất khẩu cũng ngày một tăng và chiếm một tỷ lệ quan trọng (khoảng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu). Tuy nhiên xuất khẩu hàng dệt may nói chung và đặc biệt may mặc hiện nay mới chỉ dừng ở mức gia công xuất khẩu là chủ yếu (chiếm khoảng 70 - 80%) đem lại nguồn thu cho đất nước hàng năm khoảng 300 triệu USD tiền lãi. Điều quan trọng hơn là góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động trên mọi miền đất nước. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khu vực hơn 2 năm qua, xuất khẩu của nước ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng nặng nề mặc dù có quan điểm cho rằng nước ta có mức độ hội nhập chưa cao nên ít bị ảnh hưởng. Thực ra không hoàn toàn như vậy. Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Liên tục nhiều năm qua, tốc độ phát triển xuất khẩu luôn gấp 3 lần mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Mức tăng nhập khẩu cũng tương tự. Năm 1998, do tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực, xuất khẩu chỉ tăng 2,4 % bằng 41% mức tăng GDP. Bốn tháng đầu năm 2000, tình hình còn tồi tệ hơn: lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 1999. Giá xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực của ta như dầu thô, gạo, cà phê hạt điều ... biến động mạnh theo hướng bất lợi cho xuất khẩu. Trong khi đó xuất khẩu hàng dệt may vẫn giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược xuất khẩu và ổn định xã hội của nước ta trong những năm tới. Qua thực tiễn phát triển xuất khẩu hàng may mặc, chúng ta có thể khẳng định rằng tiềm năng xuất khẩu của mặt hàng này rất lớn về cả chủ quan và khách quan. Về khách quan hầu như chúng ta chỉ xuất khẩu sang hai thị trường là Nhật Bản và EU. Mà kim ngạch xuất khẩu của chúng ta vào hai thị trường này còn rất nhỏ bé so với nhu cầu nhập khẩu của họ. Hàng năm, chúng ta xuất khẩu vào hai thị trường này trên 1 tỷ USD trong khi họ nhập khẩu 40 - 50 tỷ USD hàng dệt may. Thị trường Bắc Mỹ đầy tiềm năng nhưng cho đến nay một phần bị hạn chế bởi hạn ngạch Canada, một phần tuy ta đã được hưởng quy chế tối huệ quốc Mỹ nhưng hàng dệt may của ta không thể thâm nhập được hoặc thâm nhập rất ít so với nhu cầu, bởi đây là thị trường còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Về chủ quan, năng lực sản xuất và chất lượng hàng dệt may của một số Công ty lớn nước ta đã đứng vững và có uy tín trên các thị trường thời trang khắt khe nhất trên thế giới như Paris, Luân đôn, Rôm, Berlin, Tôkyo ... Tuy Việt Nam có khá nhiều lợi thế cho phát triển hoạt động may mặc xuất khẩu nhưng nhìn nhận một cách tổng quát và khách quan theo xu hướng phát triển dài hạn thì hàng may mặc đang phải đứng trước những thách thức từ mọi phía trong tương lai gần: * Rõ nhất là những hạn chế về trình độ công nghệ và năng lực sản xuất ở phần lớn các doanh nghiệp may mặc. Công nghệ may mặc của Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu đồng bộ, sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh yếu. Theo UNDP, ngành may mặc Việt Nam đang ở trình độ 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu đến 2-3 thế hệ. * Thứ hai là lạc hậu về cách thức tổ chức sản xuất và thị trường tiêu thụ. Hiện tại đại bộ phận các doanh nghiệp may mặc (kể cả các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân) đều đang làm gia công cho nước ngoài và xuất khẩu theo cơ chế hạn ngạch. Hình thức làm thuê này có nhiều điểm bất lợi, hiệu quả kinh tế thấp, không ổn định do phụ thuộc vào giá gia công và bị động về nguyên liệu nhập. Mặc dầu gia công cho nước ngoài có nhiều thua thiệt nhưng hiện nay 90% doanh nghiệp gia công cho nước ngoài do thiếu vốn, không có đơn vị đặt hàng và cái chính là không có tên tuổi trên thị trường thế giới. * Một thách thức nữa đối với ngành may mặc xuất khẩu của nước ta là do sự tăng trưởng quá nhanh của ngành may đem lại, sự tăng trưởng nhanh dẫn đến tình trạng thiếu công nhân lành nghề và cán bộ khoa học công nghệ may. Để đáp ứng tốc độ tăng trưởng của ngành thì cần bổ sung hàng năm cho ngành may từ nay tới năm 2010 khoảng 3400 lao động, trong đó đối với bậc đại học, cao đẳng cần bổ sung 200 kỹ sư công nghệ. Thế mà hiện mới chỉ có 2000 công nhân kỹ thuật được đào tạo tại các trung tâm dạy nghề của tổng Công ty dệt may, 50 kỹ sư công nghệ trong đó hơn 20 kỹ sư công nghệ được đào tạo tại đại học Bách Khoa, một số được đào tạo tại một số trường công nghiệp nhẹ. Ngành may mặc đang đứng trước nguy cơ báo động thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật công nghệ và khó có thể bổ sung kịp thời trong 1- 2 năm tới. * Về nguyên vật liệu, nguồn nguyên liệu nội địa chưa phong phú, ngành dệt và may thiếu sự hợp tác trong thời gian dài nên sản phẩm dệt không phù hợp với yêu cầu của may dẫn đến tình trạng trong khi ngành dệt chưa tìm được đầu ra thì ngành may lại phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. * Về giá gia công, khi nhân công Việt Nam tăng lên so với các nước trong khu vực thì ngành may mặc của Việt Nam có nguy cơ mất việc. Trong quá trình mở cửa hội nhập, giá nhân công Việt Nam sẽ tăng lên không ngừng. Nừu cách đây vài năm so với mức lương 15 - 20 USD/ người/ tháng đã là cao thì nay dù với 30 - 35 USD/người/tháng đã trở thành thấp. * Về thị trường tiêu thụ, ngành may mặc đang gặp rất nhiều khó khăn. Tốc độ phát triển sản xuất cao gấp nhiều lần so với mức tăng của hạn ngạch vào thị trường EU. Hạn ngạch chỉ sử dụng chưa đến 40% năng lực sản xuất của các doanh nghiệp. Ngay cả hiệp định mới với EU cũng chỉ đảm bảo sử dụng hết 50% năng lực sản xuất của ngành may. Thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của ngành may mặc nước ta là Nhật Bản lại bị giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và tiền tệ của các nước trong khu vực. Thị trường Mỹ hầu như chưa được khai thác do còn nhiều khó khăn về thuế nhập khẩu và sự đòi hỏi khắt khe của thị trường này. Mặt khác đồng tiền của các nước Đông Nam á bị phá giá cho phép họ giảm giá xuất khẩu, gây sức ép đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Ngoài ra về chủng loại mẫu mã hàng may mặc xuất khẩu nước ta còn nghèo nàn yếu kém, chưa đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của các nước khó tính nh EU, Mỹ, Nhật Bản... Hàng may mặc Việt Nam vốn đã có chỗ đứng khá vững trên thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu nhưng năm 1991 khi khối các nước này tan vỡ thì ngành may mặc của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó hàng Trung Quốc tràn vào với giá rẻ hơn nhiều, chất lượng tuy thấp nhưng mẫu mã vô cùng phong phú, họ đã nắm bắt được thị hiếu của người dân Đông Âu nên dần dần chiếm lĩnh thị trường và đánh bại hàng may mặc của Việt Nam. Như vậy, với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc trong những năm tới và nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường quốc tế thì toàn ngành phải nỗ lực hết sức, giảm bớt những khó khăn mà ngành có thể kiểm soát được và phát huy những lợi thế trong cạnh tranh. 3. Các lợi thế phát triển xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Trước tiên, ta phải khẳng định rằng Việt Nam có một vị trí địa lý thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu t nước ngoài để phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu. Diện tích đất đai Việt Nam là 331.689 Km2 với dân số khoảng 78 triệu người, lại nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ Đông Bắc á sang các nước Nam á, Trung Đông và Châu Phi. Bờ biển Việt Nam dài 3260 km với nhiều cảng sâu và khí hậu tốt. Điều này cho phép tàu bè các nước bạn có thể ra vào quanh năm. Việt Nam còn nằm trên trục đường bộ và đường sắt từ Châu Âu sang Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Pakistan, ấn Độ... về vận tải hàng không, chúng ta cũng có các sân bay đạt tiêu chuẩn quốc tế và các sân bay phân bố đều trên lãnh thổ đất nước. Lợi thế thứ hai là, may mặc là ngành nghề truyền thống của đất nước Việt Nam, vốn đã được phát triển từ lâu đời, nó gắn bó với nhân dân ta từ nông thôn đến thành thị. Do đó nghề may mặc ở nước ta đã có sẵn gốc, các nghệ nhân giàu kinh nghiệm đã truyền cho lớp hậu thế những bí quyết quý báu giúp nghề may mặc phát triển. May mặc cũng là những mặt hàng chúng ta có lợi thế so sánh về chi phí sản xuất do giá nhân công và nguyên phụ liệu tương đối rẻ. Lợi thế thứ ba là nguồn lao động dồi dào. Tính đến nay, dân số Việt Nam khoảng 78 triệu người, trong đó hơn 30 triệu người đang ở độ tuổi lao động, 52% lao động là nữ. Do đặc điểm lao động may mặc tương đối nhẹ nhàng, không đòi hỏi nhiều đến sức lực, phù hợp với lao động nữ. Bởi vậy, may mặc có nhiều thuận lợi khi phát triển ở một nước có tủ lệ nữ cao như ở Việt Nam. Mặt khác, lao động nhất là nữ công nhân lao động ở Việt Nam vốn có tiếng là chịu khó, cần cù, thông minh và khéo léo rất phù hợp với ngành may mặc. Hơn nữa, giá công may ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước Đông Nam á và thế giới. ở Đức, giá công may là 15,56 USD/giờ; Nhật là 16,37 USD/giờ, Mỹ 10,33 USD/giờ; Thái Lan 0,87 USD/giờ; Trung Quốc 0,34 USD/giờ trong khi ở Việt Nam chỉ ở mức 0,19 USD/giờ. Trong khi ở Việt Nam chưa có lợi thế về kỹ thuật thì do chính yếu tố lao động dồi dào và tiền lương thấp là lợi thế cơ bản của Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế. Bảng 2: So sánh tiền lương bình quân của công nhân may các nước Châu á. STT Nước Lương USD/tháng 1 Việt Nam 30 2 Indonesia 83 3 Malaixia 100 4 Singapore 120 5 Hồng Kông 415 6 Hàn quốc 612 7 Đài Loan 767 (Nguồn: kinh tế Châu á - Thái Bình Dơng) Lợi thế thứ tư là hoạt động may mặc không đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Để xây dựng được một chỗ làm việc trong ngành may cần 700 - 800 triệu đồng. Đối với Việt Nam, một quốc gia còn nhiều khó khăn về vốn thì đây là một ngành rất thích hợp để phát triển. Cũng nhờ yếu tố này, mỗi năm con số xí nghiệp may với quy mô vừa và nhỏ cũng lên tới hàng trăm, thu hút hàng ngàn lao động và rút ngắn thời gian hoàn vốn. Lợi thế thứ năm là lợi thế về bạn hàng và quan hệ quốc tế. Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993. Theo hiệp định, Việt Nam được xuất khẩu vào EU 151 chủng loại mặt hàng (catagory) trong đó có 46 loại được xuất khẩu tự do vào EU không bị ràng buộc bởi hạn ngạch (free - quota). Ngoài ra còn có 13 mặt hàng theo hình thức gia công thuần tuý với số lượng nhỏ như hàng thêu ren mà Việt Nam dã gia công cho Italia hàng trăm tấn mỗi năm... Tổng số hạn ngạch theo hiệp định là 21.297 tấn với kim ngạch khoảng 45 triệu USD. Trong những năm thực hiện hiệp định với EU, việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào EU tăng mạnh, từ chỗ chỉ xuất khoảng 10 chủng loại mặt hàng đã tăng lên 55 chủng loại, từ khối lượng 670 nghìn tấn lên đến 1300 nghìn tấn. Kim ngạch hàng may mặc xuất khẩu vào EU tăng lên từ 250 triệu USD năm 1993 lên đến 285 triệu USD năm 1994 và năm 1995 là 310 triệu USD. Đặc biệt ngày 21/12/1998, Hội đồng Châu Âu đã thông qua quy chế số 2820/1998 về ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) áp dụng từ 1/7/1999 đến 21/12/2001. Theo đó mặt hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam nhập vào EU chịu mức thuế từ 8,9% lên 11% giá trị lô hàng xuất khẩu. Điều này sẽ tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho may mặc xuất khẩu Việt Nam phát triển. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 28/7/1995 và APEC tháng 11/1998, đang là ứng cử viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đặc biệt quan hệ Việt Nam - Mỹ đang từng bước nới lỏng, hiện nay đã ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ đó là cơ hội rất lớn cho thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Mỹ nói chung và xuất khẩu may mặc nói riêng. Với những lợi thế trên, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương phát triển ngành may mặc, coi đó là ngành công nghiệp mũi nhọn đầy tiềm năng. Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 cũng là tạo điều kiện rất nhiều trong việc phát triển ngành này. Hiện nay, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và bỏ vốn vào ngành may mặc Việt Nam. Các xí nghiệp liên doanh ra đời tạo cho may mặc Việt Nam có cơ sở hạ tầng hiện đại, vững chắc và chắc chắn trong những năm tới may mặc Việt Nam sẽ có những bước tiến vượt bậc, góp phần đưa kinh tế Việt Nam ngày càng đi lên. iii. Đặc điểm hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. 1. Thị trường hàng dệt may Việt Nam. 1.1. Thị trường trong nước. Thời gian trước, thị trường cho hàng may mặc trong nước là một thị trường rất tổng hợp. Thời trang không theo hẳn một xu hướng nào. Hàng may mặc nước ngoài điển hình là hàng Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, hàng secondhand nhập lậu, tràn vào thị trường Việt Nam gây rất nhiều khó khăn cho các nhà sản xuất may mặc Việt Nam và phá giá hàng may mặc Việt Nam. Bên cạnh đó hàng của Công ty may Việt Nam cũng tự cạnh tranh nhau, làm lũng loạn thị trường hàng may mặc Việt Nam vì không có một sự quản lý nhất quán. Công ty nào muốn bán được nhiều hàng nên họ sẵn sàng bán phá giá với những biểu hiện như (đại hạ giá) gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác. Nhưng cũng phải thấy rằng, tập quán tiêu dùng của người Việt Nam đang thay đổi. Trước năm 1992, hàng may sẵn công nghiệp chỉ chiếm khoảng 20% thị phần tại các thành phố lớn nhưng hiện nay theo đánh giá của các chuyên gia đã chiếm 60-70% trên cả nước. Người tiêu dùng Việt Nam chỉ cần mặc đủ ấm và ấm nay đã tìm đến các hàng may thời trang công nghiệp như áo Jacket, sơmi, quần kaki, quần Jean, mốt mới và người Việt Nam càng sành điệu hơn, hiểu biết hơn về kiểu dáng cũng như chất lượng của sản phẩm may công nghiệp. 1.2. Thị trường nước ngoài. * Thị trường EU: EU là một thị trường đông dân (khoảng 375 triệu người) và có sức tiêu dùng hàng dệt may cao. Mức tiêu thụ hàng dệt may theo đầu người của thị trường này vào loại cao trên thế giới, 17 kg vải/đầu người một năm. Nhu cầu tiêu dùng về mặc (bảo vệ thân thể) chỉ chiếm 10 - 15% giá trị sản phẩm, còn 85 - 90% là theo mốt nên hàm lượng chất xám trong dệt may rất cao. EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo vệ cao. Đây là thị trường hạn ngạch nên sản phẩm của Việt Nam xuất vào chỉ có giới hạn nhất định. Hơn nữa mối quan hệ truyền thống lâu đời trên lĩnh vực dệt may với hơn 50 nước khác là sự thẩm định nghiệt ngã đối với sản phẩm, là bức tường ngăn cản sự thâm nhập của các doanh nghiệp nước ta vào thị trường này. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU tuy chưa lớn (chỉ chiếm khoảng 0,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vào EU và chỉ bằng 5% so với Trung Quốc, 10-20% so với các nước EU) nhưng đã đạt doanh số không ngừng tăng lên trong 7 năm qua. - Năm 1995 đạt 250 triệu USD. - Năm 1996 đạt 285 triệu USD. - Năm 1997 đạt 350 triệu USD. - Năm 1998 đạt 420 triệu USD. - Năm 1999 đạt 450 triệu USD. - Năm 2000 đạt 650 triệu USD. - Năm 2001 đạt 697 triệu USD Cùng với việc tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu, chất lượng hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU cũng được cải thiện một bước. Số mặt hàng xuất khẩu giảm từ 151 mặt hàng năm 1992 xuống còn 54 mặt hàng năm 1995 và 29 mặt hàng năm 1998. Một điều lưu ý là có tới 70% quota của Việt Nam đi qua các khách hàng trung gian như Hồng Kông, Hàn Quốc, Đức, do vậy may mặc Việt Nam cần cố gắng để giảm sự phụ thuộc vào các nước trung gian và tiến tới buôn bán trực tiếp với khách hàng. * Thị trường Nhật Bản. Thị trường dệt may Nhật bản là một thị trường dệt may rất lớn và không hạn ngạch, xuất khẩu theo phương thức mua đứt - bán đoạn. Yêu cầu của người Nhật về mẫu mã chất lượng hàng dệt may rất cao. Hiện nay Việt Nam đang đứng vị trí thứ 7 trong số các nước xuất khẩu hàng may mặc vào Nhật bản, Nhật bản cũng đã có một số công trình liên doanh may mặc với Việt Nam tại Hà Tĩnh, Vũng Tàu, đây là thị trường có tính cạnh tranh khốc liệt về hàng hoá xuất khẩu. Trong tương lai, nếu đầu tư tốt, chất lượng được nâng cao thì Việt Nam mới có khả năng xâm nhập vào thị trường này với khối lượng sản phẩm lớn. * Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ. Thị trường mỹ là một thị trường khá hấp hẫn, lý tưởng cho ngành may mặc Việt Nam vì đó là một thị trường đông dân (xấp xỉ 360 triệu người) nhưng mức tiêu thụ hàng dệt may lại gấp rưỡi EU (27 kg vải/người một năm). Thị trường này có đặc điểm là nhu cầu tiêu dùng rất lớn, xong nhập khẩu là chủ yếu, sản xuất trong nước không đáng kể. Nguồn nhập hàng chủ yếu từ các nước Châu á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN... Phải nói rằng, thị trường Mỹ và Bắc Mỹ là một thị trường đầy triển vọng đối với ngành may mặc Việt Nam, nhất là từ 2/1994 Mỹ xoá bỏ cấm vận thương mại, 8/1994 Mỹ xoá bỏ cấm viện trợ, 7/1995 Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. * Thị trường SNG và một số nước Đông Âu Thị trường này có đặc điểm là đồng tiền biến động lớn, kém ổn định, song đây là thị trường lớn, lại là thị trường truyền thống và qu._. thị trường này là rất lớn (riêng Canada là nước nhập khẩu đứng thứ 7 trên thế giới). Còn một lý do nữa, hàng xuất khẩu của ta vào thị trường Mỹ không nhiều do thuế nhập khẩu của Mỹ có sự phân biệt rõ rệt về mức thuế đối với những nước hưởng MFN và những nước không được hưởng sự chênh lệch của 2 mức thuế này khá xa 60 - 90%. Nh vậy làm sao chúng ta có thể cạnh tranh được với mức giá cộng thêm thuế nhập khẩu quá đắt. Mong rằng sắp tới sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết sẽ tạo động lực để kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này tăng mạnh hơn nữa. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ và Bắc Mỹ, Công ty phải nghiên cứu kỹ những điều kiện đối với mặt hàng được hưởng mức thuế ưu đãi và hệ thống pháp luật của các nước đó. Xuất khẩu là mục tiêu chính của Công ty, nhưng để đẩy mạnh hoạt động này đồng thời để nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng may mặc này, tại sao Công ty lại không thử sức với các Công ty khác trên thị trường nội địa với dân số gần 78 triệu người, chỉ một năm cho may mặc thì doanh số đã là 7800 tỷ đồng, đó là một số không nhỏ. Như vậy, mục tiêu trong thời gian tới Công ty sẽ tung vào thị trường nội nhiều sản phẩm mẫu mã đa dạng, phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Lựa chọn được thị trường định hướng, Công ty sẽ phải nghiên cứu về khách hàng. Khách của mình là ai?, là cá nhân (những người tiêu dùng cuối cùng)?, là cơ quan đoàn thể hay chính phủ? Là những người trung gian? Là những người sản xuất? ... Họ mua sản phẩm của Công ty nhằm mục đích gì? Để tiêu dùng hay để bán? Nghiên cứu về khách hàng, Công ty phải nắm được thu nhập tính theo đầu người, vị trí của người tiêu dùng trong xã hội và đặc biệt là thị hiếu tiêu dùng. Mỗi dân tộc có sở thích và kiểu dáng, màu sắc, chất liệu, ... Thường thì quần áo trẻ em có màu sắc sặc sỡ hơn quần áo người lớn, nữn thích màu sáng hơn nam giới, người Châu Âu thích màu nổi tôn da nh màu đen, vàng, đỏ, người da đen thích màu trắng, người Đức thích quần áo pha nhiều màu... Đối với khách hàng của nhiều khu vực, Công ty cũng phải nghiên cứu về kích cỡ để đưa ra các thông số kỹ thuật cho phù hợp. Ví dụ người Bắc Âu thường cao hơn người Tây Âu, phụ ngữ Nga thì to béo, phụ nữ Đức thì cao gầy, ... Thông thường có 4 loại kích cỡ từ nhỏ tới lớn: S, M, L, XL, XXL tuy nhiên kích cỡ này lại phân theo hệ, hệ Mỹ, hệ Châu lục, hệ Đông Nam á. Với các hệ khác nhau thì kích cỡ của từng lứa tuổi, giới tính cũng khác nhau. Cũng cỡ L nhưng người Châu á khác người Châu Âu, cỡ nam khác cỡ nữ, cỡ trẻ em khác cỡ người lớn, ... Đối với loại áo sơ mi, người ta thường lấy số đo vòng cổ làm làm chuẩn sau đó chiếu sang các số đo vai, tay, thân. Đối với quần âu thì người ta lấy số đo vòng bụng, mông làm chuẩn để suy ra độ dài, rộng. Trong nghiên cứu thị trường, một yếu tố không thể thiếu là Công ty phải nghiên cứu môi trường để hiểu biết về những đòi hỏi, các điều kiện mà các quốc giao dành cho nhau, tránh xung khắc về luật pháp, hiểu được môi trường văn hoá và giữ được bản săc dân tộc riêng, ... có như vậy, Công ty mới có thể dễ dàng thâm nhập và thị trường mới. Ngoài ra, Công ty cũng phải tính toán được thị phần mà Công ty đã chiếm lĩnh hoặc sẽ chiếm lĩnh trên thị trường. So sánh thị phần của doanh nghiệp với thị phần của đối thủ cạnh tranh để biết được vị trí của mình. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để biết được đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường, đồng thời xác được Công ty có thể cạnh tranh được với đối thủ nào? các điểm mạnh của đối thủ mà mình cần tránh, điểm yếu mà ta cần tấn công được thì cần phát huy. Nếu không đánh giá đúng đối thủ cạnh tranh thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị loại ra khỏi thị trường. Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu thị trường để chớp thời cơ tung sản phẩm ra thị trường đúng thời điểm được coi là nghệ thuật kinh doanh mà Công ty cần áp dụng. Như vậy, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường là biện pháp đầu tiên Công ty phải làm nhằm đa dạng hoá thị trường và bạn hàng xuất khẩu. Có một cái nhìn đúng đắn và tổng quát về thị trường thì Công ty thực hiện mục tiêu củng cố thị trường hiện tại và thâm nhập thị trường mới khi có cơ hội chắc chắn sẽ dễ dàng hơn. 3- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm Để hoạt động xuất khẩu ngày càng được nâng cao thì sau khi nghiên cứu và tìm ra thị trường đầu ra cho sản phẩm, bản thân sản phẩm đó lúc này lại là yếu tố quyết định. Để có được loại sản phẩm tốt phù hợp với nhu cầu của thị trường (các nhà nhập khẩu) cũng như tăng được khả năng canh tranh của sản phẩm đối với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường lúc này phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách sản phẩm của Công ty. Do tính cạnh tranh ngày càng cao trên thị trường nên Công ty phải nghiên cứu tạo ra nhiều sản phẩm với mẫu mã, kiểu dáng đa dạng, phù hợp với nhu cầu thị trường. Chủng loại càng nhiều thì khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm sẽ tăng, Công ty sẽ an tâm hơn trong cạnh tranh và cân bằng được khả năng hoạt động và khả năng tài chính. Thêm vào đó, Công ty nên chú trọng đến nhãn mác và bao bì sản phẩm, đây cũng là yếu tố hết sức quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của mặt hàng. Khi mua hàng, ấn tượng đầu tiên đối với khách hàng là hình thức bên ngoài của sản phẩm. Nhãn mác và bao bì đẹp sẽ tạo niềm tin cho khách hàng về một loại sản phẩm thật. Rõ ràng, trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển bền vững Công ty phải cố gắng xây dựng một hình ảnh, một nhãn hiệu thương mại cho các sản phẩm, dịch vụ của mình, từ đó mới hy vọng có được một vị trí vững chắc trên thị trường. Nói tới tiêu chuẩn chất lượng của mặt hàng may mặc người ta đề cập tới 2 yếu tố là chất liệu vải và kỹ thuật cắt may. Chất lượng vải như thế nào lại phụ thuộc vào khí hậu và trình độ phát triển kỹ thuật của từng nước. ở Châu Âu khí hậu ôn đới thì phù hợp với chất liệu vải Microfy, những nước có khí hậu nóng ẩm như Việt Nam thì chất vải phổ biến được dùng là bông và cotton, ... Ngoài ra, trình độ kỹ thuật phát triển cũng quyết định tới chất lượng vải. Các quốc gia có nền công nghiệp phát triển, người tiêu dùng thường dùng những loại vải có chất lượng cao. Còn ngược lại ở Việt Nam hay những nước đang phát triển nói chung, thu nhập bình quân đầu người thấp, họ cũng không đòi hỏi khắt khe quá về chất lượng vải miễn là mặc đẹp và hợp về hình thức. Yếu tố thứ 2 quyết định đến chất lượng sản phẩm là kỹ thuật cắt may. Công ty phải tiến hành cắt may trên cơ sở thử nghiệm, tức là người sản xuất (Công ty) phải mua hàng mẫu của từng khu vực để trên cơ sở đó thiết kế phù hợp trước khi đem sản phẩm sản xuất hàng loạt. Vậy phải làm như thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm? Thứ nhất: Công ty phải đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và hiện đại hoá công nghệ. Không có dây chuyền hiện đại rất yếu không thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và động bộ, nhờ có máy móc và thiết bị tốt Công ty có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao tính linh hoạt của sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm một cách đồng đều, giảm chi phí điều hành quản lý xí nghiệp, giảm chi phí nguyên vật liệu và chi phí phát sinh khác. Bộ phận kỹ thuật phải giám sát và tìm hiểu kỹ thuật về tiến bộ và công nghệ may hiện đại, cố vấn cho giám đốc điều hành và Tổng giám đốc ra các quyết định mua sắm đầu tư thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại của từng loại sản phẩm. Công ty cần thiết phải xây dựng kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị cho từng giai đoạn. Việc xây dựng kế hoạch phải dựa trên xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu hàng năm, dựa trên hợp đồng, đơn đặt hàng đã ký kết với khách hàng, Công ty cần xác định ra loại hàng mà khách hàng yêu cầu, với mặt hàng đó đòi hỏi công nghệ may phải như thế nào. Ai cũng biết cái loại đầu tư máy móc thiết bị mới nhưng máy móc không phải một sớm một chiều mà thay đổi ngay được. Khó khăn lớn nhất là thiếu vốn đầu tư, vì vậy Công ty phải tính một cách hợp lý để đầu tư sao cho có hiệu quả nhất, đồng thời khai thác triệt để máy móc thiết bị hiện có, tránh lãng phí không cần thiết. Thứ hai: Nâng cao tay nghề công nhân Tay nghề công nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Nếu tay nghề cao tất yếu sản xuất sẽ ổn định hơn, ký được nhiều hợp đồng hơn và đơn giá gia công sẽ cao hơn, nh vậy hoạt động xuất khẩu cũng sẽ được đẩy mạnh. Chính vì vậy, bằng mọi cách Công ty phải nâng cao tay nghề của công nhân. Muốn nâng cao nghề của công nhân chúng ta phải: - Nâng cao tay nghề đội ngũ kỹ thuật may: Đội ngũ kỹ thuật may là những người may mẫu đối với sản phẩm để so sánh với sản phẩm mẫu của các hãng nước ngoài đặt may, người may mẫu đối với sản phẩm chính là người lập quy trình may, tính được thời gian may cho một sản phẩm. Từ đó giúp cho phòng kế hoạch tính được hao phí trên một sản phẩm và so sánh với đơn giá mà khách hàng thuê doanh nghiệp gia công. Nếu hao phí cho một sản phẩm càng thấp hơn đơn giá gia công thì chắc chắn là bù đủ hao mòn cố định, các chi phí khác trong sản xuất và trả được lương cho người công nhân. Nếu hao phí lao động cho một sản phẩm lớn hơn đơn giá gia công thì sẽ giúp cho giám đốc quyết định có sản xuất mẫu hàng này hay không hay là sản xuất mẫu hàng của khách hàng khác có đơn giá cao hơn. Còn nếu không có khách hàng khác mà sản xuất thì tuy rằng lỗ nhưng phần nào vẫn đảm bảo được đời sống của người lao động. Đội ngũ kỹ thuật may giỏi phải là đội ngũ giúp giám đốc và phòng kế hoạch được hai việc: + May được đối mẫu chào hàng của khách hàng nước ngoài với chất lượng mà khách hàng ưng thuận. + Lên được quy trình kỹ thuật may chuẩn với thời gian may một sản phẩm giá thấp nhất, hiệu quả cao nhất khi giải truyền may với số lượng lớn. Chính vì vậy đội ngũ kỹ thuật may của Công ty phải được ưu tiên: Lương phải cao hơn các đơn vị khác trong doanh nghiệp để gắn trách nhiệm đối với công việc mà đội ngũ kỹ thuật may đảm nhiệm. Luôn luôn gửi đội ngũ kỹ thuật may đi học hỏi các doanh nghiệp khác trong ngành may để càng ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn, đồng thời học các tiểu xảo, kỹ thuật mới của các đơn vị khác. - Nâng cao tay nghề công nhân may và gắn trách nhiệm của công nhân với sản phẩm may: Người công nhân là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm để đưa ra thị trường nước ngoài tiêu thụ, chính vì vậy sản phẩm may mặc của Công ty chính là bộ mặt của Công ty trên thị trường nước ngoài. Nếu tay nghề của công nhân cao chắc chắn doanh nghiệp sẽ đứng vững được trên thị trường và có đà phát triển cao hơn nữa, vì vậy đòi hỏi người công nhân phải luôn trau dồi tay nghề và vận hành máy thuần thục. Điều này cần có thời gian, trung một công nhân may muốn có trình độ tay nghề khá thì thời gian cần thiết phải từ 3 đến 5 năm tức là đội ngũ công nhân may phải có thâm niên trong nghề từ 3 đến 5 năm. Còn nếu tay nghề công nhân chưa thành thục thì tất yếu người công nhân phải chịu một khoản lương thấp hơn để chấp thuận có thời gian nâng cao tay nghề. Một vấn đề liên quan đến trình độ tay nghề công nhân lại chính là trình độ tay nghề của đội ngũ tổ trưởng, tổ phó và công nhân kỹ thuật chuyền may. Với đội ngũ tổ trưởng, tổ phó và công nhân kỹ thuật dây chuyền may hiện tại đang áp dụng mức lương khoán trên doanh thu của tổ trong xưởng. Điều này không làm ảnh hưởng tới mức lương của tổ trưởng, tổ phó và nhân viên kỹ thuật dây chuyền may nếu như trong tổ tiếp nhận thêm một số công nhân mới vào nghề, do đó vẫn đảm bảo được thu nhập cho họ và vẫn đảm bảo được sự tăng thêm về lực lượng lao động trong Công ty. Đối với các tổ mới thành lập thì lương của tổ trưởng, tổ phó có thể nhận được lương cố định tương đương hoặc cao hơn lương bình quân của các tổ khác đang làm do Công ty chi trả đến khi các tổ mới này đi vào sản xuất tương đối ổn định được tay nghề so với các tổ khác trong toàn Công ty. Thứ ba: Tổ chức hoàn thiện bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) của Công ty nhằm nâng cao hơn nữa hiểu quả của công tác kiểm tra chất lượng nh phát hiện kịp thời sản phẩm sai hỏng để sửa chữa ngay tại khâu đó, hạn chế việc phải tháo dỡ toàn bộ sản phẩm để làm lại từ đầu. Lựa chọn những cán bộ có kinh nghiệm công tác lâu năm về sản phẩm và bộ phận KCS của Công ty. 4- Củng cố, tăng cường hệ thống kênh phân phối hàng hoá: Trong hoạt động xuất khẩu, Công ty sử dụng kênh phân phối gián tiếp, chủ yếu là kênh dài, hiện tại kênh phân phối của Công ty còn yếu. Về lâu dài, với mục đích đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc, Công ty cần thiết lập một kênh phân phối đảm bảo hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhanh nhất, an toàn, giữ chất lượng hàng hoá, giúp lu thông tiêu thụ nhanh, thu tiền kịp thời. Những năm qua, mọi giao dịch của Công ty chủ yếu qua trung gian, sản phẩm của Công ty phải phân phối bằng nhãn hiệu của Công ty trung gian, sau một thời gian khi đã có được tiềm lực đủ mạnh Công ty phải tìm mọi cách gây lại tiếng bằng nhãn hiệu của Công ty mình và trên chính sản phẩm của mình. Đó là vấn đề hết sức khó khăn bởi vì để ghi nhớ một nhãn hiệu mới trong tâm trí người tiêu dùng thì rất khó khăn nhưng xoá mờ và thay bằng nhãn hiệu khác thì càng khó hơn. Chuyển từ phương pháp phân phối gián tiếp sang phân phối trực tiếp khó và mất nhiều thời gian hơn là ngay từ đầu xây dựng kênh phân phối trực tiếp. Để tiến tới xuất khẩu trực tiếp là chủ yếu trước hết phải: - Có biện pháp trực tiếp với các khách hàng tại thị trường chính, không qua trung gian như hiện nay. - Tăng cường hình thức “Bán nguyên liệu, thu mua thành phẩm” trong gia công xuất khẩu. Nên sử dụng hình thức chỉ mua của nước đặt gia công nguyên liệu chính còn vật liệu phụ mình tự lựa chọn bạn hàng cung ứng để mua giá rẻ hơn. - Từ hai vấn đề trên, Công ty sẽ học được cách tiếp cận thị trường, nghiên cứu mẫu mã của họ để từng bước xây dựng sản phẩm cho Công ty. - Đẩy mạnh sản xuất để cung ứng hàng cho thị trường nội địa, phải xem đây là trận địa chính để hỗ trợ cho xuất khẩu. Vì vậy, trước mắt Công ty nên hạn chế xây dựng kênh phân phối gián tiếp, đặc biệt không nên sử dụng mạng lới trung gian quá dài, nó sẽ làm cho mối liên kết trong khâu trung gian kém, từ đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của chính sản phẩm của Công ty. Cố gắng từng bước xây dựng kênh phân phối trực tiếp, cho dù lúc đầu có không hiệu quả bằng sử dụng kênh phân phối gián tiếp. Để làm được điều đó Công ty nên nghiên cứu và thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm, tổ chức buôn bán và bán lẻ tại các thị trường mục tiêu nước ngoài theo các phương thức kinh doanh linh hoạt, đồng thời thông qua trung gian phân phối các hãng kinh doanh nước ngoài. Trong nước, Công ty nên trực tiếp giới thiệu sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng thông qua trung tâm phân phối sản phẩm, đồng thời đa dạng hoá kênh phân phối, sử dụng các thành phần kinh tế nhằm tổ chức lưu thông suốt từ sản xuất tới tiêu dùng, từ thành phố tới nông thôn, vùng sâu, vùng xa, ... 5- Tăng cường liên doanh với các Công ty sản xuất và kinh doanh xuất khẩu - Trong điều kiện nền kinh tế chính trị ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nhiều nhà kinh doanh nước ngoài đã tìm tới Việt Nam, ngược lại nhiều nhà kinh doanh Việt Nam cũng đã mở rộng hoạt động ra thị trường ngoài nước. Việc thành lập liên doanh sẽ giúp cho hai bên khắc phục những thiếu hụt mà nếu kinh doanh độc lập các bên khó tránh khỏi. Do vậy hình thức liên doanh sẽ tạo cho Công ty cơ hội để thu hút vốn, giải quyết công ăn việc làm, tăng cường hàng hoá xuất khẩu và hạn chế rủi ro. Hơn nữa liên doanh còn là điều kiện tốt để Công ty học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay hoạt động xuất khẩu không chỉ độc quyền với các đơn vị kinh doanh ngoại thương thì việc liên doanh sẽ giúp cho Công ty khẳng định được chỗ đứng của mình. - Tích cực tìm kiếm bạn hàng làm gia công xuất khẩu sang Mỹ: Khi được hưởng chế độ tối huệ quốc, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ sẽ được miễn thuế. Do vậy, yếu tố giá cả đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Nhận định tình hình trên, Công ty đang tích cực tìm kiếm khách hàng làm gia công sang Mỹ với mục đích nâng cao hiệu quả của Công ty. Thực vậy, với việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam sẽ giảm được chi phí vào giá thành sản phẩm. Mặc khác, giá bán tại thị trường Mỹ không được hạ giá quá mức cho phép để việc cạnh tranh trên thị trường được cân bằng. Nó sẽ là cơ sở tốt để Công ty nâng giá gia công, đem lại hiệu quả kinh tế lớn hơn. - Quan hệ với người cung cấp nguyên liệu phụ: Từ trước tới nay, khi tiến hành hoạt động gia công Công ty phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu phụ theo điều kiện CIF tại Hải Phòng, ... Do vậy, thực tế Công ty chỉ thu được phí gia công gồm: cắt may, cắt, là, khoản thu này được sinh ra từ lao động sống của công nhân nên lợi nhuận mà Công ty thu được không đáng là bao. Để hoạt động gia công đem lại hiệu quả cao hơn Công ty đang từng bước đảm nhận thêm khâu cung cấp phụ liệu, một mặt hoạt động này tạo thêm việc làm cho Công ty, mặt khác sẽ sinh ra số lợi nhuận bằng số chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Trong các năm tới, Công ty cần có kế hoạch nâng dần giá trị phụ liệu do Công ty cung cấp đến năm 2002 chiếm tỷ trọng 60%. Để hoàn thành chỉ tiêu này, Công ty phải chủ trương mở rộng mối quan hệ với các doanh nghiệp cung cấp phụ liệu, mối quan hệ này đang từng bước được Công ty xây dựng vững chắc và ngày càng mở rộng mối quan hệ với các xí nghiệp sản xuất trong nước. Điều này đang mở ra một giai đoạn phát triển mới cho Công ty đó là sản xuất kinh doanh dới hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm về hàng may mặc cho khách nước ngoài. Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng may mặc tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. Để thực hiện tốt các biện pháp trên thì nhất thiết Công ty phải thành lập một bộ phận chuyên trách các hoạt động Marketing. Do may mặc là hoạt động chủ chốt của Công ty nên bộ phận Marketing phải xác định rõ chức năng của mình: * Nghiên cứu nhu cầu, chất lượng, giá cả. * Nghiên cứu mua bán các yếu tố. * Nghiên cứu phân phối, tiêu thụ. * Nghiên cứu quảng cáo, yểm trợ, xúc tiến bán hàng. * Nghiên cứu các chế độ chính sách của Nhà nước. Từ đó chuẩn bị kế hoạch nghiên cứu, cử cán bộ tham gia nghiên cứu; xác định thời gian chuẩn bị, thời gian bắt đầu và kết thúc; chuẩn bị và lựa chọn các tài liệu tham khảo; lập kế hoạch cho việc nghiên cứu thị trường. Việc thiết lập bộ phận Marketing tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên bên cạnh đó còn rất nhiều khó khăn: - Mới thâm nhập vào thị trường, lại hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực gia công và xuất khẩu ủy thác, Công ty chưa có sản phẩm mang nhãn mác của mình nên chắc chắn trong thời gian đầu do Công ty ít kinh nghiệm nên công tác Marketing sẽ đạt kết quả không cao. - Để hoạt động Marketing của Công ty được tốt thì cán bộ Marketing phải luôn luôn bám sát thị trường, nhưng các đại diện các Công ty ở nước ngoài ít, khả năng tài chính của Công ty còn yếu nên không thể cử cán bộ ra nước ngoài khảo sát thị trường một cách thường xuyên. Do vậy, công việc nghiên cứu của bộ phận này tương đối khó khăn và phức tạp. Khó khăn trước mắt thì còn nhiều, nhưng tôi tin chắc rằng thiết lập được bộ phận này, đầu t cho hoạt động Marketing có hiệu quả thì việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty cũng nh việc nâng cao được khả năng cạnh tranh về mặt hàng này của Công ty đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước là điều có thể thực hiện được trong tầm tay. III- ý kiến đề xuất với cấp trên (Tổng Công ty dệt may Việt Nam, Bộ công nghiệp và Nhà nước). Đối với Việt Nam trong những năm trước mắt cũng nh lâu dài, việc đẩy mạnh và mở rộng xuất khẩu là điều kiện cơ bản để thúc đẩu nền kinh tế phát triển đi lên. Với ý nghĩa để xuất khẩu được coi là một khâu chủ yếu trong nền kinh tế đối ngoại và khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu phát triển là một bộ phận trọng yếu của chính sách ngoại thương nước ta. Để đẩy nhanh nền kinh tế sang hướng xuất khẩu thì điều quan trọng là Nhà nước phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị sản xuất hay chế biến hàng xuất khẩu cũng như các đơn vị kinh doanh xuất khẩu trong đó có Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I - Bộ Thương mại. Bên cạnh đó, Nhà nước và Tổng Công ty may Việt Nam cần có sự hỗ trợ và đưa ra những chính sách tạo điều kiện thuận lợi. 1- Xây dựng các làng nghề Tổng Công ty may Việt Nam cũng Hiệp hội dệt may phối hợp với các địa phương quy hoạch các làng nghề mới cạnh vùng nguyên liệu. Các làng nghề này sẽ góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đồng thời là đối tợng chuyển dịch máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, khai thác hết khả năng và thúc đẩy xuất khẩu. 2- Chuẩn bị nguyên liệu: Tổng Công ty may Việt Nam cần chủ động nguồn nguyên liệu cho trước mắt và lâu dài kể cả việc phát triển cây bông và công nghệ hoá dầu chế tạo xơ, sợi tổng hợp, sớm có nguyên liệu đảm bảo cung cấp tốt cho ngành may xuất khẩu. Nhà nước nên áp dụng mô hình tổ chức ngành dệt may theo kiểu khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. 3- Xây dựng một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý: Trong năm 2000, tỷ giá đồng Việt Nam và ngoại tệ sau một thời gian ổn định đã bắt đầu biến động lớn. Tỷ lệ biến động chính thức do ngân hàng Nhà nước tuyên bố là 13,5% so với tháng 12 năm 1999, đồng thời Nhà nước lại cho phép các ngân hàng thương mại được giao dịch trong biên độ tăng giảm 5 - 7%. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp phải chịu tỷ giá biến động tối đa đến 20%. Chính sự không ổn định này đã gây rất khó khăn cho doanh nghiệp, luốn phải thòng xuyên theo dõi để có biện pháp kịp thời bảo toàn vốn, đảm bảo nhu cầu ngoại tệ phục vụ kinh doanh. Như chúng ta đã biết, hoạt động xuất khẩu có quan hệ khăng khít và rất nhạy cảm với sự biến đổi của tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi giá đồng tiền trong nước giảm thì sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và ngợc lại. Tuy nhiên, không phải mọi sự giảm giá nội tệ đều mang lại kết quả xuất khẩu cao hơn mà còn phụ thuộc vào khả năng cung cấp hàng hoá của chính nước ấy. Do đó, cần phải tính toán một cách khoa học những kết quả thu được và những thiệt hại phát sinh trước khi đa ra những quyết định thực hiện một chính sách tỷ giá hối đoái nào đó. 4- Tăng cường biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh: Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ cung cấp thông tin. Tư vấn cho doanh nghiệp về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh, xu thế biến động của thị trường và xúc tiến thương mại. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham giao vào hội chợ, triển lãm bởi đây là những cơ hội tốt để doanh nghiệp giới thiệu hàng hoá của mình và về chính mình, thúc đẩy hợp tác, mở rộng thị trường xuất khẩu. 5- Chính sách thuế cần hợp lý: Trong thời gian qua, mặc dù Nhà nước cũng có các biện pháp khuyến khích nh: - Hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp nhập nguyên phụ liệu và bán thành phẩm để sản xuất hàng xuất khẩu. áp dụng thuế suất thấp nhất trong khung thuế (0%) cho các mặt hàng cao su, than đá và thủy sản từ 15/1/1998. Kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu khi nhập vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (thời hạn hiện nay là 9 tháng). Bên cạnh đó, thuế với hàng may mặc xuất khẩu còn nhiều bất hợp lý. Thời gian quy định cho hàng tạm nhập tái xuất, hàng FOB hoãn thuế 90 ngày là quá ngắn, đặc biệt với hàng FOB vì nó liên quan đến vốn của doanh nghiệp. Khi quá 90 ngày chưa xuất khẩu thành phẩm Công ty phải vay ngân hàng chịu lãi suất để nộp thuế, cục thuế chỉ là người giữ tạm cho Công ty, song như vậy sẽ tạo “vốn chết”, đẩy giá thành lên. Thời gian làm thủ tục hoàn thành thuế cũng khá lâu, cách tính thuế đối với hàng phải chịu thuế cũng không phù hợp. Khi quá 90 ngày chỉ nên đánh thuế vào 100% hàng hoá trên hợp đồng bởi vì có thể chưa xuất hết nhưng có nhiều hàng trong hợp đồng đã được xuất khẩu. Giá tính thuế đối với một số nguyên liệu ngoại nhập vẫn còn cao, gây thiệt hại nhiều cho doanh nghiệp. Đối với hải quan, cần có cán bộ nắm chắc chuyên môn của ngành may và nên có thông tin chuyên ngành từ Tổng Công ty dệt may để làm căn cứ giúp cho sự kiểm tra, giám sát chính xác hợp đồng của các doanh nghiệp may cũng như quản lý giá cả, định mức sơ đồ mẫu, vật tư hàng may, ... Nhà nước nên miễn thuế nhập khẩu đối với sản phẩm ưu đãi. Đối với xuất khẩu, đề nghị Nhà nước trợ giá đối với sản phẩm dệt xuất khẩu để có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới. 6- Xây dựng và phát triển quỹ bình ổn giá, quỹ tín dụng xuất khẩu và quỹ thưởng xuất khẩu. Quỹ thưởng xuất khẩu đã được thành lập và đi vào hoạt động theo quy định 764/QĐ-TTG ngày 24/8/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Thông qua quỹ này, các doanh nghiệp được khuyến khích xuất khẩu rất nhiều. Vì vậy, trong thời gian tới cần phát triển quỹ này tốt hơn. Quỹ tín dụng xuất khẩu đảm bảo gánh vác mọi rủi ro mạo hiểm mà các nhà xuất khẩu bán hàng hoá ra nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. 7- Cải thiện môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là điều kiện sống còn cho sự tồn tại và phát triển của chúng. Vì vậy Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tạo môi trường, hành lang và những điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp để họ hoạt động một cách có hiệu quả. Trong nhiều năm qua mặc dù chúng ta có nhiều bước thay đổi lớn, nhưng điểm nổi bật còn gây trở ngại lớn cho sản xuất kinh doanh là chúng ta chưa có sự ổn định của môi trường kinh tế và chưa có một hệ thống pháp luật hữu hiệu và đồng bộ. Vì vậy việc tạo môi trường kinh tế và môi trường pháp luật hữu hiệu cho kinh doanh sẽ củng cố niềm tin cho sự phấn khởi của các doanh nghiệp đối với hoạt động thương mại. Trước hết Nhà nước cần sớm ban hành và thực thi những quy định pháp luật đối với cạnh tranh, hạn chế độc quyền. Các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực sự được đặt trong mối quan hệ trực tiếp với thị trường, phải tiến hành cạnh tranh và không nâng cao cạnh tranh để tồn tại và phát triển. 8- Tạo vốn cho sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu Các doanh nghiệp cần được quan tâm hơn nữa trong việc tạo vốn theo phương châm đa dạng hoá các nguồn. Nhằm huy động tốt nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, Nhà nước cần nhanh chóng tạo ra các điều kiện và thể chế hoá để có thị trường vốn thuận lợi chỉ trên cơ sở đó mới cho phép ta khai thác tối ưu các tiềm năng của toàn xã hội vào việc phát triển kinh tế đất nước, khuyến khích mọi người có điều kiện bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. 9- Nhà nước cần có chính sách ưu đãi vễ lãi suất ngân hàng Để hấp dẫn khách hàng nước ngoài đặt đơn hàng gia công may mặc tại Việt Nam thì những doanh nghiệp may trong nước phải đầu t máy móc thiết bị, nhà xưởng. Như chúng ta đã biết, lợi nhuận sinh ra từ hoạt động gia công không nhỏ, do vậy các doanh nghiệp phải được ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi thì họ mới có khả năng trả nợ và yên tâm sản xuất. Tóm lại, các chính sách là do Nhà nước đưa ra, các doanh nghiệp là người trực tiếp thi hành. Qua thời gian thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I, tôi cũng được biết Công ty cũng đã có một số kiến nghị về chính sách và đã được sửa đổi bổ sung một số điều. Tuy nhiên, tôi cũng mong rằng các cấp, các ngành sửa đổi bổ sung một số điều. Tuy nhiên, tôi cũng mong rằng các cấp, các ngành quản lý trước khi đa ra các chính sách phải có sự tìm hiểu kỹ càng về những điều bất hợp lý, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp quản lý và thực hiện. Kết luận Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng may mặc hiện nay là một trong những vấn đề rất cần thiết trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Hiện nay, hiệu quả của hoạt động xuất khẩu này về mặt xã hội là vô cùng lớn, bên cạnh lợi ích thu được chưa nhiều đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa, đó là việc đầu tư trong quá trình sản xuất, đầu tư về nghiên cứu mẫu mã, thị trường may mặc thế giới, cải tiến cách quản lý, nâng cao tay nghề công nhân sao cho phù hợp giữa điều kiệơisanr xuất trong nước và điều kiện quốc tế. Phải đa dạng hoá thị trường bạn hàng và sản phẩm, cung cấp thêm nghuyên phụ liệu đầu vào thay thế nhập khẩu từ nước ngoài để tăng tỷ trọng nguyên vật liệu trong giá trị sản phẩm xuất khẩu. Chắc chắn rằng trong tương lai hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sẽ ngày càng tăng và đặc biệt nó sẽ đóng góp càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, và sẽ tham gia WTO trong tương lai không xa. Trước những thử thách, khó khăn của giai đoạn mới, với khả năng của mình, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I sẽ cố gắng phát triển mặt hàng may mặc đi xa hơn nữa và như vậy hoạt động xuất khẩu mặt hàng này sẽ được đẩy mạnh, góp phần phát triển ngành may mặc Việt Nam, nâng cao uy tín và vị trí hàng may mặc Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong quá trình thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu I, được sự giúp đỡ của các cô, các chú, các bác, phòng nghiệp vụ 6, tôi đã cố gắng tìm hiểu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung, tìm hiểu về thực trạng hoạt động xuất khẩu may mặc của Công ty nói riêng, đồng thời đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh sản xuất mặt hàng này. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS-TS Nguyễn Duy Bột để em có thể hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình thương mại quốc tế. PGS.TS Nguyễn Duy Bột. 2. Giáo trình thanh toán và tín dung thương mại quốc tế. PGS .TS Nguyễn Duy Bột. 3. Giáo trình Marketing thương mại quốc tế. PGS.TS Nguyễn Duy Bột 4. Marketing căn bản. Philip Kotler. 5. Chiến lược cạnh tranh và thị trường. UB vật giá chính phủ. 6. Thị trường và nghệ thuật kinh doanh. UB vật giá chính phủ. 7. Văn kiện đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX. 8. Tạp chí cộng sản. 9. Tạp chí thương mại. 10. Tạp chí kinh tế và dự báo. 11. Bản tin nội bộ công ty. 12. Báo cáo tổng kết hoạt động dệt may - Bộ thương mại. 13. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty các năm. 14. Thời báo kinh tế Việt Nam các số (1999-2002). Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29752.doc