Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ

LỜI MỞ ĐẦU Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam nghành dệt may chiếm một tỷ trọng khá lớn, luôn giữ được giá trị kim nghạch xuất khẩu cao hơn cả. Vì thế trong chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2010 thì nghành dệt may là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Chính phủ xác định rõ nghành công nghiệp dệt may giữ vị trí là nghành công nghiệp trọng điểm trong cơ cấu nghành. Với những lợi thế riêng biệt như: thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm, tạo nguồn hàng

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu có giá trị cao... Do đó nghành dệt may Việt Nam hiện nay được xem là nghành mũi nhọn và phát triển khá hiệu quả. Nó là nghành thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế cất cánh. Tuy hàng dệt may xuất khẩu nước ta đang bước những bước đi đầu khá vững chắc và đầy triển vọng nhưng so với tiềm năng vốn có và so với vị thế xuất khẩu của các nước trong khu vực thì Việt Nam còn cần phải phấn đấu rất nhiều. Một trong những vấn đề đặt ra đối với nghành dệt may xuất khẩu hiện nay là vấn đề tìm kiếm và pgát triển thị trường. Chúng ta đã và đang xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Đông Âu... Nhưng Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới thì chưa khai thác triệt để so với các nước trong khu vực và so với tiềm năng vị thế của nó. Vì thế đề án của em đề xuất “ Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ” trên cơ sở phân tích thời cơ và thách thức trên thị trường này. Nội dung của bài viết gồm 3 phần: Phần 1: Cơ sở lí luận. Phần 2: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Phần 3: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Trong quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót do khả năng của bản thân. Em kính mong được sự góp ý của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Mai Văn Bưu đã tận tình hướng dẫn giúp em thực hiện đề tài. PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Xuất khẩu là gì? P Q So Do D1 Ea E1 Eo Ep Pw Pa 0 q3 q4 qa q5 Hinh1.1. Xuất khẩu trong một nền kinh tế mở quy mô nhỏ Hình trên chỉ ra đường cung và cầu trong nước đối với một loại hàng hóa điển hình. Đối với một nền kinh tế mở quy mô nhỏ, giá cả trên thị trường thế giới được xác định trước và dất nước có thể mua hoặc bán mọi thứ mà nước đó muốn ở giá đó. Chú ý rằng ngoại thương làm nâng giá các hàng xuất khẩu lên trên mức của tình trạng tự cung, tự cấp. Cũng cần lưu ý rằng sự cân bằng sẽ không có nữa khi mà lượng hàng cầu cân bằng với lượng hàng cung trong nước thay vào đó, giá cân bằng sẽ là giá quốc tế và lượng hàng cung vượt quá hàng cầu ở giá đó sẽ được xuất khẩu. Hàng xuất khẩu của một nền kinh tế mở quy mô nhỏ là sự khác nhau giữa hàng cung và hàng cầu trong nước tính theo giá quốc tế. Các đường Do và So là đường cầu và cung trong nước đối với một hàng hàng hóa xuất khẩu điển hình. Sự cân bằng tự cung tự cấp sẽ là điểm Ea khi mà lượng hàng a được sản xuất và tiêu thụ trong nước với giá Pa. Nếu có ngoại thương xảy ra ở mức giá Pw sự cân bằng tiêu dùng sẽ ở Eo, với lượng tiêu dùng q1 trong nước q2 –q1, sẽ được xuất khẩu. Nếu nhu cầu trong nước chuyển sang D1, sự cân bằng tiêu dùng chuyển sang E1, với tiêu dùng trong nước q3. Với mức sản xuất không đổi trong nước Ep, lượng hàng xuất khẩu sẽ tăng lên q2- q3. 1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế. 1.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước. Công ngiệp hóa đất nước theo những bước đi thich hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc,thiết bị, kĩ thuật, công nghệ tiến tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Xuất khẩu hàng hóa; Đầu tư nước ngoài; Vay nợ, viện trợ; Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ; Xuất khẩu sức lao động... Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết điịnh quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Ở Việt Nam, thời kì 1986_1990 nguồn thu về xuất khẩu hàng hóa đảm bảo trên 75% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu; tương tự tgời kỳ 1991_1995 là 66% và 1996_2000 là 50% ( đó là chưa thống kê nguồn vốn thông qua xuất khẩu dich vụ). Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu_ nguồn vốn chủ yếu để trả nợ trở thành hiện thực. 1.2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối vớ sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là , xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp đặc nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự “ thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. Hai là , coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trong để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát tư nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác dụng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển nghành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông, sợi hay thuốc nhuộm, công nghiệp tạo mẫu... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè... có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của dất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. - Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả , chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. - Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường. 1.2.3 Xuất khẩu có tác động đến tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao đoongj được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện 1.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước. 1.3 Khái quát về nghành dệt may Với kinh nghiệm của các nước đã phát triển và những nước công nghiệp mới ở Châu Á, nghành dệt may đã và đang dược coi là nggàng mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam từ nay đến năm 2020. Thời kỳ đàu thế kỉ 20, các nước Anh, Ý, Pháp , Đức, Mỹ có nghành dệt may tương đối phát triển. Đến thập kỷ 70, các nước này có xu hướng tiêu thụ tăng nhưng sản xuất giảm, trong lúc đó các nước NICs Châu Á lại phát triển mạnh nghành sản xuất này. Nhưng xu hướng những năm gần đây, sự phát triển xuất ngành dệt may lại đang chuyển sang các nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ như Trung Quốc, Malaixia, Việt Nam... 1.3.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp dệt may là nghành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách định hướng xuất khẩu của đát nước, nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế. sự thành công về xuất khẩu trong nghành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn với đặc điểm cơ bản của ngành là thu hút nhiều lao động, chiếm hơn 1/5 lực lượng lao động làm việc trong công nghiệp chế tạo của đát nước. Do đó góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tạo thu nhập và ổn định đời sống cho người lao động. mặt khác đây là ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít rủi ro, thời gian thu hồi vốn nhanh và có điều kiện mở rộng thị trường sản xuất của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Nghành công nghiệp dệt may ngaỳ càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là nghành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Như vật nghành dệt may hiện nay đang chiếm một vị trí khá quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ ngành công nghiệp Việt Nam. 1.3.2 Ảnh hưởng của ngành trong quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt sản xuất trong nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy những lợi thế so sánh, buộc các nhà sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm... đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thế giới và đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Điều này thể hiện rõ ở ngành dệt may Việt Nam: xuất khẩu hàng dệt may đã và đang là ngành xuất khẩu hàng của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng cao và ổn định từ 30% đến 40% suốt hơn chục năm qua xuất khẩu dệt may là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam hàng năm đem lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn cho đất nước, nghành này còn góp phần tích cực giải quyết việc làm cho hàng triệu người lao động trên mọi miền của đất nước. Điều đó rất có ý nghĩa trong lúc chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động. Bảng: Dự kiến cơ cấu hàng hóa đến năm 2010 Tên hàng 2005 2010 Lượng (Nghìn Tấn) Trị giá (Triệu USD) Lượng (Tấn) Trị giá (Triệu tấn) 1. Khoáng sản 2.520 1.750 Tỷ trọng khoáng sản(%) 9,3 3,5 Dầu thô và sản phẩm dầu 11.800 2.400 8.000 1.600 Than đá 4.000 120 5.000 150 Các loại quặng 0 0 2. Nông lâm thủy sản chính 5.845 8.600 Tỷ trọng NLTS chính(%) 21,6 17,2 Lạc nhân 130 75 180 100 Cao su và cao su chế biến 300 250 500 500 Cà phê và cà phê chế biến 700 700 750 850 Chè 78 100 140 200 Gạo 4.500 1.000 4.500 1.200 Rau quả và rau quả chế biến 800 1.600 Thủy sản và thủy sản chế biến 2.500 3.500 Nhân điều 200 400 Hạt tiêu 220 250 3. Hàng chế biến chính 11.500 20.600 Tỷ trọng hàng chế biến chính(%) 42,6 41,2 Thủ công mỹ nghệ 800 1.500 Dệt may 5.000 7.500 Giày dép 4.000 7.000 Thực phẩm chế biến 200 700 Sản phẩm gỗ 600 1.200 Hóa phẩm tiêu dùng 200 600 Sản phẩm nhựa 200 600 Sản phẩm cơ khí – điện 300 1.000 Vật liệu xây dựng 200 500 4. Hàng chế biến cao 2.500 7.000 Tỷ trọng hàng chế biến cao (%) 9,3 14,0 Điện tử và linh kiện máy tính 2.000 6.000 Phần mềm 500 1.000 Tổng các mặt hàng trên 22.365 37.950 Tỷ trọng các mặt hàng trên 83 76 5. Hàng khác 4.635 12.050 Tỷ trọng các mặt hàng khác 17 24 Dự kiến tổng kim ngạch 27.000 50.000 Nguồn: Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2005 – 2010 của Bộ Thương Mại Định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng hóa là tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động và kỹ thuật trung bình. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ hàng xuất khẩu chế biến chiếm từ 60 – 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. từng bước phát triển các ngành công nghệ cao làm nền tảng cho giai đoạn 2010 – 2020. Phát triển khu vực dịch vụ đặc biệt là những ngành dịch vụ mũi nhọn, xương sống của kinh tế tri thức như công nghệ phần mềm, bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và du lịch. Theo các chuyên gia dự báo vào năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu của cả nước sẽ đạt khoảng 200 tỷ USD, gấp 10 lần so với năm 2003. Để đạt được mục tiêu này, cần nâng tỷ trọng giá trị của nhóm hàng chế biến sâu từ 30% hiện nay lên 70%. Nghĩa là, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong 2 thập kỷ tới là những sản phẩm chế biến sâu, có hàm lượng kỹ thuật cao. Tăng hàm lượng xuất khẩu hàng chế biến sâu, gồm sản phẩm dệt – may, giày dép, sản phẩm điện tử sản phẩm cơ khí, hóa chất và các sản phẩm hóa chất, khí hóa lỏng, xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu, sắt thép, sản phẩm hợp kim đặc biệt, vật liệu xây dựng, thực phẩm, dược phẩm... Phần lớn được hình thành và phát triển trong giai đoạn 2001 – 2010. Dự báo tỷ trọng nhóm hàng này sẽ tăng lên từ 40% 2002 lên 70% năm 2020. Qua phân tích từng nhóm hàng, một số mặt hàng mới sẽ xuất hiện và gia tăng nhanh để năm 2020 mỗi mặt hàng đạt giá trị xuất hiện và gia tăng nhanh để năm 2020 mỗi mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu vượt trên 10 tỷ USD ( như hóa chất, hợp kim đặc biệt, vật liệu xây dựng, khí hóa lỏng, xăng dầu và sản phẩm hóa dầu...) Duy trì và tăng cường một số mặt hàng xuất khẩu truyền thống trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực tới năm 2020 như dệt – may mặc, nông sản chế biến sâu, sản phẩm điện tử, dịch vụ phần mềm máy tính và du lịch... Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và các nước trong khu vực nói riêng, nghành dệt may phải trực tiếp tham gia hợp tác về các lĩnh vực lao động mậu dịch, tham gia tiến hành cắt giảm thuế quan của khu vực mậu dịch tự do ASEAN, AFTA và tham gia vào các tổ chức quốc tế khác, nghành dệt may của chúng ta cần phải tích cực đổi mới với mức chi phí sản xuất thấp, công nhân cần cù sáng tạo cùng việc nâng cao chất lượng đặc biệt là quan tâm tới thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thế giới. Việt Nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do hóa mậu dịch và thích ứng được với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế giới. PHẦN 2 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 2.1. Thị trường dệt may Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một trong những nước có sức tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới. do những tác động của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hoa Kỳ, nghành may mặc của nước này đang mất dần lợi thế so sánh. Đây là nghành sử dụng nhiều lao động, tuy nhiên từ năm 1970 tới nay lực lượng lao động trong nghành này ở Mỹ giảm 40%. Các nhà kinh tế dự đoán nghành may gia công Mỹ sẽ không còn tồn tại trong vòng mười năm tới. Nghành may gia công sẽ nhường chỗ cho nghành may hàng cao cấp với các nhãn hiệu nổi tiếng và nhân công có tay nghề cao. Vì thế có thể đánh giá Hoa Kỳ là mảnh đất tương đối lý tưởng và là thị trường đầy tiềm năng đối với các nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may công nghiệp trong đó có Việt Nam. 2.1.1 Đặc điểm thị trường hàng dệt may Hoa Kỳ Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Hoa Kỳ làm thị trường chủ lực bởi vì thị trường Hoa Kỳ có tổng giá trị buôn bán lớn nhất toàn cầu, hàng nhập khẩu đa dạng. Các doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc nhập khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi thâm nhập và các thị trường khác. Mặt khác với diện tích khoảng 9,4 triệu kilômet vuông và dân số khoảng 280 triệu người đã làm cho Mỹ trở thành cường quốc kinh tế số một với sức mua lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới, hàng năm Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu trên 60 tỷ USD dệ may. Hơn nữa Hoa Kỳ lại là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa với nhu cầu may mặc rất đa dạng, ta có thể khai thác đặc diểm này từ thị trường Hoa Kỳ. Như vậy Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta. 2.1.2 Đặc điêm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Hoa Kỳ. 2.1.2.1 Quy mô nhập khẩu hàng năm Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chính của các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may ở Đông Á và là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. HÀng năm Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt. Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ ngày càng tăng. 2.1.2.2 Các quy định cho hàng dệt may. Hoa Kỳ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), có tham gia hiệp định đa sợi MFA nên hàng dệt may vào Hoa Kỳ phải tuân thủ theo những nguyên tắc chung của MFA. Vì thế khi đưa hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cần nắm được hai quy định quan trọng của hiệp định đa sợi MFA và quy định hệ thống hạn nghạch hàng dệt may Hoa Kỳ. + Quy định chung của Hiệp định đa sợi MFA : Hiệp định cho phép mỗi thành viên của MFA được xây dựng những thõa thuận song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu hàng dệt. Các nước được đơn phương định đoạt các biện pháp khi thấy rằng thị trường dệt của mình bị phương hại. Hiệp định còn cho phép áp dụng hạn nghạch để hạn chế số lượng hàng dệt may nhập khẩu vào quốc gia mình, + Quy chế hệ thống hạn nghạch dệt may Hoa Kỳ: Tính đén năm 1998, Hoa Kỳ đã ký Hiệp định song phương và đa phương với 45 nước trong đó có 37 nước là thành viên của WTO và hiệp định này được xây dựng trên cơ sở thương lượng với thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về cơ bản, mức Quota nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ sẽ được áp dụng dựa trên cơ sở hay khối lượng hàng dệt đã được đưa vào thị trường Hoa Kỳ vào thời điểm đàm phấn. Nếu khối lượng hàng dệt may đưa vào thị trường Hoa Kỳ đạt 100000 tá sản phẩm thì hải quan của Hoa Kỳ bắt đàu theo dõi và khi khối lượng này đã tăng lên gấp đôi thì phía Hoa Kỳ sẽ chính thứcđề nghị đàm phấn để xác định hạn nghạch nhập khẩu. Như vậy để Việt Nam có thể nhận được hạn nghạch nhập khẩu lớn thì trong từ 1 đến 2 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hóa lớn sang thị trường này. 2.1.2.3 Chính sách thương mại của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng. Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Hoa Kỳ là một thị trường lớn rất “tự do” nhưng cũng được đánh giá là nhiều bất trắc nếu không nắm vững “ luật chơi”. Do đó trước khi xuất khẩu hàng sang Mỹ các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ pháp luật của Hoa Kỳ. Về quy chế tối huệ quốc (MFN): gần như tất cả các bạn hàng buôn bán luôn của Mỹ đều được hưởng quy chế này. Hàng hóa đi từ tất cả các nước được hưởng quy chế này đều chịu cùng một mức thuế, khi Hoa Kỳ giảm thuế, loiạ bỏ hay có những thay đổi trong hệ thống thuế thì những sự thay đổi đó được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên được hưởng MFN. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu mức thuế cao hơn. Với quy định này, khi xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam ( Khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ nhưng phải đối mặt với hàng hóa được xuất khẩu từ các nước khác sang thị trường Hoa Kỳ cũng như được hưởng những ưu đãi tương tự. Về trị giá hải quan, Hoa Kỳ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để bảo vệ các công ty Hoa Kỳ trước các hoạt động nhập khẩu không bình đẳng, Hoa Kỳ áp dụng hai luật thuế là luật thuế đối kháng và luật thuế chống phá giá. Hai loại luật thuế này đòi hỏi phải áp dụng các mức thuế bổ sung khi có tình trạng buôn bán không lành mạnh. Luật thuế đối kháng thực thi bằng cách tăng thuế nhập khẩu để bù vào hay để đổi lại với khoản trợ cấp của hàng hóa nước ngoài gây thiệt hại vật chất cho các nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở Hoa Kỳ. Các khoản trợ cấp chịu thuế đối kháng chủ yếu được các chính phủ nước ngoài cung cấp trực tiếp hay gián tiếp. Với luật thuế này, các doanh nghiệp Việt Nam khi được hưởng những ưu đãi của chính phủ cần thận trọng khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ vì có thể vi phạm các quy định của đạo luật này Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng ở Mỹ rộng rãi hơn so với luật thuế đối kháng. Thuế chống phá giá là thuế được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu khi hàng hóa nước ngoài được xác định là bán phá giá hàng đã bán hoặc chắc chắn sẽ bán ở Hoa Kỳ với mức giá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Về hệ thống hạn nghạch, Hoa Kỳ áp dụng hệ thống hạn nghạch để kiểm soát về khối lượng hàng háo nhập khẩu trong một thời gian dài nhất định. Luật thương mại Hoa Kỳ cho phép sản phẩm Hoa Kỳ đơn phương áp đặt các hạn nghạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may. có 2 loại hạn nghạch: Hạn nghạch tuyệt đối và hạn nghạch theo thuế suất. Hạn nghạch tuyệt đối là hạn nghạch hạn chế về số lượng. vì vậy trong suốt thời gian áp dụng hạn nghạch, chỉ một số lượng hàng hóa đã được ấn định mới được phép nhập khẩu. Một số hạn nghạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế giới, còn một số chỉ áp dụng với một vài quốc gia nào đó. Số lượng hàng nhập khẩu dư lại so với hạn nghạch sẽ bị giữ lai tại một “ khu ngoại thương” để bổ sung cho kỳ hạn nghạch sao đó hay được đưa vào kho ngoại quan, cũng có thể bị trả về hoặc tiêu hủy dưới sự giám sát của nhân viên hải quan. Các hiệp định về hàng dệt may có quy định gia tăng các hạn nghạch theo từng thời điểm. Hạn nghạch tính theo mức thuế suất áp dụng cho một số lượng hàng nhập khẩu được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có gới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn. Về chế độ visa xuất khẩu, hàng dệt may cần có visa mới được vào Hoa Kỳ. Visa này được dùng để kiểm soát hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ nước ngoài vào Hoa Kỳ. Một visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngahchj hoặc không có hạn ngạch. Hàng dệt có hạn nghạch có thể cần hoặc không cần visa tùy thuộc vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn nghạch chấm dứt mà visa cho hàng dệt cho hàng dệt may được cấp sau đó bởi chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập vào Hoa Kỳ, lô hàng nhập này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hết hạn nghạch mới được cấp phép. Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn hiệu sản phẩm dệt may. Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ: Khi xuất khẩu vào thị trường Hoa KỲ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Hoa KỲ quy định trên sản phẩm phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Quy định này chỉ bắt buộc đối với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng. có một quy định đặc biệt là hàng hóa gốc từ Hoa Kỳ đưa sang nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm vào khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu. dựa vào quy định này một số nước nhận vải cắt sẵn từ các công ty Hoa Kỳ may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Hoa Kỳ chỉ phải chịu thuế nhập khẩu đối với phần phí gia công. Quy định về nhãn mác hàng: Ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác hàng là TFPIA và ƯPLA. Hai bộ luật này được áp dungk cho hầu hết các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ với quy định: 1. Phân biệt tỷ trọng các loiạ sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có tỷ trọng >5% thì phải dược ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề là “otherfiber” ở cuối, các loại sợi có tỷ trọng <=5% sẽ được đề là “other fibers” 2. Tên của nhà sản xuất hoặc số liệu đăng ký tại FTC cho những thành viên tham gia phân phối và buôn bán sản phẩm. Thương hiệu phải được đăng ký tại cơ quan sáng chế Mỹ. 3. Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy định trong điều luật về chống thực sản phẩm dệt TPIA. Đối với những lô hàng nhập vào Hoa Kỳ có gias trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau: Liệt kê tên các loại sợi cấu thành sản phẩm; tỷ trọng các loại sợi cấu thành; tên quốc gia dăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA; tên của quốc gia sản xuất hoặc gia công sản phẩm đó. Như vậy để nhanh chóng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về pháp luật Hoa Kỳ, các chính sách thương mại cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn Hoa Kỳ. 2.1.2.4 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ đã được ký kết, đánh đấ bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì của cả 2 bên qua 4 năm thương lượng với 9 vòng đàm phán. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ bắt đàu có hiệu lực từ ngày 10-12-2001 đã đem lại cho hoạt đọng xuất khẩu của Việt Nam những thời cơ và thách thức mới. diều đó đòi hỏi chính phủ, đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt Nam phải tính tới và xây dựng cho mình được lộ trình và bước đi thích hợp để dưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt để đưa hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng trên thị trường đầy tiềm năng này. 2.1.2.5 Đàm phán Hiệp định dệt may Việt- Mỹ. Khi hiệp định thương mại có hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường, tuy nhiên trong hiệp định cũng quy định rằng hàng dệt may sẽ bị hạn chế bằng kim nghạch. Khi hiệp định về hàng dệt may được ký kết thì những vấn đề cơ bản cho việc nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ cần tuân theo là: Tuân thủ các quy định về hạn nghạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất xứ hàng hóa, các quy định về nhãn hàng hóa... Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy định của chính phủ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hoặc bị tịch thu. Ngoài việc phải tuân thủ theo các quy định trên nhà xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ còn phải tìm hiểu và tuân thủ theo các hạn chế cuả Hoa Kỳ về nhập khẩu hàng dệt may. 2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 2.2.2.1. Thuận lợi. Hoa Kỳ thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Châu Á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Hoa Kỳ với tổng giá trị xuất khẩu ngày càng gia tăng. Có thể nói yếu tos quan trọng nhất giúp cho hàng may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Hoa Kỳ là nhờ lợi thế chi phí nhân công thấp. Nước ta cũng không nằm ngoài thuận lợi này. Nghành công nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế tương đối về nguồn nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Tính đến nay dân số Việt Nam khoảng 85 triệu người trong đó số người trong độ tuổi lao động lớn. Hàng năm tốc độ tăng dân số bình quân từ 1,85-2%, với tốc độ này theo các chuyên gia thì đến năm 2010 dân số Việt Nam khoảng 90 triệu người. Như vậy nguồn lao động của Việt Nam ngày càng tăng. Mặt khác bên cạnh lực lượng lao động dồi dào thì chi phí lao động cảu Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giưois. Do vậy, giá sản phẩm các mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối thấp so với các nước. Ví dụ: Nếu so với các nước Đông Nam Á thì giá công may của Việt Nam thấp từ 2 đến 48 lần và nếu so với Đức là 25,86 USD/1h, Nhật Bản là 19,2 USD/1h, Hoa Kỳ là 16,73 USD/1h thì giá công may của Việt Nam là từ 0,16-0,19 USD/1h, thấp từ 100-150 lần. Để giảm tối đa chi phí cho dệt may xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính sách thuế xuất nhập khẩu nước ta đã có nhiều ưu đãi cho nghành dệt may như: áp dụng mức thuế suất 0% đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp dụng thuế suất 0%. Miễn thuế đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước ngoài. Không áp đặt giá tính thuế tối thiểu để xác định giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư nguyên liệu sản xuất hàng dệt may, thuế suất đối với nhập klhẩu máy móc thiết bị phục vụ nghành dệt may hầu hết là 0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0%- 10%. 2.2.2.2 Khó khăn. Trong những năm gần đây, công nghiệp dệt may Việt Nam đã có bước tăng trưởng đáng kể. Ngành sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm, có đngs góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện ổn định cán cân thu chi ngoại tệ theo hướng có tích lũy. Thành công đó đạt được là nhờ những thuận lợi mà nghành có, nếu phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế so sánh về xuất khẩu nghành công nghiệp dệt may Việt NAm có thể tăng trưởng nhanh hơn nhiều. Bên cạnh những thuận lợi trên các doanh nghiệp dệt may còn gặp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Thứ nhất: Dệt và sản xuất phụ liệu chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của nghành may xuất khẩu. Theo hiệp hội dệt may Việt Nam( Vitas) nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất của nghành này tăng vọt. Tuy nhiên quy mô của nghành sợi, dệt trong mấy năm qua tuy tăng nhanh nhưng vẫn chưa theo kịp._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0723.doc