Lời mở đầu
Việt Nam đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu phát triển đến năm 2010 là đạt mức tăng sản phẩm xã hội bình quân đầu người lên gấp đôi hiện nay.
Để đạt được mục tiêu này thì một trong những việc mà chúng ta phải làm là đẩy mạnh xuất khẩu nhằm phát triển sản xuất hàng hoá, phục vụ cho công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mở rộng giao lưu quốc tế nhằm đưa Việt nam thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hoà nhập với mô
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Marketing Xuất khẩu hàng dệt may của Công ty May Chiến Thắng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trường trong khu vực và quốc tế. Với nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhiều khó khăn thử thách mới đã và đang đặt ra cho các doanh nghiệp phải xem xét lại mình, đổi mới về tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh để đáp ứng với nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển của Đất nước.
Bởi vậy, tại Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: "...phát triển hàng Dệt May xuất khẩu là điều kiện thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, tăng thu nhập quốc dân, là tiền đề thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước". Quá trình thực tập tại Công ty May Chiến Thắng - Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam và tìm hiểu hoạt động xuất khẩu tại đây, kết hợp nghiên cứu những lợi thế và khó khăn mà Công ty gặp phải, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến của mình về :" Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Maketing xuất khẩu hàng Dệt - May của Công ty may Chiến Thắng".
Kết cấu của đề tài này gồm 3 phần
Phần I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Phần II: Hoạt động xuất khẩu ngành Dệt-May Việt Nam và Công ty May Chiến Thắng.
Phần III: Định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy chiến lược hoạt động của Công ty.
Đây là một chuyên đề rất rộng, vì vậy bài viết của tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú cán bộ trong Công ty May Chiến Thắng và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn và có giá trị trọng thực tiễn.
Rất cám ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đỗ Thanh Hà - Thạc sĩ, phó chủ nhiệm khoa Quản lý doanh nghiệp, sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú cán bộ trong Công ty May Chiến Thắng và các bạn.
Một lần nữa tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo và các bạn đã giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Sinh viên thực hiện.
I. Khái niệm về hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán và trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. khi sản xuất phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia phát triển, sự phân công lao động quốc tế hình thành rõ nét, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia (hay thị trường nội địa với các khu chế xuất trong nước).
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu của các quốc gia trong quá trình phát triển. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên... dẫn đến sự khác nhau về lợi thế trong các lĩnh vực khác nhau của các quốc gia. Đề khai thác tối đa lợi thế và khắc phục các hạn chế, tận dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi các loại hàng hoá và dịch vụ cho nhau.
Tuy nhiên xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi các quốc gia không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên... thì quốc gia đó vẫn có thể thu được những lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế...
- Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
- Có thể nói xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề nội bộ nền kinh tế như; vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường...
- Đối với nước ta hướng mạnh mẽ về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một quốc gia nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế của nước đó phát triển cao.
Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, tiềm năng và cơ hội của đất nước.
II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ịch sau đây:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ, phát triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm.
- Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các kỹ năng quản lý chuyên môn, chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế, quản lý và dự đoán những xu hướng biễn động của tỷ giá hối đoái. Mặt khác qua xuất khẩu doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Ngoài ra sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân, tăng khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu hút lợi nhuận cao.
Như vậy xuất khẩu không chỉ đóng vai trò là chất xúc tác hỗ trợ phát triển mà nó còn trở thành yếu tố bên trong của sự phát triển, trực tiếp tham gia vào giải quyết một loạt các vấn đề quan trọng của nền kinh tế như vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu...Do vậy chỉ có ý thức được vai trò hiệu quả của nó mới tập trung khai thác triệt để mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước để nhanh chóng phát triển mở rộng hoà nhập vào nền kinh tế phát triển chung của nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời biến nó trở thành một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế.
ý thức rõ được tầm quan trọng của xuất khẩu, Đảng và Nhà nước ta ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã sớm đề ra chủ trương phù hợp để đưa nước ta từng bước phát triển theo xu thế phát triển tất yếu là thay đổi chiến lược kinh tế từ “Đóng cửa” sang “Mở cửa”, từ thay thế nhập khẩu hướng sang xuất khẩu. Đặc biệt từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII với chiến lược “chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị xã hội trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình” thì hoạt động xuất của ta càng sôi động hơn bao giờ hết.
Bên cạnh đó xét về mặt tiềm năng thì nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển xuất khẩu đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Đó chính là những tiềm năng vật chất hết sức to lớn và là cơ sở nguồn lực để phát triển xuất khẩu. Ngoài ra ta còn có một đội ngũ lao động tiếp thu nhanh được khoa học kỹ thuật và công nghệ cao thì mới đáp ứng nhu cầu chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế.
Về thực tế hiện nay, lao động xuất khẩu còn chưa cân xứng với tiềm năng thực lực của nền kinh tế. Xuất khẩu của ta chủ yếu là nông sản hoặc dạng thô, mới sơ chế. Phương châm chiến lược là cần xuất khẩu sản phẩm tinh, sản phẩm đã qua chế biến để có lợi nhuận cao hơn và tận dụng được lực lượng lao động dư thừa, hoạt động xuất khẩu của ta đang đi từ xuất khẩu thành phần có hàm lượng cao.
III. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Với mục tiêu là đa dạng hoá kinh doanh xuất khẩu nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thượn
g có thế lực có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau.
1 Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức đơn vị ngoại thương xuất khẩu các loại hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Về nguyên tắc xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng rủi ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: giảm bớt chi phí trung gian, do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng, do đó nên ta có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết.
2 Xuất khẩu uỷ thác
Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu và qua đó thu được một số tiền nhất định (thường là tỷ lệ % của giá trị lô hàng xuất khẩu).
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động, đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trọng việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất.
3 Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho đơn vị gia công, sau đó thu lại thành phẩm để xuất lại cho nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo sự thoả thuận với các xi nghiệp sản xuất.
Hình thức này có ưu điểm là đơn vị ngoại thương không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít hơn, việc thanh toán chắc chắn hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc.
4 Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán.
5 Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ)
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước giao tiến hành xuất khẩu một số mặt hàng nhất định do Chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ.
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác thường không có sự rủi ro trong thanh toán (thanh toán do Chính phủ thực hiện).
Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này chỉ xuất hiện rất ít, thường trong một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước.
6 Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh, trong đó một bên (bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (bên gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công).
Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ được nhiều quốc gia nhất là những quốc gia có nguồn lao động dồi dào tài nguyên thiên nhiên phong phú áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, họ còn có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị kỹ thuật khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với nước đặt gia công, họ cũng có lợi ích vì lợi dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công.
Hình thức xuất khẩu này chủ yếu được áp dụng trong những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giầy da... Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quôc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại chẳng hạn như Hàn Quốc, Thái Lan...
7 Tái xuất khẩu
Nội dung của hình thức xuất khẩu này là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu đước những lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn.
Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu. Hàng hoá là đối tượng xuất khẩu có thể đi thẳng từ nước xuất khẩu tới nước nước nhập khẩu, hoặc từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu và sau đó mới tới nước nhập khẩu. Sở dĩ có hoạt động tái xuất khẩu là do sự thuận lợi và khó khăn trong quan hệ thương mại giữa các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, chẳng hạn như bị cấm vận hay trừng phạt kinh tế...
Tóm lại các hình thức xuất khẩu có nhiều và rất đa dạng. Trong thực tế hoạt động xuất khẩu, đối với một doanh nghiệp có thể thực hiện cùng một lúc một hay vài hình thức xuất khẩu khác tùy thuộc vào điều kiện và khả năng thực tế của từng doanh nghiệp cụ thể.
4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến kinh doanh xuất khẩu
4.1 Các quan hệ kinh tế quốc tế
Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu. Khi xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, nhà xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa các nước nhập khẩu hay xuất khẩu. Khi đố với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia thạm gia vào các liên minh kinh tế và các hiệp định thương mại là một tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia. Nếu không chính nó lại trở thành vật cản đối với việc thậm nhập vào thị trường trong khu vực đó.
Tóm lại có được mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia.
4.2 Các yếu tố về khoa học công nghệ
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất sẽ tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao, mẫu mã đa dạng phong phú. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận.
Như trong hoạt động xuất khẩu thì nhờ có sự phát triển của bưu chính viễn thông, tin học mà các đơi vị ngoại thương có thể đàm phán ký kết hợp đồng với đối tác qua điện thoại, điện tín...Giảm được sự vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ nhận hàng...cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
4.3 Nhân tố con người
Con người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi vì con người là chủ sáng tạo và trực tiếp điều các hoạt động ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu: đó là tinh thần làm vệc và năng lực công tác.
- Tinh thần làm việc biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung.
- Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành công tác và nghiệp vụ cụ thể và kết quả hoạt động
Để nâng cao vai trò của nhân tố con người các doanh nghiệp một mặt phải nâng cao nghiệp vụ cho họ mặt khác phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần
4.4 Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Mạng lưới kinh doanh rộng lớn là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động tạo nguồn hàng vận chuyển làm đại lý xuất khẩu...Do vậy mạng lưới kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu.
Nếu mạng lưới kinh doanh không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
4.5 Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp
Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm các máy móc thiết bị, hệ thống kho tàng, nhà xưởng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng, các đại lý chi nhánh và trang thiết bị của nó...cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này quy định quy mô, tính chất, lĩnh vực hoạt động xuất khẩu và vì vậy góp phần quyết định hiệu quả kinh doanh.
I. Hoạt động xuất khẩu ngành dệt may Việt nam
1. Chiến lược xuất khẩu cho ngành Dệt - May Việt Nam
Ngành Dệt - May Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức trên con đường hội nhập và phát triển. Từng doanh nghiệp phải đối mặt và cạnh tranh gay gắt. Không chỉ với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước mà còn với cả các doanh nghiệp nước ngoài để tăng thị phần. Bản thân ngành Dệt - May Việt Nam cũng tự nhận thấy năng lực còn quá nhỏ so với tiềm năng và so với ngành dệt may của một số nước trong khu vực
Việt Nam có dân số hơn 80 triệu người với 47% dân số đang ở độ tuổi lao động và là nguồn cung ứng lao động nhân lực trẻ và dồi dào cho ngành Dệt - May. Lao động Việt Nam thông minh cần cù chịu khó, rất phù hợp với ngành đệt - May. Lao động Việt Nam có giá nhân công vào loại rẻ nhất thế giới.
Ví dụ: so sánh con số giá công lao động Việt nam với các nước Asean và các nước trên thế giới. Giá công lao động Việt Nam là 0.24 USD/giờ so với 1.18USD /giờ của Thái Lan, 0.32USD/ giờ của Indo, 1.13USD /giờ của Xingapo và 0.34USD /giờ của Trung Quốc, 0.39 USD/ giờ của Hồng Kông, 12.63USD /giờ của Pháp và với 16.37 USD/giờ của Nhật Bản...
Nước ta nằm trong khu vực Châu á Thái Bình Dương, hiện nay làm khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới, trung bình đạt từ 8-10%/năm. Cũng như các nước khác trong khu vực, Việt Nam rất năng động trong việc phát triển kinh tế. Đặc biệt hơn cả là Việt Nam có cảng biển lớn, dài, dọc theo đất nước rất thuận lợi chi việc xuất nhập khẩu.
Trở lại vấn đề này, trong chiến lược phát triển chung của toàn ngành đã được Chính phủ phê duyệt đến năm 2010, ngành Dệt - May Việt Nam đã đạt mục tiêu, đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD , thu hút 4 triệu lao động vào làm việc. Để đạt mục tiêu này, ngành Dệt - May Việt Nam đang thiết kế một chương trình ”tăng tốc” khá hoàn chỉnh với ba vấn đề cấp thiết phải tập trung giải quyết gồm: “Đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị trường tiêu thị sản phẩm và vốn đầu tư cho phát triển”. Trong đó đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất, bởi đây cũng là một biện pháp để huy động mọi nguồn nhân lực của các thành phần kinh tế.
Nhà nước với chủ trương khuyến khích xuất khẩu, hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết tháng 7 năm 2000 và tiếp tục được Thượng viện Mỹ thông qua với 88/12 phiếu ngày 03/10/2001 là một cơ hội lớn cho ngành Dệt - May nước ta, vì đây là một thị trường khổng lồ dễ tính. Trong khi chờ đợi hiệp định được phê chuẩn để “tăng tốc”. Khi điều kiện cho phép đặc biệt cần thiết trong giai đoạn chưa áp dụng chế độ hạn ngạch.
Với xu thế tự do hoá thương mại đối với ngành Dệt - May đang được thực hiện từng bước theo lịch trình của Hiệp định ATC (Agreement on Textile and Clothing), theo hiệp định này đến năm 2005 sẽ xoá bỏ toàn bộ hàng rào hạn ngạch đối với các nước thành viên thuộc tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây cũng là một cơ hội nhưng đồng thời cũng là một thử thách lớn đối với ngành Dệt - May nước ta, kể cả khi ta đã là thành viên của tổ chức này trước năm 2005.
2. Quá trình phát triển của ngành Dệt - May Việt Nam
Hiện nay, sản phẩm Dệt - May Việt Nam đã có mặt tại các thị trường khu vực và thế giới như: Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ, úc, Canada...Khách hàng càng ngày càng tin dùng hàng Dệt - May Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm Dệt - May của chúng ta đã và sẽ có thể cạnh tranh được trên thị trường khác kể cả những thị trường khó tính như Nhật Bản và EU. Chính vì vậy mà nhiều năm liền các sản phẩm Dệt - May của Công ty Chiến Thắng, May 10, May Thăng Long, May Đức Giang, Việt Tiến, Nhà bè, Dệt Hà Nội, Dệt May Thắng Lợi, Dệt Việt Thắng, Dệt Phong Phú, Dệt may Thành Công và của nhiều doanh nghiệp khác được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao đã được khách hàng trong nước và quốc tế ưa chuộng.
Quá trình phát triển ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Sự phát triển của hàng Dệt - May xuất khẩu Việt Nam được đánh dấu đầu tiên bằng hiệp định hợp tác xuất khẩu may mặc ký giữa chính phủ Việt Nam và Liên Xô năm 1987 theo phương thức: Liên Xô giao nguyên liệu, mẫu mã, còn Việt Nam gia công và giao lại sản phẩm.
Việt Nam đã ký được hiệp định buôn bán hàng Dệt - May với liên minh Châu âu (EU) ngày 15/12/1992. Trên đà thắng lợi đó, Việt Nam đã mở rộng được thị trường phi hạn ngạch ra hơn 20 nước trên thế giới.
Đáp ứng được điều này, kể từ năm 1991 trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Với con số khiêm tốn 150 triệu USD năm 1991 đã tăng lên tới 1.9 tỷ USD năm 2000 tăng trung bình mỗi năm trên 174 triệu USD (tương đương 45.5%/năm), cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân 27.5% của tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Bên cạnh đó, tỷ trọng xuất khẩu hàng Dệt - May trong tổng kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng tăng từ 7.6%/năm 1991 tới 16.5%/năm 2000 (chủ yếu là phương thức gia công chiếm từ 70-80% sản phẩm xuất khẩu). Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt - May của nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Biểu 1
Tốc độ tăng trưởng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
tính theo đơn vị tỷ USD (nguồn: Bộ thương mại)
USD 1,9
1,7
1,52
1,3
năm
1997 1998 1999 2000
- Hiện nay làn sóng chuyển dịch sản xuất ngành dệt may đã chuyển sang giai đoạn hai, tức là từ các nước mới phát triển (NIC) Châu á sang các nước Trung Quốc, ấn độ, Indo, Bănglađet, Việt Nam...có lao động đông và rẻ. Vì vậy thời cơ phát triển dệt may Việt Nam đang có cơ hội lớn để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 10 hoặc 20 năm nữa.
Ví dụ: thị trường Hoa Kỳ, một thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới với mức xuất khẩu hàng năm trên 50 tỷ USD; đang mở cửa cho hàng may mặc Việt nam và sẽ tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt Nam tăng cường xuất khẩu.
3. Quy chế tối huệ quốc đối với ngành Dệt - May Việt Nam
* Các cơ hội đối với ngành Dệt - May Việt Nam
Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ là một bước tiến mới trong việc bình thường hoá quan hệ kinh tế giữa hai nước mang lại nhiều cơ hội cho ngành Dệt - May Việt Nam. Điều quan trọng là hiệp định cho phép tất cả các công ty Việt Nam được thạm gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Về phía Hoa Kỳ, họ sẽ quy định chế độ hạn ngạch đối với hàng may mặc và giấy phép (VISA) đối với hàng Dệt - May cho các nhà xuất khẩu Việt Nam
Có một số ngoại lệ đối với quy định này được áp dụng trong trường hợp các khu vực miễn hải quan như Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (“AFTA”) và Hiệp định Mậu dịch Tự do Khu vực Bắc Mỹ (“NAFTA”). Những nguyên tắc chung là hàng hoá có xuất xứ từ Việt nam không còn phải chịu các mức thuế suất nhập khẩu cao khi đưa vào thị trường Hoa kỳ. Do đó mức thuế suất nhập khẩu trung bình sẽ giảm từ 40% xuống 3%.
4. Các cơ hội xuất khẩu cho ngành Dệt - May Việt Nam
Các ngành hàng chính mà các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ tìm thấy có cơ hội ngay là hàng may mặc, hải sản, giầy dép và đồ dùng.Giá trị hàng may mặc hiện xuất khẩu sang Hoa Kỳ còn rất hạn chế. Đó là vì mức thuế suất hiện còn quá cao.
Ví dụ: mặt hàng sơ mi lụa nam là 60%. Mức thuế suất này sẽ giảm xuống chỉ còn 2% khi hiệp định có hiệu lực, và sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 0.9%. áo phông nam do Việt nam sản xuất đạt được danh tiếng tốt ở nước ngoài về chất lượng. Nhưng ở Mỹ chúng phải chịu thuế xuất nhập khẩu là 77%. Mức thuế suất này sẽ giảm xuống còn 29%, và sau đó sẽ giảm là 27%. Tương tự như thế đồ lót phụ nữ, chẳng hạn như các sản phẩm do Triumph sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh phải chịu mức thuế xuất nhập khẩu gần 60%. Mức thuế suất này sẽ giảm xuống 12% và sau đó là 8.5%.
Nhận xét:
Những thay đổi này sẽ giúp cho những sản phẩm nêu trên có sức cạnh tranh hơn tại thị trường Hoa kỳ. Bằng việc tiếp thị thích hợp, danh tiếng tốt của hàng hoá Việt Nam có thể lan truyền nhanh chóng.
Chương 1. Điều 1.4 của Hiệp định cho phép giữ nguyên chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt nhưng áp dụng đối với các sản phẩm khác. Chương VII Điều 3.3 dự kiến là các bên sẽ ký kết một hiệp định riêng biệt về hạn ngạch hàng dệt nhưng không nêu khi nào.
5. Những thách thức đối với ngành Dệt - May Việt Nam
Xuất phát từ áp lực cạnh tranh gay gắt, một khi tiến trình hội nhập khu vực và thế giới được thực hiện hoàn toàn như theo lộ trình hội nhập AFTA (CEPA), từ năm 2000 Việt Nam đã xây dựng tiến trình giảm thuế nhập khẩu hàng Dệt - May từ các nước Đông Nam á ở mức bảo hộ cao như trước đây: sợi 20%, vải 40%, may mặc 50% xuống tối đa còn 5% vào năm 2006
Tiến trình này đã bắt đầu được thực hiện từ 1/1/2000 với mức thuế nhập khẩu cho sợi còn 15%, vải còn 30% và may mặc còn 35% (nghị định 09/NĐ-Chính phủ, ngày 21/3/2000).
Như vậy, kể từ nay trở đi, hàng Dệt - May Việt Nam phải có cạnh tranh với các nước Đông Nam á ngay tại thị trường nội địa với mức bảo hộ giảm dần cho đến không bảo hộ vào 1/1/2006.
Trong khi đó, ngành công nghiệp Dệt - May của Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực về năng lực sản xuất, về trình độ công nghệ, khối lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hoá còn nghèo nàn và năng suất còn thấp dẫn đến giá thành còn cao hơn một số nước trong khu vực . Điều này thể hiện qua số liệu năm 2000, kim ngạch nhập khẩu hàng Dệt - May Thái Lan bằng 3,25 lần, Inđônêxia bằng 4 lần và Trung Quốc bằng 25 lần của Việt Nam. Sản xuất may mặc còn ở dạng gia công là chính, do vậy phần giá trị gia tăng trên sản phẩm còn thấp.
Những hạn chế trong lĩnh vực Dệt - May của Việt Nam so với các nước ASEAN đã thể hiện trong thực trạng buôn bán hàng dệt may hiện nay giữa Việt Nam và các nước ASEAN.
* Một số vấn đề còn tồn tại
- Đối với lĩnh vực sản xuất nguyên, phụ liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu (bao gồm cả bông, xơ, sợi tổng hợp, vải và phụ liệu may, v.v...) hiện nay sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 10 đến 15% nhu cầu cho may xuất khẩu, số còn lại do chính các doanh nghiệp may nhập khẩu hoặc do khách hàng đưa vào may gia công và tái xuất .
Những hạn chế trong khâu sản xuất nguyên phụ liệu dẫn đến việc khó có thể kết nối hai khâu dệt và may xuất khẩu. Kết quả là phần giá trị gia tăng và lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp và đất nước còn chưa tương xứng với tiềm năng chúng ta có.
- Đối với lĩnh vực hàng may mặc, nhìn chung đã được đổi mới khá nhiều về thiết bị, công nghệ. Do đó, chất lượng sản phẩm có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực để đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, giá thành sản phẩm của chúng ta còn khá cao, mẫu mã hàng hoá còn nghèo nàn, thương hiệu và khả năng thương mại còn nhiều hạn chế. Do vậy, tính cạnh tranh của sản phẩm Dệt - May Việt Nam trên thị trường quốc tế chưa được khẳng định vững chắc.
* Kiến nghị của ngành Dệt - May Việt nam đệ trình Chính phủ về các cơ chế chính sách đặc cách phát triển 2001-2010.
- Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt.
- Chính sách ưu đãi đầu tư mới vào các cụm công nghiệp đầu tư tập trung.
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm Dệt - May.
- Chính sách hỗ trợ phát triển cây bông vải.
- Thành lập văn phòng "Chương trình quốc gia phát triển ngành Dệt - May".
II - Thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty May chiến thắng
1. Hình thành và phát triển của Công ty May Chiến Thắng:
1.1. Sự hình thành
Ra đời trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (2/3/1968), từ một Xí nghiệp may Chiến Thắng trước đây, sau hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, sự phát triển của Công ty gắn liền với những sự kiện lớn lao của lịch sử đất nước. Mặc dù phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhưng cái tên “Chiến Thắng” luôn được gìn giữ và nâng niu, thể hiện ý chí và quyết tâm phấn đấu của mỗi cán bộ, công nhân trong Công ty.
Từ chỗ nhà xưởng đơn sơ, dột nát, phân tán, các cơ sở cách nhau tới hàng chục km, thiết bị thì cũ kỹ, lạc hậu, số lượng công nhân không nhiều; ngày nay Công ty may Chiến Thắng đã trở thành một doanh nghiệp may lớn có bề dày truyền thống, được trang bị nhiều máy móc, thiết bị chuyên dùng hiện đại, nhà xưởng khang trang, sạch sẽ. Sản phẩm chủ yếu ban đầu là các loại quần áo bảo hộ lao động, trang phục cho quân đội; đến nay đã rất phong phú về chủng loại, đẹp về mẫu mã, chất lượng cao và được xuất khẩu sang nhiều thị trường có uy tín như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản, ASEAN...
Trải qua hơn 30 năm hình thành, đi lên từ sự phát triển vững bước, đến nay, Công ty đã được thành lập theo quyết định của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam phê duyệt kèm theo điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty.
Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 4/12/1996, Công ty May Chiến Thắng là doanh nghiệp Nhà nước, thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Dệt may Việt Nam, hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước với các qui định của pháp luật và Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng công ty.
- Tên Công ty:
+ Tên giao dịch Việt Nam : Công ty may Chiến Thắng
+ Tên giao dịch quốc tế : Chiên Thăng garment company.
+ Viết tắt : CHIGARMEX
- Trụ sở chính: Số 10 Thành Cô._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- F0001.doc