MỤC LỤC
Lời Mở Đầu
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, một nội dung vô cùng quan trọng là đổi mới cơ chế quản lý đang diễn ra ở các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế. Cơ chế quản lý theo tiêu chuẩn kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã bị xoá bỏ, cơ chế thị trường từng bước được xác lập với xác lập của Nhà nước. Nó đã mở ra triển vọng phát triển cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cho dù doanh nghiệp với thành phần sở hữu nào cũng đều có quyền bình đẳng như nha
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở Công ty xi măng Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u, đều có sự tồn tại và phát triển. Chung quy lại nếy biết giải quyết tốt 3 vấn đề kinh tế cơ bản:
Sản xuất cái gì?
Sản xuất cho ai?
Sản xuất như thế nào?
Triển vọng ở trước mặt, những nguy cơ thất bại cũng nhãn tiền nếu không giải quyết tốt, còn để tồn tại, khúc mắc ở một mặt nào đó. Chẳng hạn vấn đề “Sản xuất cho ai?” nếu không sản xuất được, tức là cái mà doanh nghiệp sản xuất ra không phục vụ cho đối tượng tiêu dùng nào, không phù hợp với nhu cầu, không được thị trường chấp nhận... Thì sớm hay muộn doanh nghiệp cũng đi đến chỗ lụi bại và phá sản.
Công ty xi măng Hải Phòng mà một doanh nghiệp Nhà nước, cũng như các doanh nghiệp khác khi chuyển sang cơ chế mới được dành nhiều quyền chủ động song cũng phải đối phó với không ít những khó khăn mới, nếu không xử lý tốt sẽ dẫn đến thất bại.
Công ty được quền tự chủ, xác định lấy nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là chính và tất nhiên là phải lo đủ vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và tổ chức tiêu thụ sản phẩm để thu hồi vốn, bù đắp cho chi phí, đạt hiệu quả cao có lãi. Để không bị đào thải trong cạnh tranh, được nằm trong danh sách các doanh nghiệp phát triển luôn là vấn đề trăn trở chra các lãnh đạo và cán bộ công nhân viên công ty. Với cố gắng tìm tòi lời giải đáp cho sự tồn tại và phát triển dần được tháo gỡ, các sản phẩm của công ty sản xuất ra rồi, nhưng làm thế nào để tiêu thụ được, đẩy mạnh tiêu thụ hơn nữa và sớm thu hồi được vốn, phcụ vụ mở rộng sản xuất ở chu kỳ sau luôn là vấn đề thời sự.
Được đăng ký thực tập tại công ty xi măng Hải Phòng, qua khảo sát và tìm hiểu thực tế, tôi thấy vấn đề tiêu thụ đang có rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Vì vậy tôi đã quan tâm nghiên cứu vấn đề tiêu thụ sản phẩm của công ty với đề tài: “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty xi măng Hải Phòng”.
Chương 1- Giới thiệu chung về công ty Xi măng Hải Phòng.
1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của công ty xi măng Hải Phòng.
Tên doanh nghiệp : Công ty Xi măng Hải Phòng.
Tên giao dịch tiếng anh : Hai Phong Cenment Company.
Địa chỉ : Tràng Kênh – Minh Đức – Thủy Nguyên.
Mã số thuế : 020015521.
Diện tích : 3.161.000 m2.
Tổng cán bộ công nhân viên hiện nay là hơn 1200 người.
Công ty Xi măng Hải Phòng là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam. Được thành lập theo Quyết định số 353/BXD-TCLĐ, ngày 09/8/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Tiền thân của Công ty là nhà máy Xi măng Hải Phòng, được Đế quốc Pháp xây dựng ngày 25/12/1899 trên vùng đất ngã ba Sông Cấm và Kênh đào Hạ Lý.
Xi măng Hải Phòng được ra đời sớm nhất ở Việt Nam và Đông Dương, từ lâu được coi là những trọng điểm kinh tế của đất nước và là cái “Nôi” của ngành Công nghiệp Xi măng Việt Nam.
Từ năm 1899 – 1925 : Đây là giai đoạn khởi công xây dựng và đi vào sản xuất, toàn bộ nhà máy có 04 lò đứng theo phương pháp khô ( nửa thủ công) năm 1925 phát triển thêm thành 25 lò đứng theo kiểu Vertical Candlot sản xuất Xi măng theo phương pháp khô, hoạt động nửa thủ công, nửa cơ khí. Công suất thiết kế có khả năng sản xuất 150.000 tấn/năm.
Ngày 8/1/1930 dưới sự lãnh đạo và tổ chức của Chi bộ Đảng đã phát động cuộc đình công lớn thu hút gần 2000 công nhân tham gia đấu tranh với giới chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm... Ngày 8/1/1930 đã trở thành ngày truyền thống cách mạng của Công nhân xi măng Hải Phòng và nay trở thành ngày truyền thống của công nhân viên chức ngành Công nghiệp Xi măng Việt Nam.
Trong thời kỳ giành chính quyền (1941-1945) cũng như trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) Đảng bộ Xi măng Hải Phòng luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường, sáng tạo để đóng góp sức người, sức của cho chiến tranh giải phóng dân tộc. Sau Hiệp định Giơ - Ne - Vơ về Đông Dương (1954), địch âm mưu phá hoại nhà máy, di chuyển máy móc thiết bị vào Nam, Cấp uỷ đảng đã lãnh đạo cán bộ đảng viên, công nhân Xi măng Hải Phòng mưu trí, dũng cảm phân tán cất giấu máy móc. Đến năm 1955 Chính quyền ta tiếp quản, hàng nghìn công nhân đã trở lại làm việc và mang máy móc đã cất giấu về lắp đặt, sửa chữa khôi phục nhà máy.
Từ năm 1925 - 1954 Công ty sản xuất theo phương pháp ướt lò hiện đại ( 3 lò nung ) tổ chức theo giây truyền khép kín sản lượng đạt trên 305.000 tấn xi măng đen / năm.
- Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, Xi măng Hải Phòng là những mục tiêu trọng điểm của đế quốc Mỹ ném bom phá hoại, nhà máy đã bị Mỹ phá hoại năng nề, nhiều lò nung không hoạt động được. Nhưng Cán bộ đảng viên công nhân viên chức Công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang của mình tiếp tục tiếp quản và khôi phục lại hoàn toàn dây truyền sản xuất xi măng đen của thực dân Pháp để lại. Được sựu giúp đỡ và đầu tư của nhà nước Rumani, 2 dây truyền lò Nung số 6 và số 7 ra đời.tiếp tục tiếp quản và khôi phục lại hoàn toàn dây truyền sản xuất xi măng đen của thực dân Pháp để lại. Được sự giúp đỡ và đầu tư của nhà nước Rumani, 2 dây truyền lò Nung số 6 và số 7 ra đời .Với những khẩu hiệu “ Trái tim còn đập, Lò còn quay”; “ Hãy sản xuất nhiều xi măng cho Tổ quốc”...thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) và kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1966 -1970). Công ty nghiên cứu sản xuất thành công xi măng mác P600 để dự xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo Tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cầu Thăng Long, Thuỷ điện Hoà Bình và một số công trình trọng điểm của đất nước.
- Sau năm 1975 đất nước thống nhất, cán bộ công nhân viên nhà máy đã nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình là nhà máy duy nhất ở miền bắc lúc đó nên phải gồng mình lên vượt qua mọi thử thách với khẩu hiệu “Hãy sản xuất nhiều Xi măng cho Tổ quốc” để mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Chính những năm tháng này nhà máy đã sản xuất được Xi măng P400, P500, P600 và nhiều chủng loại Xi măng khác đáp ứng kịp thời những nhu cầu cấp bách đặt ra.
Mười năm đổi mới cũng là thời kì thử thách khốc liệt nhất. Trước đây ở Việt Nam chỉ có duy nhất một nhà máy Xi măng Hải Phòng đến nay đã có thêm rất nhiều nhà máy mới như Xi măng Chinh phong, Thủ Đức, Bỉm Sơn, Thanh Hoá... và hàng chục nhà máy địa phương khác, nhà máy Xi măng Hải Phòng lại đứng trước sự lựa chọn và thách thức mới. Với truyền thống sẵn có nên toàn bộ nhà máy đã từng bước vượt lên chính mình, vượt lên trên hết khó khăn để tồn tại và phát triển như ngày nay. Chất lượng Xi măng không ngừng được nâng cao, công suất các thiết bị chính đến nay đã vượt xa công suất thiết kế, sản lượng hàng năm đều vượt kế hoạch đề ra. Chính vì vậy đời sống công nhân viên được đảm bảo, trật tự, kỉ cương an ninh được giữ vững.
- Năm 1993 thực hiện Quyết định số 353/BXD, ngày 9/8/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, nhà máy xi măng Hải phòng được sát nhập với Công ty kinh doanh xi măng thành Công ty xi măng Hải Phòng vừa sản xuất, vừa kinh doanh đã đáp ứng được với cơ chế thị trường.
- Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng bộ Xi măng Hải Phòng đã ý thức được vấn đề cần phải đổi mới công nghệ sản xuất để cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện kinh tế thị trường. Mặt khác vấn đề quy hoạch đô thị, vấn đề trả lại môi trường trong sạch cho nhân dân thành phố, càng đòi hỏi phải di dời chuyển đổi một nhà máy đã quá cũ và lạc hậu về công nghệ sản xuất.
- Năm 1997 thực hiện Quyết định số 1019/TTg, ngày 29/11/1997 của Thủ Tướng Chính phủ cho phép Công ty Xi măng Hải Phòng xây dựng nhà máy mới, trên mảnh đất Tràng Kênh, bên cạnh dòng Sông Bạch Đằng lịch sử, với dây chuyền công nghệ của hãng F.l.S.Midth Vương quốc Đan Mạch, tiên tiến, hiện đại bậc nhất Việt Nam hiện nay, đạt trình độ tự động hoá cao, công suất 1,4 triệu tấn sản phẩm năm.
- Năm 1998 nhà máy chính thức đổi tên thành Công ty Xi măng Hải Phòng.
- Ngày 30/11/2005 mẻ clinker đầu tiên của nhà máy đã được ra lò đạt chất lượng tốt, đánh dấu một bước ngoặt mới, một sự phát triển mới của Xi măng Hải Phòng.
- Năm 2006, năm đầu tiên sản xuất đồng bộ tại Nhà máy mới, Công ty xi măng Hải Phòng sản xuất và tiêu thụ vượt kế hoạch đề ra, không ngừng mở rộng thị phận, giữ chữ tín về Chất lượng, hiệu quả với khách hàng. Đặc biệt trong quý 1/2007, Công ty đã tiêu thụ được hơn 210.000 tấn xi măng tăng gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm trước - Đó là 1 tín hiệu vui.
1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Xi Măng Hải Phòng.
Trên cơ sở những nguyên tắc, quan điểm trên Công ty Xi măng Hải Phòng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh theo mô hình phân xưởng, bộ máy của Công ty được tổ chức sản xuất theo kiểu trực tuyến, chức năng nhiệm vụ bao gồm : Ban lãnh đạo Công ty và các phòng ban trực thuộc sự quản lý sản xuất và phục vụ sản xuất.
Hiện tại công ty có 2 xí nghiệp trực thuộc là xí nghiệp Đá Tràng Kênh và xí nghiệp vận tải và tiêu thụ sản phẩm 4 và có 5 phân xưởng sản xuất chính. Trong đó:
+ Xí nghiệp Đá Tràng kênh chịu trách nhiệm khai thác đá vôi, phục vụ cho sản xuất xi măng.
+ Xí nghiệp vận tải và tiêu thụ sản phẩm: chịu trách nhiệm vận chuyển xi măng tới các địa bàn tiêu thụ.
+ Các phân xưởng sản xuất chính tạo thành 2 hệ thống sản xuất xi măng đen và trắng. (Phân xưởng máy đá nghiền nguyên liệu; xưởng lò nung; xưởng nghiền than mịn; nghiền đóng bao xi măng; phân xưởng xi măng trắng).
+ Ngoài ra còn có 3 đơn vị phụ trách đầu vào: phòng vật tư, tổng kho, đoàn vận tải thuỷ .
Hiện tại công ty có 29 đầu mối đơn vị; Đảng uỷ Công ty; Ban Giám đốc; Công đoàn Công ty; Đoàn thanh niên; 2 Ban quản lý dự án (Ban quản lý nhà máy Xi măng Hải Phòng mới và Khu đô thị Xi măng Hải Phòng; 12 Phòng ban; 5 Xưởng sản xuất chính; 4 đơn vị hỗ trợ và 2 Trung tâm tiêu thụ sản phẩm tại nội thành, thành phố Hải Phòng và tỉnh Thái Bình.
Cụ thể Công ty gồm có phòng tham mưu, các phòng chức năng và các đơn vị hỗ trợ sản xuất : Phòng kế hoạch; Phòng kỹ thuật cơ điện;Phòng kỹ thuật sản xuất; Phòng xây dựng cơ bản; Phòng tiếp thị; Phòng KCS; Văn phòng hành chính quản trị; Phòng bảo vệ quân sự; Phòng an toàn vệ sinh môi trường; Phòng y tế; Cơ quan Đảng, đoàn thể; Ban giám đốc; Phân xưởng động học; Phân xưởng cơ khí; Phân xưởng bao giấy; Phân xưởng sửa chữa công trình; Phân xưởng lắp ráp; Phân xưởng sửa chữa và vận tải cơ giới.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CÔNG TY XI MĂMG HẢI PHÒNG
ĐẢNG ỦY
GIÁM ĐỐC
CÔNG ĐOÀN
PGĐ BAN
QLDA Đ. THỊ
PGĐ
CƠ ĐIỆN
PGĐ
CÔNG NGHỆ
ĐOÀN TN
PGĐ
KINH DOANH
PGĐ BAN
QLDA XMHP MỚI
THỦ KHO
P. VẬT TƯ
P. ATLĐ
P. CƠ
P. ĐIỆN
P. BVQS
X. CƠ KHÍ
X. ĐIỆN
X. NƯỚC
P. TCLĐ
P. KTTC
V. P
CLB - BĐ
P. KH
P. GNSP
TTTT
P. KTCN
P. KCS
P. ĐHTT
X. MỎ
X. LIỆU
X. LÒ
P. KH
P. GS
X. NĐB
1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Xi măng Hải Phòng.
1.2.1 Đặc điểm về cơ sở vật chất, kĩ thuật.
Với dây chuyền sản xuất xi măng hiện đại nhất Việt Nam hiện nay được xây dựng tại Mỏ đá Tràng Kênh - Thị trấn Minh Đức - Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng công suất 1,4 triệu tấn xi măng một năm theo phương pháp khô (lò quay) do hãng F.L.Smith (Đan Mạch) chế tạo, cung cấp. Dây chuyền này có rất nhiều ưu điểm như tiêu hao nhiệt năng và điện năng thấp. Đặc biệt, trong quá trình sản xuất, năng suất thiết bị có khả năng vượt từ 10-15% so với công suất thiết kế. Đây là thành công lớn trong quá trình đầu tư và lắp đặt thiết bị. Mặt khác, dự án xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng mới đã thực hiện tổng vốn đầu tư đạt 2.900 tỷ VND - tương đương 208,68 triệu USD, giảm 18 triệu USD so với dự toán. Không chỉ thế, việc xây dựng nhà máy đã vượt trước thời hạn 1 tháng. Nhờ vậy, hàng chục nghìn tấn clinker đã được sản xuất, đem lại giá trị hàng chục tỷ VND.
Sơ đồ công nghệ sản xuất của công ty xi măng Hải Phòng.
Than cám
Mýa sấy than
Đất sét
Đá vôi
Quặng
Máy bừa
Máy nghiền than
Kho chứa xi măng
Bể chứa
Lò Nung Clinker
Than mịn
Két chứa
Bể dự chữ bùn pát
Máy nghiền xi măng
Máy
Đóng
bao
Máy bừa
Máy nghiền bùn
Giếng
điều
chế
Clinker
Thạch cao nhỏ
Máy hấp thạch cao
Thạch cao to
Ủ Clinker
Si lô
chứa
xi măng
bột
Các thiết bị công nghệ chính
1 - Máy nghiền:
* Nghiền phụ gia: Năng suất 30 tấn/h.
* Nghiền xi măng: Nghiền đứng: Năng suất 240 tấn/h.
Nghiền bi: Năng suất 200 tấn/h.
* Nghiền than: Năng suất 25 tấn/h.
2 - Lò nung: Năng suất 3300 tấn/ ngày.
1.2.2 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu và tình hình vốn kinh doanh của Công ty xi măng Hải Phòng.
- Sản xuất, kinh doanh các chủng loại Xi măng và Clinker:
. Xi măng thông dụng: PC30, PC40
. Xi măng Portland hỗn hợp: PCB30
. Xi măng đặc biệt: Xi măng Portland bền Sulfat, Xi măng Portland ít toả nhiệt.
Cung ứng xi măng cho khách hàng ở địa bàn các tỉnh Thái Bình, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Hà Giang, Tuyên Quang và Thành phố Hải Phòng.
Ngoài ra, công ty còn tổ chức các hoạt động Văn Hóa Thể Thao như tổ chức CLB Bóng đá Xi Măng Hải Phòng và tổ chức các trận đấu Bóng đá trong thành phố.
- Vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Qua bảng tốc độ tăng giảm nguồn vốn qua các năm dễ nhận thấy.
Tốc độ tăng giảm nguồn vốn qua các năm :
Năm
Tốc độ tăng(giảm)
Vốn
Tốc độ tăng (giảm)
Vốn ngắn hạn
Tốc độ tăng (giảm) Vốn dài hạn
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
06/07
304.198.290
10,35
177.388.993
33,48
126.809.297
0,53
07/08
-7.861.904
0,024
-44.507.949
6,29
36.646.046
1,45
- Vốn năm 2007 tăng 1 lượng khá lớn so với năm 2006. Cuối năm 2006 tổng nguồn vốn là 2.938.043.684 nghìn đồng qua 1 năm hoạt động đến cuối năm 2007 tổng nguồn vốn đó là 3.242.241.984 nghìn đồng tăng 304.198.290 nghìn đồng tương ứng với tăng 10,35%. Lượng vốn tăng mạnh như vậy là do tốc độ tăng của vốn ngắn hạn là rất cao tăng 33,48%. Bởi công ty đã giảm được lượng phải thu thu về tiền mặt để hoạt động sản xuất tiếp tục hiệu quả.
Sự giảm nhẹ về tổng nguồn vốn năm 2008 so với năm 2007 ( giảm 7.861.904 nghìn đồng tương đương 0,024%) là do nguồn vốn ngắn hạn giảm mạnh, giảm 6,29%.
1.1.3 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Lực lượng cán bộ đảng viên lao động của Công ty hiện nay gồm: 1.171 người trong đó :
- 03 người có trình độ trên Đại học.
- 355 người trình độ Đại học.
- 103 người trình độ cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.
Còn lại là lực lượng công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề được đào tạo bài bản chuyên sâu có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty.Vì vậy trong những năm gần đây công ty xi đã đạt được những thành tích đáng khen ngợi. Cụ thể như:
Kết quả SXKD Năm 2006
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Thực hiện
% so KH
% so với năm trước
Sản xuất clinker
800.000 tấn
1.001.411 tấn
125,18
225,53
Tiêu thụ sản phẩm
800.000 tấn
1.079.240 tấn
134,91
239,81
Tổng doanh thu
486 tỷ
635,630 tỷ
130,78
218,76
Lợi nhuận
LỗKH178 tỷ
78 tỷ
Giảm 100 tỷ
Nộp ngân sách
9,3 tỷ
36,15 tỷ
388,87
225,10
Tiết kiệm chi phí
60 tỷ đồng
Thu nhập BQ
2.500.000đ
4.300.000đ
172,00
172,00
Kết quả SXKD Năm 2007
Chỉ tiêu
KH
Thực hiện
% so KH
% so với năm trước
Sản xuất clinker
850.000 tấn
1.060.000 tấn
124,70
105,89
Tiêu thụ sản phẩm
1.000.000 tấn
1.366.441 tấn
136,64
126,61
Tổng doanh thu
670 tỷ
932,197 tỷ
139,10
146,77
Lợi nhuận
- 96,5 tỷ
30,1 tỷ
Tăng 126,5tỷ
Nộp ngân sách
22 tỷ
60,10 tỷ
273,18
166,94
Tiết kiệm chi phí
90 tỷ
Thu nhập BQ
4.500.000đ
6.000.000đ
133.30
139,53
Công ty xi măng Hải Phòng là Công ty đầu tiên trong ngành xi măng Việt Nam sau hai năm đầu tư xây dựng đưa vào sản xuất phải trả vốn vay đầu tư đã sản xuất có lãi 30,1 tỷ đồng. Đây là thành tích đặc biệt xuất sắc của Cán bộ đảng viên công nhân viên chức công ty.Năm 2007 là năm thứ 2 đưa nhà máy xi măng Hải Phòng mới vào sản xuất trên công nghệ hiện đại vào bậc nhất Châu âu, người thợ xi măng Hải Phòng nhanh chóng làm chủ công nghệ, thể hiện ở việc sản xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng Clinkher đạt hơn 1 triệu tấn , năng suất lò nung vượt gần 10% so với thiết kế, đưa tổng sản lượng sản xuất của nhà máy vượt sản lượng thiết kế ,xi măng tiêu thụ tăng gấp hơn 2 lần so với năm trước . Kết thúc năm 2007, Công ty xi măng Hải Phòng đã lập kỉ lục mới trong sản xuất kinh doanh với tổng doanh thu 932,197 tỷ đồng và nộp ngân sách 60,10 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần năm 2006.
Kết quả SXKD Năm 2008
Chỉ tiêu
KH
Thực hiện
% so KH
% so với năm trước
Sản xuất clinker
1.100.000 tấn
1.121.000 tấn
102,00
105,75
Tiêu thụ sản phẩm
1.570.000 tấn
1.610.000 tấn
102,54
117,68
Tổng doanh thu
1.000 tỷ
1.194 tỷ
128,10
137,44
Lợi nhuận
41 tỷ
104,13 tỷ
250,37
345,94
Nộp ngân sách
62 tỷ
64 tỷ
103,22
106,48
Tiết kiệm chi phí
124 tỷ
Thu nhập BQ
6.000.000đ
7.000.000đ
116,66
116,66
Năm 2008, ngoài những khó khăn chung do diễn biến phức tạp, bất thường về giá cả, lạm phát tăng cao, Công ty Xi măng Hải Phòng còn phải đối mặt với những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách cắt giảm vốn đầu tư xây dựng cơ bản, giãn, hoãn tiến độ các công trình xây dựng cơ bản. Mặt khác, là năm thứ 3 đưa nhà máy mới đi vào hoạt động, Công ty tiếp tục phải cân đối nguồn tài chính để trả vốn và lãi vay đầu tư xây dựng nhà máy. Song, với sự nỗ lực cố gắng, Đảng bộ Công ty đã nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy dân chủ, kiên trì khắc phục khó khăn, chủ động, nhạy bén, năng động sáng tạo, lãnh đạo Công ty hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so với năm 2007.
Trong tháng 1/2009, Cty đã sản xuất được 95.177 tấn clinker và tiêu thụ gần 60.000 tấn xi măng. Sáng mùng 2 tết, Cty đã tổ chức bán lô hàng xi măng đầu tiên năm Kỷ Sửu.
Nhận xét :
Qua 3 năm thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty xi măng Hải Phòng từ năm 2006 đến năm 1998 đã có những bước nhảy vọt đáng khích lệ . Tất cả các chỉ tiêu như, doanh thu, lợi nhuận , nộp ngân sách và thu nhập bình quân đều tăng khá ổn định.
Cụ thể :
Tổng sản phẩm tiêu thụ năm 2008 đạt 1.610.000 tấn tăng 530.760 so với 1.079.240 năm 2006 tăng 49,18%.
Lợi nhuận năm 2008 đạt 104,13 tỷ đồng tăng 26.13 tỷ so với 78 tỷ năm 2006 tăng 33.5%.
Tổng doanh thu năm 2008 đạt 1194 tỷ đổng tăng 558.37 tỷ so với 635,630 tỷ đồng năm 2006 tăng 87.85%.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 7.000.000đ tăng 2.700.000 đồng so với 4.300.000 năm 2006 tăng 62,79%.
Đó là những con số điển hình cụ thể phản ánh thực lực của cán bộ công nhân viên Công ty xi măng Hải Phòng đã làm được trong 3 năm qua nhờ việc sắp xếp lại tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý. Để có được những thành quả đó Công ty xi măng Hải Phòng đã tiến hành tiết kiệm triệt để vật tư và các chi phí quản lý, duy trì và hoàn thiện chế độ hạch toán kinh tế, giao quyền chủ động quản lý vật tư, thiết bị và chất lượng sản phẩm cho cán bộ công nhân viên các đơn vị cơ sở, cân đối chặt chẽ tiền vốn vật tư, tổ chức tiêu sản nhanh, có kết quả trong quá trình thu hồi vốn, khắc phục tình trạng ứ đọng vật tư, đẩy nhanh công tác tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở hoàn thiện đội ngũ tiếp thị, đảm bảo nhanh gọn, hiệu quả để mặt hàng xi măng luôn đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng.
Với những thành tích đạt được trong quá trình chiến đấu và xây dựng, cán bộ công nhân viên Xi măng Hải Phòng đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 80 huân chương các loại, trong đó có:
- 01 huân chương độc lập hạng Nhất.
- 01 huân chương chiến công hạng Nhất.
- 01 huân chương chiến công hạng Nhì.
- 02 huân chương lao động hạng Nhất.
- 02 huân chương lao động hạng Nhì.
- 10 huân chương lao động hạng Ba.
- Được tặng thưởng Danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân cho Cán bộ công nhân viên Xi măng Hải Phòng.
- 01 Tổ Anh hùng lao động - Tổ đá nhỏ Ca A với danh hiệu “ Con chim đầu đàn của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa toàn miền Bắc ”.
- 03 cá nhân Anh hùng lao động.
- 01 chiến sỹ thi đua toàn quốc.
- Nhiều lần được tặng cờ thi đua và bằng khen của Thủ tướng chính phủ, Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Xây dựng, Bộ LĐTB&XH, Bộ Công An, Vụ Tổng LĐLĐ Việt Nam, UBND Thành phố Hải Phòng và Tổng công ty xi măng Việt Nam.
- Đảng bộ, Công đoàn, Thanh niên Công ty nhiều năm được công nhận đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, xuất sắc.
Chương 2- Thực trạng về tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty xi măng Hải Phòng .
2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ xi măng của Công ty.
2.1.1 Các nhân tố khách quan.
2.1.1.1 Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Mặc dù chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp được quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán lỗ lãi. Nhưng Nhà nước lại quản lý trên cơ sở đề ra đường lối chính sách và cơ chế quản lý kinh tế. Đó là chính sách ưu tiên hoặc hạn chế xuất, nhập khẩu, chính sách thế và các quy định về pháp luật. Đây là việc tạo môi trường cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Đặc biệt với công ty xi măng Hải Phòng là công ty trực thuộc của Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam. Do Tổng công ty nắm giữ 100% vốn điều lệoi nên sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều đến sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX: "Doanh nghiệp nhà nước (...) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế".
Nhận thức rõ vị trí của một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt xi măng Hải phòng cần phát triển sản xuất đúng hướng, luôn tăng sản lượng sản phẩm sản xuất ra để đảm bảo nguồn cung đáp ứng đủ nhu cầu thị trường thường xuyên tăng lên, trên cơ sở đó đã thực hiện tốt nhiệm vụ bình ổn thị trường xi măng Nhà nước giao.
2.1.1.2 Đặc thù riêng của sản phẩm.
Xi măng là loại hàng hoá cấp thiết đối với khách hàng có những đặc thù riêng của xi măng là:
- Sản phẩm đồng thể, chất lượng sản phẩm của các công ty không chênh lệch nhau nhiều, do đó nhãn hiệu này dễ dàng bị thay thế bởi nhãn hiệu khác. Đặc điểm này kết hợp với cơ cấu thị trường thiểu số độc quyền sẽ dẫn đến việc giảm giá của công ty này có nguy cơ kéo theo việc giảm giá đồng loạt của các đối thủ cạnh tranh.
- Tính ít co giãn của cầu theo giá làm cho việc giảm giá đồng loạt của các công ty sẽ không kích cầu nhiều. Điều này giải thích tại sao các công ty liên doanh sử dụng quảng cáo và khuyến mãi là công cụ chiến lược để tăng số lượng bán, không thích việc giảm giá bán.
- Vốn đầu tư cho nhà máy xi măng rất lớn, chí phí cố định chiếm trên 65% trong tổng chi phí. Các công ty tìm mọi cách sử dụng 100% công suất nhà máy để đưa chi phí sản xuất ở mức thấp nhất. Để làm được điều này, các công ty tìm mọi cách giành giật thị phần lẫn nhau. Hơn nữa, do xi măng là loại sản phẩm có trọng lượng nặng so với giá trị, chi phí phân phối cao và phụ thuộc theo vùng, do đó các công ty sẵn sàng bán chi phí biên ở những thị trường xa.
2.1.1.3 Khách hàng.
Khách hàng là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp, là người quyết định số phận của sản phẩm trên thị trường. Khái niệm khách hàng có thể là người tiêu dùng cá nhân, có thể là các cơ quan, đơn vị, các nhà sản xuất hoặc các nhà phân phối. Số lượng khách hàng là nhân tố ảnh hưởng cùng chiều với số lượng tiêu thụ: nếu trên thị trường đông đảo khách hàng thì khối lượng sản phẩm luân chuyển lớn và ngược lại.
Khách hàng là người tiêu dùng cá nhân thường chịu tác động của nhiều nhân tố như văn hoá, chính trị, phong tục tập quán, tâm lý… tuy nhiên khi đề cập đến khái niệm cầu thì phải hội đủ hai yếu tố : có khả năng mua (thu nhập) và sẵn sàng mua (mức độ thoả mãn nhu cầu). Vì vậy yếu tố quyết định ở đây là thu nhập của dân cư và chất lượng sản phẩm.
Khách hàng và sức ép từ phía khách hàng có tác động hết sức mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khách hàng và nhu cầu của khách hàng quyết định đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường của doanh nghiệp. Đó là yếu tố quan trọng nhất khi tiến hành kế hoạch và hoạch định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao hiểu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp nên duy trì và phát triển các mối quan hệ với khách hàng cũ và lôi cuốn tạo niềm tin với khách hàng mới. Nói cách khác là doanh nghiệp phải luôn luôn giữ được “chữ tín” với khách hàng của mình.Vì vậy muốn làm được việc đó thì chẳng có cách nào khác là doanh nghiệp phải quan tâm chăm sóc, phân tích sự biến động của nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của khách hàng và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Doanh nghiệp phải luôn đặt khách hàng vào vị trí trung tâm trong “bộ ba chiến lược”.
Việc định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh hướng vào nhu cầu của khách hàng sẽ đem lại kết quả khả quan cho doanh nghiệp và tạo thói quen và tổ chức các dịch vụ phục vụ khách hàng, đánh đúng vào tâm lý tiêu dùng của khách là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Một nhân tố đặc biệt quan trọng đó là mức thu nhập và khả năng thanh toán của khách hàng có tính quyết định đến lượng hàng hóa tiêu thụ của doanh nghiệp. Khi thu nhập tăng thì nhu cầu tăng và khi thu nhập giảm thì nhu cầu giảm, do vậy doanh nghiệp cần có những chính sách giá và sản phẩm hợp lý.
Để có thể giảm thiểu sức ép của khách hàng, công ty cần phục vụ khách hàng tốt hơn. Muốn có căn cứ xác định để tạo ra ưu thế trong việc xây dựng chiến lược phục vụ khách hàng các doanh nghiệp cần phải lập hồ sơ theo dõi và quản lý khách hàng, thiết lập hệ thống Marketing quan hệ bền vững.
Những năm trước cũng như trong những năm gần đây, công ty xi măng Hải Phòng luôn tạo được niềm tin đối với khách hàng. “Xi măng Hải Phòng ” gắn liền với người dân thành phố Hải Phòng.
2.1.1.4. Đối thủ cạnh tranh.
Cạnh tranh là yếu tố cơ bản quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Các doanh nghiệp muốn chiến thắng trong cạnh tranh, nhất là trong việc mua bán sản phẩm thì cần có chiến lược cụ thể. Doanh nghiệp phải xét đến tiềm lực về vốn, con người và thế mạnh khác trên thị trường, không chỉ có sự cạnh tranh giữa người mua và người bán, người bán với nhau.
Trong những năm trước đây, Tổng công ty xi măng Việt Nam giữ vị trí độc quyền về việc điều phối các hoạt động trên thị trường xi măng. Người tiêu dùng và các nhà thầu xây dựng phải năn nỉ chờ duyệt kế hoạch, bị ám ảnh bởi giá xi măng, đặc biệt là vào đầu mùa xây dựng.Năm 1995, khủng hoảng thiếu làm cho giá cả tăng vọt, các nhà thầu phải đồng loạt ngưng thi công. Sự phát triển của ngành xây dựng đã làm cho cầu xi măng tăng vọt. Tổng công ty xi măng Việt Nam, được sự giao phó của nhà nước, đã huy động hết công suất nhà máy nhưng vẫn không đáp ứng đủ cầu. Để giải quyết sự thiếu hụt này, một mặt, chính phủ cho phép nhập khẩu xi măng và ấn định hạn ngạch nhập khẩu để bảo vệ nhà sản xuất trong nước; mặt khác, nhà nước ấn định giá bán cao nhất ở năm vùng trọng điểm : Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ để bảo vệ người tiêu dùng. Điều này đã gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước do việc nhập khẩu lậu, làm phát sinh việc mua bán hạn ngạch nhập khẩu và tạo ra những hoạt động phi sản xuất trong nước.
Trong bối cảnh cầu vượt cung và nguồn vốn trong nước bị hạn chế cũng như vai trò quan trọng ngành công nghiệp xi măng. Chính phủ đã khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành công nhiệp này dưới hình thức liên doanh. Năm 1994, các tập đoàn Chinfon Global, Lucksvaxi, Holderbank. đã nhảy vào và lập những dự án liên doanh : Chinfon, Văn Xá, Sao Mai. Sự bước vào hoạt đọâng của các công ty liên doanh năm 1997 làm thay đổi cơ cấu thị trường, từ một thị trường độc quyền chuyển sang thị trường thiểu số độc quyền. Nền tảng và cơ sở cho việc phân tích thị trường và chiến lược doanh nghiệp ở thị trường thiểu số độc quyền này dựa trên ba yếu tố chính: chi phí sản xuất, hàng rào ngăn cản các nhà đầu tư nhảy vào và sự phản ứng mang tính chiến lược giữa các công ty trong ngành xi măng này. Sự chuyển sang cơ cấu thị trường thiểu số độc quyền làm tăng sức cạnh tranh trong ngành qua việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện phong cách phục vụ của các công ty, mang lại cho người tiêu dùng nhiều thuận lợi. Hơn nữa, việc xuất hiện những liên doanh đã loại bỏ được việc chảy máu ngoại tệ do việc nhập khẩu, sử dụng nguồn tài nguyên trong nước cũng như việc tận dụng nguồn lực từ nước ngoài.Vì vậy công ty nên liên tục nghiên cứu thị trường để có thể đưa ra được những chiến lược cụ thể để có thể tiêu thụ tốt kế hoạch đã đề ra.
Còn trong điều kiện hiện nay có nhiều thuận lợi song cũng không ít khó khăn do những diễn biến phức tạp, bất thường của nền kinh tế thế giới tác động trực tiếp tới nền kinh tế của đất nước, một doanh nghiệp muốn tồn tại luôn luôn phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp khác.
2.1.2 Các nhân tố chủ quan.
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp hoặc nằm trong vòng kiểm soát của doanh nghiệp. Các yếu tố này bao gồm những điểm mạnh, điểm yếu ảnh hưởng trực tiếp tới việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải phân tích cặn kẽ những ưu, nhược điểm của mình để tìm ra những đối sách hợp lý nhằm phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu của mình. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm thường chịu ảnh hưởng của nhiều khâu từ khâu nghiên cứu thị trường, khâu kế hoạch hoá tiêu thụ, khâu dự trữ, khâu lựa chọn kênh tiêu thụ, khâu tổ chức các hoạt động bán hàng và dịch vụ sau bán hàng như đã phân tích trong phần nội dung, ngoài ra còn có những nhân tố sau đây:
2.1.2.1 Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm không phải do người sản xuất quyết định mà chính do người tiêu dùng kiểm nghiệm quyết định. Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể so sánh được hoặc có thể đo được phù hợp với những điều kiện hiện tại và thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội.
Chất lượng sản phẩm được hình thành khi thiết kế sản phẩm, trở thành hiện thực trong quá trình chế tạo sản phẩm được khẳng định qua kiểm tra kỹ thuật và mang ra sử dụng.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm là yếu tố rất cần thiết đảm bảo thực hiện ba mục tiêu: Lợi nhuận – An toàn - Ưu thế của doanh nghiệp và đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng thúc đẩy hoặc kìm._. hãm hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh vô cùng sắc bén có thể dễ dàng đè bẹp các đối thủ cạnh tranh cùng ngành.
Chất lượng sản phẩm tốt không những thu hút được khách hàng làm tăng khối lượng tiêu thụ sản phảm mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình, đồng thời có thể nâng cao giá bán sản phẩm một cách hợp lý mà vẫn thu hút được khách hàng. Ngược lại, chất lượng sản phẩm quá thấp thì việc tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, ngay cả khi bán giá rẻ vẫn không được người tiêu dùng chấp nhận.
Việc bảo đảm chất lượng lâu dài với phương châm “Trước sau như một” sẽ có ý nghĩa là lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp chính là uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Chất lượng sản phẩm tốt sẽ như sợi dây vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp, tạo đà cho hoạt động tiêu thụ diễn ra thuận lợi.
Những năm gần đây toàn bộ sản phẩm của tổng công ty xi măng Hải Phòng đều được hợp chuẩn, được sản xuất theo công nghệ hiện đại. Tất cả các dây chuyền sản xuất của các nhà máy đều được quản lý theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 và ISO 14000. Chất lượng sản phẩm của công ty rất ổn định, thị trường các tỉnh phía Bắc chủ yếu tiêu thụ xi măng đen PCB 30. Nhiều năm nay chất lượng sản phẩm của công ty đã có uy tín rất cao trên thị trường, các công trình trọng điểm của Nhà nước đều sử dụng sản phẩm của công ty. Về mặt chất lượng sản phẩm, công ty xi măng Hải Phòng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh và công ty nhận thức rằng chất lượng sản phẩm là vấn đề mấu chốt quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi loại sản phẩm hàng hoá trên thương trường, nên đã tập trung quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất để nâng cao uy tín của công ty đối với người tiêu dùng.
Theo các chuyên gia ở lĩnh vực xây dựng thì sản phẩm xi măng Hải Phòng hiện có chất lượng tốt nhất trong các nhà máy sản xuất xi măng trong cả nước.Sản phẩm xi măng Pooc lăng hỗn hợp PCB30, PCB40 và các loại xi măng đặc biệt khác mang thương hiệu Con Rồng do nhà máy xi măng Hải Phòng sản xuất đã trở thành một trong những biểu tượng, thành niềm tự hào của thành phố.
2.1.2.2 Giá cả sản phẩm.
Giá cả vẫn được coi là một nhân tố cạnh tranh rất lợi hại, đặc biệt trong thị trường nhu cầu của dân cư thấp. Khá nhiều khách hàng khi mua hàng điều đầu tiên họ quan tâm đó là giá cả.
Đặc biệt việc tiêu thụ sản phẩm chịu tác động rất lớn của nhân tố giá cả sản phẩm về nguyên tắc, giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và giá cả xoay quanh giá trị hàng hóa, theo cơ chế thị trường giá cả được hình thành tự phát trên thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán. Do đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ hết sức sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp đưa ra một mức giá phù hợp với chất lượng sản phẩm được đa số người tiêu dùng chấp nhận, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Và ngược lại, nếu định giá quá cao, người tiêu dùng không chấp nhận thì doanh nghiệp chỉ có thể ngồi nhìn sản phẩm chất đống trong kho mà không tiêu thụ được. Mặt khác, nếu doanh nghiệp quản lý kinh doanh tốt làm cho giá thành sản phẩm thấp doanh nghiệp có thể bán hàng với giá thấp hơn so với mặt bằng giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đây chính là một lợi thế trong cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp có thể thu hút được cả khách hàng của các đối thủ cạnh tranh. Từ đó dẫn đến thành công của doanh nghiệp. Đối với thị trường có sức mua có hạn, trình độ tiêu thụ ở mức độ thấp thì giá cả sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm. Với mức giá chỉ thấp hơn một chút là đã có thể tạo ra một sức tiêu thụ lớn nhưng với mức giá chỉ nhỉnh hơn đã có thể làm sức tiêu thụ giảm đi rất nhiều.
Hiện nay trên thị trường, ngoài cạnh tranh bằng giá cả, còn có các loại hình cạnh tranh khác tiên tiến hơn như cạnh tranh bằng chất lượng, bằng dịch vụ nhưng giá cả vẫn có một vai trò khá quan trọng. Hàng hoá của doanh nghiệp sẽ không tiêu thụ được nếu giá cả hàng hoá không được người tiêu dùng chấp nhận. Người tiêu dùng luôn quan tâm đến giá cả và coi đó như một chỉ dẫn về chất lượng hàng hoá và các chỉ tiêu khác của hàng hoá, do vậy việc xác định một chính sách giá đúng có vai trò sống còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Đối với thị trường Việt Nam hiện nay, thu nhập của dân cư chưa cao, yêu cầu về chất lượng và chủng loại chưa cao nên cạnh tranh bằng chiến lược giá vẫn được coi là vũ khí lợi hại.
Khi định giá doanh nghiệp cần ý thức chính sách giá cả của mình phụ thuộc vào hình thái thị trường. Theo các nhà kinh doanh có bốn kiểu hình thái thị trường đó là (cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh độc quyền, cạnh tranh độc quyền tập đoàn, độc quyền tuyệt đối), và mỗi kiểu có những vấn đề riêng về lĩnh vực hình thành giá cả.
Quy trình định giá tổng thể:
Chọn mục tiêu định giá.
Phân định cầu thị trường.
Lượng giá chi phí.
Phân tích giá đối thủ cạnh tranh.
- Chọn kỹ thuật định giá thích hợp.
- Chọn giá cuối cùng của mặt hàng.
Cũng như các công ty xi măng khác trực thuộc tổng công ty xi măng Việt Nam, công ty xi măng Hải Phòng đang thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao cho là "bình ổn" giá cả xi măng trên thị trường cả nước. Khoảng 10 năm trở lại đây hầu hết giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất xi măng đều đã tăng từ 40% đến 80% như giá điện, than, xăng dầu các loại... chỉ số giá hàng tiêu dùng hàng năm đều tăng từ 8% đến 14%. Trong khi đó Nhà nước vẫn không cho phép nâng giá xi măng, nghĩa là 10 năm nay giá bán xi măng của công ty vẫn cố định. Thực chất giá bán xi măng của công ty đến nay đã giảm tới 30% so với 10 năm trước đây.
Trong khi giá xi măng của các nước trong khu vực đều ở mức 60 đến 62 USD một tấn xi măng. Như vậy, nếu xét về khả năng cạnh tranh bằng giá cả thì giá bán xi măng của công ty đang có lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế việc kìm hãm giá cả lâu nay của Nhà nước đã ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận, đến khả năng tích lũy tái đầu tư của công ty, không khuyến khích đầu tư từ bên ngoài, không có động cơ kích thích người lao động.
2.1.2.3 Nguồn lực của doanh nghiệp.
Thành công hay thất bại của hoạt động tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc khá lớn vào yếu tố con người (nguồn còn gọi là nguồn nhân lực) và tài chính vật chất của chính doanh nghiệp. Nghiệp vụ, kỹ năng, tay nghề, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp tốt thì doanh nghiệp mới có thể bền vững, mới có đủ sức cạnh tranh lớn. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư, trang thiết bị máy móc, nhà xưởng của doanh nghiệp cũng tạo đà cho doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ sản phẩm, phô trương thanh thế và nâng cao uy tín cho doanh nghiệp.
Khi nghiên cứu thị trường, biết được nhu cầu của thị trường thì việc cung cấp sản phẩm phụ thuộc vào khả năng, điều kiện sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Điều đó phụ thuộc vào những yếu tố chủ yếu sau:
Trình độ máy móc, trình độ công nghệ.
Vốn, tỷ trọng vốn.
Trình độ tay nghể của công nhân.
Trình độ cán bộ quản lý.
Khả năng mở rộng và đa dạng hoá mặt hàng.
Vị trí, địa điểm của doanh nghiệp.
- Tiềm lực, uy tín của loại sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường.
- Điều kiện thị trường đầu vào của doanh nghiệp.
- Điều kiện liên lạc của doanh nghiệp với bên ngoài.
Từ đó doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm để đáp ứng những loại thị trường nào? Với khối lượng bao nhiêu?
Với tình hình hiện có như: Trình độ công nghệ cao, máy móc hiện đại, công nhân lành nghề và uy tín doanh nghiệp đang dần được khẳng định. Xi măng Hải Phòng lên tiếp tục mở rộng thị trường để có thể đạt được những kết quả tốt hơn.
Song song với đó doanh nghiệp cần tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của chính bản thân doanh nghiệp như:
- Đầu tư phát triển kỹ thuật sản xuất theo hướng quy mô lớn, tự động hóa cao.Với mục tiêu phát triển ngành công nghiệp Xi măng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Xây dựng đồng bộ lực lượng lao động có đủ trình độ quản lý, vận hành các cơ sở sản xuất hiện đại, hoạt động trong nền kinh tế thị trường hội nhập:Thực tế những năm qua cho thấy, trình độ kỹ thuật công nghệ của nhiều dây chuyền sản xuất xi măng của công ty xi măng Hải Phòng đã đạt trình độ tiên tiến của thế giới, nhưng trình độ quản lý nói chung chưa theo kịp; sự hiểu biết về quy luật hoạt động của kinh tế thị trường, sự hiểu biết về luật pháp kinh doanh quốc tế ở cán bộ chưa cao, chưa theo kịp trình độ của khu vực và thế giới. Chính vì thế công ty cần phải tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ đang có, tuyển dụng mới những cán bộ có trình độ cao để xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ mạnh theo kịp trình độ thế giới, quản lý tốt những cơ sở sản xuất hiện đại theo tiêu trí của nền kinh tế trí thức.
Cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật sản xuất hiện đại, cần phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề ở trình độ cao mới có khả năng vận hành, khai thác hết năng lực của thiết bị công nghệ, tận dụng tối đa công suất của may móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giảm thấp chi phí sản xuất. Vì vậy, xi măng Hải Phòng cần dùng nhiều phương thức đào tạo để nhanh chóng có ngay đội ngũ công nhân kỹ thuạt đáp ứng nhu cầu phát triển chung của toàn ngành công nghiệp Xi măng Việt nam.
2.1.2.4 Chính sách quảng cáo.
Quảng cáo là phương pháp dùng ngôn ngữ và hình ảnh tác động vào khách hàng nhằm giới thiệu sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp cho khách hàng, gây sự chú ý, tạo sự say mê, thuyết phục khách hàng mua hàng của doanh nghiệp.
- Mục tiêu của quảng cáo
+ Tăng số lượng tiêu thụ trên thị trường truyền thống.
+ Mở rộng thêm thị trường mới.
+ Giới thiệu sản phẩm mới của doanh nghiệp.
+ Xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp.
+ Thu hút, lôi cuốn khách hàng qua các biện pháp giới thiệu, truyền tin thích hợp.
- Đối tượng quảng cáo: là doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp.
Nội dung quảng cáo cần lưu ý 4 điểm:
+ Sản phẩm của doanh nghiệp đang bán hoặc sau này sẽ bán ra trên thị trường tương tự như những hàng hoá nổi tiếng mà khách hàng quen dùng.
+ Sản phẩm của doanh nghiệp có ưu thế gì đặc biệt so với các loại hàng hoá khác.
+ Dung lượng quảng cáo cần phải cao.
+ Thông tin phải đáng tin cậy.
- Phương thức quảng cáo:
+ Phải có độ biểu cảm cao và phù hợp với nội dung quảng cáo.
+ Ngôn ngữ, hình ảnh phải rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với đa số quần chúng, đặc biệt không dùng từ chuyên môn quá sâu.
- Phương pháp quảng cáo:
+ Quảng cáo phải mang tính độc đáo và hấp dẫn.
+ Quảng cáo phải ngắn gọn, dễ hiểu.
- Công cụ và phương tiện quảng cáo:
+ Quảng cáo thông qua các phương tiện in ấn, sách báo tạp chí.
+ Quảng cáo thông qua phương tiện nghe nhìn.
+ Quảng cáo thông qua bao bì, nhãn hiệu sản phẩm.
+ Quảng cáo thông qua các talô áp phích.
+ Quảng cáo thông qua các nhân vật nổi tiếng.
+ Quảng cáo thông qua các hoạt động văn hoá, thể thao và các hoạt động quần chúng.
- Về ngân sách quảng cáo: Cầm căn cứ vào mục tiêu của quảng cáo để xác định ngân sách.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách quảng cáo
+ Thứ nhất, mục tiêu cụ thể phải đạt của kỳ kế hoạch.
+ Thứ hai, tác dụng của quảng cáo.
+ Thứ ba, thời gian và không gian.
Nội dung chủ yếu của kế hoạch quảng cáo đó là: Xác định các hình thức quảng cáo cụ thể, quy mô mỗi hình thức quảng cáo trong đó xác định rõ thời gian, địa điểm cụ thể và xác định các phương tiện sử dụng cũng như xác định ngân quỹ quảng cáo tối đạt ưu cho kỳ kế hoạch.
2.1.2.5 Chính sách phân phối.
Phân phối là một công cụ then chốt trong Marketing-mix nó bao gồm những hoạt động khác nhau mà Công ty tiến nhằm đưa sản phẩm đến những nơi để khách hàng mục tiêu có thể tiếp cận và mua chúng.
Hầu hết những người sản xuất đều cung cấp sản phẩm của mình cho thị trường thông qua những người trung gian. Do vậy nhà sản xuất sẽ phải quan hệ, liên kết với một số tổ chức, lực lượng bên ngoài nhằm đạt được mục tiêu phân phối của mình.
Những quyết định quan trọng nhất trong chính sách phân phối là các quyết định về kênh phân phối. Kênh phân phối được tạo thành như một dòng chảy có hệ thống được đặt trưng bởi số cấp của kênh, bao gồm người sản xuất, các trung gian cuối cùng là người tiêu dùng. Kênh phân phối thực hiện công việc chuyển hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng, vượt những ngăn cách về thời gian, không gian và quyền sở hữu xen giữa hàng hoá và dịch vụ với người sử dụng. Các quyết định cơ bản về kênh gồm:
- Quyết định về thiết kế kênh.
- Quyết định về quản lý kênh.
Kênh phân phối là cốt lõi của chính sách phân phối. Các kênh phân phối làm nên sự khác nhau giữa các công ty với nhau, nó trở thành một công cụ cạnh tranh có hiệu qủa.
2.1.2.6 Tổ chức bán hàng, hoạt động của những người bán và đại lý.
Công tác tổ chức bán hàng trong mọi doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cao hay thấp. Công tác tổ chức bán hàng gồm nhiều mặt:
- Hình thức bán hàng: Nếu doanh nghiệp kết hợp tổng hợp các hình thức: Bán buôn, bán lẻ tại kho, tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm, thông qua các đại lý... sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn những doanh nghiệp chỉ áp dụng một hình thức bán hàng nào đó
- Tổ chức thanh toán: Khách hàng sẽ cảm thấy thoải mái hơn và có nhiều phương án lựa chọn hơn nếu doanh nghiệp áp dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: Thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán ngay, thanh toán chậm... khi đó khách hàng có thể lựa chọn cho mình phương thức thanh toán tiện lợi nhất, hiệu quả nhất. Để thu hút được đông đảo khách hàng thì doanh nghiệp nên áp dụng nhiều hình thức thanh toán đem lại sự thuận tiện cho khách hàng, làm đòn bẩy để kích thích tiêu thụ sản phẩm.
- Dịch vụ kèm theo sau khi bán gồm: Dịch vụ vận chuyển, bảo quản, lắp ráp, hiệu chỉnh sản phẩm và có bảo hành, sửa chữa.... Nếu doanh nghiệp làm tốt công tác này sẽ làm cho khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm, thoả mái hơn khi sử dụng sản phẩm có uy tín của doanh nghiệp. Nhờ vậy mà khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên.
Hoạt động của những người bán: Là những hoạt động quyết định, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng về mức tiêu thụ của doanh nghiệp. Bao gồm các biện pháp nghiệp vụ điều hành quá trình kinh doanh, các hoạt động quản trị nhằm đạt được hiệu quả tiêu thụ cao nhất. Các hoạt động tổ chức và quản lý tiêu thụ là quan trọng nhất, vì vậy các cán bộ quản trị phải hướng dẫn nhân viên cấp dưới thực hiện các hoạt động đó sao cho hài hoà giữa các mục tiêu với nhau.
Người lãnh đạo phải có chế độ khen thưởng phù hợp để khơi dậy sự nhiệt tình của nhân viên, phải thường xuyên đào tạo họ, nâng cao trình độ cho họ theo kịp những thay đổi về hàng hoá, kĩ thuật. Nhân viên cần được quán triệt mục tiêu của doanh nghiệp để khi thực hiện mới ăn khớp được với ý đồ của nhà quản trị.
Nhà quản trị sẽ quyết định tới lượng hàng hoá cần tiêu thụ bằng việc xây dựng kế hoạch mua hàng, dự trữ hàng hoá sao cho đảm bảo cho việc tiêu thụ diễn ra được thường xuyên liên tục. Nhà quản trị giỏi là phải biết dự đoán tốt những nhu cầu của thị trường, của người tiêu dùng để từ đó có những quyết định đúng đắn về mặt hàng kinh doanh, về tiêu thụ.
2.2. Thực trạng công tác tiêu thụ của công ty xi măng Hải Phòng.
2.2.1. Kết quả tiêu thụ của công ty.
2.2.1.1 Mặt hàng tiêu thụ chủ yếu của công ty.
Về mặt hàng kinh doanh của công ty xi măng Hải Phòng đó là: Sản xuất, kinh doanh các chủng loại Xi măng và Clinker:
- Xi măng thông dụng: PC30, PC40,PC50.
Xi măng Poóclăng là chất kết dính thủy, được chế tạo bằng cách nghiền mịn clanhke xi măng poóclăng với một lượng thạch cao cần thiết. Trong quá trình nghiền có thể sử dụng phụ gia công nghệ nhưng không quá 1% so với khối lượng clanhke.
- Xi măng Portland hỗn hợp: PCB30.
Với tính năng, công dụng sản phẩm: Vật liệu kết dính sử dụng trong xây dựng, với những đặc tính ưu việt:
.Có đặc tính hóa lý ổn định.
.Tăng thêm độ dẻo cho vữa và bê tông.
.Có cường độ phát triển nhanh, rút ngắn thời gian thi công.
.Tăng cường độ bền vững theo thời gian.
.Tăng cường tính chống thấm, chống xâm thực của môi trường.
- Xi măng đặc biệt: Xi măng Portland bền Sulfat, Xi măng Portland ít toả nhiệt.
2.2.1.2 Kết quả tiêu thụ của công ty xi măng Hải Phòng trong 3 năm 2006, 2007, 2008.
* Phân tích tổng mức tiêu thụ của công ty xi măng Hải Phòng qua các năm.
Kết quả SXKD Năm 2006
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Thực hiện
% so KH
% so với năm trước
Sản xuất clinker
800.000 tấn
1.001.411 tấn
125,18
225,53
Tiêu thụ sản phẩm
800.000 tấn
1.079.240 tấn
134,91
239,81
Kết quả SXKD Năm 2007
Chỉ tiêu
KH
Thực hiện
% so KH
% so với năm trước
Sản xuất clinker
850.000 tấn
1.060.000 tấn
124,70
105,89
Tiêu thụ sản phẩm
1.000.000 tấn
1.366.441 tấn
136,64
126,61
Kết quả SXKD Năm 2008
Chỉ tiêu
KH
Thực hiện
% so KH
% so với năm trước
Sản xuất clinker
1.100.000 tấn
1.121.000 tấn
102,00
105,75
Tiêu thụ sản phẩm
1.570.000 tấn
1.610.000 tấn
102,54
117,68
Phân tích:
Có thể nhận thấy rõ sự tăng mạnh tiêu thụ của công ty xi măng Hải Phòng trong năm 2006.
Sản xuất Clinker trong năm 2006 đạt 1.001.411 tấn tăng 557.385 tấn đạt 225.53% so với năm 2005
Cũng như trong sản xuất Clinker tiêu thụ sản phẩm năm 2006 là 1.079.240 tấn tăng 629.200 tấn đạt gần gấp 2,4 lần so với năm 2005.
Sự tăng mạnh trong năm 2006 có thể dễ giải thích đó là bởi năm 2006 là năm nhà máy xi măng Hải Phòng mới đi vào hoạt động với tổng mức đầu tư 3.000 tỷ đồng. Đây là công trình được Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư nhằm giải quyết ô nhiễm môi trường cho Thành phố Hải Phòng do nhà máy xi măng cũ gây ra và giải quyết việc làm cho người lao động.
Trong đó thị trường tiêu thụ xi măng năm 2006 như sau:
(Đơn vị: Nghìn tấn)
Diễn giải
TT XM
2005
KH
2006
Ước TT
2006
Tỷ lệ %
so KH
Tỷ lệ %
so 2005
Tiêu thụ XH
28.189
30.850
109,4
1. XM TCTy
12.817
13.560
13.500
99,6
105,3
-Công ty XM Hải Phòng
291
400
500
125,0
171,8
2. XM Ldoanh
8.152
9.930
121,8
3.XM ĐP & TN
7.220
7.420
102,7
Năm 2006 là năm đánh dấu một dấu mốc lớn trong quá trình phát triển của nhà máy xi măng Hải Phòng dây chuyền sản xuất xi măng hiện đại vào bậc nhất được hoàn thành đưa vào sản xuất đồng bộ tại nhà máy mới vượt công suất thiết kế, sản phẩm xi măng nhãn hiệu Rồng xanh truyền thống được thị trường trong và ngoài thành phố đón nhận.
- Mặc dù sản xuất Clinker chỉ tăng nhẹ trong năm 2007 so với năm 2006.Nhưng tiêu thụ sản phẩm trong năm 2007 vẫn tăng mạnh so với năm 2006.Điều đó chứng tỏ sản phẩm mới của doanh nghiệp đã được thị trường tiếp nhận một cách mạnh mẽ.
Năm 2007 sản xuất Clinker đạt 1.060.000 tấn tăng 58.589 tấn so với năm 2006 đạt 105,89 % so với năm trước.
Tiêu thụ sản phẩm năm 2007 đạt 1.366.441 tấn tăng 287.201 tấn so với năm 2006 tăng 26.61%.
Đạt được kết quả đó trong năm 2007 đó là do công ty đã không ngừng mở rộng thị phận, giữ chữ tín về chất lượng, hiệu quả với khách hàng. Đặc biệt trong quý 1/2007, công ty đã tiêu thụ được hơn 210.000 tấn xi măng tăng gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2006.
Nếu như trước đây, 1 ngày công ty xi măng Hải Phòng tiêu thụ khoảng 1.000 - 1.500 tấn sản phẩm thì hiện nay, bình quân 1 ngày trong năm 2007 công ty đã tiêu thụ tới 4.000 tấn sản phẩm, cao điểm có ngày tiêu thụ tới gần 6.000 tấn sản phẩm xi măng. Sản xuất đến đâu tiêu thụ ngay đến đó. Theo các chuyên gia ở lĩnh vực xây dựng thì sản phẩm xi măng Hải Phòng hiện có chất lượng tốt nhất trong các nhà máy sản xuất xi măng trong cả nước. Không chỉ sản xuất đủ clinker phục vụ cho công đoạn nghiền xi măng, trong quý 1 này Công ty xi măng Hải Phòng còn cung cấp bán hơn 30.000 tấn clinker cho công ty xi măng Chinpong Hải Phòng.
Công ty đã chiếm gần 60% thị phần xi măng ở các thị trường Hải Phòng, Thái Bình, Quảng Ninh và một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Để đạt được mức tăng trưởng cao như vậy trong năm 2007, công ty đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, như: quản lý thiết bị và công nghệ, chính sách chất lượng sản phẩm, cơ chế khoán sản phẩm cho các phân xưởng và chiến lược phát triển thị trường. Năm thứ 2 đưa dây chuyền sản xuất xi măng tiên tiến công suất 1,4 triệu tấn năm vào hoạt động, Công ty đã tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân nắm vững qui trình, qui phạm kĩ thuật và công nghệ vận hành an toàn và hiệu quả thiết bị. Nhờ làm chủ công nghệ mới nên Công ty xi măng Hải Phòng đã đưa hệ số khai thác thiết bị sản xuất lên gần 90%. Để tăng sức cạnh tranh, Công ty đã thực hiện nhiều biện pháp tiết kiệm chi phí đầu vào thông qua cơ chế khoán định mức tiêu hao vật tư, điện năng cho các phân xưởng. Theo đó các loại vật tư như than giảm 10%, điện giảm 5%, phụ gia giảm 5%, các loại chi phí dịch vụ và văn phòng giảm 10%. Cùng với các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, Công ty đã kiện toàn lại hệ thống phân phối trong các tỉnh, thành cả nước theo hướng chuyên nghiệp. Hiện Công ty đã có gần 20 nhà phân phối lớn tại các địa bàn trọng điểm và khu vực thường xuyên được giám sát, kiểm tra chặt chẽ về chất lượng sản phẩm và giá cả cùng các cơ chế hậu mãi với khách hàng.
Có được kết quả này bên cạnh chất lượng sản phẩm được thị trường công nhận, công ty xi măng Hải Phòng còn chủ động đổi mới thủ tục bán hàng, tiêu thụ sản phẩm bằng việc thành lập trung tâm tiêu thụ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà phân phối, khách hàng đến giao dịch mua bán nhanh gọn. Với phương châm uy tín, chất lượng, hiệu quả thương hiệu chiếm lĩnh thị phần, công ty xi măng Hải Phòng phấn đấu mở rộng hơn thị trường tiêu thụ không chỉ trong các tỉnh miền Bắc mà còn miền Trung, miền >
- Năm 2008 lượng sản xuất Clinker của công ty đạt 1.121.000 tấn tăng 61 nghìn tấn so với năm 2007 tăng 5,75%.
Lượng tiêu thụ sản phẩm vẫn còn tăng mạnh đạt 1.610.000 tấn tăng 243.559 tấn so với năm 2007 tăng mạnh gần 18%.
Theo Tổng Giám đốc Công ty xi măng Hải Phòng cho biết: trong năm 2008, mặc dù tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động, khó khăn. Nhiều dự án trong nước phải cắt giảm đầu tư, giãn tiến độ nhưng tập thể CBCNV công ty Xi măng Hải Phòng đã chủ động đề ra nhiều giải pháp khắc phục khó khăn, tận dụng tối đa những thuận lợi nên công tác sản xuất kinh doanh trong năm 2008 của công ty đạt được những thành quả quan trọng.
Lượng tiêu thụ tăng mạnh nguyên nhân chính là là do chất lượng xi măng Hải Phòng luôn luôn ổn định và tốt hơn so với các xi măng khác trong ngành điều đó càng được thể hiện bằng giá cả sản phẩm.Trong khi lượng tiêu thụ tăng mạnh thì giá bán sản phẩm của xi măng Hải Phòng vẫn rất cao.
Thể hiện rõ là: Từ ngày 15/12/2007 các công ty xi măng thuộc Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam đã 2 lần tăng giá bán xi măng với mức tăng bình quân khoảng 60.000đ/tấn (trong đó Hải Phòng tăng cao nhất 100.000đ/tấn). Cụ thể:
+ Công ty xi măng Hoàng Thạch: tăng 60.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Hải Phòng: tăng 100.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Bỉm Sơn: 55.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Bút Sơn: tăng 55.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Tam Điệp: tăng 55.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Hoàng Mai: tăng 65.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Hà tiên 1: tăng 60.000đ/tấn
+ Công ty xi măng Hà Tiên 2: tăng 60.000đ/tấn.
- Thị trường tiêu thụ xi măng 2 tháng đầu năm 2009
Tiêu thụ xi măng toàn xã hội:
Nội dung
Tiêu thụ 02 tháng 2008
Tiêu thụ 02 tháng 2009
So sánh (%)
Thị phần (%)
1. Vicem
1.904
1.935
101,6
36,6
2. Liên doanh
1.607
1.579
98,3
29,9
3. Thành phần khác
1.780
1.770
99,4
33,5
Toàn XH
5.291
5.284
99,9
Dự báo năm 2009 tiếp tục còn nhiều diễn biến khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Với tinh thần năng động, dám nghĩ, dám làm, phát huy kết quả đã đạt được trong những năm qua, quyết tâm tổ chức thực hiện tốt chủ đề hành động sáng tạo, tiết kiệm, chất lượng, hiệu quả đã được thống nhất trong toàn Đảng bộ, Đảng bộ Công ty Xi măng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị năm 2009, trong đó chỉ tiêu sản lượng tiêu thụ phấn đấu đạt 1,8 triệu tấn.
Ngay từ đầu năm, công ty chú trọng bảo đảm vận hành lò nung ổn định, đạt năng suất cao, nâng cao năng suất máy đóng bao, bảo đảm sản lượng 7000- 8000 tấn/ngày cung cấp ra thị trường; đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, giữ vững thị phần và phát triển thị trường mới, phấn đấu tăng 8- 10% sản lượng so với năm 2008, dự kiến xuất khẩu 150.000 tấn.
2.2.2. Thực trạng công tác tiêu thụ của công ty xi măng Hải Phòng.
2.2.2.1 Nghiên cứu và dự báo thị trường doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sau khi tham gia vào thị trường đều phải tiến hành hoạt động nghiên cứu thị trường, mục đích của việc nghiên cứu thị trường đó là nghiên cứu và xác định khả năng tiêu thụ mặt hàng của nhóm mặt hàng trên địa bàn xác định. Trên cơ sở việc nghiên cứu đó, doanh nghiệp sẽ tiến hành lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp để thoả mãn yêu cầu của thị trường và mục đích tối đa hoá lợi nhuận của chính bản thân doanh nghiệp.
Sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, công ty xi măng Hải Phòng đã chuyển hướng sang kinh doanh theo nhu cầu của thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường trước kia do phòng kinh doanh đảm nhận, đây là khâu yếu nhất của doanh nghiệp. Các thông tin trong nghiên cứu thị trường chủ yếu còn rất thiếu và thậm chí đôi khi còn không chính xác gây khó khăn cho việc dự báo nhu cầu sản phẩm trong những thời điểm cụ thể. Nguồn thông tin chủ yếu là từ niên giám thống kê của tổng cục thống kê và thông tin do Tổng Công Ty công nghiệp xi măng Việt Nam cung cấp, thông tin từ những hợp đồng đã ký kết được. Công ty chưa có công tác tiếp cận trực tiếp thị trường, tìm hiểu các khách hàng tiêu dùng cuối cùng của doanh nghiệp. Do đó, công ty xi măng Hải Phòng chưa thực sự nghiên cứu thị trường mà mới chỉ dừng lại ở khâu phát hiện vấn đề cần nghiên cứu. Điều này cho thấy doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường dẫn đến lượng hàng tồn kho của Xí nghiệp nhiều.
Hiện nay, doanh nghiệp đã thành lập ban Marketing dưới sự lãnh đạo trực tiếp của phó giám đốc kinh doanh thực hiện công tác nghiên cứu thị trường. Bộ phận này chịu trách nhiệm tổ chức một đội ngũ nhân viên Marketing trực tiếp nghiên cứu thị trường, xây dựng chương trình nghiên cứu thị trường cung cấp thông tin cho bộ phận lãnh đạo để đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác. Công tác điều tra nghiên cứu thị trường được đặt ra ở doanh nghiệp dưới một số hình thức:
- Doanh nghiệp đã cử nhân viên nghiên cứu thị trường đi điều tra tình hình biến động nhu cầu và giá cả của các loại sản phẩm trên thị trường thông qua phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp.
- Doanh nghiệp đã kết hợp hoạt tiêu thụ sản phẩm ở các chi nhánh, các cửa hàng. Việc điều tra nghiên cứu thị trường được tiến hành nhờ thu thập thông tin ở các chi nhánh, cửa hàng, báo cáo kết quả kinh doanh và tình hình tiêu thụ. Điều này tiết kiệm doanh nghiệp rất nhiều chi phí mà thông tin lại chính xác.
- Ban Marketing đã tiến hành nhiều hoạt động đi sâu, đi sát vào các khu vực thị trường mục tiêu, đi thực tế, khảo sát xuống tận các địa bàn tiêu thụ lớn trong cả nước để tìm hiểu thị trường, thu thập các thông tin giúp ban lãnh đạo. Sau đó giai đoạn xử lý thông tin ban lãnh đạo sẽ đánh giá được khả năng biến động của thị trường, do những nhân tố nào tác động như: chính sách xuất nhập khẩu của Chính phủ, mức tăng trưởng kinh tế của xã hội...
- Ngoài ra công ty còn liên tục tổ chức các hội nghị khách hàng, tham gia hội chợ triển lãm hnàg tiêu dùng trong cả nước nhằm thu thập các thông tin từ thị trường. Hơn nữa, công ty cũng đã thu thập được các thông tin quan trọng về thị trường từ mạng lưới đại lý và hệ thống bán buôn, bán lẻ trong cả nước.
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp chưa được thực hiện một cách triệt để, đồng bộ mà còn nhiều khiếm khuyết như sau:
- Doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên nghiên cứu thị trường trình độ không đồng đều, chưa có sự chuyên môn hoá cao.
- Doanh nghiệp chưa tổ chức được các hội nghị khách hàng. Nếu doanh nghiệp thực hiện được công tác này thì càng tăng thêm mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng đồng thời có thể thu thập được thông tin một cách chính xác, đơn giản, tiết kiệm chi phí.
- Chưa điều tra, nghiên cứu thị trường ở quy mô lớn.
- Chưa có biện pháp hiệu quả tiếp xúc với người tiêu dùng cuối cùng.
- Chưa sử dụng phương pháp hiện đại trong nghiên cứu thị trường: nghiên cứu thị trường qua mạng Internet...
2.2.2.2 Lựa chọn sản phẩm thích ứng.
Nhận thấy rõ chính sách sản phẩm tối ưu nhất trong thời điểm hiện tại đó là cần nâng cao chất lượng xi măng. Chất lượng là mục tiêu hàng đấu đảm bảo cho sự phát triển bền vững cần nâng cao chất lượng xi măng mới có thể cạnh tranh tốt trong nền kinh tế hiện nay. Vì vậy công ty xi măng Hải Phòng không ngừng nâng cao chất lượng xi măng của mình để có thể mở rộng được thị phần.
Công ty cổ phần xi măng Hải Phòng luôn luôn đặt ưu tiên hàng đầu cho sự hài lòng của khách hàng và luôn cung cấp các sản phẩm xi măng chất lượng tốt nhất.
Công ty xi măng Hải Phòng đã cam kết luôn áp dụng chỉ tiêu chất lượng.
- Hệ thống quản lý chất lượng được cấp chứng chỉ ISO 9001:2008 trong tháng 3/2009 và áp dụng duy trì ngày càng hiệu quả.
- 100% sản phẩm xuất cho khách hàng đạt tiêu chuẩn TCVN 6260:1997, TCVN 2682:1999 đối với xi măng, đạt TCVN 7024:2002 đối với clanhke.
- Biến phân cường độ của xi măng trong tháng ≤ 5%
Sản xuất Clinker đạt mác Cpc60, xi măng PCB 30 đạt mác 35± 2 N/mm2, PCB 40 đạt mác 52±2 N/mm2.
Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm công ty đã thực hiện những chính sách:
- Liên tục huấn luyện đào tạo tất cả cán bộ công nhân viên để mọi người lao động trong công ty đều tham gia vào các hoạt động nâng cao chất lượng.
- Không ngừng cải tiến chất lượng bằng cách giám sát chặt chẽ và cải tiến mọi quy trình sản xuất.
- Đều đặn thực hiện công tác bảo trì phòng ngừa. Điều tra rà soát sự hài lòng của khách hàng bằng cách chủ động lắng nghe ý kiến phản ánh của họ.
Công ty xi măng Hải Phòng đã chỉ đưa ra thị trường các loại sản phẩm xi măng đảm bảo chất lượng, phù hợp với tiêu chuẩn Quốc Gia đã đăng ký. Vì vậy sản phẩm của công ty luôn có chất lượng cao và luôn ổn định, nên đã đạt được nhiều._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22216.doc