Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan Hà Nội

Lời mở đầu Trong những năm vừa qua đất nước ta ổn định về chính tri và xã hội, kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng mừng, giao lưu kinh tế được mở rộng, công cuộc cải cách hành chính phát triển nổi bật, đặc biệt là những định hướng phát triển kinh tế và xã hội đưa ra trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng đề ra, như đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ, Viêt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới, đồng thời đảy mạnh các hoat động kinh tế đối ngoại, đây chính là

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bước tiến quan trọng cho hoat động XNK trên địa bàn thủ đô. Ngoài ra, chúng ta còn phải nhắc tới những bước tiến quan trọng trong quá trình hiện đại hoá ngành Hải quan như quy chế hoá, quy trình hoá, thống nhất hoá hoạt động nghiệp vụ chuyên môn và xây dựng lực lượng Hải quan vững mạnh .Bên cạnh đó, viêc thực thi những hiệp đinh quốc tế song phương và đa phương như hiệp định thương mại Viêt-Mĩ, việc gia nhập AFTA, thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo hiệp định CEPT đã góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại với các nước trên thế giới đăc biệt là Châu Mĩ và Châu Âu là những thị trương còn rất xa lạ với chúng ta trong thời kỳ trước đây. Thủ đô Hà Nội là đầu não kinh tế-văn hoá-chính trị, khoa học-kĩ thuật và là một trung tâm giao dịch thương mại quốc tế lớn của cả nước. Vị trí quan trọng nay một mặt thúc đẩy hoạt động giao lưu buôn bán với nước ngoài tạo điều kiện cho thủ đô phát triển nhanh chóng nhưng mặt khác nó cũng là môi trường thuận lợi cho hành vi buôn lậu và gian lận thương mại sinh sôi, nảy nở đây là một thách thức không nhỏ đối với thành phố. Trong những năm gần đây tình hình buôn lậu và gian lân thương mại trên địa bàn thành phố phát triển hết sức nhanh chóng đáng chú ý là những mặt hàng như: hàng chuyển tiếp, hàng đầu tư nước ngoài, hàng chế độ riêng, hàng tạm nhập-tái xuất. Để có những biện pháp khắc phục kịp thời, Cục Hải quan thành phố Hà Nội đã tiến hành kiểm soát chặt chẽ các hàng hoá, hành lí, ngoại hối, bưu phẩm, bưu kiện xuất nhập khẩu qua Chi cục Hải quan Gia Lâm, Chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài, Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội, Chi cục Hải quan Ga đường sắt quốc tế Yên Viên, Chi cục Hải quan quản lý hàng đầu tư gia công, Chi cục Hải quan Hà Tây, Chi cục Hải quan Gia Thuỵ, Chi cục Hải quan Bắc ninh, Chi cục Hải quan Vĩnh Phúc, Chi cục Hải quan Phú Thọ. Cục Hải quan Hà nội có phạm vi quản lý rộng, phức tạp, không có cửa khẩu biên giới, không có cửa khẩu trực tiếp với biển nhưng Hà nội lại có hệ thống giao thông toả đi các miền trong cả nước và có sân bay quốc tế Nội Bài là cửa khẩu lớn đón nhận hầu hết sự giao lưu quốc tế với Viêt nam qua đường hàng không . Hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Hà nội diễn ra rất sội động, đa dạng và phức tạp đối với đủ các loại hình của hơn 4000 doanh nghiệp, công ty trong và ngoài nước. Nhưng cùng với sự phát triển về hoạt động xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hoá cũng phát sinh không ít những hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và những hành vi vi phạm pháp luật Hải quan. Chính vì những đặc điểm nêu trên, nên kết quả đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại của Hải quan Thành phố Hà nội trong thời gian qua tuy đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp , chỉ mới phát hiện được những vụ nhỏ với những phương thức giản đơn và phổ biến. Những vụ buôn lậu quy mô lớn ít được phát hiện và xử lý, nhất là những vụ xuất nhập hàng cấm qua cửa khẩu và những vụ gian lận trốn lậu thuế có thủ đoạn tinh vi và có tính chất nước ngoài. Hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại không những không giảm mà ngày càng gia tăng với những tình tiết ngay càng phức tạp. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài: ”Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan Hà Nội” không những mang tính cấp thiết về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn cấp thiết nhằm góp phần năng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới. 2.Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống thực trạng của công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan TP Hà nội. Chuyên đề làm rõ các nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự xuất hiện và phát triển của buôn lậu và gian lận thương mại trong hoạt động XNK do Cục Hải quan TP Hà nội quản lý để từ đó đề ra một số giải pháp nhằm hạn chế và từng bước đẩy lùi tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Buôn lậu và gian lận thương mại là một đề tài có phạm vi rất rộng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên để việc nghiên cứu được tập trung và có trọng điểm chuyên đề chỉ đề cập đến Buôn lậu và gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan , qua công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại , công tác kiểm tra ,giám sát của Cục Hải quan TP Hà nội 4.Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp khảo sát thực tế ,thống kê, phân tích ,tổng hợp... 5.Kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục , nội dung chuyên đề bao gồm 03 chương. Chương I: Tổng quan về phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thương mại quốc tế Chương II: Thực trạng các hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục hải quan TP Hà nội Chương III : Định hướng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của Cục Hải quan Hà Nội trong thời gian tới Để hoàn thành đề tài này ,tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ Cục Hải quan TP Hà Nội, cán bộ thư viện trường Đại học Kinh Tế quốc dân và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Xuân Quang. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quí báu đó. Do việc thu thập tài liệu gặp nhiều khó khăn, năng lực cá nhân còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các Thầy cô và các bạn./. Chương I: Tổng quan về phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thương mại quốc tế 1.Khái niệm buôn lậu và gian lận thương mại trong Thương mậi quốc tế (TMQT) 1.1Khái niệm Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ, sự gian lận trong buôn bán hàng giữa các nước cũng phát triển không ngừng cả về quy mô lẫn tính chất, thủ đoạn. Để hiểu rõ thế nào là Buôn lậu và gian lận thương mại, chúng ta lần lượt nghiên cứu từng nội dung của khái niệm: 1.1.1 Buôn lâu và vận chuyển hàng hoá trái phép : -Buôn lậu: theo Luật hình sự Việt Nam, được định nghĩa là " buôn bán hàng trốn thuế hoặc hàng quốc cấm". Đó là định nghĩa buôn lậu nói chung. Còn trong ngữ cảnh quốc tế, buôn lậu được hiểu là buôn bán hàng hoá, tiền tệ và các phương tiện thanh toán khác qua biên giới trốn tránh sự kiểm soát nhà nước nhằm mục đích kiếm lời. Buôn lậu là hành vi mang hàng hoá một cách bí mật và không hợp pháp vào và ra khỏi một nước mà không chịu trả thuế. Công ước NAIROBI - Công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau, ngăn ngừa ,điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan- cũng đưa ra khái niệm buôn lậu là gian lận thương mại nhằm che dấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện trong việc đưa hàng hoá lén lút qua biên giới. Về tội danh buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới nhiều nước quy định tội danh buôn lậu vận chuyển đồ cấm (thuốc phiện, vũ khí, thuốc nổ...) là tội hình sự, còn các tội buôn lậu hàng hoá khác nằm trong tội danh gian lận thương mại thì bị truy thu thuế và phạt rất nặng (gia tăng theo số lần vi phạm) tức là có xu hướng không hình sự hóa các mối quan hệ dân sự trong hoạt động kiểm tra thương mại. Đối với Việt nam, hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới là một tội danh được quy định tại điều 97 của Bộ luật hình sự. Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện qua các hành vi: - Buôn lậu trái phép hàng hoá tiền tệ hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trái với quy định của pháp luật với mục đích kiếm lợi nhuận bất hợp pháp. - Không khai báo hoặc khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ, dấu giếm hàng hoá, tiền tệ trái phép không có giấy tờ hợp lệ của cơ quan có thẩm quyền đã được Nhà nước quy định. - Không đi qua các cửa khẩu, cố tình trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của Cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý cửa khẩu. Hành vi mang hàng hóa trái phép qua biên giới rõ ràng có mục đích buôn bán thì cấu thành tội buôn lậu .... Nếu không có mục đích buôn bán thì cấu thành tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Dấu hiệu bắt buộc của tội phạm qua biên giới là tội phạm được hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi mang hàng hoá trái phép qua biên giới. Hành vi nhập khẩu trái phép trót lọt hàng hoá hay tiền tệ qua biên giới vào trong nội địa mới bị phát hiện vẫn cấu thành tội buôn lậu vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Tất cả các đối tượng có hành vi vi phạm điều 97 Bộ luật hình sự đều là đối tượng đấu tranh của Hải quan và công tác đấu tranh chống buôn lậu là một trong nhiệm vụ quan trọng của Cục Hải quan Thành phố Hà Nội. Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quan trọng này Cục Hải quan Hà Nội phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất, có sự phân công rõ ràng giữa các phòng nghiệp vụ. Chúng ta cần phân biệt rõ giữa gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan và buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Đây là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên trong thực tế ở Việt Nam nói chung, Cục Hải quan Hà Nội nói riêng khái niệm này chưa được phân định rõ ràng, thậm chí còn được gộp vào một. Chính sự lẫn lộn này dẫn đến khó khăn cho việc phân biệt tội danh để đấu tranh và xử lý các tội phạm và hình vi vi phạm pháp luật Hải quan. 1.1.2 Gian lận thương mại : - Gian lận: là hành vi dối trá, lừa đảo, mánh khoé của con người nhằm lừa người khác để đạt được mục đích nào đó. - Gian lận thương mại: là những hành vi dối trá, mánh khoé lừa lọc trong thương mại nhằm mục đích thu được một khoản lợi bất chính nào đó mà lẽ ra những khoản lợi thu được này họ không được hưởng. Ví dụ: Chủ hàng để lẫn lộn nhiều loại hàng hoá với nhau và khi Hải quan kiểm tra thì xuất trình những mạt hàng có thuế suất thấp. Hàng là sản phẩm hoàn chỉnh được khai là linh kiện, là nguyên phụ liệu để gia công, lắp ráp để trốn thuế. Hàng có xuất xứ từ nước này này lại khai báo là hàng có xuất xứ từ nước khác để được hưởng ưu đãi thuế... Chủ thể của hành vi gian lận thương mại có thể là người bán hoặc người mua hoặc cả người bán lẫn người mua. Họ sử dụng các thủ đoạn khác nhau để lừa dối cơ quan Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát hàng hoá. Ngoài ra đối với hàng cấm, do Nhà nước quản lý và hạn chế nhập khẩu, các chủ hàng cũng dùng các thủ đoạn gian lận thương mại để trốn tránh sự kiểm soát của các cơ quan chức năng. 1.1.3 Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan : Vấn đề xác định rõ khái niệm gian lận thương mại cũng được Hội đồng hợp tác Hải quan quốc tế ( nay là tổ chức Hải quan thế giới WCO) đề cập, thảo luận nhiều lần. Ngày 09/06/1977 các nước thành viên đã ký kết công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính giữa các nước nhằm ngăn ngừa, điều tra, trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật Hải quan (gọi tắt là công ước NAIROBI ) đã đưa ra định nghĩa: " Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi vi phạm pháp luật Hải quan, lừa dối Hải quan để lẩn tránh một phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, vi phạm các biện pháp cấm hoặc hạn chế do luật pháp Hải quan quy định, để thu được một khoản lợi nhuận nào đó do việc vi phạm này". Về cơ bản, định nghĩa này đã khái quát được hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan. Hành vi đó được thể hiện bằng sự lừa dối thông qua hành động lẩn tránh việc nộp thuế và việc tuân thủ pháp luật Hải quan nhằm thu một khoản lợi nào đó. Tuy nhiên, đinh nghĩa nêu trên lại chưa đưa ra một cách đày đủ, chính xác các hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan . Do đó, tại Hội nghị quốc tế lần thứ năm về chống gian lận thưong mại do WCO tổ chức ngày 09/10 đến ngày 13/10/1995 đã đưa ra định nghĩa mới như sau : : " Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi vi phạm pháp luật Hải quan và các quy định liên quan khác, nhằm đạt được mục đích: - Trốn tránh hoặc có ý định trốn tránh việc nộp thuế Hải quan, phí và các khoản thu khác đối với việc di chuyển hàng hoá trong thương mại. - Tiếp nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hoá không thuộc đối tượng đó. - Cố ý đoạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thương mại chính đáng. Như vậy, định nghĩa gian lận thương mại rất rộng và liên quan đến nhiều khâu nghiệp vụ của ngành Hải quan. Qua đó cũng có thể thấy rằng định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan mà Hội nghị quốc tế lần thứ V đưa ra là cụ thể, chính xác và có tính khái quát cao, thể hiện ở tính chất vi phạm và mục đích của hành vi gian lận thương mại. Hội nghị còn tổng kết và phân chia thành 16 loại hành vi gian lận thương mại chủ yếu hiện nay trong lĩnh vực Hải quan như sau: 1. Buôn lậu hàng hoá (kể cả hàng hoá bị cấm xuất nhập khẩu và đặc biệt hàng thuộc công ước WASHINGTON về bảo vệ động thực vật quý hiếm và các quy định quốc gia về bảo vệ môi trường) qua biên giới hoặc ra khỏi kho ngoại quan. 2. Khai báo sai tên hàng so với thực tế hàng hoá. 3. Khai tăng giá trị hoặc giảm giá trị hàng hoá. 4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hay những quy định về chế độ ưu tiên đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, kể cả chế độ hạn ngạch. 5. Lợi dụng chế độ ưu đãi về thuế đối với hàng gia công. 6. Lợi dụng chế độ tạm nhập (kể cả dùng thẻ ATA; Agreement on Temporary Admission). 7. Lợi dụng các quy định về giấy phép xuất nhập khẩu. 8. Lợi dụng các quy định về hàng chuyển khẩu, chuyển tiếp, quá cảnh, mượn đường để thay đổi hành trình đến đích của hàng hoá. 9. Khai báo sai về số lượng, trọng lượng, chất lượng hàng hoá. 10. Lợi dụng các quy định về mục đích sử dụng, kể cả buôn bán trái phép nhằm giảm thuế hàng hoá được cung cấp cho người tiêu dùng cụ thể. 11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định về bảo vệ người tiêu dùng. 12. Kinh doanh hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã. 13. Thực hiện các giao dịch buôn bán không có sổ sách. 14. Yêu cầu giả, khống việc hoàn hoặc truy hoàn thuế Hải quan (kể cả chứng từ giả về hàng hoá đã xuất khẩu). 15. Doanh nghiệp " ma" tức doanh nghiệp kinh doanh chỉ trên giấy tờ hoặc đăng ký kinh doanh bất hợp pháp để hưởng ưu đãi thuế. 16. Phá sản có tính toán, tức công ty kinh doanh trong một thời gian ngắn để nợ đọng thuế rồi tuyên bố phá sản để trốn tránh việc nộp thuế, sau đó giám đốc công ty lại thành lập công ty mới với cùng ý định và mục đích như ban đầu. Loại gian lận này còn được gọi là " hội chứng phượng hoàng". Ngoài ra Hội nghị cũng đề cập đến các biện pháp chống gian lận thương mại trong việc sử dụng máy tính, đồng thời đã chú ý đến hoạt động gian lận thương mại trong các sản phẩm sơ chế có trình độ cao. 1.2. Phân biệt giữa buôn lậu và gian lận thương mại. Trên đây chúng ta đã tìm hiểu khái niệm của Buôn lậu và khái niệm của gian lận thương mại. Từ định nghĩa về Buôn lậu và gian lận thương mại và sự phân chia các hành vi gian lận thương mại của Tổ chức Hải quan thế giới, có thể thấy rằng gian lận thương mại là một khái niệm có phạm vi rất rộng, bao hàm cả hành vi buôn lậu. Sự khác nhau cơ bản giữa buôn lậu và gian lận thương mại là ở chỗ buôn lậu trước hết là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, tính chất phức tạp nghiêm trọng hơn. Nó bao hàm các hành vi giấu giếm để trốn tránh hoàn toàn hoặc một phần việc kiểm tra của Hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện. Còn gian lận thương mại được định nghĩa là việc cố ý làm trái các quy định của pháp luật, chính sách hoặc lợi dụng sự sơ hở, không rõ ràng, không chính xác, không đầy đủ khoa học của pháp luật, sự chưa hoàn thiện và hành vi gian dối, lừa gạt qua cửa khẩu một cách công khai ngay nơi kiểm tra, kiểm soát của Hải quan nhăm thu lợi bất chính. Buôn lậu hoạt động không công khai, còn các loại hình gian lận thương mại khác bằng những thủ đoạn tinh vi đã “ qua mặt” các cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai. Trên thực tế, cả hai hành vi trên đều là sự vi phạm pháp luật nhà nước trong lĩnh vực hải quan nhưng hành vi buôn lậu dễ nhận dạng hơn, hình thức xử lý cũng rõ ràng hơn và nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên, ở nước ta lại có quan điểm khác về buôn lậu và gian lận thương mại. Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1990 ( đã sửa đổi bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 28/12/1989, ngày 22/12/1990 có hiệu lực ) đã bao hàm cả các hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan như: Không khai báo, khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng hoá... Từ đó có thể hiểu rằng gian lận thương mại là một nội dung, một bộ phận trong tội danh buôn lậu.Việc quy định như vậy không phù hợp với thực tế bởi vì xét về góc độ áp dụng pháp luật không thể khởi tố tất cả các chủ thể có hành vi thoả mãn cấu thành tội “ buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá hoặc tiền tệ qua biên giới” như đã nêu trên. Mặt khác xu hướng của các nước trên thế giới cũng như ở nước ta trong thời gian gần đây là không hình sự hoá các sai phạm trên lĩnh vực kinh tế ,việc xác định này cũng trái hẳn với quan điểm của Hải quan các nước và Tổ chức Hải quan thế giới, do đó sẽ gây khó khăn lớn trong việc giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế và trong việc xử lý vi phạm pháp luật Hải quan giữa nước ta với các nước khác trong quá trình hội nhập quốc tế. 1.3 Hậu quả của buôn lậu và gian lận thương mại 1.3.1 Hậu quả của buôn lậu và gian lận thương mại đối với nền kinh tế quốc dân Thu nhập từ thuế, trong đó có thuế xuất nhập khẩu là một trong những nguồn thu quan trọng của nhà nước. Một trong các mục đích của các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại là nhằm trốn thuế, do đó tác hại của buôn lậu và gian lận thương mại đối với nền kinh tế trước hết ở chỗ nó gây thất thu cho ngân sách nhà nước dẫn đến tình trạng Nhà nước mất cân đối về thu chi ngân sách, làm ảnh hưởng tới các kế hoạch kinh tế, tài chính của đất nước, đặc biệt là tới quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển. Mặt khác, thuế quan là thuế đánh trên hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích làm tăng giá của hàng nhập khẩu để giảm sự cạnh tranh với hàng hoá trong nước, kích thích sản xuất trong nước. Nhờ trốn thuế mà giá hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn. Với mức giá thấp và chất lượng cao hơn do có công nghệ sản xuất tiến tiến, hiện đại, hàng ngoại dễ dàng lấn át hàng nội, phá thế bình ổn giá cả làm cho một số ngành sản xuất trong nước trở nên đình trệ. Hoạt động Buôn lậu và gian lận thương mại còn làm phương hại tới lợi ích đất nước, tới quyền lợi của người tiêu dùng. Hàng hoá nhập lậu không được giám định, kiểm tra chất lượng. Có nhiều trường hợp vì mục tiêu lợi nhuận mà người nhập khẩu về cả những hàng hoá kém chất lượng, máy móc công nghệ cũ kỹ lạc hậu, làm phương hại tới lợi ích đất nước và quyền lợi của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Buôn lậu và gian lận thương mại còn là một trong những nguyên nhân gây chảy máu vàng, chảy máu các tài nguyên, đặc sản quý của đất nước, làm cho đất nước kiệt quệ về nguồn lực. Hàng bị xuất lậu chủ yếu là hàng thuộc dạng nguyên liệu, khoáng sản, nhiên liệu thô, có mặt hàng chiến lược, hàng quốc cấm... Có thời kỳ từng rộ lên nạn xuất lậu đồng, xuất lậu gỗ quý, đá ruby, nạn bắt trộm hải sản v.v... 1.3.2 Hậu quả của Buôn lậu gian lận thương mại đối với văn hoá xã hội Thực tế cho thấy Buôn lậu và gian lận thương mại gây nên những hậu quả nặng nề và phức tạp về mặt văn hoá xã hội.Trong số hàng hoá được đưa vào trong nước bằng con đường phi pháp có không ít văn hoá phẩm đồi trụy, tuyên truyền bạo lực hay kiểu sống thác loạn, bệnh hoạn đã ảnh hưởng tới nhân cách của nhiều người, nhất là tầng lớp thanh thiếu nhi, làm suy đồi nếp sống lành mạnh của xã hội và truyền thống văn hoá dân tộc. Đặc biệt, tình hình nhập lậu ma tuý và các chất gây nghiện khác đang ngày càng trở nên nghiêm trọng đã và đang huỷ hoại một bộ phận thế hệ trẻ của đất nước, làm suy kiệt giống nòi. Hơn thé nữa, buôn lậu và gian lận thương mại cũng là một nhân tố làm tăng chênh lệch giữa kẻ giàu và người nghèo, tạo đà cho việc thê mướn và bóc lột sức lao động. Một số lớn lực lượng lao động bị tiền thuê mướn cám dỗ bỏ cả công việc sản xuất đi làm " cửu vạn" cho bọn buôn lậu, trong số đó có cả trẻ em đang tuổi đến trường cũng bỏ học tham gia vào đường dây buôn lậu. Không ít các đối tượng chính sách cũng tham gia hoặc tiếp tay cho gian thương gây nhiều phức tạp cho các lực lượng làm nhiệm vụ chống gian lận thương mại, nhất là trong công tác xử lý vi phạm. 1.3.3 Hậu quả của buôn lậu và gian lận thưong mại đối với an ninh chính trị: Buôn lậu và Gian lận thương mại ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Nhà nước phát huy năng lực thông qua hệ thống pháp luật. Luật pháp không được tuân thủ sẽ đưa đến tình trạng hỗn loạn. Những kẻ có tội mà không bị trừng trị bằng cách hình phạt thích đáng sẽ làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, làm khủng hoảng cả hệ thống lập pháp, tư pháp cũng như công luận. Buôn lậu và Gian lận thương mại cũng gắn liền với hối lộ, tham nhũng, vừa làm thoái hoá, biến chất đội ngũ cán bộ nhân viên nhà nước, vừa đẻ ra nhiều tiêu cực, phiến hà. Thực trạng đó dễ làm cho nhân dân trở nên hoang mang, giảm lòng tin đối với Nhà nước, gây tâm lý bất lợi cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Mặt khác, trong bối cảnh thế giới ngày nay, cuộc chiến tranh thị trường- cuộc chiến tranh " biên giới mềm" đang diễn ra khá căng thẳng. Chủ quyền lãnh thổ bị đe doạ không phải bằng xe tăng đại bác mà bằng hàng hoá, tiền và công nghệ. Hàng hoá đến đâu là biên giới đến đó, là có thị trường, có cơ hội vơ vét tài nguyên của những nước nghèo, kém phát triển, khiến các nước nghèo rơi vào tình cảnh biên giới đất nước vẫn còn nguyên mà chủ quyền thì mất.Chiến tranh thông thường có thể giết chết nhiều người nhưng về lâu dài khó có thể giết được một nền độc lập, nhưng chiến tranh về kinh tế thì đã làm cho không ít quốc gia có sức mạnh quân sự hùng hậu cũng mất chủ quyền. Tình hình thế giới trong nhiều năm qua đã chứng tỏ điều này. 2. Các hình thức buôn lậu và gian lận thương mại thường gặp trong lĩnh vực Hải quan: 2.1 Các hình thức buôn lậu : Buôn lậu trái phép hàng hoá tiền tệ hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trái với quy định của pháp luật với mục đích kiếm lợi nhuận bất hợp pháp. Không khai báo hoặc khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ, dấu giếm hàng hoá, tiền tệ trái phép không có giấy tờ hợp lệ của cơ quan có thẩm quyền đã được Nhà nước quy định. Không đi qua các cửa khẩu, cố tình trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của Cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý cửa khẩu. 2.2 Các hình thức gian lận thương mại 2.2.1.Khai báo không trung thực Đây là hành vi gian lận phổ biến nhất thường gặp. Để lẩn trốn kiểm tra, chủ hàng thường dùng các thủ đoạn như: - Khai báo không trung thực về mặt hàng thực xuất nhập khẩu. Tức là trên thực tế xuất nhập khẩu mặt hàng này nhưng trong bộ hồ sơ chứng từ, chủ hàng lại kê khai là mặt hàng khác. Mục đích của việc khai báo không trung thực này là để được hưởng thuế suất xuất nhập khẩu thấp hoặc không phải nộp thuế xuất nhập khẩu và các khoản thu khác của nhà nước. Thủ đoạn khai gian hàng hoá mà chủ hàng thường áp dụng là: Mô tả sai hàng hoá trong bộ chứng từ, trong tờ khai hải quan không ghi đúng mẫu mã theo quy định về áp mã hàng của công ước quốc tế về hệ thống thống nhất trong mô tả mã hàng hoá hoặc mô tả mập mờ, khó xác định chính xác nó xếp vào mã nào. Ngoài ra chủ hàng còn dùng mẹo để lẫn lộn hai loại hàng với nhau rồi khai báo một loại hàng... - Khai báo không trung thực về trị giá hàng hoá. Trong hình thức gian lận này có thể chia làm hai loại: + Khai báo trị giá thấp hơn thực tế ( Undervaluation): là việc chủ hàng khai hàng hoá có giá trị thấp hơn trị giá thực của nó nhằm trốn thuế xuất nhập khẩu. Đây là trường hợp người xuất khẩu và người nhập khẩu thông đồng với nhau để toàn bộ hồ sơ chứng từ đều ghi giá trị lô hàng giảm xuống thấp, nhờ đó trốn được khoản thuế phải nộp tương ứng với phần chênh lệch giữa trị giá thực tế với trị giá khai báo. Những biểu hiện gian lận này khá phổ biến ở những nước áp dụng sắc thuế theo giá hàng vì nếu đơn giá hàng hoá kê khai thấp thì số thuế sẽ phải nộp ít hơn. Chẳng hạn, trong thời gian Bộ Tài chính chưa quy định giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu linh kiện CKD xe máy Avenis, mặt hàng có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 60%, giá tối thiểu các doanh nghiệp thường khai báo để tính thuế nhập khẩu là 1200USD/bộ và xe nguyên chiếc là 2400USD/chiếc trong khi đó trên thị trường nội địa, mặt hàng này được bán lẻ với giá 5000USD/chiếc. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp xuất nhập khẩu phải thông qua hạn ngạch hạn chế vì trị giá hàng hoá xuất nhập khẩu, chủ hàng thường tìm cách khai thấp trị giá hàng hoá để xuất nhập khẩu được số lượng hàng nhiều hơn. Cũng có trường hợp một số nước áp dụng thuế suất luỹ kế tính theo trị giá lô hàng, tức là nếu trị giá lô hàng x đồng thì thuế suất nhập khẩu của lô hàng đó là 5% nhưng nếu trị giá lô hàng vượt mức x đồng thì thuế suất áp dụng lúc này sẽ là 10%. Vì lẽ đó, chủ hàng sẽ tìm mọi cách để khai báo trị giá lô hàng thấp hơn thực tế hoặc chia nhỏ lô hàng thành nhiều lô để hưởng thuế suất thấp hơn. + Khai báo giá trị cao hơn thực tế ( Overvaluation) Trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế còn xảy ra trường hợp chủ hàng khai báo trị giá hàng hoá cao hơn trị giá vốn có của lô hàng. Nguyên nhân của loại gian lận này có thể là do ở một số nước, thuế suất được xác định căn cứ vào trị giá hàng hoá, trị giá hàng hoá cao được áp dụng mức thuế suất thấp hơn, khi đó chủ hàng sẽ tìm cách khai báo trị giá hàng xuất nhập khẩu cao hơn giá hàng thực tế để được hưởng mức thuế suất thấp hơn. Như vậy trị giá chịu thuế tuy có cao hơn nhưng số tiền nộp thuế vẫn giảm đi. Trong trường hợp hạn ngạch xuất nhập khẩu bị hạn chế về số lượng hàng hoá, người ta lập hoá đơn chứng từ thanh toán và kết toán là hoàn toàn đúng với số tiền thực tế phải trả nhưng số lượng hàng hoá ghi ít hơn thực tế (để còn được tiếp tục xuất nhập khẩu ), vì thế đơn giá hàng hoá phải ghi cao hơn thực tế. Ngoài ra, hiện tượng khai báo trị giá hàng cao hơn thực tế vẫn còn xảy ra trong lĩnh vực liên doanh đầu tư với nước ngoài: các chủ đầu tư nước ngoài thường nâng giá máy móc, thiết bị, vật tư lên cao hơn nhiều so với giá cả thị trường quốc tế để làm tăng phần góp vốn của mình (tăng giả mạo) nhằm thu lợi nhuận cao qua phần thu hồi khấu hao thiết bị máy móc và lợi nhuận phân chia theo tỷ lệ góp vốn, đồng thời lại giảm phần thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước. - Khai báo không trung thực về số lượng, trọng lượng và chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong điều kiện hoạt động thương mại quốc tế ngày nay đang phát triển mạnh mẽ, lưu lượng hàng hoá đi qua cửa khẩu ngày càng nhiều, càng phong phú, đa dạng về chủng loại, trị giá xuất nhập khẩu ngày càng cao tất yếu nảy sinh yêu cầu ngành Hải quan các nước phải có sự cải tiến mạnh mẽ, đổi mới tích cực về thủ tục hải quan theo hướng đơn giản, thống nhất và tin học hoá nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả cho thương mại quốc tế, giải phóng được hàng hoá xuất nhập khẩu nhanh, giảm tối thiểu được các chi phí phát sinh do thủ tục hải quan gây ra. Lợi dụng những điểm trên, các chủ hàng đã xuất nhập khẩu hàng hoá với số lượng, trọng lượng nhiều nhưng chỉ khai một phần, hàng tốt khai thành hàng trung bình, hàng mới khai thành hàng cũ, hàng thành phẩm khai thành nguyên liệu, linh kiện, phụ kiện để trốn thuế về cả trị giá tính thuế, cả về thuế suất. Đáng lẽ phải nhập hàng theo quy định của giấy phép có hạn ngạch, nhưng chủ hàng muốn xuất nhập khẩu ngoài số lượng, trọng lượng quy định đó nên họ khai báo gian với Hải quan về lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. - Khai báo không trung thực về xuất xứ hàng hoá. Xác định xuất xứ hàng hoá là vấn đề phức tạp và rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến hai vấn đề chính là: thuế suất xuất nhập khẩu của hàng hoá với cùng một mặt hàng nhưng xuất xứ khác nhau, thì trị giá tính thuế của mặt hàng đó được tính khác nhau. Nó cũng liên quan đến chính sách ưu đãi thuế quan giữa các nước thành viên có quan hệ giành cho nhau hưởng chế độ tối huệ quốc (MNF), các chương trình thương mại đặc biệt như hệ thống ưu đãi thuế quan chung hoặc chương trình tự do thương mại song phương… Chủ hàng thường lợi dụng chính sách này, tìm cách khai sai xuất xứ, hoặc cố ý gây khó khăn trong việc xác định xuất xứ để trốn thuế. Thủ đoạn phổ biến của loại gian lận này là người nhập khẩu yêu cầu người xuất khẩu cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá giả, có thể bằng nhiều cách chuyển tải hàng hoá sang nước thứ ba và xin giấy chứng nhận xuất xứ của nước này. Có khi chủ hàng còn cố ý để lộn hàng hoá của nước này với hàng hoá của nước kia, để rồi khi Hải quan kiểm tra thì trình hàng hoá có xuất xứ được ưu đãi. 2.2.2. Khai báo không đúng chủng loại hàng hoá. Nhằm giải phóng hàng hoá nhanh, không gây ách tắc, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại trong thủ tục kiểm tra, kiểm soát hải quan, đối với nhiều mặt hàng, Hải quan đã áp dụng phương pháp kiểm tra đại diện, kiểm tra xác suất hoặc kiểm tra mẫu hàng... mà không tiến hành kiểm tra, kiếm hoá chi tiết. Các chủ hàng có thể lợi dụng điểm sơ hở này để thực hiện hành vi gian lận thương mại là khai báo không đúng chủng loại hàng hoá cho Hải quan kiểm tra. 2.2.3. Xuất trình giấy tờ, chứng từ xuất nhập khẩu hàng hoá không đầy đủ, thiếu tính chân thực. Cụ thể là: - Giả mạo bộ hồ sơ xuất nhập khẩu để phù hợp với mốc thời gian quy định khi có thay đổi chính sách thuế, chính sách mặt hàng. - Khai báo sai hoặc giả mạo chứng từ để được hưởng chế độ miễn giảm thuế do các trường hợp bất khả kháng gây ra trong hoạt động xuất nhập khẩu và vận chuyển, bốc. xếp, dỡ hàng hoá xuất nhập khẩu. - Giả mạo hồ sơ hàng hoá thông qua hình thức điều kiện tạm nhập tái xuất chuyển khẩu, hàng gửi kho ngoại quan, hàng để đưa vào tiêu thụ trong thị trường nội địa trốn thuế nhập khẩu. - Xuất nhập khẩu ngoài danh mục: các chủ hàng lợi dụng hàng hoá được Nhà nước cho xuất nhập khẩu miễn thuế hoặc có ưu đãi riêng đối với một số hàng hoá nào đó, để che đậy xuất nhập khẩu các loại hàng hoá khác ngoài danh mục hàng Nhà nước cho xuất nhập khẩu với ưu đãi đặc biệt. - Lập bộ chứng từ hàng hoá không đầy đủ, để ngoài hoá đơn và bộ hồ sơ xuất nhập khẩu hàng những yếu tố phụ, những chi p._.hí thuộc loại phải thu thuế. Khai báo vượt quá yêu cầu những mặt hàng được sử dụng vào mục đích ưu đãi nhưng thực chất để sử dụng vào mục đích khác nhằm trốn thuế. 3. Cơ sở pháp lí đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại: 3.1. Các quy định quốc tế về chống gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan. 3.1.1 Qui định trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) Trị giá Hải quan là một trong những kẽ hở mà gian thương triệt để lợi dụng, đặc biệt là vì gian lận về trị giá vì Hải quan không thể điều tra, nghiên cứu và xác định chính xác được trị giá của tất cả hàng hoá ngay tại cửa khẩu lúc xuất nhập hàng do hạn chế về thời gian, thông tin và cả về kiến thức, trình độ chuyên môn... Trước tình hinh đó Hiệp đình GATT đã ra đời GATT được ký lần đầu vào năm 1947. Các nước thành viên của hiệp định này đã thoả thuận về " giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu theo mục đích Hải quan" và ghi nhận trong điều 7 GATT những quy tắc về trị giá Hải quan như sau: Trị giá của hàng nhập khẩu phải: - Căn cứ vào trị giá thực tế của hàng hoá - Không được dựa vào trị giá hàng hoá của nước xuất xứ hoặc trị giá áp đặt tuỳ tiện vô căn cứ. - Phải là mức giá mà ở mức giá đó, hàng hoá tương tự có thể bán trong chu kỳ kinh doanh bình thường với điều kiện cạnh tranh lành mạnh, không có sự thông đồng giữa người bán với người mua để lập chứng từ giả làm sai lệch trị giá thực của hàng hoá xuất nhập khẩu. Đến năm 1994, hiệp định này được sửa đổi thành Hiệp định thực hiện 7 GATT -1994 gồm 4 phần 24 điều. Hiệp định thực hiện điều 7 GATT -1994 đã nhận thức được sự cần thiết phải có một hệ thống định giá công bằng, thống nhất và trung lập đối với việc định giá hàng hoá cho mục đích thuế quan để ngăn ngừa việc sử dụng các trị giá Hải quan tuỳ tiện hay giả mạo trên cơ sở các tiêu chuẩn đơn gian và công bằng phù hợp với các tập quán thương mại quốc tế và các thủ tục định giá được áp dụng chung không có sự phân biệt đối xử giữa các nguồn cung cấp. 3.1.2. Qui định trong công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà hoá toàn bộ thủ tục Hải quan (Công ước KYOTO). Công ước này được làm tại KYOTO - Nhật Bản ngày 18/5/1973 và đã được chấp nhận tại kỳ họp 41/42 của Hội đồng Hợp tác Hải quan thế giới ( nay là Tổ chức Hải quan thế giới WCO). Mục đích của Công ước là đơn giản hoá và hài hoá hoá thủ tục Hải quan giữa các nước, đưa ra các chuẩn mực về thủ tục Hải quan cho từng loại hình xuất nhập khẩu nhằm vừa tạo thuận lợi cho sự phát triển của thương mại quốc tế và các giao lưu quốc tế khác, vừa chống Buôn lậu và gian lận thương mại có hiệu quả, thúc đẩy các giao lưu quốc tế vì lợi ích chung của mọi quốc gia thành viên. Điểm quan trọng nhất khi áp dụng Công ước KYOTO là phải đạt được mục tiêu đơn giản hoá, hài hoà hoá thủ tục Hải quan đạt đến tính trong sáng, dễ hiểu trong thủ tục, tránh được sự mập mờ để cho gian lận thương mại có cơ hội lợi dụng. Khi tham gia ký kết Công ước KYOTO và các phụ lục của Công ước phải tính đến hiệu quả của công tác đấu tranh chống Buôn lậu và gian lận thương mại để hoàn chỉnh các luật pháp quốc gia, loại bỏ môi trường hoạt động của Buôn lậu và gian lận thương mại nhằm vừa đảm bảo cho hiệu quả của thương mại quốc tế, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia. 3.1.3. Qui định trong công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau, điều tra, ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm Hải quan (Công ước NAIROBI) Công ước này được ký kết ngày 9/6/1977 tại Nairobi - Cộng hoà Kenia. Theo công ước NAIROBI, các vi phạm pháp luật Hải quan, trong đó có buôn lậu và gian lận thương mại đã làm tổn hại tới những lợi ích kinh tế, xã hội của các quốc gia cũng như làm tổn hại đến những quyền lợi chính đáng của thương mại. Đấu tranh chống các vi phạm pháp luật Hải quan có thể đem lại những hiệu quả tốt hơn thông qua việc hợp tác giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm điều tra, ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm Hải quan giữa các quốc gia. Chống Buôn lậu và gian lận thương mại, chống các vi phạm pháp luật Hải quan thực chất cũng là để tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của thương mại chân chính. Công ước đã đưa ra các khái niệm về buôn lậu, gian lận thương mại và một số hành vi gian lận thương mại như cố ý khai man giá cả hàng hoá, khai man xuất xứ hàng hoá, giả mạo bộ chứng từ để xuất nhập khẩu hàng, xuất nhập khẩu hàng giả, thay đổi niêm phong kẹp chì của Hải quan. Công ước cũng đưa ra một số biện pháp ngăn ngừa Buôn lậu và gian lận thương mại thông qua việc hợp tác giúp đỡ hành chính lẫn nhau giữa Hải quan các nước như: cung cấp thông tin, cung cấp hồ sơ, hoá đơn chứng từ, giá cả, xuất xứ, thuế... liên quan đến lô hàng mà một nước hữu quan yêu cầu. Tóm lại, các công ước quốc tế đã vạch ra xu hướng toàn cầu hoá- một xu hướng phát triển tất yếu của thương mại quốc tế. Để hoà nhập, hội nhập với thị trường thế giới, từng quốc gia phải tích cực cải tiến thủ tục, hoàn chỉnh luật pháp theo hướng đơn giản hoá, hài hoà hoá, tham gia ký kết các công ước liên quan để từng bước thống nhất hoá thủ tục Hải quan phục vụ cho thương mại quốc tế hoạt động hiệu quả. 3.2. Các quy định của Việt Nam đối với hoạt động chống Buôn lậu và Gian lận thương mại - Pháp lệnh Hải quan ban hành ngày 24/2/1990 - Chỉ thị số 15/CT-TW ngày 20/11/1992 của Bộ Chính trị về tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng và buôn lậu. Quyết định số 114/QĐ-TTg ngày 21/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng và buôn lậu. - Bộ luật hình sự năm 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điều 153, 154) - Chỉ thị 701/CT-TTg ngày 28/5/1995 của Thủ tường Chính phủ về đấu tranh chống buôn lậu trên biển - Nghị định 16-1996/NĐ-CP ngày 20/3/1996 quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan - Chỉ thị số 853/1997/CT-TTg ngày 11/10/1997 về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới - Nghị định 54-1998/NĐ-CP ngày 21/7/1998 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 16/CP - Bộ luật hình sự sửa đổi năm 1999 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điều 153, 154) - Luật Hải quan được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001 và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2002, thay thế cho Pháp lệnh Hải quan - Quyết định 127/QĐ-TTg ngày 27/8/2001 về việc thành lập Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại Để thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, nghị định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, các cơ quan chức năng như Tổng cục Hải quan, Bộ tài chính, Bộ thương mại, Bộ Công an, Bộ quốc phòng... đã ra nhiều thông tư, chỉ thị nhằm hướng dẫn, cụ thể hoá các luật, nghị định, chỉ thị trên. 4. Công cụ phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 4.1 Công tác kiểm tra và đăng kí tờ khai : 4.1.1.Các mẫu tờ khai được sử dụng : Chứng từ đầu tiên trong bộ hồ sơ Hải quan chính là tò khai hàng hoá XNK. Tờ khai hàng hoá XNK được qui định theo mẫu, mẫu này không cố định mà có thể thay đổi sau vài năm, theo đó loại bỏ bớt hay bổ sung các chỉ tiêu cho phù hợp với tình hình XNK và mục tiêu quản lý.Tờ khai Hải quan gồm có 3 phần : Phần dành cho người khai Hải quan kê khai và tính thuế : Đây là những thông tin chung mà doanh nghiệp phải cung cấp khi làm thủ tục XNK cho một lô hàng. Đối với hàng hoá miễn thuế xuất hoặc miễn thuế nhập khẩu thì tờ khai đơn giản hơn do giảm được phần tính thuế. Các thông tin trên được xây dựng nên để tạo cơ sở pháp lý về chủ thể XNK cũng như tránh các gian lận như khai khống về việc XNK, khai sai các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng …. nhằm gian lận thương mại của doanh nghiệp (bằng cách đối chiếu các thông tin này giữa tờ khai và các chứng từ như hợp đồng, vận dơn, phiếu đóng gói … của lô hàng ) Phần dành cho kiểm tra của Hải quan : Ghi kết quả kiểm tra hàng hoá của Hải quan ý kiến và xác nhận của đại diện doanh nghiệp Xác nhận của cán bộ kiểm hoá Xác nhận đã làm thủ tục Hải quan Phần kiểm tra tính thuế Tổng số tiền phải điều chỉnh sau khi kiểm tra Tổng số thuế và thu khác phải nộp Lệ phí Hải quan 4.1.2 Hồ sơ Hải quan : 4.1.1.1 Nội dung của Hồ sơ Hải quan : Ngoài tờ khai Hải quan, một bộ hồ sơ hải quan còn bao gồm các loại giấy tò chính sau : Hợp đồng mua bán ngoại thương : 1bản sao Vận đơn : 1bản sao Bản kê chi tiết : 2 bản chính Hoá đơn thương mại : 2 bản chính Giấy giới thiệu của doanh nghiệp : 1 bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh : 1 bản sao 4.1.1.2 Một số nội dung kiểm tra chủ yếu khi tiếp nhận bộ hồ sơ hải quan: Tính hợp pháp của chủ thể XNK Theo qui định hiện hành, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế( Gọi chung là doanh nghiệp) có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh và đã đăng kí mã số doanh nghiệp kinh doanh XNK hàng hoá phù hợp với ngành nghề đã đăng kí trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của bộ Hồ sơ Hải quan theo qui định : Trong nội dung này, công chức Hải quan phải kiểm tra xem hồ sơ đã đủ các chứng từ chưa. Nếu thiếu sẽ phải yêu cầu bổ sung hoặc hướng dẫn làm thủ tục xin nộp chậm chứng từ Kiểm tra việc kê khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai Hải quan, các chứng từ thuộc bộ hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai Hải quan với chứng từ thuộc bộ Hồ sơ Hải quan. Việc kiểm tra này nhằm đảm bảo tính pháp lý và hạn chế các gian lận của doanh nghiệp khi kê khai về hàng hoá XNK bằng cách đối chiếu các chỉ tiêu giống nhau trên các chứng từ khác nhau. Sau khi hoàn tất các công việc kiểm tra, công chức Hải quan sẽ nhập dữ liệu của tờ khai Hải quan vào máy tính và đăng kí tờ khai, chuyển hồ sơ cho lãnh đạo Cục. Tại đó, lô hàng sẽ được quyết định hình thức, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá. Ký nhận đã làm thủ tục hải quan và thông quan đối với lô hàng miễn thuế, hàng có thuế suất 0% và được miễn kiểm tra thực tế . Kết thúc hoạt động này, hồ sơ sẽ được chuyển sang bước tiếp theo trong qui trình là bộ phận làm nhiệm vụ kiểm tra thưc tế hàng hoá . 4.2 Kiểm tra, giám sát thực tế hàng hoá 4.2.1 Đối tượng kiểm tra, giám sát thực tế hàng hoá: Đối tượng kiểm tra, giám sát Hải quan rất đa dạng và có phạm vi rất rộng . Đó là hàng hoá XNK, quá cảnh, hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam của người xuất cảnh, nhập cảnh, vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hoá phẩm, bưu phẩm, các tài sản xuất khẩu, nhập khẩu quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động của Hải quan. Các hàng hoá nay sau khi được đăng ký Hồ sơ Hải quan sẽ chính thức trở thành đối tượng kiểm tra, giám sát Hải quan. 4.2.2 Các hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá XNK: 4.2.2.1 Các căn cứ quyết định mức kiểm tra thực tế : Mức kiểm tra thực tế hàng hoá do lãnh đạo Cục quyết định dựa trên những cơ sở sau: Quá trình tuân thủ pháp luật của chủ hàng hoá đối với mặt hàng XNK Chính sách quản lý hàng hoá XNK Tính chất, chủng loại, nguồn gốc hàng hoá XNK Bộ Hồ sơ Hải quan Các thông tin khác có liên quan đến hàng hoá XNK Trong các yếu tố trên thì căn cứ quan trọng nhất là quá trình chấp hành pháp luật Hải quan của chủ hàng. Khi quyết định hình thức kiểm tra cụ thể trước hết phải xem căn cứ này, sau đó mới đến các tiêu thức khác. 4.2.2.2. Các hình thức kiểm tra : Miễn kiểm tra thực tế hàng hoá : Hình thức này áp dụng cho các chủ hàng có quá trình chấp hành tốt pháp luật Hải quan, đối với các trường hợp XNK thường xuyên, hàng nông sản, hàng sản xuất xuất khẩu, hàng XNK của khu chế xuất, hàng gửi kho ngoại quan, hàng đưa vào danh mục được chính phủ qui định. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện bất kì dấu hiệu vi phạm nào thì sẽ bị kiểm tra toàn bộ lô hàng. Kiểm tra xác suất thực tế hàng hoá: Đối với hàng xuất khẩu : Tỷ lệ kiểm tra là 3% hoặc 5% lô hàng Đối với hàng nhập khẩu: Tỷ lệ kiểm tra là 5% hoậc 10% lô hàng Thông thường hàng kiểm tra xác suât là nguyên vật liệu, vật tư nhập để gia công xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, hàng cùng chủng loại, hàng đóng gói thuần nhất. Nếu trong quá trình kiểm tra mà phát hiện ra vi phạm thì lô hàng sẽ bị kiểm tra toàn bộ. Kiểm tra thực tế toàn bộ lô hàng XNK Mức kiểm tra này được áp dụng cho các trường hợp sau: Những chủ hàng đã bị xử lý vi phạm hành chính về Hải quan từ 3 lần trở lên với mức phạt vượt thẩm quyền xử phạt của chi cục trưởng Hải quan trong thời hạn 2 năm đối với hoạt động nhập khẩu và 1 năm đối với hoạt động xuất khâu, hoặc bị xử lý vi phạm hành chính 1 lần với mức phạt vượt thẩm quyền của Cục trưỏng cục Hải quan Tỉnh, Thành phố Phát hiện ra dấu hiệu vi phạm pháp luật Hải quan Kiểm tra toàn bộ lô hàng sẽ mất thời gian và tốn nhiều chi phí cho chủ hàng và có thể làm cho chủ hàng mất đi cơ hôi kinh doanh nhưng sẽ có tác dụng phát hiên ra những thủ đoạn gian lận của những gian thương và cho việc tuân thủ pháp luật Hải quan sau này của chủ hàng. Kết quả kiểm hoá là một tài liệu quan trọng duy nhất phản ánh đúng đắn tên hàng, ký mã hiệu hàng hoá, số lượng, chất lượng, chủng loại và xuất xứ hàng hoá. Do vậy công tác kiểm tra thực tế hàng hoá là một công cụ quan trọng trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. 4.3 Xác định trị giá Hải quan Trị giá Hải quan là một trong những kẽ hở mà gian thương triệt để lợi dụng, đặc biệt là vì gian lận về trị giá vì Hải quan không thể điều tra, nghiên cứu và xác định chính xác được trị giá của tất cả hàng hoá ngay tại cửa khẩu lúc xuất nhập hàng do hạn chế về thời gian, thông tin và cả về kiến thức, trình độ chuyên môn.Do vậy, xác định đúng trị giá Hải quan là một công cụ quan trọng để ngăn chặn hành vi buôn lậu và gian lận thương mại. Trị giá tính thuế Hải quan (hay còn gọi tắt là trị giá Hải quan) là trị giá được xác định nhằm mục đích áp dụng việc đánh thuế hàng hoá XNK theo giá. Nó chính là cơ sở để cơ quan Hải quan tính thuế và thu thuế một cách chính xác. Điều 7 của Luật thuế XNK nêu rõ cơ sở định giá tính thuế : Đối với hàng XK : là giá bán tại cửa khẩu xuất theo hợp đông ( giá FOB) Đối với hàng NK : là giá bán tại cửa khẩu nhập theo hợp đồng ( giá CIF ) Trong trường hợp hàng XK, NK theo phương thức khác hoăc giá ghi theo hợp đông quá thấp so vơi giá mua thực tế tại cửa khẩu thì giá tính thuế là giá do Chính Phủ qui định gọi là mức giá tối thiểu. Mức giá tối thiểu được xây dựng trên cơ sở : Giá đã được chấp thuận theo hợp đồng hợp lệ thời gian trước đó Giá được tổng hợp, phân tích từ các thông tin quảng cáo, cataloge, chào hàng, và các thông tin về giá quốc tế . Giá được lựa chọn từ thị trường trong nước, sau khi đã khấu trừ các loại thuế Hải quạn, chi phí và lãi 4.4. Kiểm tra sau thông quan : 4.4.1 Khái niệm kiểm tra sau thông quan : Kiểm tra sau thông quan là một quá trình tạo điều kiện cho các cán bộ Hải quan có thể xác minh tính chính xác của mọi sự khai báo thông qua việc kiểm tra sổ sách hồ sơ, các hệ thống kinh doanh và tất cả các dữ liệu thương mại về Hải quan có liên quan do các cá nhân hoặc công ty trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào lĩnh vực thương mại quốc tế nắm giữ. Từ định nghĩa trên ta nhận thấy, kiểm tra sau giải phóng hàng là một trong nhưng giải pháp hữu hiệu nhất trong việc ngăn chặn và phát hiện gian lân thương mại, đặc biệt là gian lận qua giá. Một chương trình kiểm tra sau giải phóng hàng có hiệu quả có thể được ứng dụng vào bất cứ hệ thống định giá nào. Tuy nhiên, vơi việc áp dụng hệ thống trị giá GATT, thì trong phần lớn các trường hợp, Hải quan phải chấp nhận trị giá của hàng hoá do nhà nhập khẩu khai báo. Điều này đặt ra yêu cầu phải thiết lập một hệ thống kiểm tra sau thông quan hiệu quả nhằm xác minh trị giá, phát hiện và ngăn chặn gian lận thương mại theo hệ thống trị giá GATT. Ngoài ra, với khối lượng giao dịch ngày càng lớn cũng như yêu cầu phải tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, kiểm tra sau thông quan sẽ tạo ra cho Hải quan một công cụ nhằm tăng cường sự kiểm soát chặt chẽ hơn . 4.4.2. Vai trò của kiểm tra sau thông quan : Đối với việc áp dụng hệ thống kiểm tra sau thông quan với vai trò mở rộng kiểm soát đối với hàng hoá, thì kiểm tra sau thông quan sẽ mang lại rất nhiều lợi ích .Công tác này là một công cụ hữu hiệu, tạo ra một bức tranh tổng thể và rõ ràng hơn về các giao dịch XNK như đã được nêu trong sổ sách hồ sơ của các thương gia quốc tế. Việc kiểm tra sau thông quan sẽ giúp cho Hải quan có thể : Chống gian lận thương mại một cách có hiệu quả hơn Đảm bảo sự tuân thủ luật pháp, quy định, hiệp định về hải quan cao hơn . Tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá Đảm bảo nguồn thu Xác định thêm các lĩnh vực để triển khai các lực lượng kiểm tra Tạo ra sự kiểm soát chặt chẽ hơn trong các lĩnh vực như: cấp giấy phép, hạn ngạch, bán phá giá … 4.4.3 Quá trình kiểm tra sau thông quan : Kiểm tra sau giải phóng hàng đặc biệt chú ý đến đạo đức nghề nghiệp trong quá trình kiểm tra sổ sách và hồ sơ của nhà XNK. Trong quá trình kiểm tra thì việc giao tiếp cởi mở và phối hợp thông qua đối thoại thường xuyên với đối tượng kiểm tra và với các Cục Hải quan khác có vai trò rất quan trọng. Sau quá trình kiểm tra cần có báo cáo để đảm bảo những điều được phát hiện và các vấn đề khác liên quan đến kiểm tra là hoàn toàn được chia xẻ và thảo luận. 5. Các lực lượng tham gia thực hiện phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại trên lãnh thổ Việt Nam : Như chúng ta đã biết hiện nay tình hình buôn lậu và gian lận thương mại đang ngày càng phát triển với tốc độ cao, mạng lưới ngày càng rộng , tính chất ngày càng nghiêm trọng với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng không chỉ thực hiện hành vi vi phạm một cách riêng lẻ mà được tổ chức thành những đường dây lớn được trang bị phương tiện hiên đại . Chính vì vậy, công tác phòng chống buôn lậu không thể là nhiệm vụ của riêng ngành nào, cấp nào mà phải là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân, phải có sự phối hợp hành động của các ngành, các cấp 5.1.Lực lượng Hải quan: Thực hiện chỉ thị 853/1997/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chống buôn lậu và gian lận thương mại, ngay sau khi chỉ thị có hiệu lực, Tổng cục Hải quan đã ban hành nhiều văn bản nhằm chấn chỉnh, ngăn chặn các hiện tượng vi phạm quy trình, thủ tục Hải quan dẫn đến hậu quả nghiêm trọng trong việc làm thủ tục hải quan, ngoài địa điểm cưả khẩu cho các lô hàng nhập khẩu chuyển tiếp, quy định hướng dẫn thêm một số điểm về đối tượng phải dán tem và không dán tem, trách nhiệm và thủ tục dán tem hàng nhập khẩu… tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp giải phóng hàng nhanh, tránh ách tắc phiền hà. 5.2. Lực lượng của Bộ nội vụ: Tổng cục phối hợp với Bộ Nội vụ thành lập 6 đoàn công tác đặc biệt tăng cường đến các địa bàn trọng điểm ở thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bình Định, Bà Rịa - Vũng Tàu đĩ triển khai kế hoạch hành động, lập 3 đoàn kiểm tra đến các cục Hải quan Đồng Tháp, Long An và An Giang nắm tình hình buôn lậu xe máy, thuốc lá ngoại qua biên giới. 5.3. Lực lượng Công an: Cục điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan đã phối hợp với lực lượng cảnh sát kinh tế Bộ Công an, phối hợp với các địa phương, tổ chức nắm tình hình, lên các phương án đánh vào các ổ nhóm, đường dây buôn lậu, tiến tới đánh sâu vào nội địa trên các địa bàn nóng bỏng như Long An, Quảng Ninh, Lạng Sơn.. Các lực lượng 853 của Chính phủ cũng tích cực kiểm soát chặt chẽ 10 mặt hàng đã dán tem trong nội địa. Trên tuyến biển, Hải quan đã phối hợp với bộ đội Biên phòng nhằm đánh mạnh vào vùng biển Đông Bắc và nội thuỷ miền Trung làm hạn chế tối đa các tàu vận chuyển hàng lậu từ nước ngoài về. Trên tuyến hàng không, Hải quan đã tổ chức nắm tình hình và đánh vào các đường dây vận chuyển vàng, đô la mang đi thanh toán hàng lậu ở nước ngoài. 5.4.Lưc lượng quân đội: Bộ Quốc phòng đã có biện pháp tích cực nhằm củng cố và kiện toàn bộ máy chỉ đạo công tác chống buôn lậu ở Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng và các đơn vị cơ sở. Đã phát hiện 274 vụ buôn lậu, thu giữ 19.938 cây thuốc lá ngoại, 7.120 ống thuốc tân dược gây nghiện, 294.6kg thuốc nổ, 6,5kg thuốc phiện, 59 triệu đồng tiền Việt Nam giả, 1.038 ti vi, 69 đầu video và nhiều hàng hoá khác. 5.5.Lực lượng quản lí thị trường: Bộ Thương mại đã ban hành văn bản 4659/TM/QLTT hướng dẫn thực hiện thông tư liên tịch 07, yêu cầu các đơn vị trong ngành từ trung ương đến địa phương mở đợt tổng kiểm tra đến hết quý 1/1998 để chống buôn lậu, gian lận thương mại, và buôn lậu có tổ chức. Bộ đã cử đoàn cán bộ cục Quản lý thị trường phối hợp với các bộ, ngành chức năng tổ chức kiểm tra, khảo sát việc thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng tại các địa phương, địa bàn trọng điểm. Phối hợp với các ngành Công an, Thuế vụ, Hải quan, triển khai kế hoạch kiểm tra hàng nhập lậu lưu thông trên thị trường. 5.6. Lực lượng thuế: Bộ Tài chính đã ban hành nhiều thông tư văn bản hướng dẫn về chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường, trong đó quy định rõ: hàng nhập khẩu không đủ hoá đơn, chứng từ như quy định sẽ bị coi như hàng nhập lậu và bị tịch thu. Ban hành quy định in ấn, quản lý, sư dụng tem hàng nhập khẩu, hướng dẫn giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện dán tem. Đồng thời đề ra nhiều biện pháp nhằm làm lành mạnh hoá thị trường, góp phần lập lại kỷ cương trong hoạt động kinh doanh. Kết thúc đợt dán tem, cả nước có 25.085 đối tượng kinh doanh kê khai 3 mặt hàng dán tem; đã dán tem được 2.022.157 chai rượu, 64.144 chiếc xe đạp và 125.322 chiếc quạt điện. Theo dự kiến, đầu tháng 4/1998, kế hoạch dán tem 7 mặt hàng nhập khẩu là: ti vi, đầu video, máy điều hoà các loại, tủ lạnh, lavabo rưả mặt, hố xí bệt, bồn tắm, sẽ được triển khai thực hiện. Tóm lại, đấu tranh chống buôn lậu có ý nghĩa rất quan trọng để ổn định và phát triển, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của nước ta. Vì buôn lậu đã gây ra những nguy cơ nghiêm trọng và có tác hại lâu dài nên việc tuyên truyền, nhận thức, phát hiện chống buôn lậu trong các ngành chức năng và trong nhân dân là hết sức cần thiết. Để chống buôn lậu đạt hiệu quả tối ưu, phải hội tụ được lực lượng của quốc gia với quốc tế, phải có giải pháp toàn dân – toàn diện tổng lực, phải được tiến hành thống nhất triệt để như một cuộc cách mạng lâu dài, bền bỉ và khoa học. Đặc biệt, ngành hải quan phải được tăng cường về pháp lý, lực lượng, trang bị các phương tiện hiện đại, bất kỳ tình huống nào cũng chủ động tổ chức, triển khai tốt công tác chống buôn lậu. Mục đích chung là nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, hỗ trợ sản xuất – kinh doanh trong nước, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước giàu mạnh, phồn thịnh, sánh vai các nước tiên tiến trên thế giới. 6. Những nhân tố ảnh hưởng : 6.1 Nhân tố kinh tế - Buôn lậu trước hết là sản phẩm tự nhiên của quy luật cung cầu: Nói đúng hơn là tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Đây cũng là nội dung triết lý sản phẩm của kinh tế thị trường thường được sử dụng trong hai bối cảnh: hoặc là tình trạng cầu sản phẩm phát triển hoặc do những khó khăn về kinh tế mà các bên sản xuất phải tăng doanh thu, hạ giá bán, sử dụng hiệu quả chi phí cố định để bù đắp sự thiết hụt về tỷ suất lợi nhuận trên sản phẩm. Các nước Trung Quốc, Thái Lan cũng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước châu Âu và Mỹ là những nước có nền kinh tế phát triển, đi trước chúng ta từ nửa đến hàng thế kỷ trong việc phát triển thị trường. Sản phẩm hàng hoá của các nước này có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hơn nữa hầu hết công nghệ của họ đã qua thời khấu hao nên giá thành rẻ. Mặt khác, các nước ASEAN, các nước Đông Nam á đã trải qua những năm khủng hoảng tài chính, kinh tế trầm trọng đang dần được phục hồi sẽ có xu hướng gia tăng sản xuất, hạ giá thành và giá bán sản phẩm, khuyến khích xuất khẩu dưới mọi hình thức nên tạo ra một áp lực lớn về cung ngoài nước và cầu trong nước. Đây là một trong những nhân tố làm gia tăng tình hình buôn lậu ở nước ta. Một nhân tố rất quan trọng là vấn đề lợi nhuận: Do có sự ham mê lợi ích trước mắt, lợi ích kinh tế của bản thân mà các chủ thể hoạt động có khi bất chấp tất cả. Nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, vì lợi ích của bản thân mình mà các chủ thể hoạt động dễ lao vào "cuộc chiến tranh của tất cả mọi người chống mọi người, cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả" . Hay ở mức độ cực đoan hơn, chúng ta có thể liên tưởng đến một nhận xét hết sức sắc sảo của Các-Mác trong cuốn "Tư bản" khi ông nói về lợi nhuận và tư bản: "Lợi nhuận mà thích đáng thì tư bản trở nên cam đảm: lợi nhuận mà đảm bảo được 10%, thì người ta có thể dùng được tư bản ở khắp nơi, bảo đảm được 20% thì nó hăng máu lên, đảm bảo được 50% thì nó táo bạo không biết sợ là gì; đảm bảo 100% thì nó chà đạp lên tất cả mọi luật lệ của loài người; đảm bảo được 300% thì nó chẳng từ một tội ác nào mà không dám, thậm chí có thể bị treo cổ nó cũng không sợ" - Lợi nhuận lớn đem lại từ buôn lậu: ở nước ta hơn một thập kỷ qua, lãi suất buôn lậu rất cao do hàng hoá các nước trong khu vực rẻ hơn và thuế suất nhập khẩu cũng rất cao, có những mặt hàng thuế suất từ 50% đến 200%. Nhìn chung, tỷ suất lợi nhuận đó còn đang ở mức đủ cho buôn lậu diễn ra sôi động. Mặt khác, lợi nhuận của hoạt động buôn lậu qua biên giới trong thời gian gần đây được hỗ trợ tích cực bằng nhiều biện pháp khuyến mãi, hậu thuẫn của bọn trùm đầu nậu ở nước ngoài. Lợi nhuận cao và được hỗ trợ tích cực, rủi ro được chia sẻ đến mức thấp nhất, đó chính là những điều kiện rất quan trọng tạo cho hoạt động buôn lậu tiếp tục phát triển. Nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn: Qua hơn 10 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tích hết sức quan trọng. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, cơ chế thị trường được vận hành và quản lý tốt, tạo môi trường cạnh tranh rộng rãi, kích thích giao lưu và hợp tác, mở rộng phân phối để nền kinh tế hàng hoá tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, công nghệ ở nước ta còn đang lạc hậu là một nguyên nhân cơ bản làm cho hàng hoá của ta chất lượng chưa tốt, giá thành cao, mẫu mã đơn điệu, tính cạnh tranh thấp. 6.2. Những nhân tố văn hoá - xã hội : Vấn đề lao động và việc làm: Một trong những nguyên nhân xã hội quan trọng nhất là vấn đề lao động và việc làm. Dân số lớn trong khi tỷ lệ thất nghiệp còn cao, thực trạng thiếu việc làm và đòi hỏi bức bách kiếm kế sinh nhai đã dẫn một bộ phận lớn lao động vào con đường buôn lậu. Vì cuộc sống người dân vùng biên giới còn nhiều vất vả nên bọn buôn lậu dễ dàng lôi kéo cả những tầng lớp người già và trẻ em còn đang ở tuổi cắp sách tới trường. - Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn: Chính sự phân hóa giàu nghèo này làm góp phần nảy sinh một bộ phận nuôi ý chí làm giàu bằng mọi giá, thông qua những phương pháp nhanh nhất, táo bạo, liều lĩnh nhất. Một trong những phương pháp ấy là kinh doanh trái pháp luật, gian lận thương mại và buôn lậu. Những món lợi kếch xù do buôn lậu mà có được, ảo tưởng đổi đời, làm giàu nhanh chóng đã xô đẩy những đối tượng này vào con đường buôn lậu. - Công tác tuyên truyền còn yếu kém, trình độ dân trí thấp: Một trong những hạn chế lớn là tâm lý xã hội về buôn lậu nói chung chưa được định hướng đúng, nhân dân đại bộ phận chưa được tuyên truyền giáo dục để thấy rõ tác hại của buôn lậu. Trình độ dân trí của nhân dân các vùng ven biên giới, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay còn thấp, nhận thức và ý thức pháp luật rất hạn chế. Trong nhiều trường hợp người dân không biết bản chất của buôn lậu là nguy hại, là hành vi vi phạm pháp luật. 6.3 Những nhân tố từ hệ thống hành pháp và lập pháp : Trong những năm 1990, nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh cùng các văn bản pháp quy đã kịp thời được ban hành sửa đổi, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp lý, đưa ra những cơ sở pháp luật cho nhiều lĩnh vực hoạt động đa dạng của thời đổi mới. Mặc dù vậy nhưng tổng quan mà nói, hệ thống pháp luật của ta hiện nay chưa đồng bộ, nhiều văn bản luật, dưới luật còn nhiều sơ hở, thiếu sót. - Chính quyền một số địa phương còn nơi lỏng công tác chống buôn lậu: Một số địa phương có khuynh hướng “chung sống với buôn lậu”, không quyết tâm cao vì còn lo những hậu quả về ngân sách mà địa phương phải gánh chịu, hay như cho hàng lậu vào nội địa để thu thuế hoặc tổ chức bắt một số, số khác bỏ lọt, không triệt để đấu tranh bóp chết buôn lậu mà xem đó như là một nguồn thu bổ sung cho ngân sách địa phương. - Phối hợp không đồng bộ giữa các cơ quan chức năng: Hiện nay, có nhiều cơ quan chức năng tham gia chống buôn lậu nhưng sự phối hợp đấu tranh còn kém hiệu quả, có nơi lơi lỏng, có nơi mạnh ai nấy làm, lúc nặng lúc nhẹ, có lúc chồng chéo, giẫm đạp nhau, quan điểm đấu tranh và xử lý thiếu thống nhất làm cho nhân dân hồ nghi về tính nhất quán của luật pháp. Lực lượng chống buôn lậu còn yếu: Nhìn chung lực lượng vẫn còn mỏng, phương tiện thiếu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế nhất là trong bối cảnh buôn lậu diễn ra rầm rộ trên khắp các tuyến biên giới và nội địa với số lượng đông, thủ đoạn tinh vi, âm mưu xảo quyệt, cách thức táo bạo liều lĩnh, việc tổ chức bảo kê, đánh tháo hàng, chống người thi hành công vụ diễn ra thường xuyên. Công tác chống buôn lậu ở nước ta được thực hiện chưa toàn diện, tập trung chủ yếu ở các tuyến biên giới, trong khi lơi lỏng thị trường nội địa nơi hàng lậu có thể bày bán công khai; vẫn chừa chốn nương thân cho hàng lậu thì không thể đánh chết buôn lậu. 6.4. Các nhân tố khác: Ngoài những nguyên nhân đã nêu ở trên, các nhân tố văn hoá và chính trị cũng là những nhân tố đặc biệt quan trọng khiến cho hoạt động buôn lậu còn có đất phát triển. Chương II Thực trạng các hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội 1.Giới thiệu về Cục Hải quan thành phố Hà Nội : 1.1.Nhiệm vụ, quyền hạn của cục Hải quan Hà Nội : Căn cứ Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính Phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định : Cục Hải quan Hà Nội là đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan, chức năng tổ chức thực hịên pháp luật nhà nước về Hải quan và các qui định khác của pháp luật có liên quan trên địa bàn hoạt động của Cục. Cục Hải quan thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Hải quan, các quy định khác của Pháp luật có liên quan và những nhiệm vụ quyền hạn cụ thể sau đây : Tổ chức, chỉ đạo, hướng._.ận thương mại. - Phòng Giám sát quản lý, Hải quan cửa khẩu và các điểm thông quan hàng ngày phải chuyển các thông tin về hàng hóa, hành lý, bưu phẩm bưu kiện XNK và danh sách hành khách XNC, lịch trình các chuyến bay bằng FAX về Phòng điều tra chống buôn lậu để tổng hợp xử lý tin. - Khi cần thiết về yêu cầu nghiệp vụ điều tra hoặc chuyên án đấu tranh lực lượng điều tra chống buôn lậu được sử dụng cán bộ nhân viên trực tiếp tại cửa khẩu và các điểm thông quan (kể cả phương tiện kỹ thuật kiểm tra) để điều tra phát hiện chống buôn lậu. 1.2.2.2. Biện pháp bí mật - Từ việc tổng hợp tình hình chung, đặc biệt là quá trình theo dõi của trinh sát, Phòng điều tra chống buôn lậu tiến hành phân tích xử lý xác định đối tượng trọng điểm cần tiến hành các biện pháp nghiệp vụ điều tra cần thiết như : thu thập thêm thông tin, nghiên cứu hồ sơ ban đầu, sử dụng cơ sở bí mật và báo cáo đề xuất Lãnh đạo Cục về các biện pháp để kiểm tra, lập biên bản vi phạm và tạm giữ tang vật. - Trong toàn bộ các khâu hoạt động nghiệp vụ từ theo dõi đối tượng, thu thập thông tin, xây dựng mạng lới cơ sở, nắm chắc phương thức thủ đoạn của các đối tượng trọng điểm phải được tiến hành theo nguyên tắc bí mật, khi đã phát hiện có hoạt động tàng trữ, buôn bán vận chuyển ma tuý, buôn bán hàng cấm, buôn lậu, gian lận thương mại thì tiến hành xác lập những chuyên án và tổ chức đấu tranh phá án kịp thời. - Phòng điều tra chống buôn lậu bố trí lực lượng để phối hợp và tiếp nhận các vụ việc do các phòng nghiệp vụ và các đơn vị Hải quan chuyển đến để thực hiện công tác điều tra xác minh, kết luận và đề xuất giải quyết. - Nghiên cứu chuyển một số khâu công tác không liên quan đến việc làm thủ tục Hải quan nhưng lại có nhiều điều kiện phát hiện ra hàng lậu và đối tượng buôn lậu như: giám sát sân đỗ, giám sát kho, giám sát bằng camera và máy kiểm tra Hải quan thuộc Hải quan cửa khẩu sân bay Nội Bài về Phòng điều tra chống buôn lậu hoặc có cán bộ điều tra chống buôn lậu cùng tiến hành giám sát. Nếu thấy cần thiết thì đề nghị thành lập trở lại Đội kiểm soát chống buôn lậu tại Hải quan cửa khẩu sân bay Nội bài thuộc Phòng điều tra chống buôn lậu để chuyên trách làm các nhiệm vụ về chống buôn lậu tại cửa khẩu quốc tế quan trọng vào loại bậc nhất này. Hiện nay để tồn tại tình trạng quá sơ hở kéo dài việc thỉnh thoảng bắt được một vụ xuất nhập lậu qua đây, thực chất là chưa phản ánh hết sự đánh giá khách quan về các mặt hoạt động buôn lậu qua cửa khẩu này. - Phối hợp với các lực lượng chống buôn lậu để thu thập thông tin, nắm tình hình, quản lý, theo dõi đối tượng và phục vụ cho công tác đấu tranh phá án. Phối kết hợp với Cục điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan để nắm tình hình hoạt động của các đối tượng buôn lậu trên toàn quốc và các nước trong khu vực, đồng thời hỗ trợ, tác động trong quá trình theo dõi quản lý đối tượng và điều tra khám phá. 2. Kiến nghị với nhà nước một số giải pháp nhằm tăng cương công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 2.1. Nhà nước cần phải hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống luật pháp. 1.Để chống buôn lậu và gian lận thương mại cần phải có những điều luật cụ thể chính sách nghiêm minh cho từng hành vi gian lận, bịt kín các kẽ hở của cơ chế chính sách, thu hẹp môi trường, tước bỏ các điều kiện mà gian lận có thể khai thác lợi dụng để làm ăn bất chính. Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay còn thiếu và không đầy đủ rõ ràng nên trong thực hiện thiếu cơ sở pháp lý dễ dàng dẫn đến tuỳ tiện không thống nhất. Nhiều chế định, quy định được ban hành đã lâu nay không còn phù hợp, vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Các văn bản pháp luật liên quan đến công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành cũng chưa cụ thể hoá được những quy định của luật một cách thống nhất. Nên trong các văn bản còn mâu thuẫn, gây khó khăn cho những người thừa hành. Luật pháp không đồng bộ hoàn chỉnh sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, chủ quan trong kiểm tra, giám sát và xử lý. Vì vậy, Nhà nước cần phải nghiên cứu xây dựng ban hành pháp luật mới và cả điều chỉnh sửa đổi bổ sung những văn bản pháp luật cũ không phù hợp. Hoàn thiện chính sách vĩ mô như chính sách thuế, quản lý xuất nhập khẩu, ban hành các nghị định và các thông tư, văn bản pháp luật hướng dẫn Luật Hải quan. Nên tập trung nghiên cứu, xây dựng một chính sách thuế căn cứ vào loại mặt hàng chứ không phải căn cứ vào mục đích sử dụng, mức thuế suất không quá cao, khuyến khích được nhà sản xuất kinh doanh tự giác nộp thuế cho Nhà nước. 2. Khi ban hành chính sách mới, Nhà nước và các cơ quan chức năng phải có những văn bản hướng dẫn rõ ràng cụ thể để việc thực hiện mang lại kết quả tốt. 3. Trong những biện pháp chống buôn lậu và gian lận thương mại, Nhà nước cần làm rõ trách nhiệm của từng ngành, từng cấp, quy định rõ trách nhiệm về vật chất của các tổ chức giám định, hạn chế tối đa sự trùng lặp trong xử lý vụ việc, nâng cao tinh thần của các Bộ, Ngành làm công tác chống buôn lậu. Quy định rõ ràng trách nhiệm chính sách để dễ dàng thi hành nhiệm vụ nhưng đồng thời trong công tác phòng chống cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động mang lại kết quả cao nhất. ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố cần trực tiếp chỉ đạo các ngành có liên quan trong địa phương mình phối hợp trong công tác phòng, chống. Theo tinh thần của Chỉ thị 853/1997/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì hiện nay Tổng Cục Hải Quan chủ chì với sự tham gia của Bộ Nội Vụ, Bộ thương mại, Bộ tài chính tiến hành tổng kiểm tra đồng loạt hàng hoá đang làm thủ tục xuất, nhập khẩu tại các cảng biển, cửa khẩu, phát hiện hàng nhập lậu, hàng gian lận thương mại để trốn thuế. Bộ thương mại chủ trì có sự tham gia của Bộ Nội Vụ, Bộ tài chính tổng kiểm tra hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân có cửa hàng buôn bán hàng hoá vật tư nhập khẩu nhằm làm lành mạnh thị trường nội địa, đồng thời chính sách biện pháp buộc các doanh nghiệp chỉ kinh doanh những mặt hàng đã đăng ký kinh doanh. Các Bộ, Ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành tổng kiểm tra các doanh nghiệp xuất khâủ trực thuộc về hoạt động kinh doanh, chế độ thu chi tài chính, hạch toán kế toán. 2.2. Gắn việc chống buôn lậu và gian lận thương mại với công cuộc cải cách hành chính: Đây là một yêu cầu đặt ra cho các cơ quan quản lý Nhà nước. Chống buôn lậu và gian lận thương mại phải gắn với việc thực hiện Nghị quyết 38/CP của Chính phủ về cải cách nền hành chính Nhà nước. Đối với Hải Quan cần nghiên cứu để xây dựng các giải pháp tối ưu nhằm mục tiêu bảo đảm sự quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu được chặt chẽ, chống được buôn lậu, gian lận thương mại có hiệu quả, thu đúng, thu đủ thuế xuất nhập khẩu đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước, nhưng vẫn tạo được thuận lợi cho thương mại chân chính hoạt động phát triển, khuyến khích được xuất nhập khẩu, bảo hộ được sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất và tiêu dùng, hội nhập với thương mại khu vực thế giới. Trên cơ sở cải cách hành chính sâu rộng, giảm các thủ tục rườm rà, gây phiền hà, ách tắc cho hoạt động xuất nhập cảnh. Tiếp tục đổi mới các quy trình nghiệp vụ, rà soát các văn bản, các quy định và hệ thống lại theo hướng đơn giản, hài hoà và thống nhất dễ hiểu, dễ thực hiện. Kiên quyết loại bỏ các quy định không rõ ràng không có tính khả thi, gây ách tắc, phiền hà, tiêu cực, để gian lận thương mại và các phần tử tiêu cực, cơ hội có thể luồn lách lợi dụng. 2.3 Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước: Trao đổi thông tin với Hải quan các nước trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của các nước phát triển trong việc đào tạo cho cán bộ Hải Quan Việt Nam về các kỹ thuật và phương pháp đấu tranh chống gian lận thương mại tiến tiến. 2.4 Nhà nước cần có chính sách để đẩy mạnh sản xuất trong nước: Phải tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường, đó cũng là giải pháp góp phần ngăn chặn hàng lậu. Muốn vậy đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách phù hợp với cơ chế kinh tế mới nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, tạo thông thoáng cho hoạt động kinh doanh, lành mạnh thị trường nội địa. 2.5.Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế vùng biên, làm cho nhân dân vùng biên trở thành lực lượng tham gia tích cực vào việc chống buôn lậu: Tình trạng hiện nay là bọn buôn lậu đang sử dụng một bộ phận khá đông nhân dân địa phương vùng biên vào việc vận chuyển hàng lậu qua biên giới. Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế vùng biên, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân. Cán bộ, các ngành ở trung ương có trách nhiệm cùng với các địa phương, nhất là địa phương vùng biên giới thực hiện tốt chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân bằng các chương trình xóa đói giảm nghèo, các dự án kinh tế, văn hoá xã hội... đảm bảo cho nhân dân có đời sống ổn định không để bọn buôn lậu lợi dụng lôi kéo họ vào con đường làm thuê "cửu vạn" cho chúng. 2.6. Nhà nước cần tuyên truyền giáo dục, nâng cao giác ngộ cán bộ và nhân dân về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại: Nhà nước cần phải tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân thấy được tác hại to lớn của buôn lậu và gian lận thương mại đối với kinh tế -xã hội. Tuyên truyền giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. Đây cũng là một biện pháp góp phần mang lại hiệu quả trong công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. Nâng cao giác ngộ và đấu tranh chống lại buôn lậu và gian lận thương mại cho cán bộ và nhân dân là một việc làm cần thiết và cấp bách vì nó có vai trò trực tiếp trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu, về hoạt động hải quan qua việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh chống gian lận thương mại. Trong những năm gần đây Nhà nước ta đã từng bước đổi mới hệ thống pháp luật với tư duy pháp lý mới. Cơ sở pháp lý mới của quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đã bắt đầu hình thành. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao giác ngộ pháp luật nhằm hình thành một cơ chế kiểm tra việc tuân theo những cơ sở pháp lý mới này. Căn cứ vào đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đăc điểm công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta thời gian qua và trạng thái ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân lao động nước ta. Công tác giác ngộ về luật thương mại, pháp luật hải quan, về các quy định liên quan đến chống buôn lậu và gian lận thương mại trong điều kiện hiện nay, cần tiến hành khắc phục tình trạng kém hiểu biết pháp luật liên quan đến hoạt động buôn bán xuất nhập khẩu, hải quan. Giáo dục tình cảm tôn trọng pháp luật, từng bước mở rộng tri thức pháp luật nâng cho cán bộ và nhân dân. Để trang bị tri thức pháp luật nâng cao giác ngộ cho cán bộ và nhân dân cần phải sử dụng tổng hợp nhiều hình thức và phương pháp khác nhau nhằm lôi cuốn nhân dân tham gia tích cực vào xây dựng, bảo vệ và áp dụng luật pháp. Thông qua việc tham gia tích cực, trực tiếp của cán bộ và nhân dân như thảo luận, góp ý của quần chúng nhân dân sẽ giúp nâng cao tính tích cực công dân trong công việc Nhà nước mà cụ thể ở đây là việc chống buôn lậu và gian lận thương mại. 2.7.Nâng cao giác ngộ pháp luật cho cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nước: Đây là một nhu cầu cấp bách vì trong giải quyết các vụ việc cụ thể, phần lớn phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của người được giao quyền thay mặt cơ quan quản lý giải quyết. Hơn nữa phải giác ngộ lòng tin pháp luật cán bộ trong quá trình áp dụng pháp luật đó là tình cảm công bằng trách nhiệm, tình cảm pháp chế, không khoan nhượng với những vi phạm pháp luật và tội phạm, hình thành thói quen xử sự tích cực theo các quy định của pháp luật, không bị ngoại cảnh chi phối. Ngoài ra giáo dục cho cán bộ của các cơ quan quản lý tìm ra nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật của các nhà xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh với từng trường hợp cụ thể nhằm bịt kín những kẽ hở pháp luậ. Trong quá trình ấy phải làm cho mọi người thấy được hậu quả nghiêm trọng của buôn lậu và gian lận thương mại đối với kinh tế, xã hội và đạo đức văn hoá, đối với đất nước cũng như đối với quyền lợi chính đáng của mọi người dân lao động. 2.8 Phải xử lý nghiêm minh và thích đáng những kẻ buôn lậu và gian lận thương mại: Đây là biện pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh, đảm bảo quyền mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Khi phát hiện cá hành vi buôn lậu và gian lận thương mại thì nhất định phải áp dụng những hình phạt thích đáng. Vì bản thân các hình phạt đúng cũng có tác dụng phòng ngừa hành vi vi phạm của những người khác. Trong thời gian qua, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc đấu tranh kiên quyết và kịp thời với những hành vi gian lận thương mại và buôn lậu. Một số cá nhân, một số đơn vị có hành vi buôn lậu, gian lận thương mại được phát hiện nhưng không được xử lý kịp thời hoặc thậm chí có xử lý nhưng chỉ qua loa, không đúng mức. Một hiện tượng hết sức nguy hiểm cho công việc củng cố, tăng cường pháp chế lĩnh vực thương mại. Từ những vi phạm nhỏ mà không xử lý nghiêm minh sẽ tiếp lối cho những vi phạm lớn. Buôn lậu 1 bao thuốc cũng là vi phạm pháp luật, là hành vi trái pháp luật, coi thường pháp luật vậy nó cũng phải được xử lý nghiêm minh để răn đe, ngăn ngừa không để hành vi đó tái diễn đồng thời cho mọi người thấy được mà tôn trọng pháp luật. 2.9.Nghiêm trị những kẻ tiếp tay cho buôn lậu: Người trực tiếp vi phạm pháp luật đã là nguy hiểm nhưng người gián tiếp tiếp tay cho việc vi phạm pháp luật đó còn nguy hiểm hơn. Xử lý thích đáng những kẻ buôn lậu và gian lận thương mại nhưng đồng thời cũng cần nghiêm minh đối với những kẻ tiếp tay cho buôn lậu và gian lận thương mại. Thực tế ở nước ta thời gian qua trong lực lượng chống buôn lậu còn tồn tại tiêu cực đó là một số cán bộ trong ngành bị bọn buôn lậu và gian lận thương mại mua chuộc lam thoái hoá biến chất tiếp tay cho chúng. Điều này rất nguy hiểm vì trong khi các ngành, các cấp gia sức chống tệ nạn này thì một số người trong đó lại tiếp tay cho nó. Những việc này chứng minh rằng họ rất coi thường pháp luật, coi thường đạo đức. Điển hình trong thời gian qua là 2 vụ án lớn Epco Minh Phụng, Tân Trường Sanh gây hậu quả rất lớn cho nền kinh tế -xã hội mà trong đó có liên quan đế cán bộ hải quan- những người làm việc trong công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại, gây bất bình lớn trong nhân dân, làm tổn thương đến lòng tin của nhân dân vào những người bảo vệ pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý thích đáng những kẻ này đồng thời giáo dục đạo đức trong lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại. 2.10. Các ngành, các cấp phải thường xuyên kiểm tra nắm bắt tình hình thị trường: Có thường xuyên và tích cực kiểm tra thì mới phát hiện và ngăn chặn tinh trạng buôn lậu và gian lận thương mại. Buôn lậu và gian lận thương mại lắm phép "thần thông". Hàng lậu trên thị trường Việt Nam hiện nay từ nhiều nguồn khác nhau tuồn vào với đủ chủng loại, mẫu mã. Mỗi loại hàng hoá có tới hàng trăm kiểu dáng, mẫu mã. Thực tế một số mặt hàng dán tem đã hạn chế được hàng lậu rất nhiều nhưng chúng ta khó có thể dán tem ở hàng trăm các mặt hàng khác được. Hàng lậu lan tràn dẫn đến "cung" vượt quá "cầu", lúc thì tràn vào ồ ạt làm cho giá cả giảm xuống, lúc chững lại làm cho giá cả tăng lên làm cho thị trường mất ổn định. Để khắc phục điều này thì các ngành chức năng cần kiểm tra kiểm soát thị trường thường xuyên thì mới giảm bớt đựoc đóng góp vào việc chống buôn lậu và gian lận thương mại. ------o0o------ Kết luận Buôn lậu và Gian lận thương mại đang là vấn đề nhức nhối không chỉ ở nước ta mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới. Buôn lậu và gian lận thương mại gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, ảnh hưởng sâu sắc tới mọi hoạt động của đất nước. Vì vậy, đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại là một nhiệm vụ vô cùng bức xúc đối với Đảng, Nhà nước, và toàn dân ta, nhất là trong điều kiện nước ta đang tập trung thực hiện thành công công cuộc đổi mới, từng bước đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập cùng các quốc gia trên thế giới. Đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại có hiệu quả là điều kiện quan trọng đảm bảo mục tiêu phát triển của nền sản xuất trong nước, tạo ra môi trường thương mại và sản xuất hàng hoá lành mạnh, tăng thu ngân sách, ổn định tỷ giá và thị trường, góp phần vào quá trình ổn định và phát triển đời sống kinh tế xã hội, làm cơ sở cho việc thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn thủ đô Hà nội nói riêng trong thời gian qua nói chung diễn ra nghiêm trọng và phức tạp nguyên nhân là do sản xuất trong nước còn kém phát triển, chưa đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, hệ thống pháp luật vẫn tồn tại nhiều bất hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp điều kiện hoàn cảnh của đất nước, đặc biệt là chính sách thuế suất xuất nhập khẩu, người dân cũng chưa nhận thức được tính chất nghiêm trọng của buôn lậu và gian lận thương mại. Trong khi đó , hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi xảo quyệt và mang tính quốc tế, chưa tính đến những âm mưu phá hoại của các thế lực thù định nước ngoài. Bên cạnh đó, lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại nói chung lại chưa đáp ứng được yêu cầu về cả số lượng lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Phương tiên trang thiết bị, máy móc còn thiếu thốn lạc hậu. Công tác, kiểm hoá còn thô sơ, phần lớn vẫn là kiểm tra, kiểm soát thủ công. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh phòng chống gian lận thương mại hiện nay phải đối đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách và chỉ có thể đạt được kết quả thực sự khi có nỗ lực quyết tâm và phối hợp thống nhất của mọi ngành, mọi cấp và sự ủng hộ của nhân dân. Trước hết cần tiếp tục thực hiện việc công nghiệp hoá theo mô hình chiến lược mới, nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu của đất nước để hội nhập quốc tế, đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật đặc biệt là chính sách thuế suất nhập khẩu và các văn bản pháp luật về Hải Quan, tăng cương sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. Bên cạnh đó phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. Ngoài ra cần chú ý xây dựng Hải Quan trở thành một lực lượng trong sạch vững mạnh có trang thiết bị hiện đại với các công cụ kiểm tra kiểm soát tiên tiến. Công tác điều tra chống buôn lậu và gian lận thương mại hiện nay không chỉ là vấn đề bức súc và thách thức đối với ngành Hải quan nói chung và Cục hải quan TP Hà nội nói riêng . Công tác này là một nhiệm vụ quan trọng của Cục hải quan TP Hà nội thực hiện bằng việc tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, vận động quần chúng, trinh sát bí mật, điều tra và tuần tra kiểm soát công khai nhằm phát hiện, phòng ngừa và đấu tranh xử lý các hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới cũng như các hành vi gian lận thương mại, đảm bảo cho Cục Hải quan TP Hà Nội thực hiện đầy đủ các chức năng mà đã được quy định trong Luật Hải quan. Công tác Chống Buôn lậu và gian lận thương mại là công tác khó khăn, phức tạp đòi hỏi người làm công tác này vừa phải có phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật, vừa phải được huấn luyện kỹ thuật, được trang bị phương tiện, vũ khí đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao xứng đáng là "người chiến sỹ biên phòng trên mặt trận kinh tế". Làm tốt công tác Chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn Hải quan TP Hà nội là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Thủ đô, thúc đẩy nền sản xuất trong nước và tạo đà cho sự phát triển kinh tế đất nước và hội nhập quốc tế ./. Tài liệu tham khảo Báo cáo kết quả hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại của Tổng cục Hải quan các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 và tháng 1, 2 năm 2001. Báo Hải quan các số năm 2000, 2001. Bộ Luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam (Năm 1999). Luật Hải quan Pháp lệnh Hải quan. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Biểu thuế xuất khẩu - Biểu thuế nhập khẩu. Các văn bản mới nhất về thuế xuất nhập khẩu. NXB Thống kê, 2001. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. Bộ Thương mại, 1995. Nghị định số 16/CP ngày 20/03/1996 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về Hải quan. Nghị định số 54-1998/NĐ-CP ngày 21/7/1998 của Chính phủ về sữa đổi bổ sung một số điều của nghị định 16/CP. Chỉ thị 853/1997/CT-TTg ngày 11/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh Chống buôn lậu trong tình hình mới. Hiệp định về thực hiện điều 7 của hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch 1994(Thường gọi là hiệp đinh trị giá GATT 1994) Quyết định 127-2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại. Danh mục văn bản pháp qui về tổ chức bộ máy của ngành Hải quan theo luât Hải quan ngày 29/06/2001 Qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác của các đơn vị trực thuộc Hải quan thành phố Hà nội. Lê Thanh Bình. Chống buôn lậu và gian lận thương mại. Nxb Chính trị Quốc gia, 1999. 18. Website của Tổng cục Hải quan: 19. Website của Bộ thương mại : 20. Website của Bộ Tài chính Phụ lục I Kết quả bắt giữ ma tuý từ năm 1995 đến năm 2002 của ngành Hải quan Nguồn: Cục điều tra CBL – TCHQ Năm Tang vật Heroin (Kg) Thuốc phiện (Kg) Các loại khác 1995 1,44 30 28 kg cần sa 1996 24,21 89,15 2,2 kg cần sa 19100 ống thuốc gây nghiện 14200 viên tân dược cấm nhập 1997 0,82 98,0 6,663 kg cần sa 36747 ống thuốc gây nghiện 1998 2,7 15,1 100000 viên thuốc gây nghiện các loại 1999 2,21 34,2 0,42 kg mooc-phin 22306 ống thuốc gây nghiện Diazepam 80 lọ có chứa chất Methamphetamin 2000 6,35 21,11 0,52 kg Methamphetamin 200 ống thuốc gây nghiện Diazepam 12672 viên tân dược cấm nhập 2001 0,7 4,45 3651 ống thuốc gây nghiện Diazepam 2002 0,2 0,4 kg tân dược TQ Phụ lục II Kết quả bắt giữ bắt giữ ngoại tệ, văn hoá phẩm phản động, vũ khí, cổ vật từ năm 1995 - 2001 của ngành Hải quan Nguồn: Cục điều tra CBL – TCHQ Năm Ngoại tệ Vũ khí, chất nổ Văn hoá phẩm nội dung xấu Cổ vật 1995 8 súng các loại 122 kg thuốc nổ 1811 bình xịt hơi độc 2400 ấn phẩm 1800 món 1996 945510 USD 2700000 Yên Nhật 72100 DM 689600 NDT 13 súng các loại 6 bình xịt hơi cay 64 kg thuốc nổ 3131 kíp nổ 775 ấn phẩm 8878 băng đĩa 375 món 1997 1700000 USD 2000m dây cháy chậm 54 kg thuốc nổ 43 hạt nổ 3300 ấn phẩm 5283 băng đĩa 375 món 1998 1500000 USD 51270000 VNĐ giả 133 kg thuốc nổ 449 kíp nổ 4980m dây cháy chậm 232 ấn phẩm 1000 băng đĩa 47 món 1999 1200000 USD 75000000 VNĐ giả 45 kg thuốc nổ 150m dây cháy chậm 550 ấn phẩm 175 món 2000 3700000 USD 14 kg vàng 90 kg thuốc nổ 1000 kíp nổ 36000 ấn phẩm 2001 430460 USD 500000NDT 119,8 kg thuốc nổ 37500 que pháo 42 Đĩa hình 62 ấn phẩm 35 món Phụ lục III Kết quả thu thuế trong 10 năm từ 1990 - 2000: Kết quả thu thuế đạt 736 tỷ đồng. Kết quả thu thuế đạt 1.129 tỷ đồng, vợt chỉ tiêu 29 tỷ đồng. Kết quả thực thu 2.474 tỷ đồng. ( Nhà nớc giao chỉ tiêu cho ngành Hải quan 1.920 tỷ đồng). Kết quả thu thuế đạt 6.134 tỷ đồng, bằng 188% chỉ tiêu đợc giao. Kết quả thu thuế đạt 10.050 tỷ đồng. Tăng hơn 60% so với năm 1993. Kết quả thu thuế đạt 13.500 tỷ đồng. Tăng 40% so với năm 1994. Kết quả thu thuế ớc đạt 15.200 tỷ đồng. Tăng 12% so với năm 1995. Kết quả thu thuế đạt 13.500 tỷ đồng. Giảm gần 4.000 tỷ đồng so với kế hoạch. Kết quả thu thuế đạt 16.600 tỷ đồng, vợt kế hoạch đợc giao 600 tỷ đồng;. Kết quả thu thuế đạt 23.307 tỷ đồng, đạt 110,99% so với kế hoạch thu cả năm. Kết quả thu thuế đạt 24.423 tỷ đồng, đạt 106% so với kế hoạch. Mục lục Trang Chương I: 1 Tổng quan phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thương mại quốc tế 5 1. Khái niệm buôn lậu và gian lận thương mại trong Thương mậi quốc tế (TMQT) 5 1.1Khái niệm 5 1.1.1 Buôn lâu và vận chuyển hàng hoá trái phép : 5 1.1.2 Gian lận thương mại : 7 1.1.3 Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan : 7 1.2. Phân biệt giữa buôn lậu và gian lận thương mại. 10 1.3 Hậu quả của buôn lậu và gian lận thương mại 11 1.3.1 Hậu quả của buôn lậu và gian lận thương mại đối với nền kinh tế quốc dân 11 1.3.2 Hậu quả của Buôn lậu gian lận thương mại đối với văn hoá xã hội 12 1.3.3 Hậu quả của buôn lậu và gian lận thưong mại đối với an ninh chính trị: 13 2. Các hình thức buôn lậu và gian lận thương mại thường gặp trong lĩnh vực Hải quan: 13 2.1 Các hình thức buôn lậu : 13 2.2 Các hình thức gian lận thương mại 14 2.2.1.Khai báo không trung thực 14 2.2.2. Xuất trình không đúng chủng loại hàng hoá. 17 2.2.3. Xuất trình giấy tờ, chứng từ xuất nhập khẩu hàng hoá không đầy đủ, thiếu tính chân thực. 17 3. Cơ sở pháp lí để đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại: 18 3.1. Các quy định quốc tế về chống buôn lậu và gian lận thương mại . 18 3.1.1.Quy định trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) 18 3.1.2. Quy định trong công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà hoá toàn bộ thủ tục Hải quan ( công ước KYOTO). 19 3.1.3. Quy định trong công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau, điều tra, ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm Hải quan ( Công ước NAIROBI) 20 3.2. Các quy định của Việt Nam đối với hoạt động chống Buôn lậu và Gian lận thương mại 20 4. Công cụ phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 21 4.1 Công tác kiểm tra và đăng kí tờ khai : 21 4.1.1.Các mẫu tờ khai được sử dụng : 22 4.1.2 Hồ sơ Hải quan : 23 4.2 Kiểm tra, giám sát thực tế hàng hoá 24 4.2.1 Đối tượng kiểm tra, giám sát thực tế hàng hoá: 24 4.2.2 Các hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá XNK: 24 4.3 Xác định trị giá Hải quan 26 4.4. Kiểm tra sau thông quan : 26 4.4.1 Khái niệm kiểm tra sau thông quan : 26 4.4.2. Vai trò của kiểm tra sau thông quan : 27 4.4.3 Quá trình kiểm tra sau thông quan : 28 5. Các lực lượng tham gia thực hiện phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại trên lãnh thổ Việt Nam : 28 5.1.Lực lượng hải quan: 28 5.2.Lực lượng của Bộ nội vụ: 29 5.3.Lực lượng Bộ Công an: 29 5.4.Lực lượng quân đội: 29 5.5. Lực lượng quản lý thị trường: 29 5.6. Lực lượng thuế: 30 6. Những nhân tố ảnh hưởng : 31 6.1 Nhân tố kinh tế 31 6.2. Những nhân tố văn hoá - xã hội : 32 6.3 Những nhân tố từ hệ thống hành pháp và lập pháp : 33 6.4. Các nhân tố khác: 34 Chương II 35 Thực trạng các hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội 35 1.Giới thiệu về Cục Hải quan thành phố Hà Nội : 35 1.1.Nhiệm vụ, quyền hạn của cục Hải quan Hà Nội : 35 1.2.Các hoạt động của cục Hải quan Hà nội trong giai đoạn 2001-2003: 37 1.2.1.Công tác giám sát quản lý 37 1.2.2. Công tác kiểm tra thu thuế XNK 37 1.2.3.Công tác trị giá tính thuế 37 1.2.4.Công tác điều tra chống buôn lậu 38 1.2.5.Công tác kiểm tra sau thông quan 38 1.2.6. Công tác công nghệ thông tin 39 1.2.7.Công tác xây dựng lực lưọng 39 1.2.8 Công tác thanh tra, kiểm tra 40 1.2.9 Công tác văn phòng 40 1.3.Chống buôn lậu và gian lận thương mại - Một trong những nhiệm vụ then chốt của Cục Hải quan TP Hà nội: 41 2.Tình hình và thực trạng của công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của Hải quan Hà Nội trong thời gian qua: 43 2.1 Tình hình chung 43 2.2 Thực trạng của công tác đấu tranh CBL và gian lận thương mại trên địa bàn Hà nội. 45 2.2.1 Thực trạng đấu tranh chống buôn lậu theo tuyến đường trên địa bàn Hà nội 45 2.2.2 Thực trạng đấu tranh chống các hình thức gian lận thương mại trên địa bàn Hà Nội : 49 3 Những kết quả đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại các đơn vị thuộc Cục Hải quan Hà nội : 55 3.1 Phòng điều tra buôn lậu: 55 3.2. Phòng giám sát quản lý: 56 3. 3. Phòng kiểm tra thu thuế XNK 57 3.4. Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo : 58 3.5. Đối với Hải quan các cửa khẩu. 59 4. Nhận xét về công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lân thương mại tại các đơn vị thuộc Cục Hải quan Hà Nội : 60 Chương III 65 định hướng và các giải pháp đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của cục hải quan Hà Nội trong thời gian tới 65 I. Định hướng và các giải pháp tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại của cục hải quan Hà Nội 65 1.1. Một số định hướng cho công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan Hà Nội trong thời gian tới 65 1.1.1. Xác định địa bàn trọng điểm 66 1.1.2. Xác định các tuyến vận chuyển cần chú ý 66 1.1.3. Đối tượng trọng điểm cần tập trung đấu tranh 67 1.2. Các giải pháp tăng cường công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của Cục Hải quan Hà Nội 67 1.2.1. Các giải pháp phòng ngừa và hạn chế vi phạm luật hải quan 67 1.2.2. Các giải pháp đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thời gian tới 76 2. Kiến nghị với Nhà nước một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 79 2.1. Nhà nước cần phải hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống luật pháp 79 2.2. Gắn việc chống buôn lậu và gian lận thương mại với công cuộc cải cách hành chính 81 2.3. Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan cả nước 81 2.4. Nhà nước cần có chính sách để đẩy mạnh sản xuất trong nước 81 2.5. Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế vùng biên, làm hco nhân dân vùng biên trở thành lực lượng tham gia tích cực vào việc chống buôn lậu 82 2.6. Nhà nước cần tuyên truyền giáo dục, nâng cao giác ngộ cán bộ và nhân dân về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại 82 2.7. Nâng cao giác ngộ pháp luật cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nước 83 2.8. Phải xử lý nghiêm minh và thích đáng những kẻ buôn lậu và gian lận thương mại 84 2.9. Nghiêm trị những kẻ tiếp tay cho buôn lậu 84 2.10. Các ngành, các cấp phải thường xuyên kiểm tra nắm bắt tình hình thị trường 85 Kết luận 86 Tài liệu tham khảo 89 Phụ lục 91 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29217.doc