Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương

Lời cảm ơn Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Ngọc Côn - giảng viên Khoa Khoa học quản lý, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình hình thành, xây dựng đề tài, về những chỉ bảo mang tính sát thực cũng như những sửa chữa mang tính khoa học của thầy trong quá trình hoàn thiện luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Chuyên viên Quách Thị Nga - Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Hải dương vì sự hướng dẫn nhiệt tình, đầy đủ trong quá trình thu thậ

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p tư liệu cũng như những ý kiến sửa chữa phù hợp với yêu cầu thực tế nhằm phục vụ cho đề tài này. Em cũng xin cảm ơn Cử nhân Phạm Thanh Hải - chuyên viên Phòng Đăng ký kinh doanh về những giúp đỡ trong thời gian em thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Hải dương. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Mai Văn Bưu - Chủ nhiệm khoa Khoa học Quản lý, TS. Đoàn Thu Hà - Phó chủ nhiệm Khoa Khoa học Quản lý, tới các thầy cô giảng viên Khoa Khoa học Quản lý về những dạy bảo của các thày cô trong quá trinhf học tập và hoàn thiện những kiến thức chuyên môn của em tại Lớp Quản lý kinh tế B - K39 Khoa Khoa học Quản lý. Lời nói đầu Lý luận và thực tiễn chỉ rõ việc xây dựng và phát triển các doanh nghiệp Nhà nước trong cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Song, do những nguyên nhân lịch sử ở nước ta sự phát triển tràn lan các doanh nghiệp Nhà nước trong các ngành và các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, cùng với sự hoạt động kém hiệu quả của phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước lại cản trở trực tiếp việc phát huy vai trò của chúng trong cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và tạo nên gánh nặng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong công cuộc đổi mới về kinh tế, việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước được coi là một trong những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp thiết. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một trong những nội dung của phương hướng đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam được thực hiện từ đầu những năm 1990, trải qua hơn 10 năm thực hiện tính đến tháng 5/2001 cả nước thực hiện được 633 DNNN thành công ty cổ phầ, chiếm gần 10% số doanh nghiệp hiện có và gần 10% tổng số vốn Ngân sách đầu tư vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Quá trình này được đánh giá là chậm trễ so với khả năng và yêu cầu thúc đẩy việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Việc đánh giá một cách nghiêm túc và khách quan những công việc đã làm, xác định những kết quả tích cực đã đạt được những tồn tại, khó khăn cản trở là nguyên nhân của chúng, từ đó đưa ra những giải pháp sát thực nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá trong những năm tới là một việc làm cần thiết. Tỉnh Hải Dương là một trong những địa phương có nhiều doanh nghiệp Nhà nước trong khuôn khổ đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã được Tỉnh hết sức quan tâm chú ý. Để thúc đẩy việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, trong những năm qua Tỉnh đã chú trọng vận dụng sáng tạo và linh hoạt các chủ trương chính sách chung về cổ phần hoá vào điều kiện cụ thể của mình. Nhờ đó việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước do Tỉnh quản lý đã thu được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, trong quá trình này cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cần nghiên cứu giải quyết. Việc nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương " nhằm thực hiện những mục tiêu cơ bản sau: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. - Đánh giá thực trạng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương trong những năm qua, xác định kết quả tích cực đã đạt được, những tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần thực hiện có hiệu quả công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương. Năm 2000 có thể nói là năm đầu tiên Tỉnh Hải Dương triển khai thực hiện cổ phần hoá khá đồng bộ, khoa học và kiên quyết vì xác định được đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình đổi mới sắp xếp doanh nghiệp. Từ năm 1994 đến hết năm 1999 Hải Dương mới tiến hành cổ phần hoá 3 doanh nghiệp (có 1 doanh nghiệp chuyển sang 2000) thì trong năm 2000 Hải dương đã tiến hành triển khai ở 5 doanh nghiệp, đến 31/12/2000 đã có thêm 3 doanh nghiệp chính thức sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần và 2 doanh nghiệp đã xác định song giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Cơ cấu đề tài bao gồm 03 phần như sau: Phần 1: Cổ phần hoá -Một phương hướng quan trọng của đổi mới hệ thống DNNN. Phần 2: Thực trạng công tác cổ phần hoá DNNN ở Hải dương Phần 3:Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá DNNN ở Hải Dương. Lời cam đoan: Em xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai phạm em xin chịu kỷ luật với nhà trường. Mục lục Trang Phần thứ nhất: Cổ phần hoá - Một phương hướng quan trọng của đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước 9 I. Những vấn đề lý luận cơ bản về công ty cổ phần và cổ phần hoá DNNN 9 1. Quan niệm về công ty cổ phần và cổ phần hoá DNNN 9 2. Vai trò công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường xã hội 13 3. Sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 15 4. Qui trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần 22 5. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số nước trên thế giới 24 II. Hệ thống các văn bản hướng dẫn về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 26 III. Khái quát tình hình chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 31 1. Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995) 31 2. Giai đoạn mở rộng (1996 - 6/1998) 32 3. Giai đoạn thực hiện theo Nghị định 44/CP đến nay 33 Phần thứ hai: Thực trạng công tác cổ phần hoá dnnn ở Hải Dương 34 I. Khái quát chung về quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ở Hải dương 34 1. Khái quát tình hình hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương 34 2. Quá trình thực hiện đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương 39 3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN thuộc địa phương quản lý năm 2000 40 II. Tình hình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương 46 1. Các chủ trương của Tỉnh Hải Dương về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 46 2. Tình hình thực hiện các khâu công tác của quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần ở Hải Dương. 49 III. Kết quả và khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương. 55 1. Những kết quả của qúa trình cổ phần hoá DNNN đến cuối năm 2000 55 2. Những khó khăn vướng mắc nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương 60 Phần thứ ba: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương. 63 a. Phương hướng và mục tiêu thực hiện sắp xếp lại dnnn và đẩy mạnh quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần 63 I. Phương hướng thực hiện đổi mới sắp xếp lại DNNN trong năm 2001 và các năm tiếp theo 63 1. Phương hướng chung 63 2. Phương hướng thực hiện đổi mới sắp xếp lại DNNN ở Hải dương trong năm 2001 và các năm tiếp theo 63 II. Mục tiêu sắp xếp lại DNNN và chuyển DNNN thành công ty cổ phần 65 B. Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá DNNN ở Hải dương 66 I. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến tuyên truyền về chủ trương cổ phần hoá. 66 II. Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá 67 III. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá 69 IV. Đổi mới tổ chức chỉ đạo quá trình cổ phần hoá 72 1. Xác định đối tượng cổ phần hoá 72 2. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá DNNN 73 V. Tạo hành làn pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần 73 1. Chú trọng việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 74 2. Phát huy vai trò của thị trường chứng khoán trong việc hình thành và phát triển công ty cổ phần 74 3. Nhà nước cần sớm đưa ra các văn bản pháp qui hướng dẫn việc đánh giá lại doanh nghiệp cổ phần 76 Kết luận 78 Tài liệu tham khảo 79 Phần I : Cổ phần hoá - một phương hướng quan trọng của đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. I. Những vấn đề lý luận cơ bản về công ty cổ phần và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 1. Quan niệm về công ty cổ phần và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các loại hình tổ chức kinh doanh được tổ chức đa dạng. Công ty cổ phần là loại hình tổ chức kinh doanh có những đặc trưng riêng và có những ưu thế nổi trội so với các loại hình tổ chức kinh doanh khác. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân trong đó: - Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. - Cổ đông (người sở hữu cổ phần) chỉ chiu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp của mình. - Cổ đông có cổ phiếu phổ thông được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, thường không có sự hạn chế mức tối đa, mà chỉ có sự hạn chế số lượng tối thiểu. Ưu thế của công ty cổ phần so với các loại hình tổ chức kinh doanh khác, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, thể hiện ở hai điểm chủ yếu sau: - Khả năng huy động nguồn vốn khác nhau trong và ngoài nước vào phát triển sản xuất kinh doanh, từ những nguồn vốn nhỏ lẻ, đến nguồn vốn lớn. Khả năng này không những chỉ thể hiện khi thu hút vốn để thành lập công ty cổ phần, mà cả là trong quá trình phát triển của công ty. Khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động có hiệu quả. - Sự gắn kết chặt chẽ giữa quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng tài sản và vốn của doanh nghiệp. Sự gắn kết này thể hiện tập trung ở cơ cấu và cơ chế quản lý điều hành công ty cổ phần. Vì quyền lợi và trách nhiệm thiết thân của mình, các cổ đông đều hết sức quan tâm đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đóng góp trí tuệ và công sức của mình vào sự phát triển và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong thực tế, có nhiều cách thức khác nhau để hình thành công ty cổ phần. Tuy nhiên, có hai hình thức chủ yếu sau. - Một số người có ý tưởng và khả năng kinh doanh khởi xướng và kêu gọi mọi người góp vốn đăng ký thành lập công ty cổ phần. Những người đó được gọi là cổ đông sáng lập và họ có những quyền lợi đặc biệt trong một thời hạn nhất định theo quy định của luật pháp và sự nhất trí của các cổ đông khác. - Chuyển loại hình tổ chức kinh doanh không phải công ty cổ phần thành doanh nghiệp thuộc loại hình công ty cổ phần.Chẳng hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển sang hoạt động theo qui chế của công ty cổ phần sau khi có sự nhất trí của các thành viên và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận. Việc chuyển hoá các loại hình doanh nghiệp không phải công ty cổ phần được gọi là cổ phần hoá. Đây là hiện tượng tự nhiên của kinh tế thị trường, với sự tồn tại đa dạng của các loại hình doanh nghiệp, nhà kinh doanh có khả năng và có quyền tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp thích ứng trong khuôn khổ qui định của pháp luật để pháp huy khả năng kinh doanh của mình. Từ quan niệm trên, có thể thấy rằng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đến sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước sang doanh nghiệp hoạt động theo các qui định về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp. Sự chuyển hoá này, không phải chỉ là sự thay đổi về tên gọi, mà là sự thay đổi căn bản trên 3 mặt. - Chuyển hoá quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu) và do đó sự thay đổi cả quyền quản lý và sử dụng, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa 3 quyền liên quan đến vốn và tài sản của doanh nghiệp. Đến lượt mình, điều đó lại là điều kiện thiết yếu để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. - Thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ. Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ (Đại hội cổ đông hội đồng quản trị, ban kiểm soát, bộ máy điều hành) có sự phân công, phân cấp về giám sát chặt chẽ công ty cổ phần có khả năng bảo đảm hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Thay đổi căn bản về quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện của Nhà nước - chủ sở hữu sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tích tụ chịu trách nhiệm được đề cao. ở Việt Nam, sự thay đổi về qui chế này thể hiện cụ thể ở chỗ doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo những qui định về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp. Do tình trạng hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước, hầu hết các nước trên thế giới đều phải thực hiện việc cải cách hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Về mặt cơ cấu quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện theo hướng đa dạng hoá sở hữu, mà cổ phần hoá và tư nhân hoá là những cách thức phổ biến nhất. ở Việt Nam, khi tiến hành đổi mới về cơ cấu của các doanh nghiệp Nhà nước Đảng ta xác định "Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhận hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sẽ có nhiều doanh nghiệp Nhà nước nắm đa số hay tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp, từng trường hợp cụ thể, vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh". Cũng cần đánh giá đúng quan điểm của Nhà nước về khái niệm cổ phần hoá ở Việt nam hiện nay không phải là chủ trương tư nhân hoá. Để làm rõ quan niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp không thể không xem xét các phạm trù cổ phần hoá và tư nhân hoá. Tư nhân hoá thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Liên hợp quốc đã đưa ra quan niệm về tư nhân hoá theo nghĩa rộng: "Tư nhân hoá là quá trình biến đổi mới tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường". Theo đó, toàn bộ chính sách, luạt lệ và thể chế nhằm khuyến khích mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp giành cho thị trường vai trò điều tiết ngày càng lớn... đều có thể được coi là biện pháp của tư nhân hoá. Còn theo nghĩa hẹp, với đối tượng là doanh nghiệp, tư nhân hoá được giải thích theo hai nghĩa: Tư nhân hoá quản lý và tư nhân hoá sở hữu. Trường hợp Nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu vốn và tài sản, còn việc quản lý được giao cho tư nhân đảm trách theo những điều kiện thoả thuận giữa Nhà nước và tư nhân được coi là tư nhân hoá quản lý. Còn trường hợp Nhà nước bán doanh nghiệp của mình cho một chủ tư nhân, tức là chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu tư nhân, thì được coi là tư nhân hoá sở hữu. Trong khi đó ở Việt Nam, chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự chuyển hướng chiến lược và cũng là đặc điểm lớn nhất qui định mục tiêu và phương thức cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Bởi vậy, việc cổ phần hoá ở Việt Nam là một trong những phương thức cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước cho hợp lý và hiêụ quả hơn để chúng thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế - xã hội. Hơn nữa, khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước bán toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp cho người lao động trong doanh nghiệp, cho các tổ chức hoặc các thể nhân ngoài doanh nghiệp. Quá trình đó là việc chuyển một bộ phận sở hữu của Nhà nước không phải là một tư nhân để chuyển thành sở hữu tư nhân, mà cho một "tập thể" để chuyển thành sở hữu hỗn hợp. Ngoài ra không phải toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước đều được cổ phần hoá. Để bảo đảm giữ đúng và tăng cường vai trò của mình trong nền kinh tế hỗn hợp, không phải Nhà nước tiến hành cổ phần hoá toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước hiện có, mà vẫn giữ lại các doanh nghiệp trong các ngành then chốt, trọng điểm của nền kinh tế quốc dân. Tức là để thực thi tốt hơn chức trách của mình Nhà nước sẽ "nắm cái cần nắm và buông cái cần buông". 2. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường xã hội: Việc hình thành công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là một bước tiến quan trọng của loài người trong quản lý kinh doanh. Công ty cổ phần là kết quả của việc cổ phần hoá có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. a. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh huy động tập trung được nhanh số vốn, qui mô lớn và hiệu quả cao. Bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu, công ty cổ phần có thể huy động, thu hút được những khoản tiền nhỏ bé, tản mạn, nhàn rỗi trong xã hội, tâp trung lại thành những vốn có thể rất lớn đủ sức đáp ứng đầu tư vào những công trình đòi hỏi lượng vốn lớn và dài hạn, mà từng cá nhân hoặc doanh nghiệp cá thể không có khả năng tích luỹ được. b. Công ty cổ phần tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Vốn được tập trung của rất nhiều người với số lượng lớn không chỉ có điều kiện thuận lợi và nhanh chóng sử dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp phải hoàn thiện tổ chức quản lý cho phù hợp với sản xuất kinh doanh kiểu mới, tạo được uy tín thực sự, gây được tin tưởng với người góp vốn. Xét về cơ cấu nền kinh tế, công ty cổ phần phát triển cũng làm biến đổi cơ cấu ấy trên cơ sở sử dụng đồng vốn, khai thác tiềm năng lao động đất nước mang lại hiệu quả kinh tế xã hội tốt nhất, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội năng động nhất đồng thời nâng cao trình độ năng lực của công nhân, của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và quản lý xã hội, xoá bỏ được những ý thức, tư tưởng lạc hậu, nâng cao trình độ dân trí. c. Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro, nhằm hạn chế những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Công ty cổ phần theo chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Theo đó có sự phân định rõ ràng về tài sản của công ty và phần vốn cổ đông, trách nhiệm tài chính của công ty giới hạn trong phạm vi tài sản của công ty và phần vốn của cổ đông theo tỷ lệ đóng góp của mỗi người điều đó đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của sự rủi ro, thua lỗ. Dưới hình thức công ty cổ phần, người có nhiều vốn muốn đầu tư có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau, do đó sự rủi ro của đầu tư được phân tán vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhiều công ty, tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn, hùn vốn tự do theo sự tính toán, cân nhắc, lựa chọn vào công ty mà họ tín nhiệm làm cho nền kinh tế phát triển và có xu thế ổn định. d. Công ty cổ phần thúc đẩy quá trình phân công, chuyên môn hoá. Với khả năng tập trung vốn tương đối lớn, các công ty cổ phần có thể tranh thủ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, mạnh dạn đầu tư vào ngành nghề mới, có triển vọng đạt lợi nhuận cao làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế, từ đó tác động đến quá trình phân công lao động xã hội. Cơ cấu đội ngũ công nhân cũng biến đổi không chỉ về lượng mà còn tăng về trình độ lành nghề; không chỉ tăng chuyên sâu mà còn phát triển nhiều loại nghiệp vụ chuyên khác nhau, các chức năng của đội ngũ quản lý và điều hành cũng chuyên sâu và đa dạng hơn. e. Công ty cổ phần tạo điều kiện ra đời của thị trường chứng khoán, thúc đẩy hoàn thiện hệ thống cơ chế thị trường. Với việc phát hành các loại chứng khoán, cùng với chuyển nhượng mua bán chứng khoán đến một mức nhất định , công ty cổ phần đã tạo điều kiện ra đời của thị trường chứng khoán. f. Công ty cổ phần là một hình thức kinh tế quá độ để chuyển đổi lên một hình thức kinh tế mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Công ty cổ phần đã xã hội hoá được vốn nên đã cải tiến được cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lại lao động nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển đáp ứng yêu cầu nâng cao trình đoọ và mức sống xã hội. Công ty cổ phần đã thúc đẩy hoàn thiện tổ chức quản lý, tạo điều kiện cho những người sở hữu vốn tham gia tích cực vào các quyết định kinh doanh của công ty. 3. Sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. ở Việt Nam, việc hình thành và phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước đã trải qua quá trình khá lâu dài. Trong khi khẳng định những đóng góp to lớn của các doanh nghiệp Nhà nước vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển, cũng cần đánh giá những bộc lộ ngày càng rõ. ở các doanh nghiệp Nhà nước và những nguyên nhân của những yếu kém đó. Đánh giá thực lực của các doanh nghiệp Nhà nước trên 3 mặt vốn - công nghệ - quản lý, có thể thấy: - Các doanh nghiệp luôn trong tình trạng đói vốn. Tình trạng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện.Tình trạng doanh nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn kém, thất thoát vốn của Nhà nước ngày càng trầm trọng. Theo số liệu năm 1992 của Tổng cục quản lý vốn và tài sản doanh nghiệp tại doanh nghiệp. Trong số 5800 doanh nghiệp Nhà nước, chỉ 4,04% được đánh giá là hoạt động có hiệu quả (bảo toàn được vốn, trả được nợ, nộp đủ thuế, trả lương cho người lao động và có lãi), 44% số doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, khó khăn tạm thời, còn 15,6% số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tính chung lại số doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả lên đến 59,6% tổng số doanh nghiệp Nhà nước. - Công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2 đến 3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5 - 6 thế hệ). Đó là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước hết sức thấp kém. Điều này thực sự trở thành nguy cơ với các doanh nghiệp Nhà nước và với nền kinh tế khi thực hiện hội nhập vào đơì sống kinh tế khu vực và thế giới. - Trình độ năng lực và bản lĩnh quản lý còn thấp so với yêu cầu. ở các doanh nghiệp Nhà nước, quyền sở hữu không gắn bó trực tiếp với quyền quản lý vốn và tài sản. Đồng thời do những nguyên nhân lịch sử, các doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động lớn, cơ cấu lao động bất hợp lý. Bên cạnh trách nhiệm về kinh tế, mỗi doanh nghiệp còn phải đảm trách nhiều được những chức năng xã hội nữa. Những yếu kém và khó khăn đó làm cho các doanh nghiệp Nhà nước chưa thể đóng được vai trò chủ đaọ một cách đầy đủ. Tình hình trên cho thấy, việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là một trong những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách của quá trình đổi mới về kinh tế ở nước ta. Quá trình này được thực hiện theo nhiều phương hướng khác nhau, trong đó có cổ phần hoá là một trong những phương hướng quan trọng. Có thể tóm lược sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong những lý do chủ yếu sau: - Cổ phần hoá là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với mỗi doanh nghiệp, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển với nền kinh tế quốc dân, "vốn là chìa khoá cho sự phát triển". Hiện nay chúng ta đang đứng trước một thực trạng là nền kinh tế và các doanh nghiệp cần vốn để phát triển, nhưng nguồn lực tài chính trong dân cư và nhiều tổ chức chưa được huy động để phục vụ yêu cầu phát triển. Kết quả điều tra mức sống do Bộ Kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê tổ chức cho thấy: 44% tiền để dành của dân cư được dùng để mua vàng và ngoại tệ nhằm mục tiêu dự trữ: 17% gửi tiết kiệm, chủ yếu là tiết kiệm có kỳ hạn, 19% dùng trực tiếp cho đầu tư, nhưng cũng chủ yếu cho đầu tư ngắn hạn hoặc đầu tư vào bất động sản. Thị trường vốn của Việt Nam chưa thực sự hình thành, nên hiện nay nguồn vốn duy nhất mà các doanh nghiệp có thể huy động là vốn tín dụng. Song nguồn vốn tín dụng hiện nay tại chủ yếu là tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của doanh nghiệp, nguồn tín dụng trung hạn và dài hạn rất hạn hẹp. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng không dễ dàng đáp ứng yêu cầu vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Việc cổ phần hoá, bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước không thuộc lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế cho người lao động trong doanh nghiệp, cho các pháp nhân, thực hiện đa dạng hoá hình thức sở hữu, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư sẵn có vào phát triển kinh tế. Việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần chính là để tận dụng được ưu điểm vốn có công ty cổ phần về huy động vốn: công ty sản phẩm có thể thu hút nguồn vốn lớn của các tổ chức, kể cả ngân hàng thương mại và công ty tài chính đến các nguồn vốn nhỏ bé và phân tán của các thể nhân. Do vậy, công ty cổ phần có cơ chế huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Vai trò của các công ty cổ phần trong việc huy động vốn sẽ được nâng cao hơn khi thị trường chứng khoán nơi mua bán cổ phiếu, được hình thành và phát triển. Trên thị trường này, cổ phiếu của các công ty cổ phần là khoá được người mua quan tâm. Song điều cốt lõi là hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần phải được bảo đảm.Đó chính là điều kiện tiên quyết để thu hút vốn đầu tư. Điều này các công ty cổ phần có khả năng bảo đảm được do quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng. Các thành viên của công ty quan tâm đến công tác quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Với việc huy động vốn, các công ty cỏ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đến lượt mình, những điều đó lại là cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân. Trong phạm vi doanh nghiệp, sự thay đổi này thể hiện ở những khía cạnh sau đây: - Cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thay đổi: các cổ đông thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc lựa chọn và bầu những ngươì có đủ năng lực và uy tín vào hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, giám đốc điều hành được hội đồng quản trị lựa chọn và bổ nhiệm. - Quyền chủ động quyết định những vấn đề liên quan đến đầu tư và sản xuất kinh doanh được hoàn toàn thuộc về công ty. Những quyết định đó được đưa ra trên cơ sở tính tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, tôn trọng pháp luật và sự biến động của môi trường kinh doanh, trong đó quan trọng hàng đầu là sự biến động của thị trường. - Từ đó, năng lực, trình độ và bản lĩnh kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý buộc phải được nâng cao hơn, sự dựa dẫm, ỷ lại vào Nhà nước hoặc tập thể bị xoá bỏ. Tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh được hợp lý hơn, bộ máy quản lý được tổ chức tinh gọn và có hiệu quả hơn các chi phí sản xuất kinh doanh, trong đó có chi phí quản lý được giảm nhiều. - Trong hoạt động của mình, công ty cổ phần vẫn phải đạt tới những mục tiêu xã hội ổn định, những gánh nặng xã hội của doanh nghiệp được giảm bớt đến mức hợp lý. Do quyền lợi và trách nhiệm thiết thân, hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý, điều hành, cũng như của toàn thể cổ đông. Đối với quản lý Nhà nước, sự thay đổi này thể hiện trên những khía cạnh sau đây: - Thay đổi phương thức quản lý: Nhà nước không thể tác động trực tiếp đến doanh nghiệp với tư cách là người chủ sở hữu của doanh nghiệp. Để làm tròn bổn phận của mình trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải quan tâm hơn đến việc tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. - Thúc đẩy sự phân định rõ hơn chức năng rõ hơn quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. - Thúc đẩy việc cải cách hành chính, nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội ngũ công chức trong các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế. - Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người góp vốn thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình với hoạt động của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp Nhà nước, người lao động được coi là người chủ. Nhưng điều đó mang tính hình thức. Chuyển sang công ty cổ phần vốn và tài sản thuộc sở hữu tập thể của các cổ đông. Một bộ phận trong các cổ đông trước đây là những người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước trở thành người chủ sở hữu đích thực của công ty, họ cùng với những cổ đông khác tham gia vào quá trình quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của công ty nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Việc bảo đảm quyền làm chủ thực sự với quá trình sản xuất kinh doanh của công ty vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm thiết thân của họ. Khi mua cổ phiếu của công ty tức là thực hiện hoạt động đầu tư vào công ty cổ phần, mỗi người đã có sự đắn đo trên nhiều mặt. Cái mà mỗi người quan tâm mà đầu tư đó phải sinh lợi. Khả năng sinh lợi của đầu tư ấy lại phụ thuộc trực tiếp vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. Là người chủ đầu tư - chủ sở hữu, cổ đông có quyền tham gia vào quá trình quản lý điều hành của công ty theo đúng qui định của pháp luật và điều lệ công ty cổ phần. Quan tâm và tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của công ty cũng chính là lợi ích trực tiếp và thiết thân của họ. Điều này góp phần xoá bỏ tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, kích thích mọi người phát huy hết khả năng của mình vì sự phát triển và hưng thịnh của công ty cổ phần. Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới. Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện chủ trương này một mặt Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển mạnh kinh tế phi Nhà nước, mặt khác, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Do những nguyên nhân lịch sử, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã hình thành trong những năm trước đây đã bộc lộ ngày càng rõ sự bất hợp lý và yếu kém. Đó là: - Sự phát triển dàn trải trong hầu khắp các lĩnh vực, các ngành của đời sống kinh tế - xã hội. - Qui mô nhỏ bé. Trong số 5800 DNNN hiện nay, số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 25%, số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm 36%. - Trình độ trang bị công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh yếu thiếu vốn để kinh doanh và đầu t._.ư đổi mới công nghệ. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp kém. Năm 1998, chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các DNNN đã lên đến 5.005 tỷ đồng. Với thực trạng đó DNNN không thể đóng được vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hơn nữa lại còn tạo nên gánh nặng cho Nhà nước. Việc sắp xếp lại DNNN theo hướng. Nhà nước tập trung nắm giữ các doanh nghiệp then chốt, trọng điểm của nền kinh tế quốc dân, chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNNN khác chính là nhằm tăng cường lực lượng kinh tế Nhà nước trong cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Với một số lý do chủ yếu trên, có thể khẳng định rằng việc đổi mới hệ thống DNNN, trong đó có việc cổ phần hoá một số DNNN, là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Việc cổ phần hoá hướng tới những mục tiêu cơ bản sau: - Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN. - Nâng cao tính cạnh tranh, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng cổ phần hoá không phải tự nó có thể mang lại những hiệu quả như mong muốn. Đây là quá trình phức tạp bởi lẽ nó không phải là vấn đề mang tính ý nghĩa kinh tế thuần tuý, mà còn chứa đựng những nội dung chính xã hội. Nếu không bảo đảm được sự thông suốt về nhận thức tư tưởng, nếu không có những cơ chế chính sách rõ ràng và sự chỉ đạo kiên quyết nhưng thận trọng, nếu không bảo đảm môi trường kinh doanh thông thoáng và bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thì quá trình cổ phần hoá cũng không thể thực hiện được những mục tiêu đã định. 4. Qui trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần có thể được thực hiện với những mức độ và hình thành khác nhau. Theo NĐ 44/CP/1998 ngày 29 tháng 6 năm 1998 của chính phủ, có 4 hình thức cổ phần hoá DNNN. - Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp,phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Theo hình thức này, thường Nhà nước vẫn nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong tổng vốn điều lệ của công ty cổ phần. - Bán một số bộ phận của doanh nghiệp. Theo đó, Nhà nước vẫn là một cổ đông trong công ty cổ phần. Tỷ lệ cổ phần của Nhà nước tuỳ thuộc vào ý chí của Nhà nước, hoặc khả năng thu hút vốn từ các thể nhân và pháp nhân khác. - Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá. Bộ phận này phải bảo đảm thoả mãn những điều kiện về khả năng thực hiện hạch toán độc lập. Theo hình thức này có thể Nhà nước tham gia hoặc không tham gia công ty cổ phần mới. - Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần. Theo đó, Nhà nước không nắm giữ cổ phần thành công ty cổ phần, toàn bộ sở hữu của Nhà nước trở thành sở hữu của các cổ đông, trong đó có các cổ đông là người lao động ở DNNN này. Cổ phần hoá DNNN là công việc phức tạp. Nhằm trợ giúp các doanh nghiệp cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan thực hiện quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần, ngày 29/8/1998 ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW đã ban hành công văn số 3395/VPCP - ĐMDN hướng dẫn qui trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Qui trình này gồm 4 bước vưói những công việc chủ yếu sau (sơ đồ) Sơ đồ này chỉ nêu vắn tắt những công việc chủ yếu nhất của quá trình cổ phần hoá DNNN. Qui trình này bao gồm 4 khâu công việc lớn, trong mỗi khâu lại bao gồm nhiều công việc cụ thể do ban đổi mới quản lý của doanh nghiệp hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện. Chuẩn bị CPH Lập danh sách DN cổ phần hoá Thành lập Ban Đổi mới quản lý của DN Phổ biến và tuyên truyền chủ trương CPH. Chuẩn bị các hồ sơ tài liệu về DN. Triển khai CPH Phương án giải quyết chính sách với người lao động Kiểm kê tài sản và xác định công nợ. Xác định giá trị DN, giải quyết các tồn đọng tài chính. Xây dựng phương án kinh doanh và dự thảo Điều lệ công ty cổ phần. Thẩm định và Quyết định Thẩm định phương án CPH, giải quyết các tồn đọng liên quan. Quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Thông báo và tổ chức bán cổ phần. Ra mắt công ty cổ phần Chuẩn bị Đại hội cổ đông Đại hội cổ đông. Hoàn tất các thủ tục hành chính- tổ chức cho công ty cổ phần. Sơ đồ: Quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần 5. Kinh nghiệm cổ phần hoá của một số nước 5.1- Khái quát chung: Trong những năm 1980, quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở thành một hiện tượng kinh tế chủ yếu trên toàn thế giới. Chỉ tính từ 1984-1991, trên thế giới đã có 250 tỷ USD tài sản Nhà nước đem bán và chỉ tính trong năm 1991 đã chiếm khoảng 50 tỷ USD. Cổ phần hoá được khởi đầu từ Vương quốc Anh từ cuối những năm 1970. Nhà nước đã thu được 34 tỷ bảng, sau đó quá trình này đã lần lượt diễn ra ở tất cả các nước công nghiệp phát triển với nhiều hình thức phong phú, trong đó cổ phần hoá là hình thức được lựa chọn phổ biến nhất. Bị ảnh hưởng của quá trình cổ phần hoá ở các nước có nền kinh tế thị trường và chủ yếu phải đối phó với vấn đề tăng trưởng cũng như sức ép từ các tổ chức tài chính quốc tế. Các công ty nước ngoài về vấn đề nợ nần..các nước đang phát triển cũng gia nhập vào xu hướng cổ phần hoá này. Đến nay đã có hơn 100 nước với mọi loại tư tưởng kinh tế và chính trị khác nhau đều xây dựng và thực hiện các kế hoạch cổ phần hoá một cách tích cực. Cổ phần hoá đã trở thành một trong những nôi dung chủ yếu của công cuộc cải cách kinh tế ở nhiều nước đang phát triển hiện nay. a - Cổ phần hoá ở nhóm nước tư bản phát triển: Nét đặc trưng của quá trình cổ phần hoá tại các nước tư bản đang phát triển là hình thành các công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước-tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp Nhà nước. Những công ty quốc doanh và các doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới thành các côngty cổ phần hỗn hợp Nhà nước tư nhân đã góp phần quan trọng làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị này trở nên năng động, nâng cao doanh lợi cà khả năng cạnh tranh với các công ty cổ phần tư nhân, kể cả cấp công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới. Đây là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển. b- Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển: * Các nước đang phát triển ở khu vực Mỹ Latin và Caribê: Trong các nước đang phát triển thì các nước thuộc khu vực Mỹ Latinh và Caribê đang tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế Nhà nước một cách tích cực nhất. Dưới áp lực từ những khoản nợ trong và ngoài nước, Chính phủ các quốc gia tại khu vực này tím cách rút khỏi các lĩnh vực sản xuất và bán một phần hay toàn bộ các xí nghiệp Nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Cùng với sự thay đổi chế độ ngoại thương, lập ra các vùng mậu dịch tự do và các Hiệp ước thuế quan để khuyến khích cạnh tranh và buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, Chính phủ các nước này đã mở ra các điều kiện thuạn lợi để khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư tạo ra những động lực mới cho sự tăng trưởng. Đi liến với chính sách tự do hoá thương mại, chính sách cổ phàn hoá được đặt ra như một biện pháp khắc phục quan điểm “hướng nội” và quá trình quốc hữu hoá ồ ạt trước đó. Khu vực này được gọi là sân sau của tư bản Mỹ, nền kinh tế các nước khu vực này từ lâu đã là nền kinh tế mở cửa và chịu sự chi phối rất lớn của các công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia. Đặc điểm này qui định quá trình cổ phần hoá ở các nước này được thực hiện bằng việc bán cổ phiếu của Nhà nước cho các công ty nước ngoài (khoảng 30% đầu tư trực tiép của tư bản nước ngoài được thực hiện thông qua đầu tư cổ phần của các công ty cổ phần hoá). * Các nước đang phát triển ở khu vực Châu á : Nền kinh tế của các nước thuộc khu vực này có tốc độ phát triển nhanh và ổn định trong nhiều năm. Phần lớn các xí nghiệp quốc doanh của các nước Nics và ASEAN đều hoạt động trên cơ sở thị trường và mục tiêu lợi nhuận. Nếu kinh doanh không hiệu quả các doanh nghiệp cũng có thể bị phá sản. Mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước này là Nhà nước rút khỏi lĩnh vực hoạt động nếu xét thấy không cần thiết phai nắm giữ và duy trì sự độc quyền của Nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm thực hiện sự cạnh tranh để nâng cao hiệu quả. Số tiền thu được từ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước sẽ được bù vào khoản Ngân sách Nhà nước dành đầu tư cho các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế chiến lược mà Nhà nước cần có sự tham gia và kiểm soát. 5.2- Những kinh ngiệm rút ra từ quá trình cổ phần hoá ở các nước: * Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá: Sự triển khai có tính toàn cầu quá trình cổ phần hoá chứng tỏ Chính phủ các nước đều nhận tháy sự cần thiết phải xem xét và xác lập mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân theo hướng giảm bớt mức độ kiểm soát trực tiếp của Nhà nước, dành sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế thị trường. Vì vậy, ở Việt Nam trong quá trình đổi mới thì không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với hoạt động của nền kinh tế, đồng thời đòi hỏi phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, coi trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và đây cũng là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. * Tính chiến lược của cổ phần hoá: Kinh nghiệm cổ phần hoá của nhiều nước cho thấy: cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn diện nền kinh tế, vì vậy nó đòi hỏi phải được xét và hành động mang tính chiến lược cao. Phải lựa chọn và cân nhắc trên cơ sở của những mục tiêu lâu dài và xác lập cơ cấu kinh tế, tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế. II. Hệ thống các văn bản pháp qui về cổ phần hoá DNNN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đưa ra chủ trương có tính chất định hướng về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần. Thực hiện chủ trương đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để triển khai công tác cổ phần hoá trong thực tế. Nếu xét theo tiến trình thời gian có các văn bản sau: - Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch HĐBT (nay là thủ tướng chính phủ) về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. - Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. - Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. - Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1999 của Chính phủ về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. - Thông tư số 104/1998/TT - BTC ngày 18/7/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. - Thông tư số 06/1998/TT - NHNN ngày 15/08/1998 của Ngân hàng Nhà nước Việt nam về hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến ngân hàng khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. - Thông tư số 11/1998/TT - LĐTBXH ngày 21/08/1998 của Bộ LĐ - TB - XH hướng dẫn chính sách đối với người lao động khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. - Văn bản số 3395/VPCP - ĐMDN ngày 29/8/1998 của văn phòng chính phủ hướng dẫn qui trình và phương án mẫu cổ phần hoá. - Nghị định số 26/1998/NĐ - CP ngày 07/05/1998 của Bộ tài chính về việc ban hành qui chế quản lý sử dụng tiền bán cổ phần hoá và lợi tức cổ phần của Nhà nước. - Thông tư số 117/1998/TT - BTC ngày 22/08/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn thực tập ưu đãi về thuế và lệ phí chước bạ theo qui định tại điều 13 Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. - Công văn số 48/VPCP - ĐMDN ngày 06/07/1999 của Văn phòng Chính phủ về việc doanh nghiệp chưa cổ phần hoá. - Công văn số 430/KB - HĐV ngày 14/5/1998 của Kho bạc Nhà nước Trung ương về việc hướng dẫn quản lý cung cấp chứng chỉ cổ phiếu hướng cho các công ty cổ phần. - Công văn số 144/TC - TCDN ngày 12/1/2000 của Bộ Tài chính về việc tổ chức XĐGTDN. - Công văn số 6906/TC - TCDN ngày 14/12/1999 của Bộ Tài chính về việc thu sử dụng vốn ở DNNN đã cổ phần hoá. - Công văn số 6030/TC - TCDN ngày 10/12/1999 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn sử dụng khoản giảm thuế lợi tức của công ty cổ phần hoá. - Quyết định số 145/1999/QĐ - TTg ngày 28/6/1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hàng qui chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. - Quyết định số 177/1999/QĐ - TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN. - Chỉ thị số 350/CP - ĐMDN ngày 02 tháng 5 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp đổi mới DNNN. Như vậy, từ năm 1992 cho đến tháng 4/1996, hình thức văn bản pháp lý cao nhất về cổ phần hoá mới là quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Từ 7/5/1996, hình thức văn bản pháp lý đã được nâng lên mức Nghị định của Chính phủ. Điều đó thể hiện khuôn khổ pháp lý để thực hiện cổ phần hoá ngày càng đầy đủ hơn. Các văn bản pháp qui hiện hành về cổ phần hoá DNNN qui định những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, định hướng danh mục phân loại các DNNN. Theo đó, các DNNN được chia thành 3 loại. * Loại DNNN hiện có chưa tiến hành cổ phần hoá: doanh nghiệp công ích, DNNN sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ Nhà nước độc quyền kinh doanh. * Loại DNNN hiện có tiến hành cổ phần hoá nhưng Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. * Loại DNNN hiện có còn lại đều có thể thực hiện cổ phần hoá và áp dụng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác trong đó Nhà nước không nắm cổ phần chi phối cổ phần đặc biệt hoặc không nắm giữ cổ phần. Thứ hai, qui định lượng cổ phần tối đa một cá nhân và pháp nhân được mua lần đầu và khi tiến hành cổ phần hoá. Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, một cá nhân không được mua quá 5% tổng sổ cổ phần, một pháp nhân không quá 10%. Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối cổ phần đặc biệt: cá nhân không quá 10%,pháp nhân không quá 20%, loại DNNN không tham gia cổ phần thì không hạn chế số lượng cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải bảo đảm số cổ đông tối thiểu theo đúng qui định của luật công ty (từ 1/1/2000 là luật doanh nghiệp). Thứ ba, những vấn đề liên quan đến xác định giá trị doanh nghiệp. Trong khi thị trường chứng khoán còn đang hình thành cho phép xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp để cổ phần hoá căn cứ theo số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá và giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá trị thường tại thời điểm cổ phần hoá. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cho phép chỉ được tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Thứ tư, xác định những ưu đãi với doanh nghiệp cổ phần hoá. * Doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần được coi là hình thức đầu tư mới, được hưởng ưu đãi theo qui phạm của luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo qui định của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty (từ 1/1/2000 là luật doanh nghiệp). * Được miễn lệ phí chước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá thành sở hữu của công ty cổ phần. * Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng với DNNN. * Được tiếp tục XNK hàng hoá theo các chế độ qui định hiện hành như đối với DNNN trước khi cổ phần hoá. * Trước khi cổ phần hoá được chủ động sử dụng số dư quĩ khen thưởng và quĩ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ phần. Duy trì và phát triển quĩ phúc lợi dưới dạng (hiện vật, các công trình khác nhau, CLB, bệnh xá, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể, người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn. Thứ năm, qui định những ưu đãi với người lao động ở doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần. * Mỗi năm làm việc cho Nhà nước, mỗi người lao động được mua tối đa 10 cổ phần (giá trị 1 cổ phần là 100.000đ) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác. * Những người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá mua cổ phần ưu đãi được hoàn trả trong 3 năm đầu để hưởng lợi tức và trả dần tối đa trong 10 năm không phải chịu lãi suất. * Chính sách bảo đảm việc làm cho người lao động trợ cấp đào tạo tại lao động theo phương án xây dựng mới của công ty cổ phần. III. Khái quát tình hình chung về cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. Có thể chia tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam từ khi bắt đầu thực hiện đến nay thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995); giai đoạn mở rộng từ 5/1996 đến 6/1998; giai đoạn đẩy mạnh (từ khi thực hiện cổ phần hoá DNNN theo Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 đến nay. 1. Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995) Ngày 8/6/1992 chủ tịch HDBT ( nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành chỉ thị số 202/CT về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng chính phủ ban hành tiếp chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN. Chỉ thị số 202/CT đã chọn 07 DN làm thí điểm đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chọn từ 1 đến 2 DN để tổ chức thí điểm để chuyển thành công ty cổ phần. Sau 4 năm thực hiện chỉ thị số 202/CT ngày 08 tháng 6 năm 1992 và chỉ thị 84/TTg của Thủ tướng Chính phủ (1992-1996) đã chuyển được 5 DNNN thành công ty cổ phần là: Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thành bộ Giao thông vận tải, được cổ phần hoá năm 1993. Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh được cổ phần hoá năm 1993. Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công ỡƠÁG ¿‡ bjbjŽÙŽÙ ° ỡ³ỡ³ễ²ÿÿÿÿÿÿ]ppppppp„„„„8ẳỡƠÁG ¿‡ bjbjŽÙŽÙ ° ỡ³ỡ³ễ²ÿÿÿÿÿÿ]ppppppp„„„„8ẳiêu cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị DN, chế độ ưu đãi với DN và người lao động trong DN chuyển thành công ty cổ phần. Tổ chức bộ máy giúp Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá DNNN đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến tháng 5/1998 đã có 25 DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy từ năm 1992 đến tháng 5/1998 cả nước mới có 30 DN chuyển thành cổ phần hoá với vốn điều lệ là 281 tỷ đồng VN (bình quân 9.6 tỷ / 1 công ty ) và gần 6000 lao động. Trong số các DN đã cổ phần hoá có 12 DN hoạt động từ 1 năm trở lên theo Luật Công ty. Các DN sau khi cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả hơn, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu đều đạt cao hơn trước. Vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước) tăng bình quân 19.06%/năm. Doanh thu tăng bình quân tăng 44%/năm. Các khoản nộp Ngân sách tăng bình quân 82%/năm. Tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gồm vốn góp ban đầu và vốn tích luỹ) tăng 44%. Số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30%/năm. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 14.3%/năm. Ngoài ra người lao động có cổ phần trong công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế 22-24%/năm (gửi tiết kiện tối đa cũng chỉ đạt 12%/năm). 3. Giai đoạn từ khi thực hiện cổ phần hoá DNNN theo Nghị định 44/CP ngày 26 tháng 9 năm 1998 đến nay: Kể từ khi nghị định 44/CP được ban hành đến ngày 19 tháng 7 năm 2000, cả nước đã cổ phần hoá được 603 DN đưa tổng số DN đã thực hiện cổ phần hoá đến tháng 5 năm 2001 là 633 DN chiếm 10% tổng số DNNN hiện có và 10% số vốn Nhà nước tại DN. Các DN sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động cao hơn về mọi mặt, kể cả những DN mới chuyển thành công ty cổ phần. Một số DN trước khi cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn thì sau khi cổ phần hoá đã đạt những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Nghị định 44/CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần đã tạo ra hành lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả DN và người lao động tham gia cổ phần hoá DNNN. Mặc dù vậy, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với yêu cầu của Nhà nước. Để thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả cổ phần hoá DNNN phải giải quyết nhiều vấn đề từ nhận thức tư tưởng, cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện, từ DN đến cơ quan quản lý Nhà nước. Phần thứ 2: Thực trạng công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải dương. I. Khái quát chung về quá trình đổi mới DNNN ở Hải Dương 1. Khái quát thực trạng hệ thống DNNN của Tỉnh Hải dương quản lý: Từ khi thực hiện chủ trương đổi mới đến nay , bộ mặt kinh tế của Hải Dương đã có những thay đổi to lớn, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của cả nuớc. Trong sự hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực kinh tế phi nông nghiệp, kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là các DNNN do Tỉnh trực tiếp quản lý đang trong quá trình đổi mới để vươn lên trở thành lực lượng trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Hải dương . Trong quá trình này, các DNNN đã có những thay đổi tích cực và cũng đã bộc lộ ngày càng rõ những mặt yếu kém. Dưới đây xin trình bày những nét tổng quan về thực trạng các DNNN do Tỉnh trực tiếp quản lý. Tổng số DNNN có đến 31/12/1998 ; 69 DNNN (Trong đó: DNNN hoạt động kinh doanh là 50 DN; DNNN hoạt động công ích hoàn toàn 16 DN; DNNN có một phần hoạt động công ích là 3 DN), chia theo các ngành kinh tế - kỹ thuật như sau: Sở Xây dựng: 10 DN, chiếm 14,7% tổng DNNN Tỉnh Sở GT - VT: 6 DN, chiếm 8,8%. Sở Công nghiệp: 7 DN, chiếm 10,3% Sở Thương mại và du lịch: 10 DN chiếm 14,7% Sở Nông nghiệp & PTNT: 28 DN, chiếm 40,6% Chi cục PCLB và QLĐĐ : 01 DN, chiếm 40, 1,5% Sở Văn hoá - Thông tin: 2 DN, chiếm 2,9% Sở Y tế: 1 DN, chiếm 1,5%. Sở Lao động - Thương binh và xã hội: 1 DN chiếm 1,5%. Sở Tài chính - Vật giá : 1 DN, chiếm 1,5% Sở Giáo dục - Đào tạo : 1 DN, chiếm 1,5% Đài Phát thanh - Truyền hình : 1 DN, chiếm 1,5% Các DNNN trên địa bàn Hải dương được phát triển rộng rãi trong nhiều ngành và nhiều lĩnh vực hoạt đôngj từ lĩnh vực then chốt trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân, đến lĩnh vực sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ thông thường cho dân cư từ lĩnh vực công ích, đến lĩnh vực kinh doanh (xem phụ lục 1) Phụ lục 1: Phân loại DNNN theo ngành nghề kinh doanh Kinh doanh phát triển nhà: 1 DN Xây dựng dân dụng, CN: 5 DN Xây dựng lưới điện: 1 DN XD giao thông: 1 DN XD thuỷ lợi: 2 DN Nạo vét thuỷ lợi: 1 DN Tư vấn XD (giao thông, XD, thuỷ lợi): 3 DN SXVL - XD: 1 DN Cấp nước sạch: 1 DN May: 2 DN Da giầy: 2 DN Cơ khí điện (CN, GT-VT, Nông nghiệp, PT - TH) : 4 DN Khai thác, chế biến khoáng sản: 1 DN Chế biến gỗ : 1 DN Vận tải ô tô hàng hoá: 1 DN Vận tải ô tô hành khách: 1 DN Sản xuất giống lúa, màu: 2 DN Sản xuất cá giống: 4 DN Truyền giống gia súc: 1 DN Trồng trọt (trồng cây, dâu tằm): 3 DN Lâm nghiệp: 1 DN Khai thác công trình thuỷ lợi: 12 DN Dược phẩm thiết bị y tế: 1 DN In: 1 DN Phát hành sách Giáo khoa & Thiết bị tin học: 1 DN Chiếu bóng: 1 DN Cảng : 1 DN Khách sạn - Dulịch: 1 DN Thương mại - Dịch vụ (ngành Thương mại, Nông nghiệp): 6 DN Xuất - Nhập khẩu: 4 DN Xổ số kiến thiết :1 DN Dịch vụ lao động: 1 DN Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Hải dương có quy mô nhỏ bé. Tổng số vốn kinh doanh 586 tỷ 760 triệu đồng; trong đó: vốn Nhà nước (NSNN cấp và vốn có nguồn gốc từ NSNN ) là 195 tỷ 421triệu đồng. Có 50 DN (chiếm 72,3% tổng số DNNN của Tỉnh) không có đủ vốn pháp định theo quy định của Nhà nước, mức vốn bình quân 1 doanh nghiệp là 2 tỷ 832 triệu đồng 19 doanh nghiệp (chiếm 27,5%) có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Tình hình lỗ, lãi: Năm 1998, trong tổng số 67 DNNN hoạt động có 43 doanh nghiệp (bằng 64,1%) hoạt động có lãi 5 tỷ 288 triệu đồng; 6 doanh nghiệp (bằng 9%) hoà vốn; 18 DN (bằng 26,9%) bị lỗ 17tỷ 847 triệu đồng Tình hình công nợ: Tổng số nợ phải trả: 361 tỷ 492 triệu đồng, trong đó 48 DNNN của Tỉnh nợ BHXH: 11 tỷ 931 triệu đồng. Tổng số nợ phải thu: 168 tỷ 48 tr.đ; trong đó nợ khó đòi 25 tỷ 222 trđ, chiếm 15% tổng số nợ phải thu Đánh giá chung về tình hình DNNN của Tỉnh Hải Dương. Sau khi sắp xếp theo chỉ thị 500 /TTg đến 1/7/1999 một số doanh nghiệp sau khi được tổ chức lại, đã từng bước ổn định, thích nghi dần với cơ chế mới và phát triển với nhịp độ tăng trưởng khá, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên. 18% DNNN đã có điều kiện đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, tập trung vào các ngành : chế biến nông sản thực phẩm, may; da giầy; sản xuất xi măng. Thu nhập của một bộ phận lao động có việc làm ổn định hơn đời sống được cải thiện. Số lượng DNNN giảm, nhưng mức nộp ngân sách (thuế doanh thu và thuế lợi tức) mà các doanh nghiệp tăng dần (1991: 2.702 triệu đồng năm 1992: 2.592 triệu, năm 1993: 4.807,2triệu năm 1994 7.751triệu, 1995: 9.426 triệu; năm 1996: 9.377,8 triệu , năm 1997: 10.208 triệu, năm 1998: 12,882 triệu). - Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý doanh nghiệp được nâng lên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất - kinh doanh, số doanh nghiệp sử dụng lao động có chuyên môn . Bên cạnh những mặt tích cực, các DNNN còn rất nhiều mặt yếu kém. Các DNNN sử dụng 195 tỷ 421 tr.đ vốn của Nhà nước và trên 18,638 ha đất ở những địa điểm thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, có hơn 80% lao động được đào tạo, nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. - Trình độ thiết bị, công nghệ của đa số các DNNN còn lạc hậu và chưa đồng bộ , chất lượng nhiều sản phẩm kém, chưa đủ sức cạnh tranh. Một bộ phận doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, chưa ổn định lúng túng trong xác định hướng phát triển. Doanh nghiệp hiện nay chủ yếu tự bươn chải trong các lĩnh vực, mang nhiều tính tự phát . Trong một số lĩnh vực, vai trò của các DNNN địa phương còn mờ nhạt. - Một bộ phận các DN trên thực tế có sở hữu hỗn hợp, thực chất đã được cổ phần hoá về sở hữu, nhưng cơ chế tổ chức, quản lý tài chính và quản lý sản xuất - kinh doanh phân phối lợi ích và kiểm soát..., chưa phù hợp nên chưa tạo ra động lực để phát triển - Giao vốn , tài sản cho doanh nghiệp nhưng chưa kiểm kê và định giá cụ thể, chính xác. Công tác tài chính, kế toán doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, kiểm tra, giám sát về tài chính doanh nghiệp chưa theo kịp nên dẫn đến thất thoát tài sản, tiền vốn, lãi giả lỗ thật. - Còn nhiều DNNN có quy mô quá nhỏ, bố trí phân tán tình trạng doanh nghiệp thiếu vốn để duy trì hoạt động và đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất là phổ biến. Tình hình tài chính của doanh nghiệp chưa lành mạnh, chưa giải quyết được dứt điểm những tồn tại về tài chính phát sinh từ nhiều năm nay. - Cơ cấu ngành và vùng lãnh thổ còn có bất hợp lý, hoạt động chồng chéo. Việc một số DNNN địa phương tham gia các tổng công ty TW chưa đem lại hiệu quả rõ ràng, không tạo ra sự thay đổi cơ cấu DNNN theo ngành trên địa bàn lãnh thổ, chưa giải quyết được tình trạng nhiều DNNN hoạt động cùng ngành nghề trên một địa bàn, mà chỉ có sự thay đổi cấp quản lý. - Chưa xây dựng và vận hành đầy đủ các quy chế về kế hoạch sản xuất – kinh doanh, kế hoạch tài chính cho các DNNN đã được phân loại thành doanh nghiệp chuyên kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích. - Một số bộ phận doanh nghiệp, chưa quản lý chặt chẽ, được vốn doanh số, lao động và thu nhập. Số lao động của các DNNN không có đủ việc làm ổn định tăng, số có việc làm thu nhập còn thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Chưa có cơ chế tạo ra động lực thực sự để doanh nghiệp có điều kiện phát triển. Từ những nét chấm phá sơ bộ trên cho thấy, các DNNN của Tỉnh đang ở trong tình trạng phân tán, nhỏ bé, lạc hậu hiệu quả kinh doanh thấp kém. Đặt trong yêu cầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới, có thể thấy việc đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp lại các DNNN của Tỉnh Hải dương là hết sức cấp thiết. 2. Quá trình sắp xếp lại các DNNN do Tỉnh Hải dương quản lý . Trong chương trình chung về đổi mới DNNN thực hiện trong phạm vi toàn quốc, Tỉnh Hải Dương đã có những nỗ lực to lớn để triển khai nhanh và có hiệu quả việc sắp xếp lại DNNN . Sau khi có chỉ thị 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh và sắp xếp đổi mới DNNN , UBND Tỉnh Hải dương thành lập “Ban đổi mới quản lý DN Tỉnh do đồng chí phó chủ tịch UBND Tỉnh làm trưởng ban , với sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý Nhà nước. Ban này làm nhiệm vụ xây dựng phương án và chỉ đạo quá trình sắp xếp lại các DNNN của Tỉnh. Trên cơ sở điều tra cơ bản, đánh giá và phân loại toàn bộ các DNNN của Tỉnh phương án sắp xếp lại các DNNN trong 1999-2000 đã được xây dựng. Theo đó Tỉnh sẽ gửi và củng cố 50 DNNN, chuyển đổi sở hữu 19 doanh nghiệp. Trong đó cổ phần hoá 9, sát nhập với doanh nghiệp khác 6; chuyển giao TW quản lý 1, Giải thể, phá sản 3. UBND Tỉnh đã tổ chức quán triệt phương án này cho các cơ quan quản lý Nhà nước và các DNNN. Bằng sự năng động sáng tạo , với sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, phương án đã được triển khai trong cuộc sống và bước đầu đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong việc thay đổi cơ cấu DNNN, thể hiện các khía cạnh sau: Số DNNN quản lý 6 DN so năm 1999 (tỷ lệ giảm 6/69), đặc biệt số DN hoạt động kinh doanh giảm._.ung: Theo kế hoạch đến hết năm 2005, cả nước cơ bản sẽ hoàn thành việc sắp xếp chuyển đổi cơ cấu sở hữu khu vực DNNN. Như vậy, khi triển khai dự án trong vòng 5 năm (2001-2005), khu vực DNNN sẽ được phân định rõ, doanh nghiệp Nhà nước nào cần củng cố và phát triển theo hình thức 100% sở hữu Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước nào làm nhiệm vụ công ích; số doanh nghiệp Nhà nước còn lại đại bộ phận sẽ chuyển đổi sở hữu thành công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân ở từng mức độ khách nhau. Một số DNNN khác thuộc các tổ chức chính trị xã hội (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Lao động vv...) quản lý, nếu không chuyển đổi sở hữu sẽ chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Chính phủ đẩy mạnh việc chỉ đạo sắp xếp, đổi mới DNNN , yêu cầu các Bộ, Ngành, địa phương, Tổng Công ty 91 xây dựng hoàn chỉnh đề án tổng thể sắp xếp DNNN thuộc phạm vi quản lý giai đoạn 2001-2005. Kiên quyết sắp xếp lại các Tổng Công ty Nhà nước không đủ điều kiện hoặc hoạt động kém hiệu quả, xây dựng kế hoạch cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu hàng năm. 2. Phương hướng đổi mới sắp xếp lại DNNN ở Hải Dương trong năm 2001 và các năm tiếp theo. Thực hiện chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21-4-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh và sắp xếp đổi mới DNNN. UBND Tỉnh Hải dương đã xây dựng phương án đổi mới sắp xếp DNNN thuộc địa phương quản lý trình Chính phủ phê duyệt. Theo ý kiến chỉ đạo của chính phủ tại công văn số 61/CP-ĐMDN ngày 29/7/1999 về việc sắp xếp DNNN thuộc Tỉnh Hải dương. Ngày 20/2/2001 UBND Tỉnh Hải dương đã kiện toàn Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh và đề ra phương hướng tiếp tục đổi mới sắp xếp nhằm phát triển DNNN thuộc địa bàn Tỉnh trong năm 2001 và các năm tiếp theo. Theo phương án sắp xếp lại các DNNN của Tỉnh Hải dương, trong những năm tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Trước hết, phải nắm rõ được các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước cần nắm giữ, có biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước, phấn đấu không còn doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh thua lỗ không đủ sức cạnh tranh vơí các thành phần kinh tế khác. Hai là, khai thác triệt để tiềm năng sẵn có của Tỉnh. Theo kế hoạch đề ra, đến cuối năm 2001 số DNNN thuộc Tỉnh quản lý còn dưới 50 doanh nghiệp, đó là các doanh nghiệp công ích, các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ sản xuất chế biến hàng nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ và các mặt hàng xuất khẩu khác. Các doanh nghiệp thu hút lực lượng lao động đông, có vốn đầu tư lớn, thiết bị tương đối hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên sẵn có của Tỉnh, có nguồn thu nộp Ngân sách lớn dẫn dắt các doanh nghiệp khác phát triển. Ba là, tích cực sắp xếp đổi mới doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ theo hướng chủ yếu là đa dạng hoá sở hữu các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, có nhiệm vụ chồng chéo, làm ăn thua lỗ. Phấn đấu trong năm 2001 thực hiện cổ phần hoá ít nhất là 10 doanh nghiệp Nhà nước. (Phụ lục 2) II. Mục tiêu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước và chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần Đối với doanh nghiệp Nhà nước công ích được sắp xếp lại theo hướng vừa tăng cường được vai trò quản lý của Nhà nước, vừa tạo điều kiện để các doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao trách nhiệm phục vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các sản phẩm công ích theo yêu cầu. Mục tiêu cổ phần hoá là huy động vốn trong nước, đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả quản lý kinh doanh, tạo động lực mới cho sự phát triển, qua đó cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước và xác định quyền làm chủ thực sự của người lao động trong doanh nghiệp. Thu hút người lao động trong doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vốn vào phát triển doanh nghiệp. đặc biệt là giải quyết thoả đáng với lực lượng lao động dôi dư hoặc mất việc làm trong quá trình cổ phần hoá. Phụ lục II: danh sách các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá năm 2001 Công ty ô tô vận tải hàng hoá Hải dương Công ty ô tô vận tải hành khách Hải dương Công ty Thương mại - Tổng hợp Hải dương Công ty xây lắp III Hải dương Công ty Giao thông Hải dương - cổ phần hoá theo hình thức Nhà nước giữ cổ phần chi phối Cảng Cống Câu - cổ phần hoá theo hình thức Nhà nước giữ cổ phần chi phối Công ty Tư vấn xây dựng giao thông Hải dương- cổ phần hoá theo hình thức Nhà nước giữ cổ phần chi phối Công ty Cơ khí-Điện Hải dương Công ty Giống gia súc Hải dương B. Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá DNNN ở hải dương Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình lâu dài, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và có những bước đi cụ thể. Trong hoàn cảnh Hải dương đây thực sự là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải thực hiện trong nhiều năm. Việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hải dương là cần thiết nhưng phải chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí. Với tính chất quan trọng của chương trình cổ phần hoá, Chính phủ cần đảm bảo hoạt động có hiệu quả của một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến chương trình này trên cơ sở những quan điểm đổi mới và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Chính sách cổ phần hoá luôn cập nhật được thông tin mới và sửa đổi trên cơ sở hướng tới lọi ích của doanh nghiệp và người lao động nhiều hơn thì chắc chắn kết quả cổ phần hoá sẽ rất khả quan. Theo cơ sở những mục tiêu, chính sách đã đề ra, nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Dưới đây là một số giải pháp I. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương chính sách về cổ phần hoá. Thực tế cho thấy đây là công tác chiếm vị trí trọng yếu trong quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Trước hết về mặt quan đIểm, cần giải quyết hai vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất, thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước không dẫn tới làm suy yếu kinh tế Nhà nước, bởi lẽ: Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các doanh nghiệp then chốt, trọng yếu , tạo nền tảng của sự phát triển nền kinh tế quốc dân và sức mạnh kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản của Nhà nước không bị giảm đi, mà có khả năng tăng thêm nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước ở công ty cổ phần và các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả sẽ gia tăng mức đóng góp vào ngân sách Nhà nước. - Quá trình cổ phần hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, việc thực hiện cổ phần hoá không làm ảnh hưởng đến quyền lợi kinh tế và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó chính là một trong những mục tiêu của cổ phần hoá mà chúng ta thực hiện. Khi thực hiện công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương cổ phần hoá cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây. Xác định những nội dung thiết thực : ngoài những nội dung chung về công ty cổ phần và chủ trương chính sách chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, cần xác định nội dung trọng tâm cần phổ biến, tuyên truyền cho từng loại đối tượng cụ thể, tránh sự dàn trải. Chẳng hạn, với người lao động , cái người ta quan tâm hơn cả là những quyền lợi được hưởng và trách nhiệm mà phải gánh chịu khi doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, họ cũng hết sức quan tâm đến kết quả hoạt động của những doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần. Thực hiện với những hình thức đa dạng, coi trọng hiệu quả của công tác phổ biến và tuyên truyền. Cần bảo đảm thực sự dân chủ và cởi mở trong việc làm mỗi người bộc bạch một cách công khai và thẳng thắn những vướng mắc về tư tưởng . Những thắc mắc của người lao động dù lớn hay nhỏ dù phổ biến hay cá biệt đều phải được giải đáp một cách cụ thể. II. Hoàn thiện chính sách ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá Theo Nghị định 44/CP Chính sách của Nhà nước đối với người lao động trong DNNN chuyển thành công ty cổ phần đã được điều chỉnh theo hướng tăng cường ưu đãi, tạo điều kiện cho người lao động có cổ phần và thực hiện quyền làm chủ, cũng như đảm bảo công ăn việc làm, thu nhập của khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Đào thải lao động là hệ quả tất yếu của quá trình cải cách hoạt động của doanh nghiệp. Bước từ mô hình doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần, nếu đặt yêu cầu đảm bảo việc làm và thu nhập của tất cả người lao động trong mối tương quan với nhu cầu thị trường thì đây là sự cầu toàn lý thuyết. Chuyển đổi hoạt động sang mô hình mới với cơ chế quản lý lao động mới mà vẫn giữ nguyền đòi hỏi về số lượng lao đôngj cũ là điều phi thực tế. Cái phi thực tế nằm ở chỗ một bộ phận trong số lao động cũ này không đáp ứng được yêu cầu về trình độ, tay nghề...nên để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh trong một cơ chế bị giám sát chặt chẽ thì ban lãnh đạo công ty cổ phần chắc chắn phải cắt giảm soó lao động dôi dư này. Với người lao động thuộc diện dôi dư, một khoản tiền trợ cấp được qui định trong Nghị định 44/CP được lấy từ tiền bán cổ phần, việc chi trả phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng doanh nghiệp nên thực tế lượng trợ cấp này không lớn. Trong khi yêu cầu thực chất của người lao động vẫn là việc làm để đảm bảo thu nhập ổn định. Vì vậy, giải quyết lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá DNNN là rất quan trọng. Phương án giải quyết lao động của các DNNN chuyển thành công ty cổ phần cần được xét trên hai mặt: Bảo đảm việc làm và cuộc sống của người lao động; bảo đảm điều kiện để công ty cổ phần đạt được yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có hiệu quả sử dụng lao động. Trên cơ sở nhận thức đó, giải quyết việc làm là trách nhiệm của cả người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước. Nhà nước cần ban hành các qui định cụ thể về xử lý các lao động dôi dư, đào tạo lại lao động. Bài toán việc làm cho người lao động sẽ được giải quyết trên cơ sở phối hợp sự nỗ lực từ nhiều phía: * Người lao động chủ động tìm kiếm cơ hội mưu sinh của mình với sự trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức nghề nghiệp. * Các doanh nghiệp phát huy trách nhiệm và sự năng động tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, mở rộng sản xuất kinh doanh để bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo thêm chỗ làm việc mới. * Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển kinh tế phi Nhà nước để tạo thêm việc làm. * Nhà nước trực tiếp tổ chức việc đào tạo lại nghề nghiệp cho lao động đôi dự ở doanh nghiệp Nhà nước hoặc trợ cấp tài chính cho lao động này để học tự tìm cách học nghề. Hiện nay tiến trình cổ phần hoá đã có những dấu hiệu chững lại từ phía người lao động do lo ngại quyền lợi không được đảm bảo. Nếu để chậm sẽ có tác động bất lợi từ tâm lý này, e rằng ngày càng một lớn hơn. Vì vậy, Nhà nước cần có chương trình cụ thể để giải quyết vấn đề này, tránh trường hợp những người chống đối lợi dụng để trì hoãn tiến trình cổ phần hoá. * Xoá bỏ quy định mức khống chế cổ phần tối đa được mua của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp (Giám đốc, Phó giám đốc, kế toán trưởng) không được mua cổ phần quá mức bình quân chung của người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này bộc lộ những khiếm khuyết trong việc tạo tâm lý tin tưởng của người lao động trong doanh nghiệp, hạn chế khả năng huy động vốn. Bởi vậy, để đảm bảo sự công bằng xã hội Nhà nước có thể sử dụng các công cụ kinh tế khác chứ không nên qui định hạn chế mức mua cổ phần của mọi người trong doanh nghiệp. * Sớm ban hành qui chế tuyển chọn và qui định rõ về chức năng quyền hạn của người đại diện phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần. III. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá. Để chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần phải tiến hành việc xác định giá trị doanh nghiệp, trong đó có xác định giá trị phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Xác định giá trị doanh nghiệp không phải là công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần tuý, mà có ý nghĩa kinh tế - xã hội trọng yếu vì nó liên quan đến việc bảo toàn vốn của Nhà nước, đến quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá và đến khả năng bảo đảm hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần trong tương lai. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp "là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phiếu đều chấp nhận được" là phù hợp với nguyên tắc thị trường. Song việc áp dụng qui định này trong thực tế lại vấp phải nhiều khó khăn. Đó là: - Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, các loại thị trường chưa phát triển đồng bộ. Hiện nay, Việt nam chưa có một phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế. Việc tính toán và mua bán tài sản chưa có cơ sở, mang nhiều tính ước lệ, chủ quan. - Sự phức tạp này còn gia tăng bởi các yếu tố đi kèm như xử lý nợ khó đòi, thẩm định giá trị nhà xưởng máy móc thiết bị ( Có nhiều loại tài sản dùng trong doanh nghiệp Nhà nước đã hết thời hạn khấu hao lại được đánh giá và dùng lại, trình độ kỹ thuật hết sức thấp kém); quyền sử dụng đất (việc xác định giá trị này rất phức tạp do dính dáng tới hệ thống pháp luật về đất đai hiện đang trong quá trình chuyển đổi và chưa ổn định); tính toán lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. - Hệ thống sổ sách kế toán của các doanh nghiệp chưa đầy đủ và rõ ràng gây khó khăn cho việc xác định chính sách giá trị doanh nghiệp. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần đảm bảo: Không gây nên những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước; tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Những nguyên tắc và phương pháp xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp nêu trong nghị định 44/CP về cơ bản đáp ứng các yêu cầu này. Trong việc thực hiện thực tế cần chú ý thêm một vấn đề sau: * Phân loại các tài sản trước đây Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp Nhà nước để có biện pháp xử lý hợp lý.Theo đó: - Những tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phù hợp với phương án kinh doanh mới của công ty cổ phần sẽ chuyển giao lại cho công ty cổ phần theo giá trị tại thời điểm chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. - Những tài sản của Nhà nước không phù hợp với phương án kinh doanh mới sẽ chuyển giao lại cho Nhà nước để điều chuyển sang doanh nghiệp khác hoặc thanh lý, không ép buộc công ty cổ phần mới phải nhận. - Những tài sản đã hết tài sản khấu hao (tức là Nhà nước đã thu hồi vốn) sẽ được chuyển giao lại cho công ty cổ phần mà khôngtính vào giá trị của Nhà nước tại doanh nghiệp. * Với những tài sản trước đây doanh nghiệp Nhà nước vay vốn để đầu tư nay đã hoàn lại đủ vốn cho người cho vay, nên được chia thành hai phần: - Một phần thuộc sở hữu Nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp của Nhà nước đầu tư, phần vốn tăng thêm thuộc sở hữu Nhà nước. - Một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là sự ưu đãi khuyến khích tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao động trong doanh nghiệp. * Xác định hợp lý, hợp tình những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước. Có thể xoá bỏ cho doanh nghiệp những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên nhân khách quan (Ví dụ tình trạng lạm phát cao trong những năm đầu thập kỷ 90). * Nhà nước cần có cơ chế cụ thể xử lý đối với những tài sản và nợ loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp, thành lập công ty quản lý tài sản và mua bán nợ để hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính khi thực hiện đề án chuyển đổi sở hữu và giảm tối thiểu tổn thất của Nhà nước trong quá trình thuực hiện chuyển đổi sở hữu. Mặt khác, sự ra đời này giúp cho các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh và hỗ trợ các doanh nghiệp cổ phần hoá không đủ điều kiện niêm yết thực hiện mua bán trao đổi cổ phiếu. * Đổi mới việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp: - Thu hút các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật của các cơ quan khoa học, các trường vào việc đánh giá tài sản. Thực sự tôn trọng ý kiến của các chuyên gia trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản. - Đề cao vai trò của đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Xét rộng ra có thể coi người đại diện này cũng chính là "đại diện của những người mua" theo tinh thần NĐ 44/CP đã xác định. Để thực sự quán triệt việc xác định giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường, theo đó người bán (Nhà nước) và người mua (đại diện các cổ đông của công ty cổ phần tương lai) thương lượng và thoả thuận với nhau về loại tài sản và giá cả của chúng, Nhà nước nên chuyển từ hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp có tính chất áp đặt sang đấu giá tài sản của doanh nghiệp. Đây là công tác hết sức mới mẻ, cần tổ chức thí điểm rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi trong thực tế. IV. Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình cổ phần hoá DNNN: 1. Xác định đối tượng thực hiện cổ phần hoá: Cần xác định có sự linh hoạt và mềm dẻo trong việc xác định DN cổ phần hoá trong từng thời kỳ để tránh sự gò ép. Việc xác định DN tiền hành cổ phần hoá nhất thiết phải trên cơ sở phân loại DN. Do vậy, việc phân loại DN phải tiến hành khẩn trương hơn. Từ sự phân loại DN đó, bản thân mỗi DN đã tự xác định sự tất yếu phải tiến hành cổ phần hoá. Cũng cần nhấn mạnh rằng khi cần chỉ định DN cổ phần hoá cần có sự trao đổi giải quyết vướng mắc tư tưởng cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của DN. Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương cổ phần hoá trong DN cho người lao động trong DN. 2. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch cổ phần hoá DNNN: Trong việc triển khai thực hiện cổ phần hoá, Ban đổi mới quản lý của DN cần chú ý tới nội dung sau: Xác định rõ những công việc phải quán xuyến trong toàn bộ quá trình cổ phần hoá (chẳng hạn công tác tuyên truyền, giải đáp thắc mắc của người lao động.) Trong việc tổ chức thực hiện cổ phần hoá DNNN cần chú ý tới một số vấn đề sau: - Đề cao trách nhiệm của Ban cổ phần hoá - Đơn giản hoá các thủ tục liên quan tới cấp giấy chứng nhận kinh doanh cho công ty cổ phần thành lập từ DNNN. Trong hồ sơ xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cần tôn trọng những điểm mà công ty cổ phần đã kế thừa hợp lệ từ DNNN, như giấy phép sử dụng đất, đăng ký trụ sở... - Cổ phần hoá DNNN là công tác được tiến hành lâu dài. Bởi vậy để tổ chức công tác này một cách có hiệu quả cần tiến tới thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hoá DNNN hoạt động có tính chất chuyên trách. Ban này sẽ trực thuộc trực tiếp UBND Tỉnh có trách nhiệm trực tiếp lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các công tác liên quan đến chuyền DNNN thành công ty cổ phần và trợ giúp các DN sau khi cổ phần hoá. V. Tạo hành lang pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần Tiến trình sắp xếp lại các DNNN và chuyển DNNN thành công ty cổ phần không ngoài việc là để các công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Công ty cổ phần là kết quả của quá trình cổ phần hoá. Tuy nhiên, do tác động của yếu tố lịch sử, môi trường, thể chế cho hoạt động của các doanh nghiệp đang trong quá trình hình thành còn có những mặt thiếu ổn định và thiếu đồng bộ. Kinh nghiệm quản lý nội bộ của công ty cổ phần và quản lý Nhà nước với loại hình công ty này chưa nhiều. Bởi vậy, để phát huy vai trò của chúng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cần giải quyết nhiều vấn đề mà việc hoàn thiện thể chế pháp lý là một trong những vấn đề trọng yếu. Trong quá trình này, việc đòi hỏi sự đồng bộ các yếu tố pháp lý ngay trong điều kiện hiện nay là điều không thực tế. Việc vội vã ban hành các văn bản pháp qui không hợp lý, để rồi trong thời gian ngắn sau đó điều chỉnh hoặc thay thế bằng văn bản khác sẽ tạo ra những bất định trong môi trường kinh doanh. Có 3 vấn đề lớn sau: 1. Chú trọng hướng dẫn việc thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành từ 01/01/2000 là một bước quan trọng trong việc tạo ra khuôn khổ pháp lý bình đẳng cho các loại hình tổ chưcs kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần chú trọng việc phổ biến, tuyên truyền và giải thích Luật Doanh nghiệp để công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả. 2.Phát huy vai trò của thị trường chứng khoán trong việc hình thành và phát triển công ty cổ phần: Trong luật doanh nghiệp đã quy định những điều khoản chung về công ty cổ phần phát hành cổ phiếu. Nói chung, đây là một công việc mới mẻ và hết sức phức tạp. Bởi vậy, Nhà nước cần có hướng dẫn cụ thể cho các công ty cổ phần về việc phát hành cổ phiếu, tạo điều kiện cho các công ty hoạt động có hiệu quả có thể huy động thêm vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Việc hình thành thị trường chứng khoán có vai trò to lớn với công ty cổ phần và quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Với công ty cổ phần thị trường chứng khoán có hai tác dụng lớn: * Giúp công ty cổ phần tạo vốn và tăng vốn. - Tạo vốn: Khi mới thành lập, công ty cổ phần có thể tạo vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, bán chúng ở thị trường chứng khoán để huy động vốn ban đầu. - Tăng vốn: Trong quá trình hoạt động, khi phát sinh nhu cầu tăng vốn vượt quá khả năng tự có của mình, công ty cổ phần có thể tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu ở thị trường chứng khoán, người mua cổ phiếu là người hùn thêm vốn vào công ty cổ phần. * Giúp công ty cổ phần thấy rõ công chúng xác định giá trị liên tục của mình qua việc định mức giá thị trường cổ phần của công ty. Giá thị trường của công ty cổ phần được đo lường từ giá thị trường cổ phần và tổng số cổ phần cuả công ty. Dựa vào giá chứng khoán diễn biến liên tục trên thị trường, công ty cổ phần sẽ biết được lòng tin và đánh giá của công chúng với kết quả hoạt động và triển vọng phát triển của mình. Theo đó, rõ ràng là khi thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần có nhiều thuận lợi hơn. Nhưng trong điều kiện hiện nay của nước ta, không thể chờ đợi có thị trường chứng khoán mới tiến hành cổ phần hoá, mà chính việc hình thành công ty cổ phần từ thành lập mới hoặc từ chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước lại tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự hình thành vững chắc thị trường chứng khoán: Tạo các chủ thể mua bán và tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp Nhà nước có thể giải toả được khoản nợ khó đòi bằng cách số nợ của doanh nghiệp có thể được xử lý bằng biện pháp “chứng khoán hoá” các khoản nợ. Tức là chia nhỏ các khoản nợ thành các chứng khoán có mệnh giá thấp để bán trên thị trường chứng khoán. Điều này nếu thực thi sẽ giúp các doanh nghiệp có tình trạng tài chính lành mạnh hơn, từ đó hấp dẫn cổ đông và tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn mà UB Chứng khoán Nhà nước qui định, để đảm bảo chất lượng hàng hoá ra thị trưòng tập trung, các công ty muốn niêm yết và phát hành cổ phiếu trên thị trường phải có số vốn tối thiểu là 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh có lãi 2 năm liên tục. Thực tế, số lượng doanh nghiệp cổ phần mạnh và để điều kiện niêm yết chỉ chiếm 1/10 tổng số các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá. Tuy nhiên, nếu noí lỏng điều kiện niêm yết sẽ có nguy cơ làm mất tính ổn định của thị trường chứng khoán do lưu hành các loại hàng hoá không đủ chất lượng của doanh nghiệp cổ phần. Thực tế thị trưòng chứng khoán cần có thêm số lượng và hàng hoá lưu hành nhưng lời giải cho bài toán này vẫn là một ẩn số. Xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước với sự hỗ trợ của thị trường chứng khoán có ý nghĩa lớn cả về mặt tâm lý và điều kiện cổ phần hoá. Do đó, Nhà nước cần sớm hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiêú nói riêng để tạo ra một công cụ hỗ trợ đắc lực, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp cổ phần hoá. 3. Nhà nước cần sớm đưa ra văn bản pháp qui hướng dẫn về việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cổ phần. Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp là sự đo lường nhằm xác định vị thế hiện tại, từ đó đưa ra dự báovề triển vọng của doanh nghiệp. Trong bối cảnh môi trường kinh doanh luôn luôn biến động, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra từng ngày từng giờ, việc phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là hết sức cần thiết, khiến các doanh nghiệp phải luôn tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Để trụ vưng trong môi trường như vậy, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp cổ phần thường muốn biết rõ tình trạng “sức khỏe” của mình, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này cho thấy việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cổ phần trở thành nhu cầu mang tính bức xúc. Việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cổ phần cũng rất cần thiết đối với các chủ nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp vì qua đó họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình trong doanh nghiệp. Chẳng hạn các cổ đông lớn của doanh nghiệp có thể dựa trên kết quả đánh giá mà quyết định tiếp tục ủng hộ Ban lãnh đạo hay phải thay thế họ. Đối với các nhà đầu tư chứng khoán, các cổ đông tiềm năng, thì kết quả đánh giá doanh nghiệp là cơ sở để họ quyết định đặt đồng vốn vào hay rút khỏi doanh nghiệp đó. Đối với các chủ nợ hiện tại, thì họ sẽ dựa vào kết quả đánh giá doanh nghiệp mà quyết định cho vay hoặc từ chối. Khủng hoảng tài chính Châu á cho thấy, do không đánh giá đúng tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh bất động sản, nên các ngân hàng, các nhà đầu tư đã cho vay nhiều triệu USD. Sau khi những khách hàng này mất khả năng thanh toán thì các chủ nợ cũng bị phá sản theo. Riêng với khách hàng lớn, việc đánh giá doanh nghiệp chủ yếu nhằm xác định mức độ ổn định đối với nguồn nhiên liệu hay bán thành phẩm mà họ mua từ doanh nghiệp khác vì khi nhà cung ứng bị mất khả năng cung ứng nguyên liệu thì sản xuất của doanh nghiệp thường bị đình trệ, gây thiệt hại không nhỏ. Còn với nhà cung cấp, việc đánh giá doanh nghiệp lại nhằm xác định khă năng thanh toán các khoản tiền mua hàng của doanh nghiệp khách hàng và hạn chế tình trạng phát sinh các món “nợ khó đòi”, giúp nhà cung cấp đánh giá triển vọng hay khả năng trả nợ của khách hàng trong tương lai. Đối với đối thủ cạnh tranh, việc đánh giá doanh nghiệp nhằm biét rõ tiềm lực mọi mặt của doanh nghiệp cạnh tranh và triển vọng tương lai của nó ddể có thể sớm đưa ra những quyết định hoặc có giải pháp chống lại sự tấn công của các đối thủ. ở cấp vĩ mô, trên cơ sở đánh giá các doanh nghiệp, Nhà nước có thể đưa ra những quyết định liên quan đến doanh nghiệp như chính sách thuế, chính sách hỗ trợ đầu tư, tài trợ tín dụng...nhằm cải thiện các điều kiện của môi trường kinh doanh. Sự “đổ bể” của một số doanh nghiệp tại Việt nam trong những năm gần đây cho thấy các biện pháp đánh giá doanh nghiệp theo hướng chỉ chú trọng đến phương diện tài chính đã tỏ ra không hữu hiệu và dễ dàng bị vô hiệu hoá. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ quả tổng hợp xuất phát từ nhiều phương diện bao gồm: những tác động của môi trường kinh doanh, cho tới các quyết định quản trị trong doanh nghiệp hay chất lượng của đội ngũ nhân sự...Tình hình trên đòi hỏi các cơ quan chức năng cần phải có chính sách phù hợp dựa trên kết quả đánh giá thật xác thực các doanh nghiệp để giúp các đơn vị này nâng cao hiệu quả kinh doanh Kết luận Sắp xếp lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ trọng yếu và phức tạp phải thực hiện trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cổ phần hoá là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Trong những năm qua, chủ yếu là trong những năm 1999-2000, Tỉnh Hải dương đã đạt được những kết quả tích cực trong việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên, các kết quả đạt được ban đầu tuy khả quan nhưng còn chứa đựng rất nhiều thiếu sót cần được làm rõ và khắc phục. Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải dương (Cơ quan thường trực chỉ đạo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước của Tỉnh), em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Tỉnh Hải dương” với hy vọng qua đó làm rõ những vướng mắc và từng bước nêu ra những giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh công tác này. Tuy nhiên, do trình độ nhân thức còn nhiều hạn chế và những kiến thức trong lĩnh vực cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nưóc còn chưa được sâu sắc nên luận văn sẽ không thể tránh khỏi có những sai sót cũng như những quan điểm thiếu tính khách quan . Vì vậy, em mong có được những nhận xét đánh giá của thầy cô để luận văn của em đảm bảo các yêu cầu nghiên cứu cũng như có tính khả thi trong thực tế. Em xin chân thành cảm ơn. liệu tham khảo: Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VIII. Luật Doanh nghiệp Hệ thống các văn bản về đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Văn bản hướng dẫn cổ phần hoá DNNN tại Việt nam (NXB Thống kê năm 1999) Các văn bản hướng dẫn thành lập công ty cổ phần-UBND Tỉnh Hải Dương năm 2000. Báo cáo - Tổng kết tình hình đổi sắp xếp DNNN năm 2000 đối với các doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý trên địa bàn Tỉnh Hải dương-UBND Tỉnh Hải dương, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Tỉnh. Tạp chí cộng sản số 22 tháng 11 năm 2000 - Phan Thế Hải: Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 8 năm nhìn lại. Nguyễn Kế Tuấn: Cổ phần hoá các DNNN - Mục tiêu thực trạng và kiến nghị. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, năm 1997 PTS. Đoàn Văn Hạnh - Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Vì sao tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chậm - Báo Nhân dân, ngày 02 tháng 7 năm 2000. Giải quyết lao động dôi dư trong doanh nghiệp cổ phần hoá - Tạp chí Đầu tư chứng khoán Số 73 - 74 ngày 27 tháng 4 năm 2001 Thị trường chứng khoán thúc đẩy cổ phần hoá - Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 46, ngày 20 tháng 10 năm 2000 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4601.doc
Tài liệu liên quan