Một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa

Lời nói đầu Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo được tiến hành hơn 10 năm đem lại nhiều thành tựu to lớn đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội đứng vào vị trí mới. Trong cộng đồng Quốc tế và bước vào thời kỳ đẩy mạnh hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước. Một trong những nguyên nhân trọng yếu có ý nghĩa quyết định đem lại những thành tựu đó là có sự góp phần đáng kể của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng tuân thủ những chính sách quản l

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í vĩ mô của chính phủ ngành kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được khôi phục nhanh chóng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Hoà niềm vui trong không khí đổi mới của đất nước, trong đó có sự góp phần không nhỏ của hệ thống Ngân hàng, ngành Ngân hàng đã từng bước đổi mới đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế trong thời kỳ trong đó có nhu cầu của kinh tế ngoài quốc doanh. Quán triệt theo quan điểm chủ đạo của Ngân hàng công thương Việt Nam - Ngân hàng công thương Đống Đa với tư cách là một NHTM quốc doanh luôn xác định kinh tế ngoài quốc doanh là một "khách hàng" mang nhiều nguồn lực tiềm ẩn và đã nhanh chóng triển khai cho vay với kinh tế ngoài quốc doanh và đã thu được những lợi nhuận cho bản thân Ngân hàng, mang lại hiệu quả chung cho nền kinh tế. Song trong quá trình kinh doanh và thực hiện đối với kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng còn gặp nhiều vướng mắc và còn nhiều rủi ro. Vậy câu hỏi được đặt ra là: làm thế nào để đảm bảo an toàn vốn hạn chế rủi ro cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, mang lại hiệu quả cao và sử dụng đồng vốn của Ngân hàng được hiệu quả tối ưu nhất. Với tư cách là sinh viên ngành Ngân hàng trong thời gian thực tập tại Ngân hàng công thương Đống Đa với sự hướng dẫn của cán bộ phòng tín dụng tôi xin mạnh dạn được đề cập sáng kiến của mình với đề tài. "Một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống Đa". Mong nhận được sự giúp đỡ góp ý của thầy cô giáo và các anh chị trong kinh doanh tín dụng. Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm 3 chương Chương I. Tín dụng Ngân hàng và vấn đề bảo đảm an toàn tín dụng Ngân hàng. Chương II. Thực trạng về đảm bảo an toàn tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống Đa. Chương III. Các giải pháp góp phần bảo đảm an toàn tín dụng đối với KTNQD tại Ngân hàng công thương Đống Đa. Chương I Tín dụng và vấn đề bảo đảm an toàn tín dụng Ngân hàng I. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1. Sự ra đời của Ngân hàng Thương mại: Ngân hàng Thương mại xuất hiện trước khi có chủ nghĩa tư bản. Ngân hàng đầu tiên xuất hiện trong lịch sử không phải là Ngân hàng nhà nước (Ngân hàng phát hành) mà là Ngân hàng thương mại. Nó được hình thành từ những thương nhân là nghề kinh doanh tiền tệ từ đó họ có thể chuyển từ việc chỉ làm nghề giữ hộ tiền (vàng) sang đổi tiền hộ và dần họ tiến hành cho vay mà lúc này hoạt động giữ hộ tiền và thu lệ phí chuyển sang hoạt động huy động vốn tiền tệ thu vốn nhàn rỗi trong xã hội. Ngoài 2 nghiệp vụ huy động và cho vay các doanh nghiệp còn tiến hành nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng và thu lệ phí, khi cả 3 nghiệp vụ nói trên hình thành đồng bộ thì lúc đó Ngân hàng theo đúng nghĩa là xuất hiện. Sự phát triển của Ngân hàng phải liền với trình độ xã hội hoá sản xuất... ở Việt Nam Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập từ 5/1951 ở các vùng tự do, sau ngày miền Nam giải phóng cả nước tồn tại 1 hệ thống Ngân hàng nhà nước từ Trung ương đến các chi nhánh tỉnh, thành phố và các chi điểm của Huyện. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam là hệ thống Ngân hàng 1 cấp vừa thực hiện chức năng quản lý về nhà nước và thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng . Hoạt động của Ngân hàng theo mô hình gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu tất yếu làm nảy sinh nhiều nhược điểm và tỏ ra không phù hợp với mô hình Ngân hàng hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường sự nghiệp đổi mới nền kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12/86) khởi xướng trong đó chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thực hiện chủ trương trên ngành Ngân hàng tiến hành thí điểm và trên cơ sở thí điểm đã được tổng kết. Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng nhà nước. Phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh nghiệp. Từ tháng 9/1990 HĐNN đã ban hành 2 pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính . Trong đó pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính đã định nghĩa Ngân hàng thương mại như sau: "Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các phương tiện thanh toán...". Như vậy Ngân hàng thương mại khác Ngân hàng nhà nước. Ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng kinh doanh tiền tệ của mình theo sự qui định của Ngân hàng nhà nước cũng như các tổ chức kinh doanh khác trong nền kinh tế - Ngân hàng thương mại cũng tổ chức kinh doanh song đầu vào và đầu ra của Ngân hàng thương mại đều là tiền. Còn Ngân hàng nhà nước, chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các Ngân hàng Thương mại việc phát hành tiền tập trung vào Ngân hàng nhà nước . 2. Hoạt động của Ngân hàng thương mại Nếu như hoạt động của Ngân hàng nhà nước gắn với chức năng quản lý vĩ mô thì hoạt động của các Ngân hàng thương mại lại gắn liền với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng thương mại phải là một doanh nghiệp. - Có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, quản trị, điều hành hoạt động dưới quyền quản trị của Hội đồng quản trị và quyền điều hành của giám đốc. - Chịu sự quản lý vĩ mô của Ngân hàng nhà nước. - Có quan hệ với khách hàng theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về vật chất và hành chính đối với tài sản tiền vốn và cam kết giữ bí mật về số liệu và hoạt động cũ như tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có quan hệ với tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc bình đẳng tự nguyện cũng có lợi vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật các hoạt động chủ yếu: 1. Nghiệp vụ huy động vốn: Là nghiệp vụ đầu tiên của các Ngân hàng thương mại nhằm tạo nguồn vốn làm tiền đề cho vay vốn của Ngân hàng dùng để cho vay vốn gồm: - Vốn điều lệ là vốn ban đầu khi Ngân hàng được thành lập vốn này, có thể do Nhà nước cấp (nếu là Ngân hàng quốc doanh) có thể do các cổ đông góp vốn nếu là Ngân hàng thương mại cổ phần... Qui mô hay mức vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại khi thành lập được quy định. - Vốn huy động: loại vốn này chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, vốn được huy động dưới hình thức tiền gửi tiền tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn) tiền phát hành trái phiếu, kỳ phiếu theo mức của Ngân hàng nhà nước cho phép. Trong từng thời gian nhất định Ngân hàng thương mại được quyền sử dụng có thời hạn và hoàn trả cả vốn, lãi cho chủ sở hữu. - Vốn tiếp nhận: loại vốn này gồm tài trợ, vốn đầu tư phát triển, uỷ thác đầu tư để cho vay, theo các chương trình dự án xây dựng cơ bản chung của nhà nước. - Vốn đi vay: gồm vốn vay của Ngân hàng nhà nước vay vốn của Ngân hàng nước ngoài, và các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích có hiệu quả hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi. - Nghiệp vụ cho vay vốn là nghiệp vụ thông qua đó các nguồn vốn huy động được đem cho vay nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuỳ theo tiêu thức phân loại có các hình thức cho vay khác như cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay thanh toán, cho vay dự trữ. - Nghiệp vụ thanh toán là nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại thực hiện trên cơ sở sự uỷ nhiệm của khách hàng trong khâu thanh toán hộ, giữ hộ đòi nợ... thông qua các hình thức chuyển tiền, thanh toán, chứng từ và phát hành chứng khoán. * Các nghiệp vụ huy động, cho vay và thanh toán có mối quan hệ với nhau, cấu thành nội dung hoạt động của Ngân hàng thương mại trong đó nghiệp vụ huy động vốn là tiền, để phát triển nghiệp vụ cho vay, đến lượt nó, việc cho vay càng mở rộng sẽ thúc đẩy nghiệp vụ huy động ngày càng tăng lên trong quá trình thực hiện 2 nghiệp vụ này dưới hình thức "nợ", "có" sẽ có tác động làm tăng nghiệp vụ trung gian - nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng nhờ đó các khoản tiền phải trả được tập trung để bổ sung cho nghiệp vụ vay và huy động vốn thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng..." 2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng a. Tín dụng đối với Ngân hàng Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế là tối đa hoá lợi nhuận, mục tiêu hàng đầu của Ngân hàng - Một tổ chức kinh doanh tiền tệ cũng không nằm ngoài phạm vi đó Ngân hàng thu được lợi nhuận thông qua các hoạt động dịch vụ, cung cấp cho khách hàng như thanh toán, tư vấn nhưng quan trọng nhất là hoạt động cho vay (hoạt động tín dụng) Thật vậy, Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính kinh doanh trên nguyên tắc nhận tiền gửi của khách hàng (nghiệp vụ huy động vốn) dưới hình thức tài khoản vãng lai và tài khoản tiền gửi tiền trên cơ sở đó tiến hành các hoạt động cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo yêu cầu vay của khách hàng. Sự chênh lệch giữa tiền lãi kiếm được qua hoạt động và tiền lãi phải trả cho các khoản huy động là lợi nhuận thu được. Đây chưa phải là toàn bộ lợi nhuận của Ngân hàng, tuy nhiên, nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lợi nhuận của Ngân hàng. Ngày nay hoạt động trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường hoạt động tín dụng Ngân hàng càng trở nên sôi động, đa dạng. Đối với các Ngân hàng thương mại để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội. Hệ thống Ngân hàng thương mại luôn phải tìm cách nâng cao chiến lược tín dụng, đa dạng hoá các chất lượng dịch vụ từng bước công nghệ hoá trong hoạt động tín dụng đảm bảo sự tồn tại của Ngân hàng trong thời kỳ mới. b. Vai trò tín dụng đối với nền kinh tế Có thể nói sẽ là không tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hoặc không đủ vốn hay ở một khía cạnh khác sẽ là thiếu chính xác thiếu biện chứng khi chỉ đề cập từ phía vốn đối với phát triển kinh tế bởi lẽ vốn được bắt nguồn từ nền kinh tế, nền kinh tế ngày càng phát triển thì càng có điều kiện tích tụ vốn nhiều hơn, phải chăng đây chính là mốc quan hệ nhân quả. Vậy có thể nói vốn và sự phát triển kinh tế có độ chính xác hơn so với nói vốn đối với sự phát triển kinh tế. Đối với nước ta, tại đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ rõ: " để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều nguồn vốn, sẵn có với sử dụng vốn có hiệu quả trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng..." Khẳng định rằng nếu ta có quan niệm đúng về vốn thì sẽ giúp ta phát hiện được những tiềm năng về vốn, cũng từ đó có biện pháp khai thác và sử dụng đem lại hậu quả với mục tiêu của chúng ta là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vốn nước ngoài sẽ tạo ra cú "huých" mạnh mẽ để nền kinh tế mau chóng cất cánh, nếu xét về vấn đề vốn nước ngoài, trong quan hệ cung cầu thì cung vốn cho các nước đang phát triển thấp hơn nhiều so với cầu về vốn của nước đo. Điều này cho thấy chúng ta sẽ gặp phải những đối thủ cạnh tranh rất lớn mạnh trên lĩnh vực này nếu xem xét về vốn trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài. Thì qua thực tiễn những năm thực hiện công việc đổi mới vừa qua cho thấy mức độ "hấp thụ", vốn nước ngoài tuỳ thuộc chủ yếu vào khả năng nguồn vốn bên trong của nền kinh tế. Sự thật trên cảnh báo sẽ sai lầm nếu kỳ vọng quá lớn và nguồn vốn bên ngoài trong khi không tận lực khai thác nguồn vốn sẵn có bên trong... Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì điều trước hết là phải có vốn (vốn = tiền) mà để có vốn bằng tiền thì phải có tổ chức có đủ thẩm quyền và chức năng huy động và tập trung đó trước khi đem sử dụng. ở bất kỳ quốc gia nào thì công việc này do hai tổ chức thực hiện: Tổ chức Tài chính (quỹ tài chính) và tổ chức tín dụng. Song chủ yếu vẫn là các tổ chức tín dụng. Vì rằng dưới đây Các Mác đã viết "Một mặt Ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khác đó là sự tập trung các người đi vay" vậy tín dụng Ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình Ngân hàng hiện đại ngày nay với khái niệm ấy đối với riêng trong lĩnh vực tín dụng đã là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội, có thể khái quát qua thực tiễn cho thấy hiệu quả mang lại của tín dụng Ngân hàng, tín dụng Ngân hàng đã góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, là đòn bảy kinh tế quan trọng thúc đẩy mở rộng mối quan hệ giao lưu quốc tế tác động tích cực đến nhịp độ phát triển và thúc đẩy sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường nó góp phần lớn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, chống lạm phát tiền tệ và góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. ý nghĩa to lớn ấy của vốn của vai trò tín dụng trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta có nhận thức đứng đắn để ý nghĩa đó trở thành hiện thực một khi vốn - tín dụng Ngân hàng thể hiện chức năng vai trò của bản thân thì chắc rằng dù trong bất kỳ lĩnh vực nào của sự nghiệp phát triển kinh tế đều đem lại những hậu quả nhất định, góp phần không nhỏ thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước... 3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng Như chúng ta đã biết Ngân hàng thu lợi nhuận thông qua các dịch vụ cung cấp cho khách hàng như: thanh toán, tư vấn... nhưng quan trọng nhất là hoạt động cho vay . Tuỳ theo các tiêu thức: khác nhau và căn cứ vào đối tượng được cấp tín dụng mà các khoản cho vay có thể được phân ra thành các hình thức cho vay khác nhau như: cho vay theo mục đích, theo hình thức bảo đảm, kỳ hạn, theo phương pháp hoàn trả. Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác. Việc phân loại như thế hoàn toàn mang tính chất tương đối, không hề tách rời bản chất của tín dụng là hoạt động vay mượn có hoàn trả . a. Cho vay theo mục đích Cách phân loại này căn cứ vào mục đích hoặc việc sử dụng vốn vay như cho vay bất động sản, cho vay thương mại, công nghiệp nông nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay đối với các tổ chức tài chính, chính quyền. b. Cho vay có đảm bảo và không có đảm bảo * Cho vay có đảm bảo Hình thức cho vay biểu hiện bằng việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp có thể gồm nhiều loại tài sản như bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, các loại chứng khoán, vật đơn hàng hoá, sổ tiết kiệm... Yêu cầu cơ bản của vật thế chấp là dễ bảo quản, có chứng từ bảo hiểm cần thiết và phải bán được. Yêu cầu món vay phải được bảo đảm chỉ nhằm tạo điều kiện để người cho vay giảm bớt mất mát trong trường hợp người vay không muốn hay không trả nợ được. Nó tạo tâm lý yên tâm cho người đi vay. Tuy vậy bảo đảm không nghĩa là món nợ sẽ đưa hoàn trả bởi lẽ trong trường hợp thanh lý tài sản thế chấp, tài sản thế chấp có thể bị giảm giá hoặc ép giá, điều này sẽ khiến nó không đủ vốn trả hết nợ. * Cho vay không bảo đảm Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay không có bảo đảm được dựa trên tính liêm khiết và từ tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể có được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Hình thức này thường được Ngân hàng áp dụng cho các khách hàng lớn và quen thuộc của Ngân hàng trong nhiều trường hợp còn được hưởng lãi suất ưu đãi. Đó thường là các công ty có cách quản lí hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, lợi nhuận ổn định và tình hình tài chính vững mạnh. Trên thực tế nhiều khoản vay lớn nhất lại được thực hiện theo hình thức này. c. Cho vay theo kỳ hạn Các khoản cho vay của Ngân hàng được phân theo kỳ hạn trường hợp hợp đồng cho vay: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn Cho vay ngắn hạn: thời hạn tối đa là 12 tháng Cho vay trung hạn: thời hạn từ 1-3 năm Cho vay dài hạn: dưới 3 năm Các khoản vay có thì hạn ngắn thường đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của khách. Các khoản vay trung và dài hạn thường được áp dụng vào mục đích đầu tư mua sắm máy móc, mở rộng phạm vi hoạt động. d. Cho vay theo phương pháp hoàn trả: Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể hoàn trả 1 lần hoặc trả góp. Những khoản cho vay trả 1 lần là những khoản cho vay thẳng nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả toàn bộ một lần vào thời gian đến hạn cuối cùng. Cho vay trả góp đòi hỏi việc hoàn trả theo định kì. Việc hoàn trả có thể là hàng tháng, hàng quí, hàng năm. Cho vay trả góp theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời hạn thực hiện hợp đồng. Nhờ vay việc hoàn trả không trở thành gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay phải được trả 1 lần. Đối với nhiều người các khoản cho vay trả góp đóng vai trò như một phương tiện góp qui. Hình thức này được dành nhiều cho các món vay bất động sản và cho vay tiêu dùng. Qua các hình thức cho vay nêu trên ta thấy rằng: Các khoản cho vay là những sản phẩm hàng hoá của Ngân hàng thương mại trên thị trường kinh doanh tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì các nhu cầu về tín dụng càng phong phú đa dạng. Ngân hàng cần phải tiếp cận và hoá nhập với đời sống kinh tế xã hội để tạo nhiều hình thức tín dụng mới đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất và tầng lớp dân cư. II. An toàn tín dụng Ngân hàng Hoạt động với nguyên tắc "đi vay để cho vay" nên Ngân hàng cũng không khác bất kỳ ngành kinh doanh nào, có thể gặp rủi ro, có thể mất tiền vốn - Hoạt động Ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng rất nhiều loại hình rủi ro. Bản thân nhà quản lý và người lập chính sách cần phải biết được, hiểu được những rủi ro để tìm mọi cách để chế ngự nó, hạn chế được những đổ vỡ gây thiệt hại trước hết là với chính bản thân Ngân hàng sau phản ứng dây chuyền là sự khủng hoảng trong cơ cấu của thành phần kinh tế trong nền kinh tế, điều này cũng mang ý nghĩa đối với ngành Ngân hàng khi đứng trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường. 1. Đảm bảo an toàn Với chức năng quản lý và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng hoạt động Ngân hàng mang tính chất đặc thù riêng mà các ngành kinh tế khác không có được so với hoạt động kinh doanh của ngành kinh tế khác thì hoạt động Ngân hàng là hoạt động gắn liền với rủi ro vì "đầu vào" và "đầu ra" của ngành Ngân hàng. Đều là tiền, ngày nay trong cơ chế thị trường, ngành Ngân hàng phải huy động và tạo mọi nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, để đáp ứng nhu cầu đó, nâng cao hiệu quả kinh doanh tăng lợi nhuận giúp Ngân hàng đứng vững trong môi trường cạnh tranh. Ngành Ngân hàng phải nâng cao chênh lệch hoạt động tín dụng và hiệu quả sử dụng vốn cũng như việc quản lý nguồn vốn. Điều này chỉ có được khi Ngân hàng tổ chức hợp lý khoa học quy trình cho vay của mình. Quy trình quản lý tín dụng mang ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngành bởi vì đối với một món vay đã được Ngân hàng cho vay ra phải đạt yêu cầu chuẩn mực nhất định đầy đủ của an toàn tín dụng để sao cho ngành Ngân hàng được phép chuyển nhượng một cách dễ dàng. - Có tính lỏng trong chuyển nhượng kèm theo chứng từ sở hữu giản đơn dễ chuyển nhượng. - Hiện nay theo quy định của Ngân hàng nhà nước cũng như luật Ngân hàng và các tài chính tín dụng qui định phải có vật đảm bảo dễ xác định và có tính ổn định trong thời gian dài. - Vật bảo đảm tín dụng (Tài sản thế chấp), phải mang tính lỏng (có thị trường để tạo thu) để nhằm thu hồi nợ khi người vay không có khả năng hoàn trả. 2. Các hình thức đảm bảo an tín dụng 2.1. Nghiên cứu và nhận định khách hàng Trên thực tế nguyên nhân thường gặp về tổn thất tín dụng lại không phải là các Ngân hàng tìm hiểu về khách hàng mà do Ngân hàng nghiên cứu không đầy đủ về khách hàng. Do vậy để hạn chế rủi ro, các Ngân hàng thương mại cần phải nghiên cứu về khách hàng trên các phương diện cụ thể: a. Năng lực pháp lý Để tránh rủi ro Ngân hàng không nên thiết lập quan hệ với những khách hàng không có đủ năng lực pháp lý bởi vì khi có đồng vốn trong tay họ sẵn sàng thành lập các công ty "ma" không có tư cách pháp nhân đề lừa gạt, chiếm dụng vốn của Ngân hàng. Hơn nữa, hoạt động sản xuất kinh doanh của họ không được các cơ quan có thẩm quyền cho phép, không được sự công nhận của pháp luật, do đó thu nhập sẽ bấp bênh không ổn định... Do vậy: Để đảm bảo an toàn vốn, Ngân hàng chỉ quan hệ với khách hàng có đủ năng lực pháp lý. Đó là những doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm người chịu trách nhiệm quản lý, được quy định rõ chức năng, nhiệm vụ hoạt động. Ngân hàng chỉ cho phép những người có thẩm quyền thay mặt cho doanh nghiệp, công ty đứng ra ký kết hợp đồng vay vốn. Đối với công ty cổ phần, công ty liên doanh thì Ngân hàng cũng phải xem xét người đứng ra xin vay có đủ tư cách đại diện cho một tập thể hay không. Việc Ngân hàng lựa chọn quan hệ với những khách hàng có đủ năng lực pháp lý sẽ tránh được tình trạng không có người nhận nợ trực tiếp hoặc người nhận nợ không đủ tư cách, Ngân hàng sẽ thực sự trở thành chủ nợ và được pháp luật bảo đảm có quyền đòi nợ. b. Phân tích tình hình khả năng thanh toán của doanh nghiệp để xác định khả năng vay thu hồi vốn của tổ chức tín dụng. Có nhiều chỉ tiêu và phương pháp đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán của người vay. Thông thường các ngân hàng có thể phân tích khả năng trả nợ của khách hàng qua các chỉ tiêu sau: - Hệ số tài trợ là chỉ tiêu khái quát, phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp. Hệ số này được tính như sau: Nguồn vón doanh nghiệp tự có Hệ số tài trợ = Tổng vốn doanh nghiệp hiện có Tổng vốn doanh nghiệp hiện có gồm: nguồn vón cố định., nguồn vón lưu động, nguồn vốn xây dựng cơ bản, quỹ xí nghiệp, nguồn kinh phí, thu nhập chưa phân phối. + Tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng gồm: nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn thanh toán. Hệ số tài trợ càng cao chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp càng vững chắc. Khi hệ số này càng giảm thấp, thì khả năng đáp ứng các khoản nợ cũng giảm đi, đồng thời khả năng rủi ro cho ngân hàng tăng lên. Trên thực tế, một doanh nghiệp có hệ số tài trợ kỳ này lớn hơn hệ số tài trợ kỳ trước và lớn hơn 0,5 là tốt. - Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận là khả năng sinh lợi của 1 đồng vốn trong năm của một doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận có thể tính chung cho vốn cố định và vốn lưu động, nhưng cũng có thể tính riêng cho từng loại vốn nếu doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất tiền vay ngân hàng, thể hiện trong năm doanh nghiệp làm ăn có lãi và có khả năng hoàn trả tiền vay ngân hàng cả vốn lẫn lãi và có tích luỹ. Những doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận nhỏ hơn lãi suất tiền vay ngân hàng là những doanh nghiệp có nhiều khả năng không trả nợ được ngân hàng. Do vậy để phòng rủi ro các tổ chức tín dụng thường không cho vay đối với các doanh nghiệp này. Năng lực đi vay của doanh nghiệp: là khả năng của một doanh nghiệp kêu gọi xin vay vón và được tính bằng công thức sau: Nguồn vốn tự có Năng lực đi vay = Nguồn vốn thường xuyên Năng lực đi vay tỷ lệ thuận với nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, nó tăng giảm ngược chiều với tình hình nợ lần và có quan hệ mật thiết với khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính cao (hệ số tài chính lớn) thường có năng lực đi vay lớn vì doanh nghiệp có thể đáp ứng được các khoản nợ khi đến hạn thanh toán. Người ta đã tính rằng nếu doanh nghiệp có tỷ lệ này lớn hơn 2/3 thì doanh nghiệp có năng lực đi vay rất lớn. Ngược lại nếu thông số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp đã đạt mức bão hoà của năng lực đi vay. Vì vậy, đối với những doanh nghiệp này thường không đi vay. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp Khả năng thanh toán củ doanh nghiệp phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu. Để đánh giá chính xác khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta cần xem xét lại, phân tích chỉ tiêu sau: + Khả năng thanh toán chung: là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh khái quát thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán chung được tính như sau: Số tiền doanh nghiệp có thể dùng để thanh toán Khả năng thanh toán của doanh nghiệp = Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán Số tiền doanh nghiệp có thể dùng để thanh toán gồm toàn bộ số vốn bằng tiền, các khoản phải thu và thành phẩm, hàng hoá còn tồn kho (còn có những quan điểm khác nhau về nọi dung tiêu thức này). Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán gồm: các khoản phải trả người bán, người mua, các khoản phải trả cán bộ công nhân viên, các khoản nợ ngân hàng và tổ chức kinh tế, các khoản phải trả khác. Nếu hệ số = 1 chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán, tình hình tài chính bình thường khả quan. Nhìn chung hệ số càng lớn thì khả năng thanh toán càng chắc chắn, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng dễ dàng hơn. Ngược lại, khi hệ số này <1 thì tình trạng tài chính của doanh nghiệp có thể xấu đi và ngân hàng không nên cho vay đối với những đối tượng này bởi vì doanh nghiệp khó có thể thanh toán được những khoản nợ và sẽ xuất hiện những khoản nợ quá hạn. Trên cơ sở nhận xét chung, cần tiếp tục xem xét các chỉ tiêu bổ sung để đánh giá mức độ linh hoạt của doanh nghiệp trong việc giải quyết các khoản nợ. +) Khả năng thanh toán ngắn hạn: Vốn bằng tiền + các khoản phải thu Khả năng thanh toán ngắn hạn = Nợ ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức kinh tế + các khoản phải trả Chỉ tiêu này ³1 chứng tỏ doanh nghiệp có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn và ngược lại. + Khả năng thanh toán nhanh: Vốn bằng tiền Khả năng thanh toán nhanh = Các khoản nợ đến hạn thanh toán Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh³ 1 thể hiện doanh nghiệp có thể thanh toán được bất cứ khoản nợ nào đó khi đến hạn thanh toán. Đối với các doanh nghiệp này ngân hàng cho vay sẽ có sự bảo đảm chắc chắn về khả năng trả nợ. Trên thực tế thông thường các doanh nghiệp có tỷ lệ giữa vốn bằng tiền và các nợ phải trả 0,5 đều có khả năng thanh toán ngay cho các khoản nợ khi đến hạn. Như vậy thông qua các chỉ tiêu cơ bản nêu trên, cán bộ tín dụng có thể đánh giá khả năng và tình hình tài chính của ngân hàng. Những doanh nghiệp có tình hình tài chính vững chắc là những doanh nghiệp có khả năng đáp ứng các khoản nợ phải trả bằng các biện pháp tài chính bình thường, tức là có thể tự cân đối về tài chính. Trong trường hợp không tự cân đối được tài chính doanh nghiệp phải sử dụng biện pháp kéo dài thời gian trả nợ. Khi đó doanh nghiệp rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần dây dưa, ảnh hưởng không tốt đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Thông qua các hệ số tài chính được xác định ở trên, ta có thể thấy bức tranh tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp làm cơ sở cho các quan hệ tín dụng với ngân hàng. Tuy vậy, sẽ sai lầm nếu như quan niệm đây là căn cứ duy nhát để quyết định cho các doanh nghiệp vay vốn hay không. Để đánh giá khả năng hoàn trả của khách hàng, ngân hàng còn có thể sử dụng hàng loạt các biện pháp dưới đây: 2.2. Sử dụng thông tin từ bên ngoài 2.2.1. Phỏng vấn người xin vay: Qua phỏng vấn ngân hàng biết thêm nhiều thông tin về người vay tiền, cụ thể là: Biết rõ thêm về mục đích, yêu cầu vay vốn. Biết rõ hơn về tính chân thật và khả năng trả nợ của người vay. Biết thêm thông tin về lịch sử, xu hướng phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên, chất lượng, sức tiêu thụ sản phẩm, thế cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.2.2. Sổ sách theo dõi khách hàng tại ngân hàng: Ngân hàng phải lưu giữ hồ sơ của người gửi tiền cũng như người vay tiền nếu là khách hàng cũ, sổ sách có thể cho biết tình hình chi trả của khách hàng trước đây. Nếu là khách hàng mới, hồ sơ lưu giữ các thông tin cần thiết. 2.2.3. Sử dụng thông tin từ cơ quan chuyên theo dõi các doanh nghiệp trong cả nước. Đó là những cơ quan chuyên theo dõi thông tín tín dụng của doanh nghiệp trong cả nước. Nếu ngân hàng có yêu cầu về thông tin tín dụng của doanh nghiệp trong cả nước. Nếu ngân hàng có yêu cầu về thông tin tín dụng của doanh nghiệp nào đó, cơ quan này sẽ sẵn sàng đáp ứng trên cơ sở phải chi phí. 2.2.4. Điều tra nơi hoạt động của người vay Cán bộ nên thường xuyên đến "thăm quan" trụ sở kinh doanh của người vay tiền. Bởi vì một cán bộ tín dụng có kinh nghiệm sẽ biết được một cách đáng kể về mức phát triển và trình độ quản lý của một doanh nghiệp qua các tiện nghi, không khí làm việc của doanh nghiệp. Vẻ gọn gàng, trật tự thường là dấu hiệu lành mạnh, đang ở thế cân bằng, một số bộ phận, một số lại quá rỗi có thể là do sản xuất đình trệ, hàng tồn kho quá mức, kém chất lượng... là những thông tin cần quan tâm. Tất cả những việc trên đây là việc thu thập và sử dụng các thông tin từ bên ngoài, các báo cáo tài chính mà ngân hàng cần quan tâm. Những thông tin này rất có ích trong việc đánh giá khách hàng, giúp cho ngân hàng tránh được sự lựa chọn đối nghịch, ngăn ngừa rủi ro đạo đức xảy ra khi cấp tín dụng cho khách hàng. 2.3. Đa dạng hoá kết hợp với chuyên môn hoá các hoạt động nghiệp vụ và quan hệ khách hàng lâu dài. 2.3.1. Đa dạng hoá các hoạt động nghiệp vụ Xu hướng chung phổ biến hiện nay ở tất cả các nước kinh tế thị tường là hình thành một hệ thống các ngân hàng thương mại đa năng. Đó là ngân hàng được tiến hành tất cả các nghiệp vụ về ngân hàng như: cho vay ngắn hạn, chung và dài hạn, kinh doanh ngoại hối, các nghiệp vụ cho vay với tất cả các loại khách hàng, làm cho tất cả các dịch vụ có liên quan đến ngân hàng như tham gia phát hành, mua bán chứng chỉ có giá, kinh doanh chứng khoán... Kinh tế học vĩ mô dã khẳng định: "Đa dạng hóa là một chiến lược làm giảm bớt rủi ro bằng cách góp chung rủi ro của nhiều loại tài sản có mức lợi tức loại khác nhau" chính vì vậy đa dạng hoá là nguyên lý quan trọng của việc quản lý ngân hàng. 2.3.2. Vai trò của chuyên môn hoá trong ngân hàng cũng rất quan trọng đối với việc giảm tối thiểu rủi ro, bởi vì: Chuyên môn hoá giúp ngân hàng dễ dàng sàng lọc đánh giá khách hàng, hạn chế sự không cân bằng về thông tin trên thị trường, giảm bớt chi phí tập trung thông tin. Chuyên môn hoá giúp ngân hàng có sự ổn định tương đối trong các nghiệp vụ 2.3.3. Khách hàng quan hệ lâu dài: Để vượt qua vấn đề thông tin không cân xứng ngân hàng cần có quan hệ lâu dài với khách hàng để dễ dàng nắm bắt được những thông tin về ngư._.ời vay cũng như tạo được điều kiện cho việc giám sát của ngân hàng được tốt hơn. Khi cho một khách hàng quen thuộc vay, ngân hàng tốn ít thời gian hơn để xác định các thông tin về người vay. Khi quan hệ lâu dài cũng giúp cho ngân hàng đối phó với những rủi ro bất ngờ mà ngay cả ngân hàng cũng không thể lường trước được vì khách hàng muốn giữ gìn quan hệ lâu dài với ngân hàng để có những ưu đãi trong vay vốn. Trong thực tế không một ngân hàng nào có thể nghĩ được mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những quy định hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định nào loại bỏ được chúng cả. Tuy nhiên nếu những người vay tiền muốn giữ được quan hệ lâu dài để có được những ưu đãi trong vay vốn thì họ sẽ có những ý muốn tránh những hoạt động có những rủi ro để ngân hàng cho anh ta vay ngay cả nếu những hạn chế về hoạt động này không được nêu rõ trong hợp đồng đó. Giữ được mối quan hệ lâu dài với khách hàng là điều hết sức cần thiết góp phần hạn chế rủi ro tín dụng. 2.4. Sử dụng các đảm bảo tín dụng: Trên thực tế: Đây là biện pháp đầu tiên các ngân hàng thương mại áp dụng để ngăn ngừa các rui ro đối với người vay. 2.4.1. Sự cần thiết lập bảo đảm tín dụng: Bảo đảm tín dụng là một phương tiện tạo cho ngân hàng một sự bảo đảm rằng sẽ có một nguồn khác nữa dùng để hoàn trả hay bảo chi cho việc trả nợ ngân hàng nếu bên vay vốn mất khả năng trả nợ. Bảo đảm tín dụng đối với các khoản cho vay của ngân hàng có thể là trực tiếp bằng người vay đem tài sản thế chấp cho ngân hàng hoặc gián tiếp bằng bên thứ 3 thế chấp cho để bảo lãnh cho món nợ của người vay. Bất cứ một khoản cho vay nào của ngân hàng đều tính đến hiệu quả của phương án kinh doanh, của dự án để tính đến khả năng thu nợ. Một phương án, một dự án tốt có cơ sở vững chắc để thực hiện có hiệu quả là điều kiện quyết định cho việc vay vốn. Nếu chúng ta cho vay một khoản tiền tín dụng chỉ dựa vào đảm bảo tín dụng để sau đó bán vật đảm bảo tín dụng để thu để thu hồi nợ thì chúng ta chẳng bao giờ cho vay ngay từ đầu. Tuy nhiên, mỗi khoản tín dụng đem cho khách hàng đều chứa đựng mức rủi ro nhất định do sự kiện bất ngờ gây ảnh hưởng đến tình hình tài chính củ khách hàng có thể và đôi khi xảy ra biến đổi rất nhanh nên thận trọng hơn hết là cho người là cho người vay phải nắm lấy bảo đảm đó, bất cứ lúc nào với khách hàng vay vốn nào việc đảm bảo tín dụng là hợp lý, cần thiết để bảo đảm cho ngân hàng đối phó với mọi tổn thất, mỗi khi có món nợ quá hạn, khó đòi không có khả năng thanh toán. Việc thu nhận đảm bảo tín dụng cho phép ngân hàng khẳng định rằng người đi vay có đủ tài sản để trả nợ, bảo đảm các rủi ro trong kinh doanh của khách hàng yêu cầu ngân hàng cho vay vốn. 2.4.2. Những yêu cầu đối với bảo đảm tín dụng Một bảo đảm tín dụng cần có những chuẩn mực nhất định để sao cho ngân hàng được phép chuyển nhượng nó một cách dễ dàng, bảo chi tối đa cho số tiền cho vay một khi người đi vay không có khả năng trả nợ đó là: Có thuộc tính chuyển nhượng đương nhiên kèm theo chứng từ sở hữu đơn giản dễ chuyển nhượng, không bị ép giá, gây khó dễ (nếu khó chuyển nhượng quá trình chuyển nhượng chi phí quá nhiều, tổn thất lớn, như toà nhà và đất đai xây ngôi nhà đó chuyển nhượng phải mất nhiều thời gian, quan nhiều cơ quan pháp lý. Còn cổ phiếu lại bán ngay được trong thời gian thị trường chứng khoán hoạt động. Vật bảo đảm dễ xác định và có tính ổn định trong thời gian dài điều này sẽ liên quan đến việc tính khoản dự phòng. Các khoản tiền gửi là an toàn nhất, bởi lẽ giá trị không biến động, giá trị của nó còn được gia tăng bởi tích luỹ, còn cổ phiếu có thể biến động mạnh theo thị tường (lệ thuộc vào công ty phát hành nó) cho nên nhận làm bảo đảm phải tính đến khoản dự phòng lớn. Phải có thị trường để bán vật bảo đảm tín dụng nhằm thu hồi nợ khi người vay không csó khả năng trả nợ. Cổ phiếu, một số tài sản thông dụng có sẵn thị trường dễ tìm người mua để bán. Bất động sản gắn liền bán. Pải có chứng thư sổ hữu để ngân hàng, nắm giữ, chứng thư sở hữu không có điều kiện kèm theo gây khó khăn cho ngân hàng, tạo ra những chi phí không hợp lý. Thế chấp cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... thực hiện đơn giản, còn đất đai, bất động sản thì hết sức phức tạp. 2.4.3. Các hình thức nhằm bảo đảm tín dụng - Thế chấp: Là sự chuyển dịch quyền và lợi ích hợp pháp để bảo đảm cho việc thanh toán một khoản nợ. Người đi vay gọi là người thế chấp người cho vay gọi là người được thế chấp. Người thế chấp lưu giữ tài sản, cổ phiếu... (người đi vay thu về quyền sở hữu tài sản). Người được thế chấp không thu về được quyền sở hữu tài sản mà chỉ thu về lưu giữ các chứng thư sở hữu liên quan. Quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng tài sản đó vẫn là của người thế chấp. Chứng từ thanh toán cũng được bảo đảm tín dụng (nghĩa là sự chuyển nhượng số tiền mà bên số 3 nợ người đi vay). Nhưng ngân hàng chỉ nhận thế chấp khi các cơ sở pháp lý đủ đảm bảo việc thanh toán các chứng từ đó, mặt khác NH phải xem xét khả năng trả nợ của bên thứ 3, thời hạn thanh toán, thủ tục thanh toán qua ngân hàng nhận thế chấp. Hàng hoá có thể được nhận làm bảo đảm, nhưng ngân hàng phải lưu ý vì cồng kềnh không có kho, có thể lưu giữ ở kho người thứ 3 (có hợp đồng). Ngân hàng gửi các chứng từ về quyền sở hữu, đơn, giấy chứng nhận gửi hàng tại kho, hoá đơn giao hàng và các chứng từ khác theo thông lệ kinh doanh. Nhận thế chấp hàng hoá cần xem xét hàng hoá đó, trị giá hiện tại và tương lai, có bảo hiểm không, mức độ dự phòng. Hàng hoá lưu giữ tại kho người đi vay không được coi là bảo đảm hợp lệ. Không được phép chấp nhận làm đảm bảo. Cầm cố: Cầm cố là hành vi giao nộp tải sản, các chứng từ chứng nhận quyền sở hữu đối với người nợ (người cầm cố) cho chủ nợ (người được cầm cố) để bảo đảm cho món nợ hoặc cho một nghĩa vụ bất kỳ. Tài sản chứng từ sở hữu được trả cho người cầm cố khi nghĩa vụ đã được thanh toán. Tài sản cầm cố, các chứng từ sở hữu do chủ nợ nắm giữ trong khi quyền sở hữu vẫn còn là con nợ. Tuy nhiên, người được cầm cố được quyền bán khi người cầm cố đến hạn cam kết không trả được nợ. Bảo lãnh: Bảo lãnh là sự cam kết bằng văn bản bởi một người gọi là "Người bảo lãnh" để chịu trách nhiệm về món nợ của người thứ hai (người vay vốn), người cam kết phải ký vào giấy cam kết nếu người vay vốn không trả nợ được thì người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trả nợ thay, ngân hàng phải khẳng định được 2 yếu tố ở người bảo lãnh: Khả năng và thiện ý làm việc thanh toán. Đồng thời làm cho người bảo lãnh biết được và chấp nhận nghĩa vụ ghi trong giấy cam kết bảo lãnh, phải kiểm tra địa vị tài chính của người bảo lãnh (kể cả trường hợp dùng tài sản chung để bảo lãnh). Tín chấp: Cho vay tín chấp chỉ áp dụng đối với những khách hàng đã trở nên rất tin cậy của ngân hàng. hải có số liệu thực tế để chứng minh được khả năng tài chính ổn định và vững chắc của khách hàng, có tài sản cố định và tài sản lưu động lớn, luôn trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và các món nợ khác. Mục đích cho vay là sản xuất, kinh doanh những mặt hàng, sản phẩm hàng hoá dịch vụ đang có hiệu quả, có sự tiêu thụ trên thị trường. Thời hạn cho vay tín chấp không nên quá dài, tối đa chỉ nên bằng chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay vốn. Để hạn chế rủi ro tổng dư nợ cho vay tín chấp của tất cả khách hàng ngoài quốc doanh không vượt quá 10% tổng dư nợ cho vay ngân hàng trong cùng một thời điểm. 2.5. San sẻ rủi ro Giải pháp san sẻ rủi ro nhằm phân tán rủi ro bất khả kháng khó tránh khỏi như thiên tai, hoả hoạn... các biện pháp bao gồm: 2.5.1. Tránh dồn vốn: Quán triệt hai vấn đề Không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một thứ sản phẩm hàng hoá đặc biệt là những hàng hoá mang tính chất không thiết yếu, nhà nước không khuyến khích sản xuất, nhu cầu năng lực cạnh tranh không ổn định, trong quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm nói trên. 2.5.2. Liên kết đầu tư: Nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro, mạo hiểm. Nhiều ngân hàng sẽ kết hợp với nhau thành nhóm, cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án đầu tư, các ngân hàng tham gia đầu tư phải ký một hợp đồng liên kết đầu tư nêu rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên. 2.5.3. Bảo hiểm tín dụng: Là một biện pháp hết sức quan trọng nhằm dàn trải rủi ro, ở Việt Nam hình thức bảo hiểm đối với tín dụng như sau: Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh, vì vậy những khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Sử dụng biện pháp bảo lưu có nghĩa là ngân hàng tự bảo hiểm thiệt hại khi gặp rủi ro tín dụng. Từ đó hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra và vẫn bảo đảm được tình hình tài chính của ngân hàng còn nếu rủi ro không xảy ra thì số tiền Quỹ dự pòng sẽ ngày càng lớn qua các năm và khả năng bù đắp lại càng lớn. Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức Bảo hiểm chuyên nghiệp. ở nước ta hiện nay ngành Bảo hiểm chưa được thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng cho nên câu hỏi đặt ra là thành lập 1 tổ chức bảo hiểm tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Đối tượng bảo hiểm là tất cả các khoản tín dụng đầu tư ở Việt Nam. Sự ra đời của các tổ chức bảo hiểm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính và HTX tín dụng. 2.6. Biện pháp xử lý những khoản cho vay có vấn đề: Trên đây chúng ta đã phân tích các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng bằng cách phân tích các yếu tố liên quan đến tính chân thật và khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ. Tuy nhiên sự phân tích đó không thể đạt đến mức: Ta có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản vay có được hoàn trả hay không? Tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi khi khoản cho vay đã được thực hiện do nhiều nguyên nhân dẫn đến khoản cho vay có vấn đề (có khả năng đến hạn không được hoàn trả hoặc không bao giờ đòi được). Để bù đắp những khoản cho vay không thu hồi được, ở tất cả các nước luật pháp ngân hàng đều quy định: Các ngân hàng đều phải trích từ lợi nhuận thu được một tỷ lệ nhất định dùng để làm quỹ dự phòng và bù đắp rủi ro. Quỹ này tăng đã làm ảnh hưởng tới khả năng sinh lợi và quy mô hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, tốt nhất đối với ngân hàng là tìm ra được các biện pháp hữu hiệu, xử lý các khoản cho vay kho đói mà không phải bỏ vốn mình ra. Qua thực tiễn hoạt động của các ngân hàng nước ta và qua tài liệu tham khảo, chúng ta thấy các ngân hàng thường sử dụng 2 phương pháp sau: a) Khai thác: Là quá trình ngân hàng làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần hay toàn bộ và không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu hồi nợ. Các biện pháp cụ thể bao gồm: Ngân hàng tư vấn, hướng dẫn người đi vay theo nhiều khía cạnh nhằm tác động đế khả năng tạo ra và thu được lợi tức ở người vay. Gia hạn, điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm quy mô hoàn trả, cấp phát thêm vốn để tăng thêm sức mạnh tài chính cho việc kinh doanh đối với người vay cho đến khi đảm bảo khoản tiền vay sẽ được chi trả. Ngân hàng đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân hàng quỹ chi tiêu, khuyên bán bớt một số tài sản để trả nợ. Ngân hàng đề nghị với doanh nghiệp cải tổ lại hệ thống sản xuất kinh doanh, tổ chức lại sản xuất, thay đổi hệ thống thiết bị máy móc và công nghệ... Nếu thấy rõ các nguy cơ thiệt hại, bệnh tật hoặc tai nạn, người vay không thể trả nợ được hoặc trả góp (đối với tín dụng tiêu dùng), ngân hàng có thể gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để khoản trả góp tương quan chặc chẽ với lợi tức của người vay. b. Thanh lý: Là việc ngân hàng buộc người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tốt tất cả các biện pháp, pháp uy để thực hiện mục tiêu. Nếu ngân hàng thấy rõ việc tổ chức khai thác là không tiện lợi, không có hy vọng thu hồi được nợ, biện pháp thanh lý có thể coi là cách duy nhất để xử lý các khoản vay khó đòi. Tuy vậy, các ngân hàng không muốn quá trình thanh lý, vì điều đó quá tàn nhẫn đối với người vay hay người bảo lãnh và các thủ tục pháp lý rắc rối, tẻ nhạt. Nếu là món vay có thế chấp, có thể vì lý do nào đó tài sản thế chấp không còn đủ giá trị hợp đồng tín dụng đã ghi, thanh lý, là biện pháp cuối cùng ngân hàng áp dụng đối với người vay để thu lại khoản nợ của mình... Các biện pháp thực hiện thanh lý thường là: Nếu là khoản vay có tài sản bảo đảm hoặc thế chấp, ngân hàng cùng với chuyên gia tư vấn pháp luật, nhân viên thanh lý chuyên nghiệp bán đấu giá các tài sản. Nếu là khoản cho vay không có tài sản bảo đảm, ngân hàng phải chờ đơi sự phán quyết của toà án mới có biện pháp thu hồi như: Nắm giữ hay bán tài sản của người vay, trừ lương của họ... Nếu người vay không có đủ tài sản và tiền lương cũng không đủ để trả nợ thì kết quả đòi nợ vô hiệu lực, người vay phải thụ án hình sự. Nếu người vay chỉ là một trong số các chủ nợ và ai cũng muốn lấy lại tiền, có thế mạnh tương đương ngân hàng, thì một uỷ ban chủ nợ được thành lập, uỷ ban này sẽ tìm ra biện pháp tối ưu nhất nhằm thu hồi được nợ cho mọi thành viên như: Đồng ý khôi phục lại doanh nghiệp, bán các tài sản hoặc bán doanh nghiệp cho đơn vị khác theo phán quyết của toà án về sự phá sản doanh nghiệp. Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhất để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng, từ khâu xét duyệt cho vay, theo dõi quá trình sử dụng tiền vay cũng như các xử lý khi khoản vay có vấn đề. Theo tôi các ngân hàng thương mại nước ta hiện nay cần khai thác, vận dụng triệt để các biện pháp này để ngăn ngừa hạn chế rủi ro, thu hồi được các khoản nợ còn tồn đọng. Chương II Thực trạng về đảm bảo an toàn tính dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương đống đa I> Đặc điểm thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 1. Phạm vi địa bàn hoạt động là một chi nhánh ngân hàng hoạt động có hiệu quả, được đánh giá là một trong những đơn vị nhất nhì của toàn hệ thống. Đặc biệt những năm gần đây Ngân hàng đã đạt được những thành tích suất sắc và năm 1998 Ngân hàng được thưởng huân chương lao động hạng ba về thành tích kinh doanh tín dụng tiền tệ từ năm 1990-1998. Ngân hàng Công thương Đống Đa có địa bàn hoạt động chủ yếu tại quận Đống Đa - một quận lớn nằm trung tâm thủ đô, quận Đống Đa gồm có 26 phường với 30 vạn dân, ngân hàng hoạt động trên địa bàn rộng lớn, đông dân cư, nhiều trung tâm buôn bán lớn nên ngân hàng thường xuyên có một số lượng đông đảo khách hàng. Ngân hàng Công thương Đống Đa là một ngân hàng thương mại quốc doanh mạnh có uy tín, có cơ sở vật chất tốt. Từ năm 1990 đến nay ngân hàng được phép mở rộng địa bàn hoạt động trên cả 5 quận nội thành và 4 huyện ngoại thành, thu hút được một số lượng đông đảo khách hàng trong và ngoài quận. Từ quý II năm 2000 để kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh trên địa bàn khu vực quận Thanh Xuân chi nhánh ngân hàng phụ thuộc quận Thanh Xuân đã được thành lập và đi vào hoạt động. 2. Đặc điểm đối tượng khách hàng Chính sách đổi mới của Nhà nước trong việc phát triển tất cả các thành phầ kinh tế đã khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lớn mạnh và phát triển không ngừng. Với chính sách lãi suất công bằng đối với tất cả các thành phần kinh tế, trong mấy năm qua Ngân hàng Công thương Đống Đa đã không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động cũng như đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh này. Kinh tế ngoài quốc doanh, đây là thị trường đầy sôi động, mới mẻ, nhiều tjfm năng chưa được khai thác, nhưng bên cạnh đó nó cũng đầy những rủi ro và phức tạp. Tuy nhiên, trong những năm qua Ngân hàng Công thương Đống Đa đã khai thác được thị trường này, đầu tư tín dụng vào thị trường này rất có hiệu quả. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho những ai có năng lực, có khả năng thích ứng với thị trường. Do đó khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, trên địa bàn quận có nhiều thành phần kinh tế hoạt động đan xen lẫn nhau, cùng cạnh tranh nhau để tồn tại và phát triển. Trong mấy năm qua, được sự quan tâm đúng mức của nhà nước nền kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước nhảy vọt tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của toàn thành phố. Nhìn chung các cơ sở tăng nhanh về số lượng song còn manh mún, mức độ tập trung chưa lớn, bé nhỏ, vốn chủ yếu nằm ở dưới dạng tài sản. Về mặt hàng kinh doanh chủ yếu tập trung dưới 3 ngành chính. - Sản xuất, kinh doanh đồ gỗ và trang trí nội thất. Đây là mặt hàng có giá trị cao, thông dụng và rất cần thiết phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế. - Lắp ráp điện tử qua hoạt động liên doanh liên kết với nước ngoài đã tạo cho doanh nghiệp có bước phát triển nhanh chóng và vững chắc. - Thương nghiệp, dịch vụ khách sạn đây là khu vực phát triển khá mạnh mẽ của nền kinh tế ngoài quốc doanh. Hầu hết các hộ nhà mặt phố đã mở cửa hàng kinh doanh, cùng với sự chuyển biến không ngừng. Họ cũng biết nắm bắt với nhu cầu của cuộc sống. Tuy nhiê ncó những hộ có vốn lớn nhưng chưa có giá trị khác. Do đặc điểm của các loại hàng này là thời gian luân chuyển chậm, vốn huy động vào kinh doanh không nhiều mà họ đi vay, chiếm dụng vốn của người khác dưới hình thức mua bán chịu, nên nhu cầu bổ sung vốn cho ngành kinh doanh là hết sức cần thiết. Đánh giá hiệu quả hoạt động của NHCT Đống Đa thông qua việc sử dụng vốn. II> Tình hình cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Thực hiện các nghị quyết đại hội lần thứ VII và VIII trong những năm gần đây, sự can thiệp của Đảng và Chính phủ đóng vai trò là "bà đỡ" cho hệ thống ngân hàng thương mại đã mạnh dạn mở rộng đầu tư tín dụng, đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong đó có lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nằm trên địa bàn trung tâm một quận có nhiều thành phần kinh tế trong đó có khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng và hoạt động trên địa bàn, chi nháh Ngân hàng Công thương Đống Đa quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và NHCT Việt Nam mạnh dạn đầu tư cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt được hiệu quả đáng tự hào, làm thay đổi 1 phần căn bản của cơ cấu tín dụng. Bảng số lượng công tác sử dụng vốn được phản ánh như sau: Bảng I Tình hình sử dụng vốn của NHCT Đống Đa Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 2001 Bình quân 2001/2000 Tỷ trọng 2000 Tỷ trọng 2001 Chênh lệch I. Cho vay 1472 1850 +26% 37% 3,3% (-)33,7% + Quốc doanh 920 1400 +52,1% 23% 25% +2% + Ngoài quốc doanh 552 450 (-)18,4% 14% 8,1% (-)5,9% + Vốn lưu động 1412 1730 +2,22% 36% 31,1% (-)4,9% + Vốn cố định 70 120 +0,71% 1,8% 2,15 +0,35 Cộng 3926 5550 100% Qua bảng ta thấy tính đến tháng 12 năm 2000 công tác cho vay đạt 1472 tỷ thì năm 2001 đx giải ngân được 1850 tỷ, tăng về con số tuyệt đối 378 tỷ, tăng về con số tương đối 26%. Doanh số cho vay của các DN quốc doanh năm 2001 là 1400 tỷ so với năm 2000 là 920 tỷ tưng 480 tỷ con số tuyệt đối và tăng về số tương đối là (+) 52,1%. Do đó công tác cho vay kinh tế quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2000 NH đã gải ngân 552 tỷ chiếm 14% về tổng nguồn vốn cho vay nhưng 2001 doanh số cho vay kinh tế ngoài quốc doanh giảm xuống NH chỉ giải ngân 450 tỷ, chênh lệch (-) 18,4% và chỉ chiếm tỷ trọng 8% trong tổng số nguồn vốn. Sở dĩ sự giảm về giải ngân đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là do một số nguyên nhân chủ yếu. - Sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến tình trạng "làm ăn" thua lỗ dẫn đến phá sản. - Về nguồn vốn lưu động: Năm 2000 của NH: 1412 tỷ đến năm 2001 tăng 2,2% chiếm 31% tỷ trọng của tổng nguồn vốn lưu động. - Đối với vốn cố định: Năm 2000 là 70 tỷ đến năm 2001 là 120 tỷ, tăng không đáng kể chỉ chiếm 1,8% và con số tương đối: 0,71% Công tác thu và dư nợ được phản ánh qua bảng sau: Bảng 2: Công tác thu và dư nợ của NHCT Đống Đa Đvị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2000 2001 Tỷ trọng 2000 Tỷ trọng 2001 Chênh lệch Số tiền % 1. Thu nợ: 1404 1565 (+)161 +11,4% - Quốc doanh 886 1055 62,67% 67,41% (+)169 +19,1% - Ngoài quốc doanh 524 510 37,32% 32,58% -14 (-)2,67% - Vốn lưu động 1351 1465 - Vốn cố định 53 100 2. Dư nợ 525 810 60% 81,48% +285 54,28% - Quốc doanh 315 660 40% 18,51% +345 109,5% - Ngoài quốc doanh 210 100 (-)60 -28,57% - Vốn lưu động 450 715 - Vốn cố định 75 95 Doanh số thu nợ năm 2000 là 1404 tỷ đến năm 2001 là 1565 tỷ tăng 161 tỷ đồng so với năm 2000 là 11,4%. Doanh số kinh tế ngoài quốc doanh là 524 tỷ vào năm 2000 chiếm tỷ trọng 37,32% trong tổng doanh số thu nợ. Năm 2001 là 510 tỷ chiếm 32,58% trong tổng doanh số thu nợ. Kinh tế quốc doanh: năm 2000 đạt 886 tỷ chiếm 62,67% trong tổng doanh số thu nợ. Đến năm 2001 là 1055 tỷ chiếm 67,41% trong tổng doanh số thu nợ. Tổng dư nợ. Năm 2000 là 525 tỷ đến tháng 12 năm 2001 con số này lên tới 810 tỷ đã tăng 280 tỷ về số tuyệt đối và tăng về số tương đối là 54,28%. Kinh tế quốc doanh: Năm 2000 là 315 tỷ đến năm 2001 là 660 tỷ, năm 2000 chiếm 40% tỷ trọng dư nợ còn năm 2001 chiếm 18,51% tổng dư nợ. Đối với kinh tế ngoài quốc doanh: Năm 2000 là 210 tỷ trong tổng dư nợ còn năm 2001 là 100 tỷ trong tổng dư nợ. Do đó dư nợ năm 2001 so với 2000 về số tuyệt đối là (-)110 tỷ và số tương đối là (-) 60%. Như vậy qua phân tích tình hình thu và dư nợ của Ngân hàng công thương Đống Đa ta thấy Ngân hàng công thương Đống Đa vẫn tích cực mở rộng đầu tư tín dụng đối với các thành phần kinh tế. Song kinh tế ngoài quốc doanh có giảm hơn so với năm 2000, nguyên nhân giảm như vậy là do năm 2001 trên địa bàn khu vực Đống Đa tình hình sản xuất kinh doanh tuy vẫn ổn định song nhìn chung các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp trước đây đã từng sản xuất đạt hiệu quả cao thì nay hàng hoá không tiêu thụ được. Trong cạnh tranh kinh doanh dịch vụ thương mại nhiều doanh nghiệp đạt hiệu quả thấp do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân chủ yếu là kinh doanh bất động sản và khách sạn du lịch nhiều doanh nghiệp bị phá sản đã trở thành khách nợ của ngân hàng. Tuy vậy nhưng Ngân hàng công thương Đống Đa vẫn mở rộng đầu tư tín dụng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vay vốn từ quỹ tạo việc làm với lãi suất 1,2% tháng, cho vay sinh viên nhằm khuyến khích học tốt, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ nhập máy móc thiết bị, thay đổi dây truyền sản xuất... Ngoài ra vốn tín dụng của Ngân hàng công thương Đống Đa còn giúp các doanh nghiệp quốc doanh phát triển sản xuất, kinh doanh giữ vững vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Cho các hộ tư nhân, cá thể phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết một phần việc làm cho người lao động. Bảng 3. Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàngcông thương Đống Đa Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2001/2000 Số tuyệt đố Tỷ trọng 1. Tổng dư nợ 525 810 285 0,49% 2. Nợ quá hạn 24 33,5 9,5 0,39% 3. Tỷ trọng (2/1) 4,57 4,13 Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa là thấp. Năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn là 4,57% đến năm 2001 tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống còn 4,13%. Giảm về con số tuyệt đối là 0,44 tỷ con số tương đối 9,5%. Tuy nhiên nợ quá hạn trên đều có khả năng thu hồi vì theo quy định của Ngân hàng hồ sơ của các món vay đều phải có tài sản thế chấp nên Ngân hàng đã nắm và quản lý tài sản thế chấp. Để thu hồi được nợ quá hạn Ngân hàng phải tổ chức thu nợ quá hạn bằng nhiều biện pháp tích cực phối hợp chặt chẽ với các cấp các ngành có liên quan, chính quyền địa phương sở tại để thu nợ. Năm 2001 Ngân hàng công thương Đống Đa đã bán 5 ngôi nhà, 150 máy khâu, một số máy móc thiết bị hình thành từ vốn vay ngân hàng để thu hồi nợ quá hạn và lãi treo của những khách hàng hoàn toàn mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên, bên cạnh đó không tránh khỏi những khách hàng cố ý bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt cố ý lừa đảo chiếm đoạt vốn tín dụng của Ngân hàng. Mặt khác, sản xuất kinh doanh năm nay có nhiều khó khăn, giá cả hàng hoá dịch vụ giảm dần nhiều doanh nghiệp không cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, sản xuất kinh doanh thua lỗ mất khả năng thanh toán, hoặc phá sản gây tác động dây truyền, một số con nợ đã bỏ trốn làm cho Ngân hàng trở thành nạn nhân của kinh tế thị trường. Đứng trước tình hình đó Ngân hàng đã phối hợp chặt chẽ với sự giúp đỡ của công an, viện kiểm soát, quân và thành phố để thực hiện việc thu hồi vốn tín dụng. Tóm lại, qua việc đánh giá công tác sử dụng vốn của Ngân hàng công thương Đống Đa ta thấy công tác sử dụng vốn của Ngân hàng là rất hiệu quả, có những bước phát triển vững chắc, bảo đảm được an toàn vốn. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn để tình trạng đọng vốn do lượng tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh. Do đó 1 vấn đề đặt ra cho Ngân hàng là phấn đấu mở rộng đầu tư tín dụng, hết sức quan tâm cho vay kinh tế quốc doanh, mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế trong những năm tới. Biểu 4. Tình hình cho vay ngắn hạn của KTNQD tại Ngân hàng công thương Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Thời điểm Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tuyệt đối Tỷ trọng % 1. Doanh số cho vay 552 450 -102 -18.4% 2. Doanh số thu nợ 524 510 -14 -2,67% 3. Dư nợ 210 150 -60 -28,57% 4. Nợ quá hạn 6,2 9,5 3,3 53,22% Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình cho vay, thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn đốivới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Tình hình cho vay: Doanh số ngoài quốc doanh năm 2001 chỉ đạt 450 tỷ đồng, giảm 102 tỷ về sóo tuyệt đối và giảm về số tương tối là 18,4% so với năm 2000. Trong 3 tháng đầu của năm 2002 Ngân hàng công thương đã giải ngân được 500 tỷ đồng đạt 11,1% doanh số cho vay của cả năm 2001. Kết quả thu hồi nợ 2000 là 524 tỷ đồng và năm 2001 là 510 tỷ giảm 14 tỷ về số tuyệt đối và giảm 2,67% về số tương đối. - Về dư nợ: năm 2000 là 210 tỷ, năm 2001 là 150 tỷ. Vậy dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh giảm mạnh chỉ đạt 28.57%. - Nợ quá hạn: Năm 2000 là 6,2 tỷ, năm 2001 là 9,5 tỷ. Với số lượng trên đó là thấp. Song cũng chiếm 53,2% trên tổng nợ ngắn hạn. * Sở dĩ doanh số cho vay và dư nợ của kinh tế ngoài quốc doanh có giảm là do một số nguyên nhân chủ yếu sau: Bước sang năm 2001 tình hình sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, hàng hoá sản xuất ra không bán được hoặc bán chậm do hàng ngoại nhiều dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. Với tình trạng chung như vậy Ngân hàng đã từ chối không cho vay với gần 80 khách hàng ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà trước đây đã từng có quan hệ với Ngân hàng. Bên cạnh đó trong lĩnh vực tín dụng, tệ nạn lừa đảo và sử dụng vốn sai mục đích vẫn còn tồn tại nhiều đặc biệt với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy vậy công tác tín dụng của Ngân hàng công thương Đống Đa trong mấy năm qua chứng tỏ Ngân hàng đang có sự chuyển hướng trong lĩnh vực đầu tư sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vì kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực tiềm ẩn nhiều tiềm năng, khi đã được cái chính sách ưu tiên của chính phủ trong lĩnh vực này. III) Thực trạng về đảm bảo an toàn tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Đống Đa. Lĩnh vực tín dụng ngoài quốc doanh là thị trường rất sôi động, đầy tiềm năng nhưng phức tạp, hội tụ nhiều yếu tố bất ngờ và lừa đảo. Đầu tư vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nếu không có những giải pháp hữu hiệu dễ dẫn đến các nợ quá hạn, nợ khó đòi, thậm chí bị mất vốn. Bởi vì phần lớn các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, hộ tư nhân cá thể mục tiêu của họ là lợi nhuận tối đa bằng mọi thủ đoạn để đạt được mục tiêu. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không chấp hành đầy đủ chế độ kế toán các thông tin báo cáo. Và nếu có cũng chỉ là những con số để dễ làm thủ tục vay vốn Ngân hàng, như dự án sản xuất kinh doanh, luận chứng kinh tế kỹ thuật, báo cáo cân đối tài khoản, thu chi tài chính, hợp đồng kinh tế... đều là những con số ghi tên giấy tờ và có khoảng cách xa vời so với thực tế hợp tác của doanh nghiệp, đây chính là tính đặc thù của kinh tế ngoài quốc doanh. Mặt khác, năng động của một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường đồng nghĩa với sự táo bạo, xem thường pháp luật, sử dụng vốn vay sai mục đích, buôn bán lòng vòng nên dễ đưa Ngân hàng thành nạn nhân của những món nợ khó đòi. Mặt khác, khó khăn nữa đối với cho vay kinh tế ngoài quốc doanh là phần lớn tài sản thế chấp không đầy đủ giấy tờ sở hữu hợp pháp. Nhà và đất mua bán thường là giấy tờ viết tay thông qua phường xã, không có giấy trước bạ... Do đó nếu nhìn vào thực trạng trên tưởng chừng không thể đầu tư vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được vì rủi ro cao và không an toàn vốn. Do những đặc trưng trên của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nên đầu tư vào lĩnh vực này để đảm bảo được an toàn vốn buộc Ngân hàng đó phải kết hợp nhiều giải pháp khác nhau, vừa có tính thực tiễn vừa có ý nghĩa khoa học. Tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa trong mấy năm bước vào đầu tư lĩnh vực này rất có hiệu quả, an toàn được vốn. Đạt được điều đó là hiệu quả của nhiều giải pháp. 1. Trước hết, cán bộ tín dụng phải tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc và quy trình tín dụng, chấp hành nghiêm chỉnh một quy chế tín dụng ngoài quốc doanh do Ngân hàng công thương Việt Nam ban hành. Mỗi một món vay cán bộ tín dụng đều phải thực hiện chặt chẽ các qui trình tín dụng, đó là kiểm soát trước, trong và sau khi vay. 2. Công tác thẩm định khách hàng: Bao gồm việc kiểm định khách hàng từ nhiều phía, nhiều luồng thông tin. Đây là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Khả năng đảm bảo tiền vay phụ thuộc rất lớn vào khâu thẩm định này. Khi giao tiền cho người vay, quyền sử dụng tiền hoàn toàn phụ thuộc vào người vay, vì vậy thẩm định khách hàng để đưa ra một quyết định đúng đắn về việc cho vay hay không cho vay là một bước rất quan trọng để đảm bảo tránh được những rủi ro lớn đáng tiếc xảy ra trong kinh doanh. Quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng ở chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa thường chú trọng vào thẩm định khả năng vay nợ của khách hàng tức là thẩm định năng lực pháp lý của người đi vay, tư cách pháp nhân và thể nhân, sự trung thực và uy tín của người vay trên thương trường và họ có sẵn sàng trả nợ cho Ngân hàng ngay không. Đó là: - Thẩm định tư cách pháp nhân và thể nhân: xem xét khách hàng có đầy đủ các giấy tờ cần thiết ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0207.doc