Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình triển khai trong nghiệp vụ khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô

LỜI NÓI ĐẦU Giao thông vận tải là một ngành sản xuất phi vật chất không thể thiếu được ở bất cứ quốc gia nào. Giao thông vận tải cũng là bộ phận không thể thiếu trong cơ sở hạ tầng của một đất nước. Nó quyết định lớn đến sự phát triển kinh tế đất nước. Là cầu nối giữa kinh tế với xã hội, nó thúc đẩy giao lưu thương mại, văn hoá và mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện hơn. Nhu cầu đi lại , vận chu

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình triển khai trong nghiệp vụ khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yển hàng hoá của con người ngày càng phát triển. Trong giao thông vận tải thì xe ôtô là một phương tiện phổ biến nhất, được sử dụng rộng rãi với tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá thành vận chuyển thấp.Vận chuyển bằng ôtô đảm bảo được một phần nhu cầu vận tải của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác khi đời sống của người dân Việt Nam càng cao thì nhu cầu sở hữu một chiếc ôtô càng lớn. Hiện nay, bên cạnh tốc độ xây mới, mở rộng hoạc nâng cấp hệ thống đường xá, cầu cống chưa tuơng xứng với sự phát triển của các phưong tiện giao thông. Chính vì vậy tình trạng và tốc độ các vụ tai nạn giao thông gia tăng , gây thiệt hại về người và của cho người sử dụng phưong tiện. Chính vì vậy để giảm thiểu tổn thất và đề phòng hạn chế tai nạn giao thì bảo hiểm cho xe ôtô ra đời là một tất yếu. Nó là nhu cầu tất yếu của đời sống, nhằm ổn đinh đời sống cho bộ phận dân cư. Hiện nay nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô và Bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe ôtô đang phát triển rất nhanh . Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển nhanh ấy , nó còn một số vấn đề tồn đọng .Chính vì vậy chọn đề tài : Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình triển khai trong nghiệp vụ khai thác bảo hiểm vật chất xe ôtô . Đề tài tập chung chính vào phần giải pháp để thu hút khách hàng , tìm kiếm thị truờng tiềm năng của nghiệp vụ bảo hiểm này Nội dung chính của đề tài gồm ba phần : Phần I : Lý luận chung về bảo hiểm ôtô Phần II : Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty Bảo Hiểm Đông Đô. Phần III: Một số giải pháp để nầng cao, chiếm lĩnh thị phần trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại Công ty Bảo Hiểm Đông Đô. Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình chu đáo của cô giáo - thạc sĩ Nguyễn Thị Lệ Huyền và sự giúp đỡ của các thầy cô , các anh chị tại phòng bảo hiểm kỹ thuật của công ty Bảo Hiểm Đông Đô.Nhưng trong phạm vi có hạn em rất mong được các thầy cô và các anh chị trong phòng kinh doanh của công ty Bảo Hiểm Đông Đô xem xét và giúp em hoàn thiện chuyên đề này. Em xin chân thành cám ơn ! PHẦN I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHÂT XE ÔTÔ I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM 1. Sự ra đời và vai trò của bảo hiểm. a. Sự ra đời của bảo hiểm Cho đến nay, bảo hiểm không còn là khái niệm xa lạ đối với chúng ta. Hoạt động bảo hiểm liên tục phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, việc tìm hiểu xem bảo hiểm xuất hiện từ khi nào lại là điều khó khăn hơn nhiều. Nhìn chung, mọi ý kiến đều cho rằng bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại, gắn liền với sự phát triển của lịch sử loài người. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử đấu tranh với thiên nhiên. Trong quá trình đó, con người phải từng bước chinh phục và cải tạo thiên nhiên, đồng thời cũng luôn phải chịu sự tác động của thiên nhiên, phải đương đầu với thiên tai và gánh chịu những hậu quả do thiên tai gây ra. Do đó, một mặt đấu tranh với thiên nhiên, mặt khác hạn chế tác hại và khắc phục hậu quả của thiên tai luôn là nhiệm vụ cấp bách của mọi thời đại. Thông thường người ta hạn chế bằng nhiều cách: tránh né rủi ro, tự đề phòng và tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, con người dần sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung theo cộng đồng có hiệu quả hơn rất nhiều. Đây chính là tiền đề của bảo hiểm, nghĩa là nhiều người cùng nhau góp tiền hoặc lập ra một quỹ chung để khi có thiên tai hay tai nạn xảy ra bất ngờ gây tổn thât thì người ta sẽ lấy từ quỹ chung ra để bù đắp cho những người bị tai nạn bất ngờ đó. Khi cuộc sống ngày càng phát triển, yếu tố tác động đến đời sống con người không chỉ có thiên nhiên mà còn cả yếu tố xã hội nữa. Những tổn thất, không chỉ do thiên nhiên mà còn do cả chiến tranh khủng hoảng kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, vấn đề thành lập quỹ chung để bù đắp tổn thất lại tỏ ra hữu hiệu hơn bao giờ hết. Cũng từ đó hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và tính ưu việt của nó được thể hiện ngày một rõ nét hơn. b. Vai trò của bảo hiểm trong đời sống xã hội Cho đến nay, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, bảo hiểm càng thể hiện rõ là nhu cầu không thể thiếu, là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo cho quá trình tái sản xuất có thể tiến hành thường xuyên và liên tục, đồng thời góp phần ổn định đời sống của mọi thành viên trong xã hội. * Bảo hiểm bảo đảm cho các tổ chức và các doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Bảo hiểm là một yếu tố cấu thành tất yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những rủi ro ngoài ý muốn luôn đe doạ tới sự an toàn trong mỗi thời khắc của đời sống kinh tế xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng ứng dụng kỹ thuật cao vào cuộc sống cũng như cố gắng hạn chế các thiệt hại do thiên tai gây ra, thì rủi ro có thể thiệt hại cho chúng ta vẫn không thể giảm bớt, mà còn có xu hướng tăng lên. Những thiệt hại này mỗi tổ chức, doanh nghiệp, không thể tự gánh chịu tự trang trải. Họ luôn cần tới một chỗ dựa vững chắc: Bảo hiểm. Dựa trên nguyên tắc san sẻ rủi ro, bảo hiểm mang lại cho các tổ chức và các doanh nghiệp sự an tâm được bảo vệ và đền bù các mất mát, thiệt hại đối với con người, với tài sản, với công việc, tiền, lợi nhuận..... thuộc tổ chức và đơn vị đó. Tham gia bảo hiểm không nhằm triệt tiêu, né tránh rủi ro song chắc chắn sẽ góp phần đề phòng và giảm thiểu tổn thất, đảm bảo cho mọi doanh nghiệp tổ chức và doanh nghiệp phát triển vững mạnh. * Bảo hiểm góp phần hoàn thiện cuộc sống của mỗi chúng ta Cuộc sống của mỗi chúng ta, dù ở nông thôn hay thành thị, dù nghèo túng hay khá giả.... đều chứa chấp những yếu tố không định trước. Mọi nỗ lực của nhân loại luôn nhằm tới mục tiêu kiểm soát các yếu tố tác động tới con người, nâng cao mức sống tạo dựng sự ổn định lâu dài và hoàn thiện cuộc sống. Dù ở mức độ nào của sự phát triển, cuộc sống vẫn luôn tiềm ẩn những rủi ro không lường trước: Rủi ro chết bất ngờ, ốm đau, bệnh tật, tai nạn, trộm cắp, lũ lụt, đổ vỡ... Tất cả những hiểm hoạ bất khả kháng luôn đe doạ chúng ta và tài sản của chúng ta vẫn hiện hữu và cũng chưa bao giờ bị loại trừ một cách tuyệt đối. Rủi ro chỉ có thể xử lý hoặc giảm thiểu nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nỗ lực của xã hội và của mỗi chúng ta. Khi rủi ro xảy ra, trách nhiệm của tất cả chúng ta là giảm thiểu thiệt hại, phục hồi nhanh nhất mất mát về ổn định cuộc sống, mang lại sự bình yên và hạnh phúc cho con người. Con người sẽ có được sự tự tin, thanh thản tâm trí khi đã có bảo hiểm, sẽ được bồi thường tổn thất, mất mát, hay thực hiện các kế hoạch tài chính của mình. Tham gia bảo hiểm là thể hiện cuộc sống biết kế hoạch hóa của chúng ta và nó thực sự cần thiết đối với tất cả chúng ta. 2. Các loại hình bảo hiểm Căn cứ tính chất hoạt động, bảo hiểm chia thành bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội do nhà nước tổ chức và quản lý thống nhất (bộ Lao động thương binh xã hội và bộ Y tế....) chịu trách nhiệm. Bảo hiểm thương mại do bộ Tài chính quản lý (có nước do ngân hàng nhà nước quản lý. Bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh, do đó có nhiều tổ chức của các thành phần kinh tế cùng tham gia; Nhà nước quản lý hoạt động bảo hiểm thương mại thông qua luật, các văn bản pháp quy, các điều lệ; thông qua xét duyệt hình thành cũng như giải thể các tổ chức, kiểm tra hoạt động của các tổ chức có phù hợp với luật pháp điều lệ..... Bảo hiểm thương mại còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh và việc quản lý các rủi ro. Manh nha của hoạt động này có từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại. Xã hội ngày càng phát triển với các cuộc cách mạng công nghiệp, đến cuộc cách mạng thông tin thì bảo hiểm cũng ngày càng khẳng định vai trò của mình trong mọi hoạt động xã hội của con người bởi rủi ro nhiều hơn và các nhu cầu về an toàn cũng lớn hơn. Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như Việt Nam hiện nay có rất nhiều nghiệp vụ (sản phẩm) bảo hiểm khác nhau: Bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt; Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; nội địa. Bảo hiểm thân tàu; Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu; Bảo hiểm xe cơ giới; Bảo hiểm tai nạn con người; Bảo hiểm xây dựng- lắp đặt; Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí; Bảo hiểm sinh mạng cá nhân ; Bảo hiểm nhân thọ; Bảo hiểm cây trồng; Bảo hiểm chăn nuôi; Bảo hiểm sắc đẹp; ... Các sản phẩm trên đều được phân loại theo từng đặc trưng riêng. Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và quản lý nghiệp vụ, sẽ có các tiêu thức khác nhau được lấy làm căn cứ phân loại. Chẳng hạn theo đối tượng bảo hiểm, các nghiệp vụ bảo hiểm có thể được sắp xếp vào các loại: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, hay bảo hiểm con người. Với các đặc trưng kỹ thuật tương đối giống nhau, người ta có thể ghép bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự vào trong bảo hiểm thiệt hại. Trong khi đó bảo hiểm con người có thể phân tích thành bảo hiểm con người phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng có thể sắp xếp các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới... hoặc phân loại thành bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm phi nhân thọ trong đó bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các nghiệp vụ về bảo hiểm tài sản, về trách nhiệm dân sự, và các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ khác. a. Bảo hiểm tài sản: Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu động) của người được bảo hiểm. Ví dụ như: bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm cho hàng hoá của chủ hàng trong quá trình vận chuyển.... b. Bảo hiểm con người Tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ của con người hoặc các sự kiện liên quan đến cuộc sống của con người và có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người được xếp vào bảo hiểm con người. Đó là các nghiệp vụ bảo hiểm như: bảo hiểm tai nạn cá nhân, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm nằm viện phẫu thuật, bảo hiểm khách du lịch, bảo hiểm nhân thọ... Đặc điểm chung của các loại bảo hiểm con người là khi thanh toán tiền bảo hiểm “nguyên tắc khoán” được áp dụng. Tức là về nguyên tắc chung, số tiền chi trả bảo hiểm sẽ dựa vào qui định chủ quan của hợp đồng và số tiền bảo hiểm được thoả thuận khi ký kết hợp đồng chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Tính mạng con người là vô giá, không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy. Bởi vậy việc thanh toán tiền bảo hiểm trong các trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người chỉ mang tính trợ giúp về tài chính khi không may gặp rủi ro. Trong bảo hiểm con người, thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” được sử dụng thay thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Tuy nhiên trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người, các chi phí y tế phát sinh cũng nằm trong phạm vi được bảo hiểm, cho nên thực tế bảo hiểm con người vẫn dựa vào các chi phí thực tế phát sinh để xác định số tiền chi trả và nguyên tắc bồi thường cũng được áp dụng kết hợp trong loại bảo hiểm này. Khác với các bảo hiểm tài sản, trong bảo hiểm con người mỗi một đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều người bảo hiểm khác nhau. Khi có sự cố bảo hiểm, việc trả tiền bảo hiểm của từng hợp đồng bảo hiểm độc lập nhau. Chẳng hạn anh A mua 2 hợp đồng bảo hiểm sinh mạng cá nhân với số tiền bảo hiểm là 10 triệu đồng và bảo hiểm nằm viện phẫu thuật với số tiền bảo hiểm là 5 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn anh bị thương nặng phải vào viện phẫu thuật sau đó chết. Trong trường hợp này người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được khoản tiền cao nhất bằng 10+5 =15 triệu đồng. c. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm con người còn có các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm như; bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới, bảo hiểm TN của chủ thuê lao động, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm công cộng...Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp...) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại về tài sản, về con người...gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự bao gồm trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông thường các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo hiểm và cũng thường là người tham gia bảo hiểm. II. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE ÔTÔ. 1. Đặc điểm hoạt động xe ôtô Cùng với sự phát triển về mọi mặt của toàn cầu , nhu cầu đi lại, giao lưu và vận chuyển phát triển. Phương tiện giao thông phổ biến nhất ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay là ôtô. Xe ôtô ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động của đời sống con ngừơi, vì những ưu điểm sau: Phương tiện xe ôtô có tính linh hoạt cao, quá trình vận chuyển tương đối nhanh và hiệu quả Khả năng vận chuyển lớn , có thể vận chuyển hàng hoá tới mọi địa điểm, chi phí thấp. Tuy nhiên vận chuyển bằng ôtô lại có xác xuất tai nạn lớn vì bản thân hoạt động của xe là nguy hiểm cao, bên cạnh đó lại phụ thuộc và các yếu tố như : Tình hình thời tiết, hệ thống an toàn giao thông, trình độ và trách nhiệm của người lái xe và đặc biệt phụ thuộc lớn vào tình trạng đường xá. Hiện nay hệ thống giao thông ở Việt Nam còn chật hẹp, chất lượng nhiều đoạn đường còn kém và tu sửa mang tính chất tạm thời, số đầu xe tham gia giao thông ngày càng tăng, trong đó có rất nhiều xe không đảm bảo an toàn kỹ thuật vẫn tham gia hoạt động giao thông, lái xe không chấp hành luật lệ giao thông , phóng nhanh vượt ẩu , lái xe trong tình tràng say rựu… ngày càng tăng. Trong những năm gần đây, gắn liền với sự phát triển kinh tế của đất nước, giao thông vận tải nước ta, đặc biệt là vận tải bắng xe ôtô phát triển rất nhanh. Nhằm đề phòng hạn chế tổn thất xẩy ra trong quá trình tham gia giao thông đang hàng ngày hàng giờ đe doạ đối với tài sản của chủ phương tiện ôtô , gây thiệt hại lớn cho xã hội 2. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe ôtô. Trong cuộc sống hàng ngày, cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh dù luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng tổn thất xẩy ra, nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ. Rủi ro luôn hiện diện ở trong mọi hoạt động của đời sống con người. Có thể nói rủi ro là sự tồn tại khách quần mà con người phải chấp nhận. và đặc biệt là trong hoạt động bằng xe cơ giới nói chung và ôtô nói riêng. Vận chuyển bằng phương tiện ôtô đã được sử dụng rất lâu, đây là phương tiện chủ yếu trong vận chuyển hàng hoá và hành khách. Tuy nhiên tính chất rủi ro xẩy ra là rất cao và chủ xe luôn phải đương đầu với nhiều rủi ro khác nhau. . Biện pháp chấp nhận rủi ro : Đây là phương pháp tự thanh toán các tổn thất. Biện pháp này hoàn toàn không phù hợp với chủ xe vì khi tai nạn xẩy ra gây thiệt hại lớn cho người và tài sản , nó làm ảnh hưởn đến kế hoạch vận chuyển của chủ xe, gây thiệt hại về tài chính cho chủ xe vì ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh. Để khắc phục nhữnBảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới (còn gọi là bảo hiểm thân xe) có thể được áp dụng để bảo hiểm cho các loại xe cơ giới. Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới là một loại hình bảo hiểm tài sản, có đối tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe tham gia bảo hiểm. Xe cơ giới là một loại xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ của chính nó và có ít nhất một chỗ ngồi cho người lái xe. Xe cơ giới bao gồm rất nhiều các loại xe khác nhau: xe mô tô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe ôtô chở người, xe ôtô chở hàng hoá, xe ôtô vừa chở người vừa chở hàng và các loại xe chuyên dùng khác. Trong thực tế, vì nhiều lý do mà các DNBH thường chỉ khai thác bảo hiểm đối với xe ô tô mà hạn chế bảo hiểm cho xe mô tô. Những lưu ý khi mua bảo hiểm vật chất xe ôtô: Mua bảo hiểm thủy kích để được hỗ trợ chi phí sửa chữa khi xe bị ngập nước là một trong những điểm quan trọng của bảo hiểm vật chất ôtô. Sự kiện Hà Nội ngập úng trong những ngày vừa qua là dịp để các tài xế “rà soát lại” thị trường bảo hiểm xe hơi trong nước. Dưới đây là những điều mà những người mua bảo hiểm xe nên cân nhắc trước khi lựa chọn bảo hiểm cho xe của mình. Đầu tiên, bạn không nên bỏ qua những phần bảo hiểm mở rộng, bởi tùy thuộc vào những đặc điểm của xe hay các yếu tố khác mà phần này có thể trở nên rất quan trọng. Sự kiện Hà Nội vừa qua đã cho thấy “bảo hiểm thủy kích” cần thiết như thế nào. Hiện nay, hầu hết các công ty bảo hiểm đều có gói bảo hiểm mở rộng này như Bảo Việt, Pjico. Riêng với Liberty Autocare thì đây là điều khoản chuẩn có sẵn trong hợp đồng. Hay như “bảo hiểm mất cắp bộ phận” là "chiếc phao" cho chủ nhân của những dòng xe cao cấp, đắt tiền như BMW, Mercedes an tâm hơn trước vấn nạn này (hiện nay chỉ có Liberty Autocare có gói bảo hiểm này). Ngoài ra, đã đến lúc cần phải xem xét khía cạnh hỗ trợ khách hàng từ các công ty bảo hiểm. Thông thường trước đây, các công ty bảo hiểm thường để mặc cho khách hàng “tự thân vận động” trong các sự cố. Nhân viên bảo hiểm chỉ việc đến giám định, thanh toán bồi thường thiệt hại,. Đo đó hai bên không tránh khỏi những rắc rối nảy sinh liên quan đến giám định, bồi thường. Việc xuất hiện ngày càng nhiều các công ty bảo hiểm khiến cho sự cạnh tranh về dịch vụ cũng phát triển theo. Những dịch vụ tiện ích hỗ trợ dù là đơn giản, nhỏ nhất nhưng cũng đủ để có thể đánh giá mức độ quan tâm của công ty bảo hiểm đối với khách hàng. Tiếp đến cần tìm hiểu kỹ chất lượng dịch vụ bảo hiểm trước khi quyết định chọn mua bảo hiểm. Mức bồi thường bảo hiểm cao chưa hẳn đã quyết định chất lượng của bảo hiểm tốt. Nhiều khách hàng đã phải “kêu trời” khi nhân viên bảo hiểm giám định tổn thất của xe thấp hơn nhiều so với thực tế, hay xe hư bị đưa về các garage không đủ tiêu chuẩn, rồi còn những thủ tục bảo hiểm rườm rà, có khi mất đến hàng tháng trời khiến cho các chủ xe lắc đầu ngao ngán. Do đó, nên tham khảo chất lượng dịch vụ kỹ lưỡng trước khi đi đến quyết định. Cuối cùng, bạn nên quan tâm đến đường dây nóng liên lạc của các công ty bảo hiểm, bởi khi xe gặp sự cố, người chủ xe rất cần đến sự hỗ trợ giúp đỡ chuyên nghiệp, nhất là trong việc cứu hộ. Các chủ xe sẽ được các công ty bảo hiểm hướng dẫn cách xử lý tình huống “đúng chuẩn”. Rất nhiều chủ xe hơi tại Hà Nội vừa qua đã phải “dở khóc dở cười” khi bị các công ty bảo hiểm từ chối bồi thường thiệt hại do “thủy kích” chỉ vì họ cố gắng nổ máy khi xe bị ngập nước. Trong khi đó, chỉ với việc gọi điện thoại liên lạc với công ty bảo hiểm, họ đã có thể nhận được sự chỉ dẫn rõ ràng, thậm chí là đề nghị giúp đỡ cứu hộ. Hiện nay Liberty có đường dây nóng 24/7. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường xe hơi trong thời gian qua, sắp tới có lẽ cũng sẽ có thêm nhiều đường dây nóng của các hãng bảo hiểm khác mở ra để phục vụ khách hàng. Xe cơ giới được cấu tạo từ nhiều chi tiết, bộ phận máy móc thiết bị khác nhau như động cơ, hệ thống nhiên liệu, hệ thống điện, hệ thống truyền lực, hệ thống lái, hệ thống phanh và hộp số, bộ phận thân vỏ. Để có thể trở thành đối tượng bảo hiểm trong các HĐBH thiệt hại vật chất xe cơ giới, những chiếc xe này phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: Người chủ xe phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định về an toàn kỹ thuật và môi trường. g tình trạng khó khăn về mặt tài chính khi xe ôtô bị tai nạn cách tốt nhất là chuyển giao rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. Khi tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô sẽ bảo hiểm mọi rủi ro thiệt hại về vật chất xe ôtô ( trừ trường hợp cố ý) . Qua đó ta có thể thấy được sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe ôtô, góp phần khắc phục khó khăn những rủi ro và bảo vệ tài sản cho chủ xe. 3. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ôtô Qúa trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô đã đem lại sự an toàn cũng như ổn định về mặt tài chính cho các chủ xe khi tham gia bảo hiểm . Như vậy , chúng ta có thể thấy được tác dụng của nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất ôtô: Một là , người tham gia bảo hiểm ( Cá nhân hoạc tổ chức) được trợ cấp bồi thường những thiệt hại thức tế do rủi ro gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó nhanh chóng ổn định kinh tế khôi phục đời sống kinh tế và ổn định đời sống kinh doanh, đó là mục đích chính của bảo hiểm. Khi tai nạn giao thông xẩy ra cho những rủi ro được bảo hiểm gây nên những thiệt hại về vật chất ôtô, từ đó gây những kho khăn về tài chính choi chủ xe ôtô. Cho nên người bảo hiểm đã thông qua nghiệp vụ bảo hiểm của mình tiến hành chi chi bồi thường cho chủ xe một cách kịp thời góp phần khắc phục những khó khăn về mặt tài chính cho chủ xe. Hai là, góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất. Thông qua công tác bồi thường bảo hiểm xe ôtô đã thúc đẩy các chủ xe tham gia bảo hiểm có biện pháp đề phòng và ngăn ngừa tổn thất xẩy ra và luôn chăm lo đến giữ gìn xe tốt hơn.Vì khi bị tai nạn công ty bảo hiểm không chịu tất cả trách nhiệm mà chủ xe cũng phải chịu một phần.Từ đó dẫn đến số vụ tai nạn giảm, có ý nghĩa xã hội lớn, III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE ÔTÔ 1. Đối tượng được bảo hiểm Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới (còn gọi là bảo hiểm thân xe) có thể được áp dụng để bảo hiểm cho các loại xe cơ giới. Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới là một loại hình bảo hiểm tài sản, có đối tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe tham gia bảo hiểm. Xe cơ giới là một loại xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ của chính nó và có ít nhất một chỗ ngồi cho người lái xe. Xe cơ giới bao gồm rất nhiều các loại xe khác nhau: xe mô tô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe ôtô chở người, xe ôtô chở hàng hoá, xe ôtô vừa chở người vừa chở hàng và các loại xe chuyên dùng khác. Trong thực tế, vì nhiều lý do mà các DNBH thường chỉ khai thác bảo hiểm đối với xe ô tô mà hạn chế bảo hiểm cho xe mô tô. Xe cơ giới được cấu tạo từ nhiều chi tiết, bộ phận máy móc thiết bị khác nhau như động cơ, hệ thống nhiên liệu, hệ thống điện, hệ thống truyền lực, hệ thống lái, hệ thống phanh và hộp số, bộ phận thân vỏ. Để có thể trở thành đối tượng bảo hiểm trong các HĐBH thiệt hại vật chất xe cơ giới, những chiếc xe này phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: Người chủ xe phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định về an toàn kỹ thuật và môi trường. 2. Phạm vi bảo hiểm 2.1. Rủi ro được bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm mà cũng là giới hạn trách nhiệm bảo hiểm của người bảo hiểm.: Tai nạn do đâm va , lật đổ : Là những trường hợp xe bị tai nạn , đâm va vào một vật cản nào đó hoạc đường trơn. Cháy nổ Những tai hoạ bất khả kháng do thiên nhiên : Bảo , lũ lụt, sụt lở, xét đánh động đất, mưa đá…. Mất cắp toàn bộ xe : Mất cắp ở đây không chỉ là hành động cố ý của người được bảo hiểm mà do nguyên nhân khách quan dẫn đến mất cắp. Tai nạn do rủi ro bất ngờ gây nên Ngoài việc bồi thường những thịêt hại vật chất xẩy ra cho chiếc xe đượ bảo hiểm trong những trương hợp trên, công ty còn phải thanh toán cho chủ xe những chi phí cần thiết và hợp lý: + Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh khi xe bị thiệt hại do các nguyên nhân được bảo hiểm + Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại đến nơi sửa chữa gần nhất + Giám định tổn thất nếu thuộc phạm vi bảo hiểm 2.2.Rủi ro loại trừ Trong mọi trường hợp, DNBH không nhận bảo hiểm và không chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất và chi phí sau: 1 - Những tổn thất, chi phí phát sinh trong trường hợp vi phạm pháp luật hoặc độ trầm trọng của rủi ro tăng lên: + Hành động cố ý gây tai nạn của chủ xe, lái xe; + Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ; + Lái xe sử dụng và bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích khác trong khi điều khiển xe (nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi thở của lái xe vượt quá quy định); + Xe không có giấy chứng nhận đăng kiểm và bảo vệ môi trường hợp lệ (giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường); + Xe chở chất cháy, nổ trái phép; + Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định; + Xe đi vào đường cấm, đi đêm không đèn; + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử. 2 - Những tổn thất, chi phí phát sinh do các rủi ro có tính “chính trị” với hậu quả lan rộng: Chiến tranh, khủng bố 3 - Trừ khi có thỏa thuận khác, người bảo hiểm không bồi thường những tổn thất, chi phí phát sinh không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu nhiên, khách quan, những tổn thất liên quan tới yếu tố chủ quan của chủ xe trong việc quản lý, bảo dưỡng xe như: + Hao mòn tự nhiên, giảm dần chất lượng hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. + Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc thết bị, kể cả máy thu thanh, điều hoà nhiệt độ, săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. 4 - Những quy định loại trừ  riêng khác: + Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam (trừ trường hợp có thoả thuận riêng). + Những thiệt hại là hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, mất giảm thu nhập do ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác. Ngoài ra công ty bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường trong trường hợp chủ xe có những vi phạm sau: Một là: Cung cấp không đầy đủ, không trung thực các thông tin ban đầu về đối tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm; Hai là: Khi xẩy ra tai nạn, không thông báo ngay cho DNBH. Không áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất hoặc tự ý tháo dỡ, sửa chữa xe mà chưa có sự đồng ý của DNBH; Ba là: Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho chiếc xe được bảo hiểm Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và bồi thường cho những tổn thất mà xe ôtô gây ra : Hao mòn tự nhiên, mất giá. giảm chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoạc hư hỏng thêm do sửa chữa . Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao hoạc tính theo tháng. Hư hỏng về điện hoạc bộ phậnmáy móc , thiết bị săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. Mất cắp bộ phận xe : Để tránh những “ nguy cơ đạo đức “ lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ giao thông hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất gây ra bởi những nguyên do sau không được bồi thường: Hành động cố ý của chủ xe lái xe Xê không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn giao thông đường bộ Chủ xe (lái) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành + Lái xe không có bằng lái xe hoạc không hợp lệ + Lái xe bị ảnh hưởng của rựu bia, ma tuý hay chất kích thích + Xe chở chất cháy hay chất nổ trái phép + Xe chở quá trọng tải hoạc số hàng hoá quy định + Xe đi vào đường cấm + Xe đi đêm không đèn + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sữa chữa Những thiệt hại gián tiếp như : giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh Thiệt hại do chiến tranh Những thiệt hại ngoài lãnh thổ quốc gia trrừ khi có thoả thuận riêng 3. Gía trị bảo hiểm Gía trị bảo hiểm của xe ôtô là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại của chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên giá trị trên thực tế luôn luôn biến động và có nhiều chủng loại xe mới khó khăn cho việc xác định. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường giựa trên các yếu tố sau đêt xác định giá trị xe : + Loại xe + Năm sản xuất + Mức độ mới, cũ của xe + Thể tích làm việc của xilanh Một số phương pháp xác định giá trịbảo hiểm mà công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ và giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao cụ thể : Gía trị bảo hiểm = giá trị khấu hao - khấu hao Hiện nay trên thị trường Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều xe ôtô đời mới được nhập khẩu từ nước ngoài, vì vậy giá trị thực tế của xe nhập khẩu trên thị trường Việt Nam được tính như sau : GTTT= CIF x ( 100% + Ts. TnK ) x ( 100% + Ts. Tttđb ) Trong đó : GTTT: là giá trị thực tế của xe CIF – giá CIF Ts.TnK- thuễ xuất nhập khẩu Ts.Tttđb - thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt Gía CIF là giá xe ôtô về đến cảng + C ( Cost ): giá mua ôtô tại cửa nước xuất khẩu + I ( Insurance ) : Phí bảo hiểm cho chiếc xe trong quá trình vận chuyển từ nước xuất khẩu về Việt Nam + F ( Freight ) : Cước phí vận chuyển Gía trị thực tế hay giá trị ban đầu của chiếc xe ôtô đó là cơ sở ban đầu khi xác định giá trị bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm. Vì vậy giá trị thực tế cần được kê khai một cách đầy đủ , chính xác 4.Phí bảo hiểm 4.1.Phí bảo hiểm Khi chủ xe muốn xe của mình được bảo hiểm tại một công ty bảo hiểm thì phải nộp một khoản tiền nhất định cho công ty bảo hiểm để hình thành nên quỷ bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ phương tiện có trách nhiệm đóng góp từng năm cho công ty bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm.Công ty bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô theo quy định của bộ tài chính và có thêt thu ngay trực tiếp hay uỷ nhiệm cho đơn vị khác thu hộ. Đặc điểm mức phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới trên thị trường hiện nay: Vừa qua, một số doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã cùng ký một thỏa thuận nâng mức phí tiêu chuẩn bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Kể từ đầu tháng 10/2008, mức phí tiêu chuẩn bảo hiểm vật chất với ôtô đã tăng từ 1,3% lên 1,56% một năm (chưa tính 10% thuế VAT). Ngoài ra, các loại ô tô kinh doanh vận tải hàng hoá có mức phí hàng năm tăng là 1,83%; vận tải hành khách liên tỉnh là 2,97%... Riêng phí bảo hiểm taxi có mức tăng mạnh nhất , tới 3,95%. Theo Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, tình trạng cạnh tranh hạ phí bảo hiểm để giành giật dịch vụ đã diễn ra liên tục trong thời gian qua. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm phải chấp nhận tất cả rủi ro về mình, đồng thời làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, mức phí bảo hiểm mà các doanh nghiệp đang áp dụng tồn tại từ năm 1995 đến nay, trong khi giá cả đã thay đổi nhiều, mức phí cũ không còn phù hợp, dẫn đến nhiều doanh nghiệp bảo hiểm gặp rủi ro cao, không đủ tiền bồi thường cho khách hàng. Theo các ._.doanh nghiệp bảo hiểm, trong thời gian qua chi phí sơn dùng để sơn thân, vỏ ôtô đã tăng thêm 25%, nhiều loại phụ tùng thay thế đã tăng tới 40%. Có những doanh nghiệp nhận hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới đã phải đến bù với mức 250% so với số tiền nhận bảo hiểm vì vậy nhiều doanh nghiệp thua lỗ. Việc nâng phí bảo hiểm là điều cần thiết để đảm bảo các doanh nghiệp bảo hiểm có đủ khả năng chi trả trong bối cảnh tỷ lệ bồi thường cao, lạm phát gia tăng... Ông Đinh Quang Tấn, Trưởng phòng Bảo hiểm xe cơ giới Công ty Bảo hiểm Bảo Việt cho biết, mức phí bảo hiểm tiêu chuẩn vật chất với xe cơ giới tăng từ 1,3% lên 1,56%, tính ra phí bảo hiểm tăng thêm 15% so với mức cũ, trong khi riêng năm 2008 lạm phát trên 20% như vậy mức phí này tăng không phải là cao và cũng chỉ đảm bảo để các doanh nghiệp bảo hiểm hạn chế bớt rủi ro. Người bán có lý lẽ của mình nhưng người mua dịch vụ cũng có vô vàn cái khó khi giá dịch vụ tăng lên. Theo tính toán, với mức phí bảo hiểm tăng như trên thì các khách hàng sử dụng xe cho mục đích cá nhân chịu mức tăng thấp nhất. Hiện nay mức phí bảo hiểm vật chất với ôtô giao động trong khoảng 1,1%-1,7% tuỳ từng doanh nghiệp. Với những khách hàng đang chịu mức phí thấp (dưới 1,3%) sẽ có mức tăng từ 1,25 triệu đồng đến 4,5 triệu đồng/ xe/năm ( với những xe có giá trị khoảng 500 triệu đồng trở xuống) Còn với những xe có giá trị lớn thì mức phí bảo hiểm cũng cao hơn từ 2,5 triệu đồng đến 9 triệu đồng/xe/năm. Với các doanh nghiệp taxi thì mức phí phải chịu sẽ tăng cao nhất. Ông Đinh Văn Sáu, Chủ tịch HĐQT Công ty Taxi Hương lúa cho biết, trước đây mức phí bảo hiểm với xe taxi của công ty này chỉ là 1,1%/năm. Với những xe có giá trị bảo hiểm 200 triệu đồng chỉ phải chi trả 2,2 triệu đồng/năm, nay tăng lên đến 3,95% thì chi phí cho khoản bảo hiểm này của xe sẽ lên đến gần 8 riệu đồng/năm chưa kể thuế VAT. Đấy là những xe có giá trị bảo hiểm thấp, còn những xe có giá trị bảo hiểm cao khoảng 500 triệu đồng thì chi phí này còn tăng cao hơn nhiều. Ông Trần Quốc Khải, Chủ nhiệm Hợp tác xã Taxi Nội Bài cũng cho biết trước đây phí bảo hiểm vật chất với ôtô taxi của hợp tác xã 1 năm chỉ ở mức 1,5%. Một chiếc xe khi đó chỉ phải trả từ 3 - 4 triệu đồng/năm, nay tăng lên 3,95% thì mỗi chiếc xe tăng lên trên 10 triệu đồng/năm. Cộng cả phí bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm với người thứ 3, người trên xe, thì mỗi chiếc xe phải chi tổng cộng 12 triệu đồng tiền bảo hiểm/ năm, tức là 1 triệu đồng/tháng. "Với mức phí tăng như vậy, công việc kinh doanh của sẽ rất khó khăn"- ông Khải than phiền. Theo các doanh nghiệp bảo hiểm, họ phải nâng phí với taxi lên cao là do độ rủi ro cao.Theo thống kê, thời gian qua lượng taxi va quệt chiếm số lượng lớn và các doanh nghiệp bảo hiểm đã bị thua lỗ khi bảo hiểm vật chất với xe taxi. Nhưng không chỉ có các doanh nghiệp kinh doanh taxi mà các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách, hàng hoá cũng than phiền về mức phí bảo hiểm mới. Với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách, mức phí bảo hiểm vật chất thân xe trước đây từ 1,5% - 2,5% thì nay sẽ phải chịu mức 2,97%. Công ty TNHH thương mại và dịch vụ du lịch Hoàng Mai ( Thanh Xuân Trung - Thanh Xuân - Hà Nội) cho biết hiện đang sở hữu 1 số xe khách hiệu Hyundai 45 chỗ nhập khẩu để chở khách du lịch. Trị giá mỗi chiếc xe khoảng 1 tỷ đồng. Mức phí bảo hiểm trước đây họ chi trả chỉ 2%, nay tăng lên 2,97% tức là mỗi chiếc xe sẽ phải trả thêm gần 10 triệu đồng/năm. Với 5 chiếc xe như vậy mỗi năm mất thêm gần 50 triệu đồng, đây là mức tăng không hề nhỏ. Còn với xe tải thì các loại xe có tải trọng nhẹ, cỡ 1,25 tấn trở xuống lại chịu ảnh hưởng nhiều hơn so với xe tải nặng. Xe tải nhẹ trước đây thường có mức phí bảo hiểm từ1,3%-1,5%, nay phải tăng lên 1,83%, trong khi các xe tải nặng mức phí bảo hiểm đều từ 1,9% đến 3,8% nên có lẽ sẽ ít thay đổi. Theo tính toán của một khách hàng sở hữu xe tải 1,25 tấn thì mức phí bảo hiểm vật chất xe mà họ phải chi thêm ít nhất cũng là 1triệu đồng/năm. Quyền lợi được bảo hiểm: Tổn thất bộ phận: - Bồi thường chi phí thực tế để phục hồi, sửa chữa xe tai nạn; - Hoặc trả tiền tương đương với mức độ tổn thất trên cơ sở xác định được chi phí sửa chưa, phục hồi xe tai nạn có thể phải trả (trường hợp chủ xe không sửa chữa lại xe); Tổn thất toàn bộ: - Số tiền bồi thường bằng giá trị thực tế của xe tại thời điểm xảy ra tai nạn. Những chi phí cần thiết và hợp lý phát sinh do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm nhằm ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm, bảo vệ và đưa xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất, giám định tổn thất. Mâu thuẫn giữa khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm : Nhiều doanh nghiệp kinh doanh vận tải đã phản ứng với việc tăng phí bảo hiểm bằng cách không mua bảo hiểm vật chất với xe ôtô. "Chúng tôi đã ngừng hoàn toàn việc mua bảo hiểm vật chất xe ôtô với taxi Nội Bài" - ông Trần Quốc Khải nói. "Taxi Hương lúa sẽ tự thành lập 1quỹ phòng chống rủi ro và các thành viên đóng tiền để tự bảo hiểm cho rủi ro của chính mình. Tính ra thì chi phí này rẻ bằng nửa so với mua bảo hiểm của các DN bảo hiểm, ông Đinh Văn Sáu cho hay. Công ty TNHH Hoàng Mai cũng khẳng định không mua bảo hiểm vật chất với ôtô chở khách du lịch của họ khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn. Đại diện Hiệp hội Taxi Hà Nội, ông Đỗ Quốc Bình cũng cho rằng việc các DN bảo hiểm liên kết với nhau nâng mức phí bảo hiểm với ôtô lên cao đang ảnh hưởng trực tiếp đến các khách hàng và sự hợp tác này có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. "Chúng tôi đang đợi kết quả điều tra từ Cục cạnh tranh của Bộ Công Thương về vấn đề này"- ông Bình cho hay. Việc tăng phí bảo hiểm vật chất với ôtô có nguy cơ sẽ khiến nhiều khách hàng từ bỏ ý định mua bảo hiểm. Hiện bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bảo hiểm tự nguyện và số lượng khách hàng tham gia vốn đã rất ít. Theo thống kê của Bảo Việt thì chỉ có khoảng 30% số ôtô hiện đang lưu hành có mua bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Thống kê của một số doanh nghiệp khác cho thấy con số này cao nhất cũng chỉ ở mức 55%. Tuy nhiên theo số liệu của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, doanh số của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới trong năm 2007 đạt gần 2.500 tỷ đồng, còn 9 tháng đầu năm 2008, toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đạt doanh thu 8.020 tỷ đồng thì riêng bảo hiểm xe cơ giới chiếm 2.391 tỷ đồng (29,8%). Trong 9 tháng năm 2008, toàn thị trường đã giải quyết bồi thường 3.018 tỷ đồng, tỷ lệ bồi thường là 37%, nghiệp vụ có tỷ lệ bồi thường cao nhất là bảo hiểm xe cơ giới 51,6%. 4.2.Phương pháp tính phí bảo hiểm ôtô. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, việc tính phí bảo hiểm la rất cần thiết và quan trọng, đọi hỏi sự chính xác cao. Phí bảo hiểm được xác định vừa phù hợp với khả năng của mỗi chủ xe khi tham gia bảo hiểm, đồng thời vừa hình thành quỹ bảo hiểm đủ lớn để có thể bù đắp cho những thiệt hại bất ngờ xảy ra do tai nạn , góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất được một cách thường xuyên liên tục đảm bảo đời sống cho mọi người dân trong xã hội. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể các Công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phi bảo hiểm vật chất xe ôtô được tính cho từng loại xe . Thông thường; các công ty bảo hiểm đưa ra những loại phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua phân loại xe thành các nhóm. việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi phải sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các xe hoạt động thông như xe kéo, rơ moóc, xe chở hàng nặng, … Do có mức độ rủi ro caonên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. Khu vực giữ và để xe: Trong thực tế không phải Công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên, cũng có một số Công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa trên khu vực giữ và để xe. Mục đích sử dụng xe: Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp Côngty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ: Xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích kinh doanh đơn thuần chắc chắn se đóng phí thấp hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại ở khu vực lớn. Rõ rang xe lăn bánh càng nhiều thì mức độ rủi ro tai nạn càng cao. Tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu caùu bảo hiểm và những người sử dụng thường xuyên chiếc xe được bảo hiểm. Số liẹu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí cho các lái xe trên 50 tuổi hoặc 55 tuổi, do kinh nghiệm cho thấy số người này ít gặp tai nạn hơn so với người trẻ tuổi. Tuy nhiên, với những lái xe quá lớn tuổi (thường thì 60 tuổi trở lên) thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm. Ngoìa ra, để khuyến khích hạn chế tai nạn các công ty bảo hiểm thường yêu cầu người được bảo hiểm phải tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe của mình. Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường phải cao hơn so với những lái xe có độ tuổi lớn hơn. Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích các chủ xe có số lượng tham gia bảo hiểm tại Công ty mình các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức phí chung cho số lượng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng chế độ giảm phí bảo hiểm cho nhưngx người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại. Biểu phí đặc biệt : Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, công ty sẽ áp dụng biểu phí đặc biệt với những mức phí thấp hơn, nếu đối tượng có sác xuất rủi ro lớn thì công ty bảo hiểm áp dụng mức biểu phí cao hơn. Cách tính phí bảo hiểm : F= f + d Trong đó : F : Phí thu mỗi đầu xe. d : Phụ phí f : Phí bồi thường thiệt hại hay phí thuần Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô của bộ Tài chính : Phạm vi bảo hiểm Phí bảo hiểm Bảo hiểm toàn thân 1,36% số tiền bảo hiểm Bảo hiểm thân vỏ xe 2,27% số tiền bảo hiểm Đối với những loại xe mang tính chất thời vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm thì chủ xe chỉ phải đóng cho những ngày hoạt động đó theo công thức : Số tháng hoạt động trong năm Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm x 12 tháng Tuy nhiên ở Việt Nam thì: Dưới 3 tháng : 30 % phí bảo hiểm của cả năm. Trên 3 tháng đến 6 tháng : 60% phí bảo hiểm của cả năm. Trên 6 đến 9 tháng : 90% phí bảo hiểm của năm. Trên 9 tháng : 100% phí bảo hiểm của năm. Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô không tính khấu hao thay mới : Gía trị thực tế Tỷ lệ phí bảo hiểm cơ bản trên số tiền bảo hiểm Bảo hiểm toàn bộ Bảo hiểm bộ phận Xe mới đã sử dụng dưới 3 năm hoặc giá trị còn lại từ 790% trở lên so với giá trị xe mới. 1,36% 2,27% Xe đã qua sử dụng từ 3 đến 6 năm hoạc giá trị còn lại từ 50% đến 70% so với giá trị xe mới 1,55% 2,45% Xe đã sử dụng trên 6 năm hoạc giá trị còn lại dưới50% so với giá trị xe mới 1,73% 2,64% Bảo hiểm bồi thường theo giới hạn trách nhiệm xe : chủ xe có thể tuỳ ý lựa chọn tham gia bảo hiểm cho chiếc xe được bảo hiểm theo tỷ lệ nhất định thấp hơn giá trị thức tế của xe : - Bảo hiểm có thể áp dụng mức miễn bồi thường : Chủ xe có thể lựa chọn mức miễn thường có khấu trừ tuỳ ý từ 1000000đ đến 10000000đ hoạc từ 100$ đến 1000$. Khi áp dụng mức miễn thường thì tỷ lệ giảm phí so với tổng phí được quy định như sau : Mức miễn thường Tỷ lệ giảm phí 1000000đ hoạc 100USD 5% Tổng số phí 2000000đ hoạc 200 USD 8% Tổng số phí 3000000đ hoạc 300 USD 11% Tổng số phí 4000000đ hoạc 400 USD 14% Tổng số phí 5000000đ hoạc 500 USD 17% Tổng số phí 6000000đ hoạc 600 USD 20% Tổng số phí 7000000đ hoạc 700 USD 23% Tổng số phí 8000000 đ hoạc 800 USD 26% Tổng số phí 9000000 hoạc 900 USD 30^% Tổng số phí 10000000đ hoạc 1000 USD 35% Tổng số phí IV.QUY TRÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE ÔTÔ 1. Công tác triển khai. Khai thác là khâu đầu tiên của quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xe ôtô, khâu này quyết định đến doanh thu phí bảo hiểm của doanh nghiệp và cũng từ đó quyết định đến doanh thu của doanh nghiêpj bảo hiểm. Để khai thác tốt thị phần của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải vận dụng tốt công tác Marketing , xây dựng hình ảnh doanh nghiệp trong lòng khách hàng . Song song với công tác marketinh thì doanh nghiệp phải có độ ngũ nhân viên khai thác chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn được đào tạo bài bản, năng động sang tạo , trung thực và nhiệt tình. Muốn triển khai tốt khâu khai thác thì doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng hệ thống đại lý rộng khắp. Những đại lý đó phải đựơc doanh nghiệp tập huấn kỹ lưỡng , thường xuyên hổ trợ các đại lý khai thác.Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần phải duy trỳ quan hệ với các khách hàng cũ để tiếp tục tái tục thông qua dịch vụ chăm sóc khách hàng của doanh nghiệp. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức nghề nghiệp của nhân viên khai thác 2. Đề phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng và hạn chế tổn thất là một khâu quan trong không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào. Liên quan trức tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm, nếu làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất , doanh nghiệp giảm được số tiền bồi thưòng cho khách hàng. Ngoài ra nó còn góp phần giảm số vụ tai nạn giao thông góp phần vào ổn định an toàn cho xã hội phản ánh đúng nhiệm vụ kinh tế và xã hội của doanh nghiệp bảo hiểm. Để làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất công ty bảo hiểm cần : Tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân bằng các hình thức như : panô, áp phích và trên phương tiên thông tin đại chúng. Công ty bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với các nghành giao thông, công an đề tăng cường hệ thống biển báo , an toàn giao thông. Công ty bảo hiểm cần động viên khuyến khích với các doanh nghiệp , cá nhân thực hiền tốt công tác đề phòng vàn hạn chế tổn thất Tài trợ tài chíng kết hợp với sở giao thông công chính tổ chức các cuộc thi đề phòng và hạn chế tổn thất, lái xe an toàn, xử lý tình huống khi có tai nạn xẩy ra. 3. Giám định tổn thất - Thông báo tai nạn : Cũng khi có tai nạn xẩy ra, người bảo hiểm yêu cầu chủ xe phải tìm cách cứu chữa, hạn chế tổn thất và nhanh chóng thông báo cho công ty bảo hiển về tình hình tai nan, thời điểm tai nạn và nơi xẩy ra tai nạn. Chủ xe không được tự ý di đơi , tháo gỡ , xữa chữa khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm trừ trường hợp có ý kiến của cơ quan công an và các cơ quan có thảm quyền. - Giám định tổn thất: Thông thường đối với bảo hiểm vất chất xe ôtô việc giám định được công ty bảo hiểm giám định với sự có mặt của chủ xe, lái xe hoạc người đại diện hợp pháp nhằm xác định rõ nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trưòng hợp hai bên không không đạt được thoả thuận thì mới chỉ định giám định viên kỹ thuật trung gian làm công tác giám định.Kết luận của giám định viên kỹ thuật được xem là kết luận cuối cùng. Trưòng hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm, doanh nghiệp chịu mức phí giám định. Trường hợp kết luận của giám định viên chuyên nghiệp trùng với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì chủ xe ôtô tự chịu phí giám định bảo hiểm.Trong trường hợp đặc biệt, nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện việc lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào biên bản kết luận của các cơ quan có thẩm quyền và các hiện vật thu được để xác định mức độ thiệt hại 4. Bồi thường tổn thất Trường hợp bồi thường Mức chi trả 1. Tổn thất bộ phận 1.       Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe, số tiền bồi thường được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của xe khi tham gia bảo hiểm. 2.       Nếu số tiền bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe thì, số tiền bồi thường theo giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tai nạn. 2. Tổn thất toàn bộ (Mất cắp, mất tích, bị cướp sau 60 ngày không tìm lại được hoặc bị thiệt hại hư hỏng trên 75% hoặc đến mức không thể sửa chữa được) 1.       Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe, số tiền bồi thường bằng số tiền bảo hiểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.       Nếu số tiền bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe, số tiền bồi thường bằng giá trị thực tế của xe ngay trước khi xảy ra tổn thất.   Theo nguồn tin từ Bảo Việt, khi xe xảy ra tai nạn, chủ xe cần làm một số thủ tục dưới đây. 4.1. Hồ sơ bồi thướng Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe ôtô, chủ xe phải cung cấp những tài liệu chứng từ sau : -Tờ khai tai nạn của chủ xe: - Bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện kỹ thuật xe cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe - Kết luận điều tra của công an hoạc bản sao bộ hồ sơ tai nạn bao gồm : biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, biên bản giải quyết tai nạn, biên bản giám định thiệt hại - Bản án kết luận của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà - Các bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ 3 4.2 .Nguyên tắc bồi thường 1. Ngay sau khi xảy ra tai nạn, chủ xe cần:    - Cứu chữa, hạn chế thiệt hại người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, không tự ý tháo dỡ, di chuyển, sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm (trừ khi có lý do chính đáng) - Thông báo cho cơ quan công an hoặc chi nhánh, đại diện của đơn vị cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nơi gần nhất. - Cùng phối hợp trung thực với cơ quan công an, bảo hiểm xử lý tai nạn, xây dựng hồ sơ tai nạn: ghi chép tình hình tai nạn, sơ đồ hiện trường, lấy lời khai các bên giám định cho các xe liên quan… 2. Chủ xe cần gửi các giấy tờ đến nơi cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (hoặc đại diện khác của đơn vị cấp giấy chứng nhận bảo hiểm) - Giấy yêu cầu bồi thường - Giấy chứng nhận bảo hiểm - Bản sao giấy phép lái xe - Bản sao giấy đăng ký - Biên bản xác nhận tai nạn, tổn thất của cơ quan Công an, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý - Biên bản hòa giải giữa các bên (nếu có) - Các loại giấy chứng nhận về thiệt hại của các bên liên quan (hóa đơn sửa chữa, thay thế tài sản, chứng từ y tế liên quan đến việc điều trị). - Giấy chứng tử (nếu tử vong) 3. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiến hành giám định bảo hiểm với sự chứng kiến của chủ xe hoặc người đại diện hợp pháp của các bên có liên quan để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Nếu chủ xe không thống nhất với kết quả giám định của doanh nghiệp, hai bên sẽ thỏa thuận chọn giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp thực hiện giám định lại (nếu kết quả của giám định viên chuyên nghiệp khác bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu chi phí giám định, và nếu giống, chủ xe cơ giới phải chịu chi phí giám định). Nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện việc giám định, có thể căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và hiện vật, lời khai của các bên liên quan. Thời hạn thanh toán bồi thường là 15 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ bồi thường hợp lệ và kéo dài không quá 30 ngày nếu phải xác minh hồ sơ. Nếu từ chối bồi thường, doanh nghiệp phải thông báo cho chủ xe trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ PHẦN II THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE ÔTÔ I. MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM ĐÔNG ĐÔ 1. Qúa trình hình thành Trước kia công ty Bảo Hiểm Đông Đô có tên là Bảo Việt Hà Tây. Bảo Việt Hà Tây là thành viên của Tập Đoàn Bảo Việt, thành lập 30/12/1998 và hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Công ty luôn được sự ủng hộ của nhân dân các cấp và chính quyền địa phương và là công ty có uy tín, có năng lực dẫn đầu trong các doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn. Hết tháng 12/2007 triển khai 42 nghiệp vụ bảo hiểm, doanh thu phí Bảo hiểm đặt 64,5 tỷ và bồi thường gần 90000 vụ rủi ro so với tổn thất hàng chục tỷ đồng. Là công ty hạng I , không chỉ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh trong tĩnh mà còn vươn ra tĩnh bạn và cả nước ngoài Căn cứ vào quyết định số 13 của Quốc hội về việc điều chỉnh điều chỉnh địa giới hành chính thành phố và một số tỉnh có liên quan, ngày 1/08/ 2008 tỉnh Hà Tây hợp nhấtvới thành phố Hà Nội. Xuất phát từ sự thay đổi địa giới hành chính trên ngày 13/08/2008 Bộ Tài Chính đã có quyết định số 45/ GPDDCP/KDBH về việc đổi tên Bảo Việt Hà Đông thành công ty Bảo Việt Đông Đô. 2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty Công ty Bảo Việt Đông Đô gồm Ban Giám đốc ( 01 giám đốc, 02 phó giám đốc ) 04 phòng quản lý và 16 phòng bảo hiểm khu vực ( gồm phòng BH Ba Vi, phòng BH Sơn Tây, phòng BH Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng , Chương Mỹ, Thanh Oai. Phòng BH Mỹ Đức , Phú Xuyên) Về nhân sự : Số cán bộ biên chế của công ty hiện này gồm 80 cán bộ - công nhân viên, trên 235 đại lý chuyên nghiệp và hàng nghìn cộng tác viên. Lãnh đạo có 03 người, trưởng phòng 16 Trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty như sau: Đại học và trên đại học58 người ( trên đại học 8, chính quy 26 , tại chức 24 , trung cấp 20, khác có 2) 3. Các loại hình bảo hiểm của công ty I. Bảo hiểm hàng hoá 1. BH hàng hoá xuất khẩu 2. BH hàng hoá nhập khẩu 3. BH Hàng hoá Vận chuyển nội địa II. BH tày thuỷ BH thân tàu biển BH Trách nhiệm chủ tàu biển BH thân tàu sồng BH TNDS tàu sông BH cháy và tài sản BH cháy và rủi ro đặc biệt BH tổn thất bất ngờ BH tiền BH hỗn hợp nhà tư nhân BH cháy nổ bắt buộc BH kỹ thuật BH mọi rủi xây dựng - CAR BH mọi rủi ro Lắp đặt – EAR BH máy móc- MB BH thiết bị điện tử - EEI BH Máy móc thiết bị xây dựng – CPM BH trách nhiệm BH trách nhiệm sản phẩm BH trách nhiệm công cộng BH trách nhiệm sản phẩm và công cộng dạng mở rộng BH đảm bảo lòng trung thực BH toàn doanh nghiệp BH trách nhiềm chủ nuôi chó BH khác BH nông nghiệp BH vật chất xe ôtô BH vật chất xe môtô BH trách nhiệm của chủ xe ôto BH trách nhiệm của chủ xe môtô BHTN chủ xe đối với hành khách BH TN của chủ xe đối với hàng hoá trên xe BH TNDS của chủ xe ôtô tự nguyện BHTN DS của chủ xe môtô tự nguyện BH con người 4. Nguyên nhân của những thành công a) Xã hội Những năm vừa qua tình hình kinh tế - chính trị và xã hội của Tĩnh Hà Tây tiếp tục được cũng cố và ổn định , nền kinh tế phát triển khá , đặc biệt là việc thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ , tác động đến việc triển khai các sản phẩm bảo hiểm. Trong năm công ty luôn nhận được sư quan tâm chỉ đạo của Bảo Việt Việt Nam, của Tỉnh Uỷ , Uỷ ban nhân dân tĩnh, sự củng hộ của các cấp chính quyền địa phương, các sở ban nghành đã tạo điều kiện cho công ty triển khai nhiều nghiệp vụ bảo hiểm đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế , đơn vị sự nghiệp , tổ chức đoàn thể và nhân dân.. Đảng và chính phủ đã ban hành nhiều văn bản về bảo hiểm , tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm, đặ biệt là Nghị Quyết 32/CP của chính phủ về việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông; các văn bản chế định, chế tài , yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo những quy định của pháp luật, làm lành mạnh và bình đẳng môi trường kinh doanh. b) Phía doanh nhiệp : Công tác tổ chức cán bộ : Công ty luôn quan tâm thường xuyên như cử cán bộ theo học lớp đào tạo chuyên nghành để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, xắp xếp, điều động cán bộ , phù hợp với chuyên môn nên đại đa số cán bộ trong công ty đều hoàn thành xuất xắc nhiệm vụ. Thường xuyên mở các lớp đào tạo cho các đại lý chính vì vậy hấu hết các đại lý của công ty đều có năng lực chuyên môn hoạt động chuyên nghiệp Không ngứng nghiên cứu thị trường để tìm ra các sản phẩm bảo hiểm ra thị trường đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và tạo được lòng tin nơi khách hang. Doanh nghiệp luôn chú trọng đến chất lượng phục vụ khách hàng , đáp ứng các nhu cầu của khách một cách nhanh nhất , chất lượng tốt nhất chính vì vậy góp phần nâng cao uy tin của công ty trên thị trường . Song song với các hoạt động kinh doạnh , Công ty cũng đã tích cực trong các hoạt động xã hội , các hoạt động từ thiện . Thông qua các phương tiện truyên thông xây dựng quảng bá hình ảnh của công ty và của Bảo Việt với công chúng , với khách hàng. Do đó lượng khách hàng mới ngày càng tăng , số khách hàng tái tục vẫn được duy trì c.Khó khăn mà doanh nghiệp vừa gặp phải Mặc dù tình hình phát triển kinh tế ở Hà Tây đạt khá, song nhiều dự án lớn đang trong quả trình đầu tư, nhiều dự án đã được cấp phép song viểc triển khai còn chậm do việc bàn giao , giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn nhiều dự án đã đi vào hoạt động nhưng đang trong giai đoạn ổn định kinh doanh và cũng nhiều dự án hoạt động kém hiệu quả. Do vậy việc triển khai bảo hiểm cho các dự án này còn thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao Mặc dù có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực song tỷ trọng nông nghiệp con cao.Do vậy thu nhập của người dân còn thấp , ngoài ra ý thức của bộ phận dân chúng và doanh nhiệp về việc tham gia bảo hiểm còn hạn chế, chính vì vậy việc triển khai bảo hiểm gặp rất nhiều khó khăn. Doanh thu còn bị hạn chế Tình hình cạnh tranh trong địa bàn diễn ra gay gắt , đắt biệt là cạnh tranh khi có nhiều doạnh nhiệp nước ngoài có nguồn vốn lớn , đội ngũ nhân lực nhiều kinh nghiệm. Chính vì vậy thị phần của doanh nghiệp bị chia sẻ rất nhiều II. DỰ BÁO HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM SẮP TỚI 1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG Năm 2009 và những năm tiếp theo khi Hà Tây xác nhập vào Hà Nội thì tình hình kinh tế sẻ có nhiều chuyển biến : Sự quan tâm của đảng và nhà nước sẽ nhiều hơn , thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài cho các dự án đầu tư lớn có tầm cỡ. Nhiều nhà máy , xí nghịêp , khu công nghiệp từ nội thành sẻ chuyển sang địa bàn Hà Tây chính vì vậy sẽ là cơ hội lớn cho doanh nghiệp triển khai các sản phẩm bảo hiểm. Ngoài ra do tình hình đời sống dân cư ngày càng cao hơn nênhọ có điều kiện tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm .Sẻ là cơ hội cho doạnh nghiệp triển khai bảo hiểm nhân thọ và nhiều sản phẩm bảo hiểm khác 2. DỰ BÁO TÌNH HÌNH CẠNH TRANH VÀ DOẠNH THU BẢO HIỂM Năm 2009 và những năm tiếp theo với sự mở cửa của thị trường theo cam kết các doanh nghiệp bảo hiểm có 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có điều kiện hoạt động để mở rộng, triển khai các loại hình bảo hiểm , mở rộng địa bàn. Chính vì vậy sự cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn. Hiện nay trên địa bàn có 5 doanh nghiệp bảo hiểm cùng kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Về nhóm các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và kỹ thuật : Các khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài, thông thường lựa chọn các nhà bảo Hiểm lớn có uy tín trên thị trường quốc tế, các káhc hàng trong nước thường lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm có mức phí thấp và có hoa hồng cao. Trong nhóm nghiệp vụ này công ty duy trì các khách hàng truyền thống , đồng thời khai thác nghiệp vụ cháy nổ băt buộc Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới: Công ty xác định đây là nhóm tiềm năng . Do tình hình kinh tế phát triển đời sống nhân dân nâng cao, nên số lượng xe mua mới xe cao. Đặt biệt là xe ôtô trong những năm gần đây không ngừng tăng.Công ty xây dựng kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm này kết hợp với chú trọng chất lượng dich vụ khách hàng, chăm sóc khách hàng . II.TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE ÔTÔ TẠI BẢO HIỂM ĐÔNG ĐÔ 1. Công tác khai thác: Khai thác là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai bất cứ nghiệp vụ nào.Khai thác quyết định doanh thu và hiệu quả của công ty và nó cũng quyết định đến các khâu còn lại của bảo hiểm vật chất xe ôtô, khai thác chiếm một vai trò cực kì quan trọng vì đây là nghiệp vụ có tỷ lệ rủi ro và bồi thường cao, do đó luôn được các công ty bảo hiểm hết sức quan tâm. Một nội dung quan trọng của công tác khai thác là vận động , tuyên truền cho các chủ xe thấy được khi tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô, từ đó kí kết hợp đồng bảo hiểm.Khâu này thực sự quan trọng và khó khăn đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp cần vận dụng tốt những nội dung của Marketing trong dịch vụ : chính sách giá cả, chính sách sản phẩm, phân phối, khuếch trương giá cả , con người , chất lượng dịch vụ….. Bảo hiểm vật chất xe ôtô là loại hình bảo hiểm tự ngyện, cho nên chất lượng của công tác khai thác phụ thuộc rất nhiều vào việc tuyên truyền quảng cáo , thái độ của người làm công tác khai thác, qua đó mới làm chủ xe hiểu được , nhận thức được ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô, từ đó chủ xe tự giác tham gia nhiều hơn. Tuy nhiên được sự chỉ đạo sát sao , kịp thời của lãnh đạo , cũng như sự vận dụng linh hoạt các biện pháp khai thác, sự cố gắng của đội ngũ cán bộ , nhân viên công ty. Công ty bảo hiểm Đông Đô đã đặt được những kết quả sau : Bảng 1: Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty Bảo hiểm Đông Đô: Năm Doanh thu (Đv: nghìn đồng ) 2003 7770445 2004 8525000 2005 9286000 2006 9899000 2007 10500245 Năm 2005 : Tổng doanh thu nhóm nghiệp vụ xe cơ giới đạt 20,958 triệu chiếm tỷ trọng 42,6% doanh thu của toàn Công ty và bằng 103% so với doanh thu của năm 2004. Trong đó: Bảo hiểm vật chất xe ôtô đạt doanh thu 9.280 triệu đồng bằng 109% kế hoạch và bằng 127%, bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe ôtô đạt doanh thu 5.545 triệu đồng bằng 96% kế hoạch và bằng 105% so với doanh thu năm2004, bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe môtô đạt doanh thu 6.119 triệu đồng bằng 78,4 % so với doanh thu năm 2004 Năm 2006: Xác định đây là nhóm nghiệp vụ truyền thống, có tiềm năng lớn và có tỷ trọng cao trong doanh thu của toàn công ty, song đây là nhóm bảo hiểm có sự cạnh tranh gay gắt và có nhiều công ty cùng tham gia trên địa bàn. Tính đến ngày 31/12/2006 doanh thu của nhóm nghiệp vụ bảo hiểm này đạt 20,783 triệu đồng , chiếm tỷ trọng 40,95 daonh thu của toàn công ty và bằng 99,25 so với năm 2005 trong đó: + Bảo hiểm vật chất xe oto : danh thu đặt 9,989 tỷ đồng = 104% kế hoạchvà bằng 106,6% so với doanh thu năm 2005 + Bảo hiểm trách nhiệm ôtô : doanh thu đặt 55000 tỷ bằng 89% kế hoạch và bằng 99% so với năm 2005 + Bảo hiểm TNDS xe môtô v: doanh thu đặt 5,120 tỷ đồng bằng 79% kế hoạch vág bằng 84% so với năm 2005 Qua số liệu trên ta thấy mặc dù trên địa bàn có sự cạnh tranh gay gắt và có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia khai thác nhưng nhìn chung tị phấn về bảo hiểm xe cơ giới của công ty vẫn chiếm tỷ trọng cao Năm 2007 : Xác định đây là nhóm nghiệp vụ truyền thống, có tiềm năng lớn và chiếm tỷ trọng đáng kể trong doanh thu toàn Công._.ợp mạnh mẽ hơn với chủ xe và các nghành chức trách thực hiện một số biện pháp chủ yêu nhằm đề phòng và hạn chế tổn thất : - Định kì hàng năm tổ chức các lớp tập huần cho các lái phụ xe. Phối kết hợp với các cơ quan ban nghành thường xuyên nâng cao tay nghề lái xe , ý thức khi tham gia giao thông: làm chủ tốc độ, chấp hành nghiêm luật lệ giao thông, không uông bia rựu , chất kích thích khi tham gia giao thông. Từ đó giảm thiểu tai nạn khi tham gia giao thông - Công ty Bảo hiểm nên bỏ ra nguồn kinh phí kết hợp với các chủ xe , lái xe kiểm tra định kì các phương tiện giao thông , đảm bảo rằng phương tiện tham gia giao thông là đảm bảo kỹ thuật, giảm thiểu rủi ro. - Chú trọng công tác thống kê tình hình tai nan, phân tíchnhững yếu tố tạo thuận lợi cho nguyên nhân làm cho tai nạn phát triển. Bàn bạc với các cơ quan chức trách thực hiện các biện pháp giải quyết hậu quả. Thông qua các hoạt động tình nguyện tổ chức tuyên truyên , giáo dục cho người tham gia giao thông. 3. Đối với công tac giám định 3.1. Nâng cao hơn nữa chất luợng giám định chất lượng của công ty thông qua việc chú trọng hơn nữa vào việc giám định trực tiếp và tăng cương giám định viên am hiểu kĩ thuật ôtô Giám định viên phải là những người am hiểm về ôtô. Thường qua lớp đào tạo sơ bộ hoạc cơ bản về ôtô, am hiểu về ôtô. Trước khi kí kết hợp đồng bảo hiểm thì phải đánh giá chính xác tực trạng xe tham gia bảo hiểm, để tránh trục lợi bảo hiểm. Khi có tai nạn xẩy ra yêu cấu giám định viên, chuyên viên giam đinh phải đến ngay hiên trường để kết hợp với lái ,chủ xe hay cơ quan công an thực hiện công tác giám định. Ghi chép lại hiện trường và thực trạng xe khi xẩy ra tai nạn. Công việc này đòi hỏi nhân viên giam định phải có ý thức tinh thần trách nhiệm cao , không cấu kết với chủ xe để trục lợi bảo hiểm và phải có sự am hiểu về các loại xe, khi giám định tức giám định viên hoạc nhân viên giám định của công ty bảo hiểm phải giám định chính xác , đánh giá đúng mức độ thiệt hại .Từ đó bảo cáo công ty tình hình thiệt hại của phương tiện, vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng lại vừa tránh thất thoát cho công ty bảo hiểm. Công ty cần đào tạo và sử dụng nhân viên giám định là những người giỏi về chuyên môn, am hiểu về kỹ thuật ôtô. Chính vì vậy công ty bảo hiểm nên sử dụng các cộng tác viên là các kỹ sư chuyên nghành ôtô, các chuyên gia giỏi về kỹ thuật ôtô. Điều này giúp công ty bảo hiểm tránh được tình trạng thiếu hụt nhân viên giám định trong tình trạng khẩn cấp, đồng thời những cộng tác viên này có thể giúp nhân viên giám định nâng cao hiểu biết về lĩnh vực ôtô, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ giám đình từ đó giúp quá trình bồi thường thiệt hại nhanh chóng , chính xác. Công ty nên thường xuyên cử nhân viên tham gia các khoá đào tạo của Tập đoàn về chuyên viên giám định nghiệp vụ bảo hiểm xe ôtô. Đồng thời cũng thường xuyên trao đổi học hỏi từ các thành viên trong tập đoàn trọng nghiệp vụ và kinh nghiệp tong lĩnh vực giám định. Công ty nên trang bị đầy đủ trang thiết bị cần thiết cho nhân viên giám định, phục vụ quá trình giám định được hiệu quả chính xác và nhanh chóng.Các trang thiết bị hổ trợ nhân viên trong công tác giám định giúp nhân viên giám định có thể giám định một các thuận lợi Khi có tai nạn xẩy ra cần yêu câu nhân viên giám định phải có mặt nhanh nhất tại hiện trường, ghi chép lại tình tình tổn thất. Để khuyến khích nhân viên giám định làm việc hiệu quả, nhanh chóng thì đòi hỏi công ty bảo hiểm phải có khen thưởng kịp thời với những nhân viên hoàn thành xuất xắc nhiệm vụ, từ đó giúp họ tránh khỏi sự giao động tư tưởng và không cấu kết với với chủ xe trục lợi bảo hiểm 3.2. Biên pháp để giám định nhanh chóng. Trong tình hình hiện nay , với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm trong và ngoài địa bàn thì công ty bảo hiểm nào thực hiệm công tác giám định nhanh chóng , chính xác sẻ gây ấn tượng cho khách hàng , nâng cao uy tin với khách hàng . Từ đó thu hút khách hàng lựa chọn công ty, tin tưởng vào công ty, cũng như dịch vụ do công ty cung cấp. Khách hàng sẻ tin tưởng tham gia tái bảo hiểm khi công ty thực hiện tốt công tác giám định và bồi thường. Khi xẩy ra tai nạn, các chủ xe và lái xe thưòng thích giải quyết nhanh chóng không ảnh hưởng đến uy tín của họ .Chính vì vậy khi xẩy ra tai nạn thi nhân viên giám định phải có mặt nhanh chóng tại hiện trường, nếu nhân viên giám định không đến kịp thì công ty bảo hiểm nên thuê nhân viên giám định tại các cơ quan bảo hiểm gần nhất có quan hệ tốt với công ty bảo hiểm.Nhân viên giám định phải nhanh chóng thu dẹp hiện trường, và giải quyết càng nhanh càng tốt để trãnh những trường hợp trục lợi bảo hiểm của các chủ xe, lái xe.Công ty bảo hiểm phải tạo điều kiện thuận lợi cho chủ xe khắc phục hậu quả khi có sự cố xẩy ra. Nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của công ty, giảm lòng tin của khách hàng với công ty.Nhân viên giám định cũng cần hướng dẫn lái xe hoạc chủ xe làm các thủ tục yêu cầu được giải quyết bồi thường 3. Đối với công tác bồi thường Việc giải quyết bồi thường có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình khác phục hậu quả tổn thất, nhanh chóng giúp khách hàng ổn định sản xuất kinh doanh..Mặt khác giải quyết bồi thường nhanh chóng sẽ nâng cao uy tin của công ty , tăng lòng tin của khách hàng đối với công ty. Những năm gần đây Công Ty Bảo Hiểm Đông Đô rất chú trọng đến khâu bồi thường tổn thất , công ty luôn xe đây là trách nhiệm của công ty với khách hàng.Do đó công ty luôn theo giỏi sát sao trong quá trình bồi thường , đảm bảo rằng nó diễn ra thông xuốt và đảm bảo quyền lợi chính đảng cho khách hàng. 4.1. Biện pháp giải quyết bồi thường nhanh chóng. Khi có tổn thất xẩy ra công ty bảo hiểm Đông Đô chủ động phối hợp với các cơ quan có chức năng nhanh chóng khắc phục hậu quả, hướng dẫn chủ xe làm thủ tục có liên quan. Đồng thời công ty luôn chuẩn bị một số tiền để bồi thường tổn thất, nhanh chóng giúp chủ xe khắc phục hậu quả, giải quyết khó khăn về tài chính khi tổn that xẩy ra Tạo điều kiện thuận lợi , đơn giản hoá thủ tục hành chính và giảm phiền hà cho chủ xe trong quá trình nhận tiền bồi thường tổn thất, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo các nguyên tắc thanh toán, đảm bảo rằng nó là chính xác và hợp lý 4.2. Biện pháp tránh tồn đọng hồ sơ Công ty bảo hiểm nên hướng dẫn cho chủ xe các thủ tục giấy tờ khi tiếp nhận hồ sơ, để đảm bảo rằng hồ sơ là đầy đủ và hợp lệ. Tránh tình trạng không giải quyết bồi thường được là do hồ sơ không đầy đủ , từ đó gây tồn động hố sơ, làm giảm lòng tin nơi khách hàng Để công tác giait quyết được nhanh gọn thì công ty bảo hiểm cần trang bị đầy đủ trang thiết bị vi tính thuận lợi cho việc lưu giữ hồ sơ, giúp nhân viên giám định có thể nhanh chóng tiến hành thủ tục bồi thường khi khách hàng bồi thường , từ đó tiết kiệm thời gian cho khách hàng và cả công ty bảo hiểm Đối với các truờng hợp bị nghi là trục lợi bảo hiểm thì cần tiến hành một cách nhanh chóng , trách truờng hợp kéo dài , làm tồn đọng hồ sơ ảnh hưởng tới công tác bồi thường cho các tổn thất khác 4.3. Biện páp ổn định chi trả hợp lý. Số tiền bồi thường có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của công ty bảo hiểm. Đối với khách hàng thì số tiền bồi thường càng nhiều càng tốt nhưng đối với công ty bảo hiểm thì họ cần tối đa hoá lợi nhuận, nhưng đồng thời cũng phải đảm bào rằng bồi đúng sát thực với tình hình tổn thất , gây dựng lòng tin và sự thoả man nơi khách hàng. Để làm tốt điều này thì đòi hỏi công ty bảo hiểm phải luôn duy trì một lượng tiền sẳn có hoạc có thể huy động một cách nhanh nhất, đảm bảo cho công tác bồi thường được thông xuốt. Để tiến hành giải quyết bồi thường hợp lý đỏi hỏi công ty bảo hiểm phải áp dụng các trang thiết bị tiên tiến trong tính toán tổn thất, tính toán phía bảo hiểm hợp lý. Ưng dụng công nghệ thông tin trong nghiệp vụ bồi thường là hết sức cần thiết nhằm tránh sai xót trong bồi thường tổn thất 4.Hạn chế tình hình trục lợi trong bảo hiểm vật chất xe ôtô Trục lợi bảo hiểm là một hiện tượng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các nhà bảo hiểm luôn tìm mọi cách để giảm thiểu, loại trừ tác động tiêu cực của hiện tượng này. Trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ (BHNT) cũng không ngoại lệ. Có nhiều tình huống có thể dẫn đến trục lợi trong BHNT. Có thể kể một số tình huống như sau: - Không xác định được thời điểm khách hàng yêu cầu bảo hiểm và thời điểm phát sinh sự kiện bảo hiểm. Tình huống này phát sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra rất gần so với thời điểm yêu cầu bảo hiểm. Cách đây không lâu dư luận và báo chí đã đưa tin trường hợp phát sinh sự kiện bảo hiểm (chết) 4 giờ sau khi khách hàng yêu cầu bảo hiểm tại Công ty A. Công ty đã lúng túng trong việc xử lý; cách xử lý không làm hài lòng khách hàng và tranh chấp đã phát sinh. - Không xác định được việc khách hàng tự kê khai giấy yêu cầu hay đại lý kê khai hộ khách hàng. - Không xác định được tình trạng sức khỏe ban đầu của khách hàng. Chẳng hạn, không xác định được khách hàng có đủ tay, chân, mắt hay không. - Không các định được chữ ký của khách hàng là thật hay giả cũng như không rõ mặt khách hàng để trả tiền. Khi trả tiền bảo hiểm cho khách hàng, các nhà bảo hiểm thường yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh thư, hộ chiếu… Tuy nhiên do kích cỡ ảnh trong chứng minh thư khá nhỏ và thường rất mờ (do thời gian) nên việc kiểm tra đôi khi gặp khó khăn. Bên cạnh đó, trong quá trình bán BHNT phát sinh khá nhiều trường hợp không phô tô được chứng minh nhân dân của khách hàng do khách hàng ở những địa bàn xa và không muốn cho đại lý mượn chứng minh nhân dân để phô tô. Để hạn chế các trường hợp trục lợi bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng nhiều biện pháp kiểm tra, giám sát trong tất cả các khâu từ đánh giá rủi ro đến giải quyết, thanh toán quyền lợi bảo hiểm. Tuy vậy, tất cả các biện pháp kiểm tra mà các Công ty BHNT áp dụng đễn nay vẫn chưa thể loại trừ hoàn hiện tượng trục lợi bảo hiểm. Việc sử dụng máy ảnh kỹ thuật số để trợ giúp cho việc đánh giá rủi ro và xác định nhân thân khách hàng có lẽ cũng là một trong những biện pháp mà Công ty BHNT cần xem xét. Chẳng hạn, có thể dùng máy ảnh này để ghi lại hình ảnh của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm nhằm phục vụ cho việc đánh giá rủi ro ban đầu, xác định nhân thân khách hàng, xác định sự kiện bảo hiểm; dùng để chụp chứng minh nhân dân ở những vùng xa phục vụ cho việc xác định nhân thân (thay cho phô tô)... Việc sử dụng hình ảnh làm chứng cứ trong bảo hiểm phù hợp với các quy định của pháp luật. Hơn nữa, với giá thành như hiện nay, các đại lý hoàn toàn có thể tự trang bị máy ảnh kỹ thuật số để phục vụ cho công việc. Tuy nhiên, để phát huy được hiệu quả của máy ảnh kỹ thuật số cần có biện pháp quản lý tốt ảnh chụp, thời gian chụp và cần nhận được sự đồng thuận của khách hàng. Lưu ý, máy ảnh kỹ thuật số cũng chỉ là một trong những công cụ trợ giúp cho việc đánh giá rủi ro, xác định nhân thân vì với những hợp đồng dài hạn hàng chục năm thì hình ảnh chụp có thể sẽ không có nhiều ý nghĩa trong việc xác định nhân thân. Tất nhiên, có thể khắc phục vấn đề này bằng cách liên tục cập nhật hình ảnh của khách hàng. 5. Một số đề xuất khác đối với công ty 5.1. Thực hiện chĩnh sách với khách hàng 3P: Perception (Nhận thức), Procedure (Thủ tục) và Personnel (Cá nhân) Sẽ rất quan trọng với việc chắc chắn rằng bạn đang làm việc với các Xu hướng (Trends), chứ không phải những Tình tiết một lần (One time incident). Các Tình tiết một lần thường là những kết quả về những sự kém cỏi, thiếu hụt trong dài hạn ở đâu đó tại công ty bạn. Chúng nổi lên bề mặt sau khi được nấu kỹ bởi vấn đề Nhận thức, Thủ tục hay Cá nhân. Chúng thường khá mạnh mẽ, được nhớ rất lâu. Song những gì bạn tìm kiếm không phải là chúng mà là Xu hướng. Một chuỗi các Tình tiết một lần sẽ trở thành Xu hướng. Hãy nghĩ về một ví dụ như sau. Nếu bạn đến bác sỹ và nói với ông ta rằng bạn bị một cơn đau ngực vào một ngày của tuần trước, kéo dài hơn 10 phút nhưng từ đó đến nay không bị đau một lần nào nữa và chưa từng xảy ra trước đó bao giờ trong đời bạn, rõ ràng việc vị bác sỹ tìm kiếm nguyên nhân cơn đau là rất khó khăn. Ông ta sẽ đề xuất bạn tiến hành một loạt các thử nghiệm, hỏi kỹ bạn về thức ăn, nước uống, lịch sử gia đình hay nhiều yếu tố khác cho đến khi có một loạt các dấu hiệu hay kết quả kiểm tra dẫn dắt bác sỹ tới định hướng chính xác nhất. Còn nếu những yếu tố đó không xuất hiện, vị bác sỹ sẽ mất nhiều thời gian hơn để đưa ra một đề xuất, hoặc đề nghị bạn quay trở lại nếu cơn đau xuất hiện lần nữa. Tuy nhiên, nếu bạn chịu cơn đau liên tiếp trong 4 ngày liên tục, kéo dài 45 phút và bạn chú ý rằng nó xuất hiện ngay sau khi bạn ăn thịt gà với chút súp. Với sự lặp đi lặp lại như vậy, vị bác sỹ sẽ có thể có điều gì đó để tiếp tục. Ông ta sẽ có thể tập trung vào những dấu hiệu bạn miêu tả và đề nghị bạn một vài thay đổi trong cách ăn uống, hay kê cho bạn đơn thuốc nào đó ngay tức khắc. Chẩn đoán và Quản lý dịch vụ khách hàng cũng như vậy. Như thế, chúng ta đã xác định được rằng giữa các Tình tiết một lần và Xu hướng có sự khác biệt rõ nét và cần tới những phương thức khác nhau. Hãy nhìn vào những gì chúng ta có thể quan tâm tới. Nhận thức (Perceptions) là rất mỏng manh, không rõ ràng và đôi lúc rất khó để kiểm soát bởi vì nó là những “trải nghiệm cá nhân” đối với cửa hàng, văn phòng, bộ phận, cá nhân, tiếp tân, thanh toán, tư vấn, … của công ty bạn. Và nó chịu ảnh hưởng bởi thời tiết, người thân và công việc của khách hàng, phải xếp hàng bao lâu, công ty có sẵn sản phẩm trong kho, nơi đỗ xe, nghỉ trưa trong bao lâu,… Bạn đang có được một bức tranh rõ ràng ở đây? Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới Nhận thức. Đây là nơi mà việc có được một bản mẫu sản phẩm lớn trong quan sát cá nhân, các cuộc điều tra khách hàng, phỏng vấn cá nhân hay giao tiếp với khách hàng sẽ dẫn dắt bạn trong một hướng đi về những gì cần được nêu bật trong việc thay đổi Nhận thức. Một khi bạn có được sự thấu hiểu chắc chắn về Nhận thức mà các khách hàng của bạn đang trải nghiệm, bạn có thể quyết định một hướng chỉnh sửa nó. Đôi khi chỉ là những thay đổi rất đơn giản như bổ sung Wi-Fi vào cửa hàng của bạn để các khách hàng có thể lướt web trong khi chờ đợi; tăng cường một bàn thanh toán vào giờ cao điểm hoặc có một bãi đỗ xe rộng và tiện lợi. Nếu đây không phải là những vấn đề hiển nhiên bạn có thể thay đổi, bạn cần nhìn vào đâu đó khác. Đó có thể là một Thủ tục (Procedure) đang dẫn tới những Nhận thức tiêu cực. Có thể là sổ tay công ty đã hết hạn hay không phản ánh được thị trường đang thay đổi của bạn. Có thể là 10 năm trước đây các phân đoạn khách hàng của công ty được xây dựng từ một vài yếu tố nào đó. Còn giờ đây, do yếu tố địa lí, kinh tế hay các phong cách thay đổi, bạn có những phân đoạn khách hàng hoàn toàn mới. Liệu các Quy trình, Thủ tục của bạn phản ánh những gì bạn làm trong 10 năm trước đây hay bạn muốn thay đổi chúng để thích hợp với các khách hàng bạn đang phục vụ ngày nay? Đó là một mánh khóe với Nhận thức. Đó là mục tiêu di động. Và để luôn phù hợp và thích nghi với các phân đoạn Khách hàng thay đổi từng ngày của bạn, bạn sẽ phải luôn quan tâm tới việc thay đổi và cập nhập các Quy trình, Thủ tục sao cho thích hợp nhất với những đối tượng bạn đang phục vụ. Thất bại trong xây dựng các Thủ tục sẽ dẫn tới thất bại với Khách hàng. Từ đây, sẽ dẫn chúng ta tới yếu tố P cuối cùng: Cá nhân (Personnel). Vấn đề cá nhân có lẽ là khó nhất để nêu bật bởi vì tất cả chúng ta đều là con người. Leonard Buchholz, một chuyên gia giao tiếp, đào tạo kinh doanh uy tín tại Mỹ, nhớ lại bài học giá trị ông học được từ một kỹ thuật viên mà ông đã từng một lần làm việc cùng. Người này đang sở hữu riêng một cửa hàng khi Leonard làm quen với ông ta. Giữa ông ta và Leonard thường xuyên có các cuộc trao đổi về học thuyết và quản lý nhân viên. Ông ta một lần nói với Leonard rằng ông chưa bao giờ có vấn đề với việc để một ai đó ra đi. Lúc đó Leonard đang ở một thời điểm trong sự nghiệp mà ông có đôi chút lòng vị tha trong phong cách quản lý và tin rằng mọi người đều có thể hoàn thiện mình với đào tạo và khích lệ. Song vị kỹ thuật viên có đôi chút khác biệt về vấn đề này. Ông ta nói rằng: “Tôi không bao giờ do dự để một ai đó ra đi nếu họ cần ra đi”. Và vị kỹ thuật này đã đúng Nếu cá nhân nào đó không phải người thích hợp cho một vị trí công việc nhất định, sẽ có vài thứ cần thay đổi. Và mặc dù bạn có thể có lòng vị tha và sẽ ngồi xuống nói chuyện với nhân viên đó và xem liệu có sự đào tạo nào có thể giúp đỡ, động cơ làm việc hiệu quả vẫn sẽ cần đến từ nhân viên đó. Nếu bạn tuyển dụng với những chuẩn mực và năng lực rõ ràng, bạn chỉ phải tìm kiếm những con người thân thiện nhất. Mọi người đều có những hành vi tốt nhất trong một cuộc phỏng vấn. Bạn có thể có một cảm giác, một tình cảm đối với một cá nhân; nhưng tốt hơn nên nên kiểm tra. Và các cuộc kiểm tra này sẽ không tốn kém trong mối so sánh với những khoản tiền và công sức tìm kiếm các con người mới thích hợp hơn về dài hạn. Việc tiến hành thay đổi Cá nhân chỉ vì mục đích thay đổi đơn thuần sẽ không thể phát huy hiệu quả và thậm chí khiến mọi người cảm thấy lo lắng. Nếu có thế, bạn hãy đưa Cá nhân đó tới một vị trí mới thích hợp hơn với tính cách và năng lực của họ hay đưa họ tham gia một vài khóa đào tạo nhất định. Đồng thời, hãy chắc chắn rằng bạn có được một chính sách tuyển dụng hợp lý để bạn đưa được những con người thích hợp vào những vị trí thích hợp. Hãy sử dụng Công thức 3P để bắt đầu xác định những nơi bạn muốn hướng tới trong công ty của bạn. Chúng sẽ giúp bạn tập trung vào những yếu tố có tiềm năng đem lại các kết quả tốt nhất trong thời gian ngắn nhất, cả về tiền bạc, sinh lực và đầu tư của bạn cũng như của các nguồn lực công ty. + Cần phải quãng cáo sâu rộng hơn nữa về công ty và lợi ích khi tham gia tại công ty bảo hiểm , để làm nổi bật vị trí của công ty trong tâm trí khách hàng, tạo một nết riêng trong tâm trí khách hàng xứng đáng là sự lựa chọn số một của khách hàng +Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm khác và các công ty bảo hiêm nước ngoài đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải không ngừng đổi mới chất lưọng dịch vụ thu hút khách hàng , thường xuyên cập nhập chương trình dịch vụ khách hàng của đối thủ cạnh tranh để từ đó có những chương trình mới hợp lý hơn và có tính chiến lược hơn + Tìm mọi cách quảng bá hình ảnh , nâng cao vị thế công ty, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp bảo hiểm với uy tín và sự tiện lợi nhưng đồng thời cũng giảm thiểu chi phí marketing, tăng lợi nhuận cho công ty. Tức là công ty không quá lãng phí nhưng hiệu quả mang lại không nhỏ + Tổ chức hệ thống đại lý một cách hợp lý, đặc biệt là nơi bán bảo hiểm ôtô phải là nơi thu hút nhiều khách hàng. Khai thác triệt để các đoạn thị trường tiềm năng , đặc biệt là mối quan hệ sẵn có của công ty với các đơn vị doanh nghiệp, đây là bộ phận thường xuyên sử dụng ôtô + Chú trọng đến dịch vụ khách hàng sau khi tiến hành bán hợp đồng bảo hiểm, đểt khách hàng sẵn sang tham gia tái tục khi hợp đồng bảo hiểm cũ kết thúc 5.2. Công tác quản trị nhân lực trong doanh nghiệp Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm thì để thành công họ cần phải có một đội nguc nhân viên giỏi, giàu kinh nghiệm và hết sức nhiệt tình trong công việc.Nhưng đểt các nhân viên này phát huy hết khả năng của họ cống hiến cho công ty cũng thì đòi hỏi công ty phải làm tốt công tác quản trị nhân lực: + Đánh giá đúng năng lực của từng nhân viên , để có thể phân công công việc một cách hợp lý , khai thác được tiềm năng của từng người và thế mạnh của họ.Tạo cho nhân viên một môi trường làm việc thoải mãi , tạo sụ năng động cho nhân viên + Vừa áp dụng và xây dựng các nguyên tắc làm việc nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho nhân viên một môi trường làm việc phóng khoáng để họ có thể phát huy các sang kiến của họ.Tìm tòi ra các giải pháp để giải quyết tình huống trong nhưng trường hợp khó khăn + Khen thưởng kịp thời với những người hoàn thành xuất xắc nhiệm vụ , đồng thời cũng phê bình kiêm điểm với những người chưa hoàn thành nhiệm vụ hoạc chưa nhiệt tình trong công việc. Mạnh dạn trong việc đưa những ngươiì trẻ lên năm những vị trí quan trọng. Đội ngũ cán bộ cần được trẻ hoá và năng động , làm việc thành thạo với công nghệ thông tin và các ứng dụng phục vụ cho công việc 5.3. Đổi mới công nghệ Các doanh nghiệp ngành bảo hiểm Việt Nam nhất thiết phải đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh, nhất là khi cánh cửa hội nhập đang trước mắt. Tuy nhiên, không nên đầu tư nhảy vọt mà hãy đầu tư dần, có chọn lọc và có chiến lược, kế hoạch cụ thể. Bên lề hội thảo và triển lãm Vietnam ICT in Finance 2006, VnEconomy đã có cuộc trao đổi với ông Abhijit Banerjee, Phó chủ tịch Tập đoàn 3i Infotech (Singapore), xung quanh câu chuyện ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Các doanh nghiệp ngành bảo hiểm Việt Nam nhất thiết phải đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh, nhất là khi cánh cửa hội nhập đang trước mắt. Tuy nhiên, không nên đầu tư nhảy vọt mà hãy đầu tư dần, có chọn lọc và có chiến lược, kế hoạch cụ thể. Việc Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chắc chắn sẽ đem lại rất nhiều cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn. Theo ông, đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, những thách thức đó là gì? Mặc dù yếu tố ứng dụng công nghệ thông tin không có vai trò quyết định đến sự thành bại của mỗi doanh nghiệp, song theo tôi, trong thời đại thông tin, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nếu ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh không tốt chắc chắn sẽ kéo lùi doanh nghiệp lại so với đối thủ. Đây có thể là yếu tố gián tiếp khiến doanh nghiệp thất bại trên thương trường. Trong thời gian tới khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều công ty nước ngoài sẽ vào Việt Nam và các công ty nội địa sẽ đứng trước sự cạnh tranh rất gay gắt trong khoảng thời gian trước mắt. Những khó khăn lớn mà các doanh nghiệp trong nước vấp phải chính là sự thua kém về công nghệ, trình độ kỹ thuật và cả kinh nghiệm nữa. Do đó, để các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh lại được thì đương nhiên doanh nghiệp phải có chiến lược và dự án phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin cụ thể, rõ ràng. Và để tăng tốc trong cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ phải giảm thời gian trong các cuộc trao đổi và tăng khả năng dịch vụ lên, đồng thời phải có hệ thống công nghệ thông tin rõ ràng và các lãnh đạo điều hành phải đổi mới tư duy, đầu tư bài bản. Ông đánh giá thế nào về trình độ quản trị của các lãnh đạo công nghệ thông tin (CIO) Việt Nam? Chúng tôi thấy các CIO đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, “bôi trơn” cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau một năm gián tiếp tham gia thị trường Việt Nam thông qua các doanh nghiệp và đại lý (hiện 3i Infotech chưa có văn phòng tại Việt Nam), tôi nghĩ rằng các CIO cần tăng tốc lên để có thể cạnh tranh được. Theo tôi, để đầu tư vào tin học, các nhà điều hành doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm cần tập trung vào hai yếu tố: Một là yếu tố nội lực như quy mô đầu tư, khả năng tài chính, kỹ thuật trong công ty như thế nào. Hai là yếu tố ngoại lực, cụ thể là những giải pháp nào? do ai cung cấp? và những điểm mạnh cũng như khả năng tài chính của người cung cấp giải pháp. Là đại diện của một nhà cung cấp các giải pháp về ứng dụng công nghệ thông tin cho doanh nghiệp, theo ông, các doanh nghiệp nên đầu tư vào công nghệ thông tin ở mức độ nào? Hiện tại thị trường Internet Việt Nam đang phát triển rất nhanh và tiềm năng với trên 12 triệu người truy nhập, chiếm 15% dân số. Tuy nhiên, người sử dụng ngày càng đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao. Sau khi triển khai trên 33 quốc gia, bài học đầu tiên mà chúng tôi rút ra được là những người làm kinh doanh bảo hiểm nên dành việc cung cấp các giải pháp công nghệ thông tin cho những người làm công nghệ thông tin. Lời khuyên thứ hai là việc đầu tư công nghệ thông tin không nên theo hướng đầu tư nhảy vọt mà nên đầu tư từ từ và có chọn lọc, kế hoạch cụ thể. Hệ thống công nghệ thông tin cần phải tích hợp và phải là một quy trình xuyên suốt trong tất cả hoạt động của doanh nghiệp. Khi tất cả các thông tin và quy trình kinh doanh kết nối được tất cả các khâu khai thác thì lãnh đạo công ty phải có khả năng có được thông tin một cách nhanh nhất để đưa ra biện pháp kinh doanh hợp lý. Bởi lẽ, kỹ thuật là phương tiện phục vụ kinh doanh chứ không quyết định khả năng kinh doanh. Yếu tố cuối cùng, đừng đưa yếu tố giá cả lên hàng đầu mà hãy tập trung vào khả năng cung cấp dịch vụ, khả năng hỗ trợ lâu dài và khả năng tài chính của người cung cấp dịch vụ, quan trọng là phương pháp kỹ thuật của hệ thống. Tuy nhiên, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, theo ông, nó đã đủ điều kiện ứng dụng các công nghệ thông tin mới và hiện đại chưa? Hịên tại, phần cơ sở hạ tầng còn hạn chế nhưng với ưu thế là nước có dân số trẻ thì nhu cầu sử dụng Internet càng tăng nên các công nghệ phục vụ cho các yêu cầu hoạt động bảo hiểm qua ngân hàng, bán bảo hiểm qua mạng sẽ rất cần thiết trong tương lai. Tốc độ của việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng, đưa sản phẩm mới và sáng tạo cho thị trường là yếu tố chủ đạo để cạnh tranh. Công nghệ thông tin cần phải có khả năng để đưa các sản phẩm mới ra thị trường một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó, cần phải mở rộng kênh đại lý và mạng lưới bán hàng ngoài kênh truyền thống như đại lý, môi giới và tìm đến các kênh mới như qua ngân hàng, qua doanh nghiệp khác đồng thời đầu tư vào công nghệ thông tin của chính các kênh bán hàng đó II. PHƯONG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO 1.DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG Năm 2009 và những năm tiếp theo khi Hà Tây xác nhập vào Hà Nội thì tình hình kinh tế sẻ có nhiều chuyển biến : Sự quan tâm của đảng và nhà nước sẽ nhiều hơn , thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài cho các dự án đầu tư lớn có tầm cỡ. Nhiều nhà máy , xí nghịêp , khu công nghiệp từ nội thành sẻ chuyển sang địa bàn Hà Tây chính vì vậy sẽ là cơ hội lớn cho doanh nghiệp triển khai các sản phẩm bảo hiểm. Ngoài ra do tình hình đời sống dân cư ngày càng cao hơn nênhọ có điều kiện tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm .Sẻ là cơ hội cho doạnh nghiệp triển khai bảo hiểm nhân thọ và nhiều sản phẩm bảo hiểm khác 2. DỰ BÁO TÌNH HÌNH CẠNH TRANH VÀ DOẠNH THU BẢO HIỂM Năm 2009 và những năm tiếp theo với sự mở cửa của thị trường theo cam kết các doanh nghiệp bảo hiểm có 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có điều kiện hoạt động để mở rộng, triển khai các loại hình bảo hiểm , mở rộng địa bàn. Chính vì vậy sự cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn. Hiện nay trên địa bàn có 5 doanh nghiệp bảo hiểm cùng kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Về nhóm các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và kỹ thuật : Các khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài, thông thường lựa chọn các nhà bảo Hiểm lớn có uy tín trên thị trường quốc tế, các káhc hàng trong nước thường lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm có mức phí thấp và có hoa hồng cao. Trong nhóm nghiệp vụ này công ty duy trì các khách hàng truyền thống , đồng thời khai thác nghiệp vụ cháy nổ băt buộc Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới: Công ty xác định đây là nhóm tiềm năng . Do tình hình kinh tế phát triển đời sống nhân dân nâng cao, nên số lượng xe mua mới xe cao. Đặt biệt là xe ôtô trong những năm gần đây không ngừng tăng.Công ty xây dựng kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm này kết hợp với chú trọng chất lượng dich vụ khách hàng, chăm sóc khách hàng . 3. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỈ TIÊU a. Định hướng Căn cứ vào tiềm năng và tình hình phát triển của địa phương Căn cứ vào kết quả kinh doanh của những năm trước, những lợi thế của Công Ty trong tổ chức cán bộ, uy tín trên thị trường Căn cứ vào tình hình phát triển thị trường, nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức và nhân dân trong địa bàn Ban Giám đốc đã đưa ra các định hướng: 1. Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh triển khai nhóm nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, trong đó chú trọng bảo hiểm TNDS xe môtô , Bảo hiểm vật chất xe cơ giới, phấn đấu doanh thu của nhóm nghiệp vụ này chiếm 45% doanh thu của toàn công ty 2. Đẩy mạnh triển khai 2 sản phẩm mới đó là : Bảo hiểm sức khỏe người lao động và Sức khỏe thành tài, phấn đấu đưa doanh thu của 2 sản phẩm này chiếm 25% doanh thu của nhóm, xem xét và chuyển đổi nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người nhằm giảm tỷ lệ bồi thường cho nhóm nghiệp vụ này, duy trì số lượng học sinh tham gia nhóm nghiệp vụ này đồng thời không ngừng nâng cao chất luợng dịch vụ 3. Tiếp tục duy trì và tanh thủ tối đa các mối quan hệ để mở rộng địa bàn,khai thác mở rộng khai thác mở rộng khách hàng tăng doanh thu Tranh thủ sự chỉ đạo và giúp đỡ của Bảo Việt Nam, sự ủng hộ của các cấp ban nghành , nhân dân trong tĩnh để khai thác triệt để nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm tài sản và cháy nổ và một số nghiệp cụ doanh thu còn thấp nhưng tiềm năng lớn c. Một số nhiệm vụ cơ bản: Tranh thủ sự chỉ đạo của Bảo Việt Việt Nam, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự phối kết hợp của các nghành hữu quan để triển khai mạnh mẽ các nghiệp vụ bảo hiểm tại địa phương. Tiếp tục nghiên cứu nhu cầu thị trường để đưa ra các sản phẩm đặc trưng của Bảo Việt vừa mang tính cạnh tranh vừa mang lại hiệu quả kinh doanh cao. Tăng cường công tác tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng, phong phú để quảng bá thương hiệu Bảo Việt nhằm thu hút khách hàng. Tăng cường công tác quản lý, tiết kiệm tối đa các khoản chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Tiếp tục duy trì và nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng, mỗi cán bộ phải luôn suy nghĩ, hành động và phải biết chia sẽ khó khăn với khách hàng, tư vấn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng, phải thực hiện đúng và nghiêm túc phương châm kinh doanh của Bảo Việt “Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”. Tiếp tuc sắp xếp lại tổ chức và cán bộ, thực hiện luân chuyển cán bộ để phù hợp với điều kiện kinh doanh và khả năng của cán bộ, thay đổi phương án phân phối thu nhập, xoá bỏ bao cấp trong thu nhập, thực hiện việc trả lương theo năng suất và hiệu quả công việc để phát huy những nhân tố tích cực, tạo nên một tập thể thực sự vững mạnh. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22106.doc