MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, cạnh tranh không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn vươn ra ngoài thành cạnh tranh quốc tế, gay gắt và dữ dội hơn nhiều. Vì vậy cạnh tranh trở thành mối quan tâm hàng đầu, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng Công ty rau quả, nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia, mỗi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, do đó việc thành công của quá trình này lại chủ yếu phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh (NLCT) của các doanh nghiệp. Hiện nay, NLCT của các doanh nghiệp Việt Nam đang ở mức thấp, xét trên tất cả các tiêu chí như: qui mô kinh doanh nhỏ bé, vốn ít, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, kinh nghiệm quản lý chưa cao…Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO được hơn hai năm, bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng vấp phải không ít khó khăn và thách thức. Vì vậy để tồn tại và phát triển tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm cách nâng cao NLCT của chính mình, đây là phương cách hữu hiệu nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay.
Tổng công ty rau quả, nông sản là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp cũng không nằm ngoài xu hướng biến động trên. Bước vào xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trước khi Việt Nam gia nhập WTO, Tổng công ty cũng đã có kế hoạch và sự chuẩn bị để thích ứng với sự biến đổi của môi trường kinh doanh sau khi gia nhập WTO. Thực tế đã chứng minh sau hơn một năm gia nhập WTO hoạt động kinh doanh của Tổng công ty đã đạt được những kết quả vượt bậc, doanh thu và lợi nhuận tăng vọt, thị phần được mở rộng, đời sống công nhân viên được cải thiện…Tuy nhiên, qua hai năm hoạt động Tổng công ty cũng gặp không ít khó khăn và thách thức, cũng bộc lộ nhiều hạn chế trong quản lý kinh doanh, đặc biệt là NLCT chưa được cải thiện nhiều. Vì vậy việc nghiên cứu NLCT, các biện pháp để nâng cao NLCT của Tổng công ty là một vấn đề cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của Tổng công ty trong thời gian tới.
Tìm hiểu và nghiên cứu về mô hình tổ chức, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh doanh, tình hình kinh doanh của Tổng công ty rau quả, nông sản, em đã nắm bắt được một phần thực trạng hoạt động, cơ hội và thách thức mà Tổng công ty đang phải đối mặt. Trên cơ sở những kiến thức đã học trên lớp, được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy Trần Đức Hiệp, em đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục dích nghiên cứu
- Hệ thống những vấn đề lý luận về xuất khẩu và NLCT của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng NLCT của Tổng công ty rau quả, nông sản, đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế NLCT trong xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản.
- Đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao NLCT trong xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu vấn đề xuất khẩu và NLCT của doanh nghiệp
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Các hoạt động kinh doanh và xuất khẩu của Tổng công ty rau quả, nông sản
+ Thời gian từ năm 2003 đến 2007
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Kết hợp giữa logic, lịch sử, phân tích và tổng hợp
- SWOT: phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức
- Kế thừa những nghiên cứu đã có cũng như khảo sát thực nghiệm thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu làm sáng tỏ chủ đề.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu và NLCT của doanh nghiệp nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng NLCT trong hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao NLCT trong hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản
Với kiến thức và trình độ còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn đọc để luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Trần Đức Hiệp, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế chính trị đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Sinh viên thực hiện
Tạ Thị Minh Lộc
CHƯƠNG1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI LUẬN VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
1.1.1. Xuất khẩu nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản
1.1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ vượt qua biên giới một quốc gia thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Theo định nghĩa này thì hoạt động xuất khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế, là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ của một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc gia.
Như vậy, xuất khẩu nông sản là hoạt động trao đổi nông sản giữa nước này với nước khác. Cũng có thể hiểu xuất khẩu nông sản là nông sản sản xuất trong nước được đem đi tiêu thụ ở nước ngoài.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu nông sản
Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản và là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mục đích của xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, nhằm mang lại lợi ích cho quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Vai trò của xuất khẩu nông sản thể hiện ở những điểm cụ thể như sau:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng lợi thế so sánh của mình
Mỗi quốc gia có những lợi thế khác nhau và theo thương mại quốc tế thì mỗi quốc gia nên tập trung chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh sau đó trao đổi với quốc gia khác. Nông sản là một trong những sản phẩm nông nghiệp không thể thiếu được trong nhu cầu sống của con người. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà có quốc gia thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nhưng lại có quốc gia không đủ điều kiện để phát triển nông nghiệp. Do đó nảy sinh nhu cầu trao đổi nông sản giữa các quốc gia với nhau. Nước ta được thiên nhiên rất ưu đãi để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, sản phẩm phong phú, bên cạnh đó nguồn nhân lực dồi dào và giàu kinh nghiệm… do đó xuất khẩu nông sản giúp nước ta tận dụng, khai thác được tối đa những nguồn lực sẵn có để tạo ra được những sản phẩm có lợi thế so sánh cao.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu
Nguồn vốn ngoại tệ có thể thu được từ các nguồn sau: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch... nhưng xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu. Các loại nông sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa nông nghiệp. Vì thế xuất khẩu nông sản là giải pháp quan trọng tạo nguồn ngoại tệ cho sự phát triển đất nước. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển rất cần ngoại tệ để trang bị máy móc thiết bị hiện đại được nhập từ các nước phát triển về.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
Xuất khẩu cũng có nghĩa là bán hàng ra nước ngoài, xuất khẩu nông sản là bán hàng nông sản ra nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa muốn bán được nhiều hàng thì việc sản xuất hàng hóa nông sản phải theo nhu cầu của thị trường, của người tiêu dùng. Hàng hóa sản xuất ra phải có tính cạnh tranh cao, chất lượng tốt, giá thành cạnh tranh, mẫu mã sản phẩm đa dạng, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó khi hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng phát triển thì nó có tác động ngược trở lại đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường, hiện đại, chuyển từ sản xuất tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết các vấn đề công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn
Xuất khẩu nông sản phát triển thì kéo theo đó là ngành công nghiệp chế biến và ngành trồng trọt, chăn nuôi phát triển, khi đó sẽ giải quyết được nhiều công ăn việc làm, cải thiện, nâng cao thu nhập và đời sống tinh thần của nhân dân, đặc biệt là nông dân và cư dân ở nông thôn.
- Xuất khẩu có vai trò đẩy mạnh, tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi để phát triển nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế. Đến lượt mình khi thương mại quốc tế, cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ phát triển sẽ là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển. Xuất khẩu hàng nông sản là một trong những ngành góp tỷ trọng lớn trong tổng giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam, do dó nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta, qua đó nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chính
Xuất khẩu thường được thực hiện dưới một số hình thức chủ yếu sau đây:
- Hình thức xuất khẩu trực tiếp: Là hoạt động bán hàng trực tiếp của một nước này cho một nước khác có nhu cầu tiêu dùng mà không qua một tổ chức trung gian nào. Hình thức xuất khẩu này chủ yếu thông qua việc mở các văn phòng đại diện để bán sản phẩm, giới thiệu sản phẩm hoặc đầu tư trực tiếp sang nước khác để tận dụng các lợi thế đặc biệt của nước đó nhằm nâng cao tính cạnh tranh và lợi nhuận.
- Hình thức xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương mại, qua đó sẽ chia sẻ bớt rủi ro cho nhà xuất khẩu trung gian. Tuy nhiên, qua hình thức này nhà xuất khẩu trực tiếp sẽ phải sẻ chia một phần lợi nhuận cho trung gian nên lợi nhuận của họ cũng giảm.
- Hình thức gia công quốc tế: Gia công quốc tế là hoạt động mà bên đặt gia công giao hoặc bán toàn bộ nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công. Bên đặt gia công phải trả cho bên gia công một khoản gọi là phí gia công.
- Hình thức tái xuất khẩu: Là xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu nhưng không gia công chế biến. Hình thức này hưởng lợi nhuận chênh lệch từ giá mua đi với giá bán lại.
- Hình thức xuất khẩu tại chỗ: Là hành vi bán hàng hóa cho người nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Hình thức này tiết kiệm được chi phí vận chuyển nên lợi nhuận có thể lớn.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
1.1.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
* Các yếu tố kinh tế vĩ mô
Các yếu tố kinh tế là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Muốn xuất khẩu được thì phải có người tiêu dùng, cụ thể là nhu cầu và sức mua của người tiêu dùng. Mà sức mua lại ảnh hưởng bởi các thông số kinh tế như thu nhập, lạm phát, lãi suất… Một số yếu tố cơ bản để phản ánh kích thước của thị trường tiềm năng đó là quy mô, cơ cấu và xu hướng phát triển của dân số, xu hướng tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng GDP so với tốc độ tăng dân số để dự đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó.
*Các yếu tố tự nhiên
Đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh sản phẩm nông nghiệp thì yếu tố tự nhiên được coi là yếu tố quyết định đến việc phát triển hay không của lĩnh vực nông nghiệp bởi nó quyết định đến số lượng, chất lượng, đến tính kịp thời của nông sản hàng hóa… Điều này đặc biệt đúng với nền nông nghiệp của Việt Nam, bởi điều kiện sản xuất kém, khoa học công nghệ hiện đại chậm được ứng dụng hoặc đã được ứng dụng nhưng rất hạn chế, do đó việc sản xuất vẫn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên rất nhiều. Vì vậy nó ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản của doanh nghiệp.
*Môi trường văn hóa - xã hội
Môi trường văn hóa - xã hội là môi trường hình thành nên các giá trị, những tiêu chuẩn, các niềm tin cơ bản, mỗi một môi trường văn hóa – xã hội khác nhau sẽ có các đặc tính tiêu dùng khác nhau, nên sẽ có các yêu cầu khác nhau về tiêu chuẩn của các sản phẩm. Do đó các nhà xuất khẩu khi xuất khẩu phải chọn lựa các mặt hàng phù hợp với từng người tiêu dùng ở từng môi trường văn hóa – xã hội khác nhau, có như vậy mới có thể xuất khẩu được nhiều nhất, hiệu quả nhất và mang lại lợi nhuận lớn nhất cho nhà xuất khẩu.
* Môi trường chính trị, kinh tế và pháp luật
Mỗi thể chế chính trị khác nhau, mỗi chính phủ hay nhà lãnh đạo, mỗi giai đoạn phát triển khác nhau thì có chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Do đó các nhà xuất khẩu của các nước khác phải tìm hiểu và nghiên cứu rất kỹ vấn đề này. Như pháp luật của mỗi nước sẽ qui định những mặt hàng nào được và không được xuất khẩu, nhập khẩu, những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, về bảo vệ môi trường, môi trường pháp lý có ổn định không, thuận lợi không… Đặc biệt là định hướng xuất khẩu của chính phủ và các công cụ quản lý của nhà nước. Nhà xuất khẩu phải nghiên cứu yếu tố này vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà xuất khẩu.
Trong lĩnh vực xuất khẩu các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng, điều tiết hoạt động này gồm: Thuế xuất nhập khẩu, các công cụ phi thuế quan như: hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, giấy phép xuất khẩu, những qui định về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh…
1.1.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường bên trong
Yếu tố bên trong doanh nghiệp là những yếu tố nội tại của doanh nghiệp, là những yếu tố mà doanh nghiệp có thể chủ động và kiểm soát được, như yếu tố về vốn, công nghệ sản xuất, mô hình và phương thức quản lý, nguồn nhân lực…
Một doanh nghiệp làm ăn giỏi, hiệu quả phải biết cách phát huy thế mạnh từ tiềm lực sẵn có và hạn chế tối đa những yếu điểm và hạn chế trong hoạt động kinh doanh.
- Vốn: Là điều kiện không thể thiếu để thực hiện quá trình sản xuất và kinh doanh, đó là yếu tố hết sức quan trọng cấu thành và thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Con người: Là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp không có yếu tố này thì không tồn tại doanh nghiệp.
- Công nghệ: Là yếu tố trực tiếp nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Mô hình và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố góp phần quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Ngoài các yếu tố trên còn có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động một doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng như: nguồn hàng, mức độ tin cậy của nguồn cung cấp, sự cạnh tranh về giá, sự am hiểu về thị trường và khách hàng…
Các yếu tố trên có ảnh hưởng quyết định đến khả năng khai thác và tận dụng lợi thế từ thị trường. Nếu phát huy tốt tiềm năng của doanh nghiệp sẽ cho phép tận dụng tối đa thời cơ với chi phí thấp để mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
1.1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
* Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị truờng, là nghiên cứu về sức cung và cầu của thị trường hàng hóa nói chung. Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết, tức là đi sâu nghiên cứu cung cầu thị trường.
Nghiên cứu cung: Là nghiên cứu về khối lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả của hàng hóa đã đang bán trên thị trường của chính mình và của các đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu cầu: Là nghiên cứu về nhu cầu tiêu dùng của thị trường, để trả lời các câu hỏi: người tiêu dùng hàng hóa của mình là ai, chất lượng và yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm, khả năng thanh toán, quy mô của thị trường, đặc tính của thị trường, lý do mua hàng, nhịp điệu mua hàng, ai đó có khả năng trở thành người tiêu dùng hàng hoá của công ty, sản phẩm của công ty có kéo dài được chu kì sống hay không?...
Ngoài ra chúng ta phải phân tích điều kiện của thị trường và nghiên cứu các vấn đề về cạnh tranh. Nghĩa là phải phân tích cụ thể tất cả những điều kiện mà thương mại hoá sản phẩm có thể gặp phải như: cơ chế quản lý, con người, kinh tế, tâm lí…Bên cạnh đó cần nghiên cứu nghiên cứu các yếu tố hình thành giá, các nhân tố tác động và dự đoán những diễn biến của giá cả thị trường.
*Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Đảm bảo được nguồn hàng ổn định với chất lượng tốt sẽ là điều kiện tạo nên uy tín với các bạn hàng trên thế giới. Để làm được điều này doanh nghiệp phải dự báo được xu hướng biến động của thị trường để hạn chế rủi ro trong kinh doanh, để tạo được nguồn hàng ổn định trong khoảng thời gian hợp lí, làm cơ sở vững chắc cho việc kí kết và thực hiện các hợp đồng.
Đồng thời tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu, đây là việc doanh nghiệp nông nghiệp xây dựng hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình. Phải lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua để tạo nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu.
*Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng
Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp lựa chọn phương thức giao dịch phù hợp và thực hiện ký hợp đồng.
Đàm phán trong kinh doanh ở bất kì loại hình nào đều là một nghệ thuật. Trong kinh doanh hợp tác làm ăn với nước ngoài các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi đến kí kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao…Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải kinh tế, phải áp dụng một cách khéo léo nghệ thuật đàm phán thì mới nhanh chóng đạt được thành công như mong muốn.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Về thực chất, hợp đồng xuất khẩu là những thỏa thuận và các điều kiện mua bán hàng hóa, khối lượng hàng, chất lượng hàng hóa, giá cả, điều kiện giao nhận, các điều khoản thanh toán… Giữa doanh nghiệp tham gia xuất khẩu và các doanh nghiệp, khách hàng cụ thể. Những thỏa thuận này được thể hiện trong các văn bản hợp đồng nhất định. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc, buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ của mình cũng như được hưởng các quyền lợi nhất định. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải xem xét lại các khoản thỏa thuận trước khi ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Trước khi ký kết hợp đồng cần chú ý đến các khía cạnh: Tính hợp pháp của hợp đồng xuất khẩu; phải chú ý đến các nội dung, các điều khoản của hợp đồng vì điều này là quan trọng nhất đối với một hợp đồng.
* Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hóa với khách hàng, mỗi một doanh nghiệp phải xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm cố gắng không để xảy ra những sai sót, những thiệt hại đáng tiếc, hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
* Phân tích đánh giá hoạt động xuất khẩu
Việc phân tích đánh giá hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là hết sức quan trọng và cần thiết. Nó cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả thực hiện của mỗi hợp đồng xuất khẩu cũng như mỗi giai đoạn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ cách đánh giá đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo. Để đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp sử dụng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu cả về mặt định tính và mặt định lượng.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm.
1.2.1.1. Cạnh tranh.
Trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của đời sống kinh tế - xã hội cũng đều có yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh là một động lực góp phần cho xã hội loài người tồn tại và phát triển, không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Nhưng thế nào là cạnh tranh? Cho đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh.
Theo cách hiểu thông thường, cạnh tranh là quá trình mà các chủ thể tìm mọi biện pháp để vượt lên so với các đối thủ về một lĩnh vực nhất định. Trong nhiều trường hợp quá trình này được hiểu như là sự thi đua hay ganh đua. Cạnh tranh cũng có thể được hiểu là quá trình tạo ra sự nổi trội của chủ thể so với các đối thủ. Đây là một quá trình sáng tạo và đổi mới có tính chất toàn diện.
Về mặt lý luận, tùy từng giai đoạn, cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu mà có quan điểm khác nhau về cạnh tranh. Theo giáo trình “Kinh tế chính trị Mác-Lênin” (Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2005) thì “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện có lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận cao nhất”. Còn trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành ưu thế trên cùng một loại tài nguyên, một loại sản phẩm hoặc một loại khách hàng về phía mình bằng “ mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn”. Trong khi đó, P.Samuelson cho rằng: “cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành, các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh diễn ra ngày càng quyết liệt và gay gắt, người ta thường nói “ thương trường như chiến trường” để miêu tả sự khốc liệt của cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường muốn phát triển sản xuất hàng hóa thì phải chấp nhận cạnh tranh, vì cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Tham gia vào cạnh tranh gồm: chủ thể kinh tế, đối tượng tham gia cạnh tranh (các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ), môi trường cạnh tranh (thị trường cạnh tranh).
* Chức năng của cạnh tranh:
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng sau:
+ Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh cung-cầu và là động lực thúc đẩy đổi mới:
Khi cung hàng hóa nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanh có đủ khả năng công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán mới tồn tại. Do vậy cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi cung một hàng hóa nào đó thấp hơn cầu, hàng hóa đó trở nên khan hiếm trên thị trường, giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất của những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội.
+ Hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi hiệu quả nhất :
Mục đích của cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố “đầu vào” và nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất, giành được lợi nhuận cao nhất. Như vậy trên phương diện toàn xã hội cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản do làm ăn không hiệu quả. Đối với xã hội, phá sản doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được chuyển sang nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả hơn.
+ Tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm và trên cơ sở đó hạ giá bán của sản phẩm.
* Các công cụ cạnh tranh chủ yếu:
- Cạnh tranh bằng sản phẩm :
+ Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm:
Tùy theo từng sản phẩm khác nhau với các đặc điểm khác nhau để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm khác nhau. Trên thương trường, nếu nhiều hàng hóa có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ sẵn sàng mua hàng hóa nào có chất lượng cao hơn. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường.
+ Cạnh tranh bằng bao bì, nhãn mác của sản phẩm:
Khi sản xuất hàng hóa ngoài chất lượng sản phẩm, người sản xuất còn phải quan tâm đến bao bì của sản phẩm. Bao bì phải đảm bảo kỹ thuật, vệ sinh, ngoài ra còn phải thiết kế bắt mắt, đa dạng về mẫu mã… Có như vậy mới tạo ra tính cạnh tranh cao của sản phẩm hàng hóa trên thị trường.
- Cạnh tranh bằng giá cả :
Giá là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh, thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi bước vào một thị trường mới. Nếu hai sản phẩm có công dụng, chất lượng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa nào có giá rẻ hơn.
Để đạt được mức giá bán sản phẩm thấp, có tính cạnh tranh cao thì doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hợp lý hóa sản xuất… Đây là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh vì hạ giá ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp và thường được áp dụng vào cuối vòng đời của sản phẩm. Vì vậy doanh nghiệp cần phải lựa chọn thời điểm thích hợp để tiến hành sử dụng giá cả làm công cụ cạnh tranh.
- Cạnh tranh bằng kênh phân phối:
Ngày nay các doanh nghiệp thường có một cơ cấu sản phẩm rất đa dạng, phong phú để đáp ứng tốt nhất cho những nhu cầu khác nhau của những người tiêu dùng khác nhau. Với mỗi sản phẩm khác nhau, mỗi nhóm khách hàng khác nhau thì sẽ có tương ứng các hình thức và các kênh phân phối tương ứng.
Có 3 kênh phân phối chính:
+ Phân phối đặc quyền:
Hạn chế số nhà phân phối trang gian
Nhà trung gian không bán hang hóa của đối thủ cạnh tranh
Doanh nghiệp hy vọng khách hàng có đủ kiến thức và năng động để mua sản phẩm
Tăng cường ấn tượng cảu sản phẩm và có lãi cao
Chọn một địa điểm để bán sản phẩm
+ Phân phối có chọn lọc: là phương thức trong đó số doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn số nhà phân phối và doanh nghiệp sản xuất không tốn nhiều chi phí để kiểm soát các địa điểm bán hàng.
+ Phân phối rộng rãi: doanh nghiệp sẽ tìm nhiều địa điểm bán hàng tạo thuận lợi cho khách hàng tìm kiếm sản phẩm nhưng sẽ mất khả năng kiểm soát hệ thống bán hàng.
Việc định được kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quyết định trong việc tối thiểu hóa chi phí dành cho tiêu thụ sản phẩm.
- Cạnh tranh bằng xúc tiến bán hàng:
Doanh nghiệp cần có hệ thống bán hàng phong phú, đặc biệt là hệ thống các kho bãi, các trung tâm bán hàng và giới thiệu sản phẩm để cung cấp tốt nhất hàng hóa đến tay người tiêu dùng. Bên cạnh đó cần phải có các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý, hiệu quả hỗ trợ tốt nhất cho việc bán hàng, đồng thời cần kết hợp hợp lý giữa phương thức bán hàng và phương thức thanh toán.
Các phương pháp xúc tiến bán hàng chủ yếu:
+ Bán hàng trực tiếp
+ Quảng cáo
+ Hỗ trợ bán hàng
+ Tài liệu quảng cao
+ Quan hệ đối ngoại
1.2.1.2.Năng lực cạnh tranh.
Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh (NLCT) song khi nói đến thường nhìn nhận dưới 4 cấp độ: NLCT quốc gia, NLCT của ngành, NLCT của doanh nghiệp, NLCT của sản phẩm.
Khi nói đến NLCT của một quốc gia, người ta thường nói tới khả năng cải thiện thu nhập, tạo việc làm cho dân cư hoặc khả năng tăng năng suất tổng hợp các yếu tố của nền kinh tế quốc dân… thông qua các chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu, chi phí nguồn lực trong nước, tỷ giá hối đoái hữu hiệu…
NLCT sản phẩm được nhận biết qua lợi thế cạnh tranh của sản phẩm đó với các sản phẩm khác cùng loại. Một sản phẩm mà có chi phí trên một đơn vị thấp hơn, sản phẩm có chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh sản xuất sản phẩm đó thì doanh nghiệp đã tạo ra sản phẩm có NLCT. Lợi thế của sản phẩm bao gồm các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài tác động đến. Đó là giá cả, chất lượng, hình thức, mẫu mã, chủng loại sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng…
Theo Fafchamps, NLCT của một doanh nghiệp là năng lực của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Randall lại cho rằng NLCT của doanh nghiệp là năng lực giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Theo Phillip Laser, NLCT của một doanh nghiệp trong một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà doanh nghiệp có được hoặc huy động được để có thể cạnh tranh thắng lợi.
Một quan niệm khác cho rằng “Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ trong việc sản xuất và cung ứng hàng hóa”.
Như vậy trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể khác nhau về NLCT của doanh nghiệp. Tuy nhiên các quan niệm đều đề cập đến hai vấn đề cơ bản khi nói về cạnh tranh là chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận cho nhà sản xuất, kinh doanh, trong đó mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao nhất. Có thể nói rằng, cạnh tranh của doanh nghiệp là tập hợp những hành vi nhằm giành lấy những lợi thế để thực hiện phương án kinh doanh thu được lợi nhuận cao nhất trong những điều kiện khách quan cụ thể nhất định.
NLCT của doanh nghiệp là tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của chủ thể trong sản xuất kinh doanh hàng hóa với mức độ có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong những điều kiện khách quan cụ thể nhất định.
Từ đó có thể thấy rằng, hai tiêu thức cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: thị phần của doanh nghiệp và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nông nghiệp là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh những sản phẩm nông nghiệp. Doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước là loại hình doanh nghiệp nông nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Do nông nghiệp có những đặc ._.điểm đặc thù rất khác biệt so với những ngành khác nên khi xét đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp cần phải xét đến yếu tố này.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành NLCT của doanh nghiệp.
NLCT của doanh nghiệp được cấu thành bởi nhiều yếu tố như: Vốn, trình độ công nghệ sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, chất lượng nguồn nhân lực… Các yếu tố trên có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau để tạo ra năng lực cạnh tranh cao nhất cho sản phẩm.
1.2.21. Trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp.
Trình độ tổ chức quản lý là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên tính cạnh tranh cao của sản phẩm. Muốn tổ chức và quản lý tốt thì trước hết doanh nghiệp phải có ban lãnh đạo giỏi vừa có tâm, có tầm và có tài. Ban lãnh đạo của một tổ chức có vai trò rất quan trọng, là bộ phận điều hành, nắm toàn bộ nguồn lực của tổ chức, vạch ra đường lối chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của các phòng, ban để đưa hoạt động của tổ chức do mình quản lý đạt hiệu quả cao nhất. Ban lãnh đạo có vai trò rất quan trọng như vậy, nên phải chọn lựa người lãnh đạo, người đứng đầu ban lãnh đạo đảm bảo đủ các tiêu chuẩn để có thể điều hành quản lý doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao. Nhìn chung người lãnh đạo giỏi là người có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng về quan hệ với con người, hiểu con người và biết thu phục lòng người, có kỹ năng nhận thức chiến lược, tức là nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh để dự báo và xây dựng chiến lược thích ứng.
Để tổ chức quản lý tốt thì vấn đề thứ hai mà doanh nghiệp cần phải có là một phương pháp quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh tốt. Đó là phương pháp quản lý hiện đại mà các phương pháp đó đã được nhiều doanh nghiệp trên thế giới áp dụng thành công như phương pháp quản lý theo tình huống, quản lý theo chất lượng…
Ngoài ra để tổ chức quản lý tốt hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải có hệ thống tổ chức gọn nhẹ. Hệ thống tổ chức gọn nhẹ là hệ thống tổ chức ít cấp, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi, quyền lực được phân chia để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng suất cao.
Mặt khác, doanh nghiệp cần có văn hóa doanh nghiệp tốt, vững mạnh và có bản sắc, cố kết được các thành viên trong tổ chức nhìn về một hướng, tạo ra một tập thể mạnh. Nghĩa là có cam kết chất lượng minh bạch giữa doanh nghiệp và xã hội, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải theo pháp luật, có lương tâm và đạo đức trong kinh doanh, làm kinh tế giỏi và tích cực tham gia các hoạt động xã hội; môi trường bên trong và bên ngoài phải xanh, sạch, đẹp…
1.2.2.2.Nguồn lực của doanh nghiệp.
- Nguồn tài chính:
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, lao động… phát sinh trong quá trình kinh doanh dưới hình thức giá trị. Hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến tình hình tài chính, ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay cản trở quá trình sản xuất kinh doanh.
Trước hết năng lực tài chính của một doanh nghiệp được thể hiện ở qui mô nguồn vốn tự có, năng lực huy động các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Một doanh nghiệp có NLCT là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý. Đồng thời doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng đồng vốn có hiệu quả để phát triển lợi nhuận, phải hạch toán các chi phí một cách rõ ràng để xác định được hiệu quả một cách chính xác.
- Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Trình độ của nguồn nhân lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của nhân viên, công nhân; trình độ nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cần có ban lãnh đạo giỏi. Song như thế chưa đủ, mà còn cần có đội ngũ lao động với trình độ tay nghề chuyên sâu, có năng lực sáng tạo, trung thực trong công việc. Họ chính là những người thực hiện những ý tưởng, chiến lược và chiến thuật kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo cấp trên, những người tạo nên chất lượng và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Trình độ công nghệ:
Để có NLCT doanh nghiệp tốt thì phải được trang bị bằng công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại. Công nghệ hiện đại là công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu thấp, năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Sử dụng công nghệ hiện đại giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản phẩm tốt, do đó làm NLCT của sản phẩm tăng.
1.2.2.3. Các yếu tố liên quan tới NLCT của sản phẩm.
a) Chất lượng sản phẩm :
* Quan niệm chất lượng sản phẩm
Để hiểu như thế nào là chất lượng sản phẩm là vấn đề không đơn giản. Có thể nói chất lượng sản phẩm là một vấn đề không mới và được sử dụng rộng rãi hàng ngày, nhưng chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất rộng và phức tạp, nên có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm.
Quan niệm xuất phát từ sản phẩm cho rằng chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Theo quan điểm này chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của các thuộc tính của nó. Quan niệm này đã đồng nghĩa chất lượng sản phẩm với số lượng các thuộc tính hữu ích của sản phẩm.
Theo quan niệm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, qui cách đã được xác định trước. Tuy nhiên quan niệm chất lượng này chỉ phản ánh mối quan tâm của người sản xuất đến việc đạt được những chỉ tiêu chất lượng đặt ra mà chưa quan tâm đầy đủ đến các yêu cầu của người tiêu dùng.
Xuất phát từ người tiêu dùng chất lượng được định nghĩa là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích hoặc yêu cầu của người tiêu dùng. Khái niệm này cho thấy có sự quan tâm đầy đủ của các doanh nghiệp hơn đến nhu cầu của người tiêu dùng. Nó tạo nên sự cân bằng giữa thỏa mãn khách hàng với chất lượng.
Ngày nay khi nói đến chất lượng tổng hợp bao gồm chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ sau khi bán hàng và chi phí bỏ ra để đạt được mức chất lượng đó. Quan niệm này đặt chất lượng sản phẩm trong mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng dịch vụ, chất lượng các điều kiện giao hàng và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực.
* Quản lý chất lượng sản phẩm
Mỗi doanh nghiệp cần nhận thức rõ đầy đủ bản chất và những yêu cầu đặt ra trong quản lý chất lượng nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh đích thực từ chất lượng sản phẩm. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hoạt động của doanh nghiệp không thể khép kín nội bộ, tách rời mà phải luôn gắn với xu thế vận động của thị trường với tình hình cạnh tranh và với thực tế quản lý kinh doanh của bản thân từng doanh nghiệp. Vì vậy chất lượng không thể là sự đánh giá chủ quan của nhà quản lý hoặc của người sản xuất mà chính là sự thỏa mãn và vượt mong đợi của khách hàng về một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó.
Để đảm bảo NLCT của sản phẩm thì chất lượng của sản phẩm phải xuất phát từ người tiêu dùng nhận thức về các yếu tố chất lượng như thế nào. Một sản phẩm được đánh giá là tốt hơn sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh xét trên một số yếu tố cơ bản sau: công dụng hay giá trị sử dụng, độ tin cậy, độ bền, tính an toàn và mức độ gây ô nhiễm, thẩm mỹ…
Ngoài những thuộc tính hữu hình, có thể đánh giá cụ thể mức chất lượng sản phẩm còn có các thuộc tính vô hình khác không biểu hiện một cách cụ thể dưới dạng vật chất nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng khi đánh giá chất lượng của một sản phẩm. Ngày nay những dịch vụ đi kèm sản phẩm, tên, nhãn hiệu, danh tiếng, uy tín của sản phẩm cũng được coi là yếu tố chất lượng vô hình tác động lên tâm lý lựa chọn sản phẩm của khách hàng, thu hút sự chú ý và kích thích ham muốn mua hàng của họ.
* Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng đến NLCT của sản phẩm :
Chất lượng sản phẩm là mức độ của một tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Một sản phẩm có nhiều đặc tính, nhiều chỉ tiêu chất lượng. Nếu tập hợp các đặc tính đó làm thỏa mãn được yêu cầu của khách hàng thì sản phẩm mới gọi là có chất lượng. Trong các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm có các chỉ tiêu đặc biệt quan trọng như chỉ tiêu về công dụng, về thẩm mỹ, về kinh tế, an toàn vệ sinh. Mặc dù vậy, nếu có một chỉ tiêu nào đó không đảm bảo yêu cầu thì sản phẩm không có chất lượng.
Nội dung của chất lượng sản phẩm hữu hình thể hiện ở hai mặt là trình độ kỹ thuật của sản phẩm và mặt kinh tế. Trình độ kỹ thuật của sản phẩm thể hiện qua cá chỉ tiêu an toàn, vệ sinh, thẩm mỹ, công dụng, tiện dùng. Mặt kinh tế thể hiện ở chi phí sản xuất, chi phí đảm bảo chất lượng, chi phí sử dụng và chi phí môi trường.
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng lớn vào quá trình nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, phân phối sản phẩm và các yếu tố bên trong, bên ngoài khác của doanh nghiệp. Ngoài ra chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào yếu tố con người, công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và môi trường.
Chất lượng sản phẩm tốt là yếu tố quan trọng nhất để nâng cao NLCT cho sản phẩm. Trước đây giá cả thường là yếu tố quan trọng nhất của NLCT vì lúc bấy giờ đời sống, vật chất của con người chưa cao. Ngày nay cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao, do đó yếu tố chất lượng đã đứng hàng đầu trong các yếu tố cạnh tranh của sản phẩm, sau đó mới là yếu tố giá.
b) Chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm
Chi phí sản xuất ảnh hưởng rất lớn tới giá cả sản phẩm, mà giá cả sản phẩm quyết định rất lớn đến hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng trong xã hội. Do đó chi phí sản xuất thấp thì giá bán sản phẩm sẽ thấp hơn, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn so với các sản phẩm khác khi phải cạnh tranh về giá.
Giá cả là yếu tố quan trọng thứ hai của NLCT của sản phẩm sau yếu tố chất lượng. Chất lượng sản phẩm tốt kèm theo giá rẻ là một lợi thế cạnh tranh lớn. Để có giá cả thấp, doanh nghiệp phải tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Do đó, doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, phải quản lý theo phương pháp hiện đại, phải áp dụng công nghệ hiện đại… Giảm chi phí là điều kiện rất quan trọng để doanh nghiệp có thể giảm được giá bán khi chất lượng tương đương với các đối thủ mà vẫn có lợi nhuận lớn.
c) Chủng loại, mẫu mã sản phẩm
Thị trường là nơi trao đổi buôn bán giữa “ trăm người bán, vạn người mua” về các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Trên thị trường thì nhu cầu của người tiêu dùng rất đa dạng và khác nhau, do đó yêu cầu của họ về các sản phẩm là khác nhau. Khi đó một loại sản phẩm sẽ không thể đáp ứng hết nhu cầu của tất cả mọi người, mà với từng thị trường, từng khách hàng khác nhau sẽ có loại sản phẩm tương ứng. Vì vậy việc đa dạng hóa mẫu mã, chủng loại sản phẩm sẽ thỏa mãn tốt nhất nhu cầu tiêu dùng của khách hàng và quyết định đến NLCT của sản phẩm trên thị trường.
d) Thời gian cung cấp hàng
Cung cấp hàng phải kịp thời, nhanh chóng và chính xác, đây là một trong các yếu tố gốp phần bảo đảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Khi đã có chất lượng tốt, giá cả hợp lý thì thời gian cung cấp nhanh là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng. Cung cấp kịp thời làm cho đối tác không lỡ kế hoạch, không mất thời cơ do đó tạo được uy tín đối với khách hàng.s
Việc cung cấp sản phẩm đúng thời điểm cũng là yếu tố làm tăng NLCT của doanh nghiệp. Việc bán hàng đúng vào lúc nhu cầu đang cao giúp doanh nghiệp bán được nhiều hàng, đem lại lợi nhuận cao.
e) Các dịch vụ đi kèm
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới khách hàng, nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất, bởi “ khách hàng là thượng đế”. Do vậy khâu dịch vụ đi kèm cần được quan tâm đặc biệt, gắn liền với việc quản lý chất lượng sản phẩm. Dịch vụ đi kèm là hoạt động rất cần thiết để thu hút khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp, qua đó tạo ra mối quan hệ bền chặt giữa khách hàng và doanh nghiệp, là một trong các yếu tố nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Nếu dịch vụ đó không thuận tiện, chi phí cao thì sản phẩm của doanh nghiệp không có sức cạnh tranh cao. Từ đó việc kết hợp tốt giữa quản trị chất lượng sản phẩm và nâng cao chất lượng các dịch vụ đi kèm sản phẩm sẽ góp phần nâng cao NLCT của sản phẩm trên thị trường.
1.2.2.4. Chiến lược marketing
Chiến lược marketing là một chiến lược bộ phận trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nó đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện tốt các kế hoach kinh doanh, góp phần hiệu quả trong việc nâng cao NLCT và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sử dụng những chiến lược marketing thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp chiếm giữ được vị trí dẫn đầu trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.
* Chiến lược sản phẩm
Trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất ra một loại sản phẩm với mẫu mã, chất lượng và giá bán khác nhau. Để sản phẩm của mình luôn chiếm giữ một thị phần lớn, thì đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng, đa dạng sản phẩm về mẫu mã, chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Khách hàng có những nhu cầu khác nhau đối với những sản phẩm khác nhau và trong những thời điểm khác nhau. Do vậy, muốn duy trì sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp phải có chiến lược sản phẩm chính xác, linh hoạt và hiệu quả.
* Chiến lược giá
Đối với doanh nghiệp dù hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nào, trong điều kiện cơ chế thị trường thì giá cả sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp là yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi yếu tố giá cả là yếu tố trực tiếp tạo ra doanh thu và lợi nhuận thực tế cho doanh nghiệp. Mặt khác, đối với người tiêu dùng, giá cả là chỉ số quan trọng để làm căn cứ cho việc quyết định tiêu dùng của họ.
Việc định giá bán sản phẩm có vai trò quan trọng đối với cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đối với doanh nghiệp nếu giá được xác định quá cao thì khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ bị hạn chế và ngược lại, nếu giá được định giá thấp thì thu nhập từ mỗi đơn vị sản phẩm sẽ thấp đi. Đối với người tiêu dùng định giá sản phẩm sẽ ảnh hưởng tới thái độ tiếp nhận của họ. Bởi vì người tiêu dùng thường quan niệm rằng giá cả có liên quan đến chất lượng. Đối với những sản phẩm cùng loại, sản phẩm nào có giá cao hơn thường có chất lượng tốt hơn.
* Chiến lược xây dựng kênh phân phối
Lưu thông phân phối hàng hóa là khâu kết nối sản xuất với tiêu dùng, kết nối các ngành kinh tế, các doanh nghiệp với nhau. Trong nền kinh tế thị trường, trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, thị trường ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu thì hoạt động lưu thông phân phối càng trở nên sôi động với nhiều hình thức, nhiều kênh phân phối phong phú.
Kênh phân phối giúp cho người tiêu dùng có được sản phẩm vào thời điểm, ở nơi, ở dạng mà họ mong muốn. Kênh phân phối có một vai trò rất quan trọng trong chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Kênh phân phối có thể so sánh với một đường ống mà thông qua nó nước sẽ chảy từ nguồn đến điểm cuối cùng. Các kênh phân phối làm cho hàng hóa chảy từ nhà sản xuất thông qua trung gian tới người mua hàng. Trong nhiều trường hợp nó ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Ngày nay người ta càng ý thức được vai trò của kênh phân phối trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Sở dĩ có điều đó là do ngày nay chi phí vận chuyển đang tăng lên nhất là sau những lần biến động của giá dầu. Một lý do khác nữa là do các dòng sản phẩm ngày càng nhiều, điều này làm cho các doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc quản lý sản phẩm và đảm bảo giao cho khách hàng đúng sản phẩm họ cần. Đồng thời để xây dựng hoặc thay đổi kênh phân phối cần rất nhiều công sức và thời gian. Do vậy doanh nghiệp cần chọn các kênh phân phối thích hợp với sản phẩm kinh doanh của mình và tổ chức sử dụng có hiệu quả các kênh đó.
* Chương trình xúc tiến
Để mọi người tiêu dùng biết tới mình, biết tới sản phẩm của mình thì doanh nghiệp phải chú ý tới hoạt động marketing và quảng cáo. Nếu sản phẩm thật sự tốt mà không quảng cáo thì người tiêu dùng không biết đến để mua hoặc có biết thì rất chậm, sản phẩm sẽ được tiêu thụ chậm. Bởi vậy doanh nghiệp cần quảng cáo và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngày nay các hình thức quảng cáo ngày càng phong phú và đa dạng như có thể quảng cáo qua tivi, radio, báo và tạp chí, internet, palo, …
Để nâng cao NLCT các doanh nghiệp cần phải thường xuyên đánh bóng cho thương hiệu của mình. Thương hiệu càng nổi tiếng thì khách hàng sẽ chọn mua sản phẩm càng nhiều và khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó càng cao.
1.2.2.5. Danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp.
Đây là yếu tố mang tính tổng hợp các yếu tố đã trình bày ở trên. Để có được uy tín, danh tiếng, doanh nghiệp phải trải qua quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn của mình. Uy tín, danh tiếng được xây dựng bằng chất lượng của cả hệ thống quản lý của doanh nghiệp, chất lượng của ban lãnh đạo, chất lượng của từng con người trong doanh nghiệp. Chất lượng con người được hình thành qua quá trình giáo dục, đào tạo và rèn luyện; uy tín được xây dựng nên bằng chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp tạo ra và sự đóng góp của doanh nghiệp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội, các dịch vụ đi kèm trước và sau khi bán sản phẩm.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá NLCT của doanh nghiệp
1.2.3.1. Sản lượng, doanh thu
Khi sản lượng và doanh thu một loại hàng hóa có được mức tăng trưởng đều đặn qua các năm thì có thể đánh giá là hàng hóa có được NLCT tốt, được thị trường chấp nhận. Ngược lại nếu nhu cầu của thị trường nhập khẩu đang tăng lên nhưng sản lượng và doanh thu hàng hóa không có được mức tăng trưởng đều đặn hoặc suy giảm thì chứng tỏ rằng NLCT của hàng hóa chưa cao so với đối thủ cạnh tranh.
1.2.3.2. Thị phần của doanh nghiệp :
Thị phần của doanh nghiệp là tỷ trọng tổng số hàng hóa của doanh nghiệp bán trên thị trường so với tổng số khối lượng hàng hóa bán trên thị trường trong một thời điểm nhất định. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thể hiện ở chỗ nó chiếm tỷ trọng doanh số bán trên thị trường lớn và ngược lại.
1.2.3.3 Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả của hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời cũng phản ánh NLCT của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận =
Doanh thu của doanh nghiệp
1.2.3.4 Tỷ lệ giữa doanh thu của doanh nghiệp so với doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất
Tỷ lệ này được xác định như sau:
A
Tỷ lệ so với các đối thủ =
cạnh tranh mạnh nhất B
Trong đó: A là doanh thu của doanh nghiệp tới một thị trường sản phẩm mục tiêu
B là doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất tới cùng thị trường sản phẩm
Phương pháp này cho biết khoảng cách về năng lực cạnh tranh giữa một doanh nghiệp này so với các doanh nghiệp cạnh tranh khác về cùng một loại hàng hóa trên cùng một thị trường cụ thể.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao NLCT của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh rau quả Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Mặt hàng rau quả ngày càng được người tiêu dùng trong nước và thế giới ưu chuộng do rau quả có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe con người. Rau quả cung cấp đủ vi lượng và vitamin cho cơ thể. Ăn trái cây giúp con người chống béo phì, hạn chế sự phát triển một số bệnh nan y. Rau quả Việt Nam rất phong phú và đa dạng, được trồng ở khắp ba miền. Trái cây Việt Nam rất ngon, được người tiêu dùng thế giới ưa chuộng do có hương thơm đặc trưng quyến rũ, màu sắc đẹp, vị ngọt chua dịu.
Rau quả xuất khẩu của Việt Nam có hai dạng: tươi và chế biến. Sản phẩm chế biến gồm có sản phẩm khô và đóng hộp. Tuy Việt Nam là nước có diện tích và sản lượng rau quả lớn, nhưng lượng xuất khẩu còn thấp vì chất lượng thấp và NLCT của các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả còn nhiều hạn chế.
Xét về chất lượng sản phẩm, mặt hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam chưa đảm bảo được độ đồng đều về màu sắc, độ đồng đều về kích cỡ, bao bì đẹp, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật... Cho nên, mặc dù trái cây của ta thơm ngon nhưng chất lượng không đúng với qui định quốc tế nên sản phẩm của ta có giá thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới.
Theo đánh giá của tổ chức tư vấn Masso Consulting, giá trị tạo ra trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu dùng của hàng Việt Nam là rất thấp, còn phụ thuộc vào thị trường thế giới nên thường rơi vào thế bị động, nhất là đối với hàng nông sản. Từ đó khả năng xuất khẩu của Việt Nam được coi là thiếu tính bền vững, giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nhiều vào yếu tố giá cả thế giới cũng như điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, nhiều loại hàng của Việt Nam vẫn chưa tìm được chỗ đứng trên các chỗ đứng trên các thị trường có sức mua hàng đầu như Mỹ, EU. Có thể thấy rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả cũng không nằm ngoài tình trạng này. Xét về NLCT của các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả, thì nhìn chung sức cạnh tranh còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Nguyên nhân chủ yếu của sức cạnh tranh yếu là do công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, thiết bị máy móc cũ kỹ, trình độ quản lý còn yếu, kinh nghiệm về cạnh tranh chưa cao…
Hiện nay Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, bên cạnh những cơ hội có được thì ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả nói riêng sẽ phải đối mặt với những thách thức và khó khăn hơn cả. Bởi nông nghiệp là ngành được bảo hộ nhiều nhất từ trước đến nay, sau khi gia nhập WTO thì gần như sự bảo hộ không còn nữa.
Khi đứng trước những yêu cầu mới, những thay đổi của Việt Nam liên quan đến sản xuất nông nghiệp thì đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải tự thay đổi bản thân, nâng cao NLCT của mình để có thể tồn tại được trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Bởi vậy việc nâng cao NLCT của các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả là yêu cầu bức thiết cho sự tồn tại của chính doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA TỔNG CÔNG TY RAU QUẢ, NÔNG SẢN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY RAU QUẢ, NÔNG SẢN
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Tổng công ty rau quả, nông sản được thành lập lại từ năm 2003 trên cơ sở sát nhập 2 Tổng công ty lớn là Tổng công ty Rau quả Việt Nam (thành lập năm 1960) và Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến (thành lập năm 1954). Tổng công ty có tên tiếng Anh là Vietnam National Vegetable, Fruit & Agricultural Product Corporation, tên viết tắt là Vegetexco Vietnam, trụ sở chính đặt tại số 02 phố Phạm Ngọc Thạch, quận Đống Đa, Hà Nội.
Tổng công ty rau quả, nông sản là một Tổng công ty hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90-91 thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Năm 2006 Tổng công ty chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. Việc chuyển đổi này đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong thay đổi mô hình hoạt động của Tổng công ty, tạo điều kiện cho Tổng công ty năng động hơn và có thể thích nghi nhanh chóng hơn với kinh tế thị trường. Ngoài ra, chuyển đổi sang mô hình Công ty mẹ-công ty con còn nhằm một mục đích sâu xa hơn đó là nhằm nâng cao NLCT của Tổng công ty, đưa Tổng công ty tiến tới trở thành một tập đoàn lớn. Hiện nay, Tổng công ty có 33 đơn vị là công ty con, công ty liên kết, công ty liên doanh với nước ngoài (Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan), có chi nhánh và văn phòng đại diện tại một số nước. Tổng công ty hoạt động trong phạm vi toàn quốc và toàn cầu, có quan hệ thương mại với trên 60 nước.
Tổng công ty Rau quả, nông sản là doanh nghiệp nhà nước hàng đầu chuyên về sản xuất, chế biến và kinh doanh xuất, nhập khẩu rau, quả, nông sản với kim ngạch xuất khẩu rau, quả hàng năm chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu rau, quả của Việt Nam. Đến nay, các mặt hàng của Tổng công ty đã có mặt tại hơn 60 quốc gia trong đó những sản phẩm như dứa, rau, quả, gia vị... được khách hàng ưa chuộng tại nhiều thị trường lớn như EU, Mỹ, Nga, Trung Quốc…
2.1.2. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty
- Sản xuất, chế biến, kinh doanh tiêu thụ nội địa và xuất nhập khẩu:
+ Rau, quả, nông, lâm, thuỷ hải sản, thực phẩm đồ uống, các loại tinh dầu.
+ Giống: rau, hoa, quả, nông lâm, thuỷ hải sản.
+ Các sản phẩm cơ khí, máy móc thiết bị phụ tùng phương tiện vận tải, chuyên ngành rau, quả, nông, lâm, thuỷ hải sản và chế biến thực phẩm.
+ Phân bón hoá chất, nguyên nhiên vật liệu phục vụ chuyên ngành rau, quả, nông lâm, thuỷ hải sản và chế biến thực phẩm.
+ Bao bì các loại.
+ Hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiêu dùng.
- Nghiên cứu chuyển giao khoa học công nghệ và đào tạo công nhân kỹ thuật chuyên ngành về sản xuất chế biến rau quả, nông, lâm , thuỷ hải sản.
- Cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư, phát triển sản xuất chế biến rau quả, nông, lâm thuỷ hải sản.
- Kinh doanh tài chính, tham gia thị trường chứng khoán.
- Sản xuất kinh doanh các lĩnh vực khác:
+ Giao nhận kho cảng vận tải và đại lý vận tải.
+ Kinh doanh bất động sản, xây lắp công nghiệp và dân dụng.
+ Khách sạn, văn phòng cho thuê.
- Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, tiếp nhận và thực hiện các dự án hỗ trợ đầu tư phát triển kinh doanh của Tổng công ty.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty rau quả, nông sản
Đầu năm 2005, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chính thức phê duyệt đề án, theo đó Tổng công ty tiến hành chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng công ty sang công ty cổ phần theo hình thức chi phối và không chi phối. Tổng công ty rau quả, nông sản được chính thức chuyển đổi hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con từ tháng 1/2006. Từ khi chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – công ty con mô hình hoạt động của Tổng công ty được khái quát theo sơ đồ sau:
Cùng với những yêu cầu của sự đổi mới để phù hợp với cơ chế thị trường, Tổng công ty đã sắp xếp lại cơ cấu tổ chức cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ mới, từ văn phòng Tổng công ty đến các đơn vị thành viên thành một hệ thống thống nhất, đơn giản nhưng hiệu quả hơn.
Theo sơ đồ ta thấy, cơ cấu tổ chức của Tổng công ty bao gồm:
- Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị gồm 5 thành viên do Thủ tường Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ NN&PTNT, thực hiện chức năng quản lý giám sát mọi hoạt động của Tổng công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ mà nhà nước giao.
- Ban kiểm soát (3 người): Chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát tính hợp pháp, chính xác và trung thực trong quản lý, từ Tổng giám đốc đến các phòng ban chức năng và các đơn vị thành viên.
- Ban Tổng giám đốc:
+ Tổng giám đốc: Là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty.
+ Các Phó Tổng giám đốc (05 người): Có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc trong quá trình điều hành Tổng công ty theo nhiệm vụ và thẩm quyền được giao.
- Các phòng chức năng: Có chức năng tham mưu giúp việc Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong việc điều hành bộ máy quản trị. Năm 2006, Tổng công ty đã sắp xếp lại cơ quan văn phòng Tổng công ty với 05 phòng chức năng: Phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán tài chính, phòng kế hoạch tổng hợp, phòng tư vấn đầu tư xúc tiến thương mại, trung tâm kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS).
- Các đơn vị phụ thuộc: Năm 2006 Tổng công ty đã có quyết định thành lập Công ty Vegetexco trên cơ sở tổ chức lại 10 phòng kinh doanh của Tổng công ty.
Tính đến cuối năm 2007, công ty mẹ gồm: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban giám đốc các đơn vị phụ thuộc và 05 phòng chức năng. Ngoài ra 31 đơn vị thành viên hạch toán độc lập trước kia thì có 13 đơn vị là công ty con trong đó 6 công ty cổ phần chi phối (>50% vốn điều lệ do nhà nước nắm giữ). Còn lại 19 doanh nghiệp là công ty cổ phần không chi phối.
2.1.4. Tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty rau quả, nông sản trong những qua
Với phương châm: khắc phục những tồn tại, vượt qua những khó khăn, thách thức, phát huy những thuận lợi, tận dụng những cơ hội, trong những năm gần đây, kết quả hoạt động của Tổng công ty đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trên cả 3 lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp và kinh doanh. Tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty luôn đạt kết quả cao, tổng doanh thu năm sau cao hơn năm trước, thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty không ngừng được cải thiện. Kết quả đó thể hiện trên những mặt cụ thể sau:
* Về tình hình tài chính:
Tổng công ty rau quả, nông sản là một doanh nghiệp nhà nước, hạch toán độc lập, tự chủ trong kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Tổng công ty giao quyền tự chủ tối đa cho các đơn vị thành viên, đồng thời đòi hỏi các đơn vị làm ăn có hiệu quả, bảo đảm vốn và nộp thuế cho ngân sách nhà nước, bảo đảm và nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên trong Tổng công ty.
Bảng 2.1. Các chỉ tiêu tài chính của Tổng công ty rau quả, nông sản những năm gần đây
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng doanh thu
3.347,3
3.650,4
3.548
3.616,2
4.258
Tổng chi phí
3.246,9
3.530,8
3.418,4
3.514,9
4082,5
Lợi nhuận trước thuế
100,4
119,6
129,6
101,3
175,5
Thu nhập bình quân
(nghìn đồng/tháng/người)
828
1.035
1.170
1.400
1730
Đơn vị: Tỷ đồng
( Nguồn: Phòng kế toán tài chính - Tổng công ty rau quả nông sản)
Qua bảng báo cáo số liệu trên chúng ta thấy trong 5 năm liên tiếp từ năm 2003 tới 2007 Tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, điều đó thể hiện ở các chỉ tiêu tài chính như: Doanh thu và lợi nhuận của Tổng công ty liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt là thu nhập bình quân trên đầu người của cán bộ công nhân trong đơn vị không ngừng được cải thiện. Nó cũng là một minh chứng để thấy rằng trong những năm vừa ngành rau quả nói riêng và nông nghiệp Việt Nam nói chung phát triển mạnh, đảm bảo được nhu cầu trong nước và._.p ứng được yêu cầu của các dây chuyền. Hơn thế nữa, đối với rau quả tươi xuất khẩu thì sự không đồng đều về kích thước cũng sẽ làm ảnh hưởng đến khâu thu hoach, đóng gói sản phẩm và điều quan trọng hơn là làm giảm tính thẩm mỹ của sản phẩm, tính chuyên nghiệp của sản phẩm đối với người tiêu dùng. Do vậy trong quá trình tổ chức sản xuất cần có sự theo dõi, giám sát chặt chẽ sự phát triển của cây trồng. Những dấu hiệu gì cho thấy sự phát triển không thuận lợi, sẽ cho ra những sản phẩm không đạt chất lượng thì cần loại bỏ ngay.
Rau quả là những loại hàng rất chóng hỏng do tác động của các yếu tố môi trường như nhiệt độ, ánh sáng, làm cho chóng chín và nẫu. Nếu trong quá trình thu hái quả không nguyên vẹn thì quá trình hư hỏng lại xảy ra nhanh hơn do đó cần phải có biện pháp bảo quản hợp lý. Hiện nay công tác tổ chức bảo quản chưa tốt nên hao hụt khá lớn từ khâu sản xuất đến bảo quản, vận chuyển. Do đó, cần tăng cường các thiết bị thu hái (máy nâng để thu hái cây cao, xe đẩy, các loại sọt không có cạnh nan sắc); đồng thời nên phân loại luôn trong khâu thu hái. Đến cuối luống thì có bộ phận bao gói luôn, dán tem, nhãn, bảo quản lạnh. Làm như vậy sẽ giảm bớt rất nhiều khâu tác động cơ học lên quả gây bầm dập nhiều, nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu.
b) Giảm giá thành sản phẩm
Để giảm giá thành sản phẩm trước hết cần nghiên cứu để nâng cao năng suất cây trồng. Để làm được điều đó cần làm tốt từ khâu tuyển chọn giống, cũng như khâu chăm sóc đã phân tích ở trên.
Ngoài ra, Tổng công ty phải tìm cách hạ chi phí vận chuyển, bởi chi phí vận chuyển hiện nay cũng là một trong những vấn đề lớn làm tăng chi phí sản xuất lên rất nhiều.
Đối những sản phẩm chế biến, cần đầu tư nghiên cứu những dây chuyền thiết bị chế biến mà có thể đa dạng hóa nhiều loại rau quả để tránh tình trạng lãng phí khi hết thời vụ. Ví dụ như dây chuyền sản xuất dứa thì chỉ dùng trong thời vụ dứa từ tháng 2-4, ngoài thời gian đấy nhà máy đóng cửa vì không có nguyên liệu. Như vậy nếu cũng dây chuyền ấy khi hết thời vụ sản xuất dứa mà có thể chế biến sản phẩm khác như cà chua thì sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất.
c) Mọi sản phẩm đều phải có nhãn hiệu sản phẩm.
Nhãn hiệu sản phẩm là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết chất lượng sản phẩm. Đối với rau quả là những sản phẩm không thể nếm được mà chỉ có thể nhận xét chất lượng qua bề ngoài thì ngòai yếu tố mẫu mã, mùi vị thì bao bì, nhãn hiệu cũng rất quan trọng. Căn cứ vào những thông tin trên bao bì, người tiêu dùng biết được xuất xứ của sản phẩm, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mua hàng cùa họ.
Nhãn hiệu phải dễ nhớ, bắt mắt phải để lại một ấn tượng nào đó trong người tiêu dùng, điều đó sẽ giúp sản phẩm sẽ được người tiêu dùng lựa chọn mua trong lần khác cho dù phải chọn lựa giữa muôn vàn các sản phẩm khác hiện có trên thị trường.
d) Nghiên cứu và phát triến sản phẩm nhằm đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm
Sản phẩm không chỉ có chất lượng mà cần đa dạng mẫu mã, chủng loại sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng khác nhau. Tổng công ty cần có kế hoạch tập trung nghiên cứu thị trường tiến hành sản xuất đa dạng hóa các loại nước hộp hoa quả, rau quả dầm giấm…để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng ngày càng thay đổi mang tính công nghiệp cao trong nếp sống hiện đại ngày nay. Hơn nữa việc tiêu thụ một sản phẩm cần phải đáp ứng yêu cầu về sự tiện lợi trong sử dụng là điều kiện tiên quyết.
Ngoài việc đa dang hóa sản phẩm còn cần đầu tư vào việc thiết kế bao bì sản phẩm, họa tiết, màu sắc… nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng. Nghiên cứu và phát triển sản phẩm nhằm đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm là một trong những họat động tạo nên giá trị gia tăng cho sản phẩm rau quả, nhằm nâng cao NLCT của rau quả xuất khẩu.
e) Xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu
Giải pháp xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu của Tổng công ty rau quả, nông sản nhằm mục tiêu tiến hành quảng bá, giới thiệu hình ảnh Tổng công ty trong và ngoài nước. Thương hiệu có vai trò quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nó là linh hồn của công ty, lưu giữ hình ảnh của công ty đối với mỗi người tiêu dùng. Đối với thương hiệu Vegetexco của Tổng công ty rau quả, nông sản hiện nay chưa được biết nhiều trên thị trường thế giới.
Do vậy để nâng cao NLCT của Tổng công ty rau quả, nông sản cũng là nâng cao NLCT của sản phẩm rau quả xuất khẩu trên thị trường thế giới cần có chiến lược phát triển thương hiệu lâu dài và bền vững. Kinh nghiệm cho thấy nhiều công ty lớn trên thế giới trở thành nổi tiếng không chỉ do qui mô đầu tư và đổi mới công nghệ mà còn là nhờ vào thương hiệu, chẳng hạn như Coca_cola, Microsolf…
3.2.1.3. Nhóm giải pháp về thị trường
a) Đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển thị trường.
Thị hiếu của người dân ở từng khu vực, từng nước, các vùng trong cùng một nước là khác nhau. Do vậy một sản phẩm có thể bán ra ở một thị trường này với giá cao nhưng có thể lại không tiêu thụ được ở thị trường khác. Vì vậy nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng là vô cùng cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về các thị trường nên đưa ra chiến lược cụ thể với từng thị trường.
Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường để có được chiến lược sản phẩm và tiếp thị quảng cáo hợp lý. Công tác nghiên cứu phát triển thị trường hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường giúp cho các doanh nghiệp hiểu biết hơn về thị hiếu tiêu dùng của người dân để sản xuất ra những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu cao nhất của khách hàng, đồng thời nghiên cứu thị trường còn hiểu hơn về pháp luật, rút ra kinh nghiệm kinh doanh ở từng nơi muốn kinh doanh sản phẩm nhằm tránh thua thiệt khi có tranh chấp về thương mại, nghiên cứu thị trường còn giúp doanh nghiệp tìm ra thị trường mục tiêu của doanh nghiệp mình. Vì thế nếu các doanh nghiệp không nắm bắt, không hiểu biết, không nhận thấy được sự thay đổi đó của môi trường thì rất có thể doanh nghiệp đó sẽ đi lạc đường và bị đối thủ cạnh tranh vượt qua.
Đối với Tổng công ty rau quả, nông sản, công tác nghiên cứu và phát triển thị trường vẫn còn hạn chế. Đặc biệt khi gia nhập WTO, Tổng công ty sẽ có tiềm năng về mở rộng thị trường xuất khẩu mới là rất lớn. Mặc dù hiện nay sản phẩm rau quả xuất khẩu của Tổng công ty rau quả, nông sản đã có mặt ở hơn 60 quốc gia nhưng thị phần của Tổng công ty tại các thị trường này còn khiêm tốn. Do đó công tác nghiên cứu và phát triển thị trường cần được chú trọng để nâng cao NLCT của rau quả xuất khẩu.
Trước hết, Tổng công ty cần định hướng thị trường xuất khẩu: Làm công việc này tức là cần xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm chính của Tổng công ty. Đồng thời phải biết thâm nhập thị trường mới, chiếm lĩnh thị trường truyền thống, tăng cường tiếp cận những thị trường mà nhà nước đã có ký kết các hiệp định ưu đãi để hạn chế bớt rủi ro. Công tác tiêu thụ sản phẩm phải đặt lên hàng đầu. Phải xây dựng những mặt hàng cụ thể cho từng thị trường, từng thời điểm cụ thể làm sao cho các thị trường có thể tương hỗ lẫn nhau khi một thị trường trở nên khó khăn. Điều này giúp Tổng công ty chủ động hơn trong kinh doanh, không phụ thuộc vào thị trường nào để hạn chế bớt rủi ro cho Tổng công ty khi thị trường truyền thống bị biến động. Bên cạnh đó có thể tiếp cận các thị trường mới bằng cách: tiếp cận hệ thống siêu thị của thị trường nước ngoài, trong đó liên kết với Việt kiều làm cầu nối. Đàm phán ký các hiệp định song phương về kiểm dịch động, thực vật, và công nhận lẫn nhau về các cơ sở kiểm tra, cấp giấy chứng nhận về chất lượng cho rau, quả xuất khẩu của Việt Nam. Tổ chức hội chợ triển lãm chuyên đề về rau quả. Mời các nhà nhập khẩu rau quả vào quan sát các cơ sở chế biến tìm hiểu về nguồn nguyên liệu đầu vào, quy trình tác nghiệp và sản phẩm đầu ra, tạo tín nhiệm tiến tới ký các hợp đồng và biên bản ghi nhớ.
Thứ hai là cần định hướng mặt hàng và mẫu hàng xuất khẩu: Tổng công ty rau quả, nông sản cần chủ động nguồn hàng, chủ động các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, vận tải, nhiên liệu… để tránh những hành động đơn phương lên giá, giảm tiến độ giao nhận và tiêu thụ và có thể dẫn đến mất khách hàng. Luôn theo dõi và rà soát lại các mặt hàng sản xuất, theo dõi tiến độ tiêu thụ từng mặt hàng, tìm ra nguyên nhân và biện pháp đối phó… Để xâm nhập thị trường mới thì Tổng công ty cần tạo cho mình một số mặt hàng chủ đạo, sử dụng mặt hàng này như “vết dầu loang” đề từ đó làm quỹ đạo cho các sản phẩm kế tiếp thâm nhập thị trường. Điều này rất quan trọng đối với Tổng công ty, bởi mặt hàng rau quả xuất khẩu của Tổng công ty còn yếu so với các mặt hàng cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Thái Lan…
b) Nâng cao công tác xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là các hoạt động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại. Công tác marketing xuất khẩu là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tại các thị trường mới, Tổng công ty vẫn chưa chủ động tìm kiếm bạn hàng mà vẫn có thói quen là chờ đối tác nước ngoài đến ký hợp đồng. Hiện nay thương mại điện tử là một công cụ hữu hiệu để quảng bá sản phẩm, vì vậy việc thiết lập một website riêng cho Tổng công ty là rất cần thiết. Website của Tổng công ty với địa chỉ là vegetexco.com.vn đã chính thức đi vào hoạt động trong năm 2007, tuy nhiên Tổng công ty vẫn ít cập nhật thông tin, nội dung còn sơ sài. Vì vậy cần quan tâm hơn nữa đến công tác tiếp thị trên website.
Trong những năm gần đây các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng tại doanh nghiệp được đầu tư khuyến khích nên sản phẩm của Tổng công ty đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước và mở rộng thêm các thị trường quốc tế. Trong năm vừa qua Tổng công ty cũng tham gia các hội chợ tại nước ngoài như: Hội chợ Peterfood tại Saint - Petersburg, hội chợ Kitakushu tại Nhật, hội chợ Sial tại Pháp và hội chợ tại Thượng Hải ngoài ra các hội chợ trong nước do Bộ Thương Mại và Bộ NN & PTNT tổ chức. Cùng với việc tham gia các hội chợ Tổng công ty luôn thực hiện các chiến lược quảng cáo sản phẩm đến với người tiêu dùng.
Tuy nhiên ngân sách ngân sách dành cho hoạt động quảng cáo của Tổng công ty còn rất ít. Nếu so với doanh thu của toàn Tổng công ty thì ta có thể thấy, ngân sách dành cho quảng cáo là tương đối thấp chỉ bằng 3% so với doanh thu toàn Tổng công ty. Trong khi đó thông thường thì các doanh nghiệp nhà nước được quyền trích khoảng 11% doanh thu để dành riêng cho hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng ngân sách dành cho dịch vụ quảng cáo và xúc tiến bán của Tổng công ty còn tương đối thấp. Trong thời gian tới cần có những biện pháp nhằm tăng ngân sách xây dựng thương hiệu cho một số sản phẩm, xây dựng hệ thống bao bì đóng gói theo tiêu chuẩn nhất định.
Trong thời gian vừa qua Tổng công ty trong khi thực hiện các chương trình quảng cáo và xúc tiến bán với thông điệp đến khách hàng còn mang tính chất đơn giản, chưa gợi được sự tò mò đối với khách hàng trong nước và ngoài nước, các sản phẩm mới của Tổng công ty còn chưa được người tiêu dùng biết đến, như các sản phẩm hoa quả sấy, hoa quả đóng hộp, nước ép hoa quả... Những sản phẩm mà Tổng công ty mới đi vào sản xuất rõ ràng trong những thời gian tiếp theo các chiến lược quảng cáo của Tổng công ty phải chú trọng tập trung kích thích sự tò mò cũng như cung cấp được những thông tin cần thiết đối với khách hàng để họ tiêu dùng sản phẩm của Tổng công ty chứ không thể như hiện nay thông điệp quảng cáo còn hết sức “thô sơ” chủ yếu là dựa vào các sản phẩm đã có từ lâu đời như Vải Thiều - Lục Ngạn , Nhãn Sấy - Hưng Yên, Nước cốt dừa - Sơn Tây, Rau sạch - Tây Hồ và một số sản phẩm khác ở các vùng lân cận. Thông điệp này không thể kích thích được sự tò mò đối với khách hàng, so với Trung Quốc, Thái Lan chúng ta còn thua xa họ về mẫu mã bao bì, cũng như các yếu tố khác liên quan tới mẫu mã sản phẩm, thông điệp còn chưa nhất quán giữa các sản phẩm của Tổng công ty, mặc dù chất lượng các sản phẩm của Tổng công ty không hề thua kém.
Sản phẩm của Tổng công ty hiện rất đa dạng và được sản xuất tại nhiều vùng, nhiều nhà máy xí nghiệp khác nhau nên khó tạo nên một thông điệp quảng cáo đồng nhất. Chính vì vậy trong thời gian tới nhờ có sự giúp đỡ của Bộ NN & PTNT, Tổng công ty đang tìm tòi xây dựng thương hiệu riêng cho một số sản phẩm rau quả... Đây sẽ là một điều kiện thuận lợi để Tổng công ty khẳng định chất lượng cũng như lợi ích của các sản phẩm mang đến cho khách hàng. Thông điệp hiện tại của Tổng công ty hiện tại vẫn chưa được người tiêu dùng biết tới, đôi khi người tiêu dùng tiêu dùng sản phẩm của Tổng công ty nhưng họ lại không biết rằng đó là sản phẩm của Tổng công ty Rau quả Nông sản.
3.2.2. Một số kiến nghị với nhà nước
Có thể thấy rằng tiềm năng xuất khẩu rau quả của Việt Nam nói chung và của Tổng Công ty rau quả, nông sản nói riêng là rất lớn. Tuy nhiên để biến những tiềm năng đó thành hiện thực không chỉ cần có sự nỗ lực của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu rau quả, mà còn cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước:
3.2.2.1. Cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả
Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước giải quyết về cơ bản những khoản nợ không có khả năng thanh toán, số lao động dôi dư do cổ phần hóa. Đồng thời nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp cổ phần đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh… để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Các giải pháp của nhà nước hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp không chỉ hướng vào đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin thị trường…mà còn bao gồm việc giải quyết mặt bằng cho các doanh nghiệp, vì hiện tại quỹ đất của nhà nước cho các doanh nghiệp thuê hoặc mua còn quá ít so với nhu cầu.
Khung pháp lý chung cho các doanh nghiệp cần được hình thành trên cơ sở Luật đầu tư chung của nhà nước, bao gồm Luật đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; đồng thời có tính tới Luật thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật phá sản của các doanh nghiệp…Trong quá trình hình thành khung pháp lý, nhà nước cần huy động sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội, chẳng hạn hiệp hội các khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức tư vấn…
3.2.2.2. Về vấn đề vùng nguyên liệu
Vấn đề lớn nhất hiện nay của ngành rau quả nói chung và Tổng công ty rau quả, nông sản nói riêng đó là thiếu vùng nguyên liệu tập trung, chất lượng cao. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức và tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập nên một số nhà máy chế biến được xây dựng xong nhưng thiếu nguyên liệu hoặc có nguyên liệu nhưng không đảm bảo các yêu cầu và chất lượng cho chế biến xuất khẩu. Vì vậy cần tháo gỡ khó khăn ngay từ khâu tổ chức vùng nguyên liệu. Do đó nhà nước cần có chiến lược qui hoạch thống nhất, cần qui hoạch vùng nguyên liệu tập trung, chất lượng cao; gắn kết giữa vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến.
Mỗi loại cây trồng thích hợp với điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu rất khác nhau. Nếu ta cung cấp đầy đủ các yếu tố cần thiết và phù hợp với cây trồng thì sẽ tạo cho cây trồng sinh trưởng phát triển tốt. Do vậy cần xác định rõ trồng cây gì và ở đâu, số lượng bao nhiêu? Trước hết cần tập trung qui hoạch các vùng sản suất rau quả đặc chủng phù hợp với điều kiện khí hậu, tự nhiên, đất đai của vùng đó. Việc qui hoạch này phải được tiến hành một cách đồng bộ. Sự đồng bộ này thể hiện ở việc qui hoạch các vùng sản xuất gắn với các cơ sở chế biến để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi chế biến tránh những hao tổn không đáng có. Bên cạnh đó là việc đầu tư cơ sở hạ tầng như các dịch vụ vận tải, kho hàng, bến bãi, thuận tiện và giảm chi phí vận chuyển nâng cao chất lượng mặt hàng rau quả.
Nhà nước phải đảm bảo việc phát triển vùng nguyên liệu sẽ phát huy được thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, tạo thêm việc làm và ổn định đời sống cho nhân dân trong vùng. Các nhà máy chế biến rau quả phải được xây dựng gắn với vùng nguyên liệu với qui mô phù hợp. Đối với vùng nguyên liệu phân tán nên phát triển hệ thống chế biến vừa và nhỏ, vừa đảm bảo việc bảo quản và chế biến tại chỗ, vừa làm vệ tinh cung cấp bán thành phẩm cho các cơ sở chế biến công nghiệp công suất lớn.
Hộp 2: Nên ưu ái nhiều hơn cho rau quả
Theo TS. Nguyễn Quốc Vọng (Việt kiều Úc) - chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New South Wales, Australia: “Trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, rau quả và hoa là những mặt hàng có ưu thế lớn trong sân chơi WTO với kim ngạch xuất khẩu gần 103 tỷ USD, trong khi đó lúa gạo, cà phê, cao su chiếm không quá 10 tỷ USD /năm mỗi loại. Các loại nông sản khác như chè, điều và hồ tiêu càng nhỏ hơn với trên dưới 3 tỷ USD /năm. Vậy tại sao chúng ta lại không đầu tư nhiều hơn cho trái cây, rau quả và hoa vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh?
Nước ta vẫn còn sử dụng hơn 7 triệu hecta đất để trồng lúa. Trong khi đó, chỉ có gần 1 triệu hecta để trồng dừa, cao su, chè, càphê và 1,4 triệu ha trồng, rau quả và hoa. Nhiều chuyên gia cho rằng đây là bước phát triển không cân đối vì rõ ràng lúa đã trở nên độc canh, chiếm 74% diện tích canh tác của cả nước, trong khi trái cây, rau quả và hoa có thị trường xuất khẩu lớn gấp 10 lần thì lại ít phát triển, chỉ chiếm 15%”
(Theo agroinfo)
3.2.2.3. Về vấn đề thị trường
Thứ nhất là, cần thành lập một tổ chức chuyên trách trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Về việc cung cấp thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu rau quả: nhà nước cần giao cho các cơ quan chức năng như các Bộ, trung tâm thông tin, các tổ chức xúc tiến thương mại, các cơ quan nghiên cứu kinh tế thương mại… đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu rau quả thế giới để cung cấp thông tin thường xuyên cho các doanh nghiệp. Thông tin phải bao gồm các nội dung cơ bản như: nhu cầu thị trường, giá cả các loại rau quả trên thị trường xuất khẩu, danh sách các nước nhập khẩu chủ yếu, các qui định và tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như hệ thống kiểm dịch rau quả của các nước nhập khẩu, thông tin về các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu ra, xu hướng vận động, biến đổi của thị trường thế giới… Đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ Thương mại và Bộ NN&PTNT trong hoạt động đàm phán, ký kết các thỏa thuận song phương, đa phương, định hướng cho các doanh nghiệp phát triển thị trường. Bộ thương mại có hệ thống các vụ chính sách thị trường nước ngoài, có hệ thống thương vụ, đại diện thương mại thông tin thường xuyên, cung cấp thông tin một cách nhanh nhất cho doanh nghiệp và người sản xuất. Do vậy hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ, đổi mới phương thức hoạt động để các cơ quan này thực sự là tổ chức xúc tiến thương mại, hỗ trợ hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phát triển kinh doanh theo sát thị trường.
Thứ hai là, cần nghiên cứu và phổ biến các qui định đặc thù của từng thị trường về vệ sinh an toàn thực phẩm tới các doanh nghiệp
Hiện nay rào cản qui định về chất lượng an toàn thực phẩm mặt hàng rau quả ở các nước nhập khẩu là rất cao, nhưng vấn đề này ở Việt Nam người sản xuất chưa quan tâm đúng mức. Trong khi đó chưa có có quan quản lý chất lượng và vệ sinh rau quả chuyên làm chức năng vừa xây dựng những tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, vừa phối hợp với các nước nhập khẩu giám sát chất lượng rau quả. Trong thời gian tới các cơ quan có chức năng cần nghiên cứu và phổ biến các qui định, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của một số nước được coi là thị trường tiềm năng của mặt hàng rau quả Việt Nam. Đồng thời có những biện pháp xử phạt đích đáng đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng yêu cầu đề ra.
Các cơ quan chức năng cụ thể là Cục bảo vệ thực vật, Cục quản lý thị trường và Tổng cục hải quan phải phối hợp chặt chẽ việc nhập khẩu và quản lý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng như công tác kiểm tra dư lượng hóa chất đối với sản phẩm rau quả trước khi xuất khẩu.
Thứ ba là, nâng cao vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu của các tổ chức Việt Nam tại nước ngoài (Thương vụ, Đại sứ quán). Các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ hơn ai hết về những đặc trưng của thị trường xuất khẩu tại nước đó. Trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu mặc dù đã có những nghiên cứu thị trường, nhưng chưa thể nắm được hết những vấn đề thực tế tại thị trường đó. Do vậy các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài cần hỗ trợ cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu rau quả thâm nhập thị trường được dễ dàng hơn, đặc biệt là đối với những thị trường mới.
3.2.2.4. Về các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp
Thứ nhất là, tạo môi trường pháp lý ổn định và thống nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả
Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các qui định của pháp luật có liên quan như : thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nguyên liệu, thủ tục xuất khẩu…Nếu các thủ tục xuất khẩu phức tạp, thuế xuất khẩu cao sẽ gây ra trở ngại lớn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chính vì vậy nhà nước cần đơn giản các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan xuất nhập khẩu để đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện đúng thời gian giao hàng, đảm bảo uy tín của doanh nghiệp, tạo lòng tin với khách hàng. Đặc biệt các sản phẩm rau quả thời gian bảo quản không dài, nên đã có nhiều trường hợp vì phải chờ thủ tục hải quan mới được xuất cảng trong thời gian dài mà hàng đã bị hỏng. Khi có được giấy xuất cảng rồi thì không xuất được nữa, gây thiệt hại lớn cho nhà xuất khẩu. Vì vậy một giải pháp đưa ra đối với cơ quan hải quan là kiểm tra sản phẩm ngay tại nơi sản xuất, để tránh tình trạng tháo gỡ kiểm tra hàng hóa tại cảng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thời gian giao hàng cũng như chất lượng sản phẩm rau quả xuất khẩu.
Đồng thời cần hạn chế cái gọi là hạn ngạch xuất khẩu: chính những ưu đãi về hạn ngạch xuất khẩu đã góp phần tạo ra môi trường chính sách khập khiễng, không lành mạnh, các doanh nghiệp phải tốn công sức, tốn tiền của để chạy chọt để có được hạn ngạch xuất khẩu. Nhà nước cần tạo ra những chính sách vĩ mô hữu hiệu, giúp doanh nghiệp tháo gỡ được vướng mắc, cản trở, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, phát huy hết năng lực của mình.
Thứ hai là, tiếp tục hoàn thiện và mở rộng phạm vi hoạt động của thị trường vốn
Thực trạng ngành rau quả nói chung và Tổng công ty rau quả, nông sản nói riêng cho thấy cần phải đầu tư nhiều hơn nữa vào việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại để phục vụ cho việc nâng cao chất lượng rau quả như xây dựng kho mát, kho đông lạnh để bảo quản, mua sắm các dây chuyền công nghệ tiên tiến…Tuy nhiên để có được hệ thống những phương tiện sản xuất hiện đại nói trên thì các doanh nghiệp cần rất nhiều vốn, bởi phần lớn những thiết bị, dây chuyền đó được nhập khẩu từ nước ngoài về, có giá rất đắt. Do đó, bên cạnh những nguồn vốn doanh nghiệp tự huy động được thì nguồn vốn hỗ trợ từ nhà nước cũng rất quan trọng. Nhà nước cần tạo điều kiện giúp đỡ cho các doanh nghiệp vay vốn ưu đãi, lãi suất thấp. Đồng thời cần sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thuế nhằm bình ổn môi trường kinh doanh tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, một trong những kênh huy động vốn lớn của các doanh nghiệp.
Thứ ba là, hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu rau quả về việc xây dựng phát triển thương hiệu.
Trong một hội nghị tổng kết của ngành rau quả trong những năm gần đây, ý kiến của lãnh đạo sở NN&PTNT Hải Phòng cho rằng: “Muốn làm tốt công tác qui hoạch nông sản, thực phẩm sạch thì Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nông nghiệp để xây dựng thương hiệu nông sản có chất lượng, nếu làm tốt khâu này thì chúng ta mới có đầu ra ổn định. Còn nếu chỉ tập trung hỗ trợ cho người dân trồng nông sản sạch rồi bỏ mặc họ loay hoay tự tiêu thụ thì sẽ rất khó khăn và lợi nhuận thấp.Thương hiệu của một sản phẩm có ý nghĩa rất lớn và xây dựng thương hiệu là một quá trình lâu dài. Trước hết nhà nước cần có qui định đăng ký nhãn hiệu cho từng sản phẩm, và kiểm soát chặt chẽ vấn đề vi phạm, làm giả nhãn hiệu để bảo vệ những sản phẩm chất lượng tốt.
Thứ tư là, khuyến khích các hình thức liên kết trong sản xuất rau quả
Sự thắng cuộc trong cạnh tranh của mỗi nhóm hàng, ngành hàng còn phụ thuộc vào sức mạnh của tập hợp các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, vậy nhà nước cần có những chính sách vĩ mô nhằm nâng cao vai trò của hiệp hội rau quả xuất khẩu , xây dựng các mối liên kết ngành, giám sát và xử lý tranh chấp…
Sau khi có Quyết Định số 80/2002 của Thủ tướng Chính phủ về “Khuyến khích hình thức tiêu thụ nông sản theo hợp đồng”, sự liên kiết trong tiêu thụ nông sản với mô hình liên kết 4 nhà có tác dụng thiết thực hơn. Với mục tiêu chung của mô hình là phát huy sức mạnh tổng hợp của 4 nhà nhằm tận dụng tiềm năng lợi thế sẵn có của ngành sản xuất rau quả. Tăng cường công tác quản lý hành chính Nhà Nước và đưa công nghệ vào trong sản xuất. Tăng cường mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà tham gia liên kết nhằm tạo điều kiện phát triển ngành rau quả.
Thứ năm là, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động dịch vụ xuất khẩu rau quả
Hiện nay hầu hết dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam đều ở mức cao hơn so với các nước khác trong khu vực, làm tăng chi phí ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Để khắc phục tình trạng này, cần khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế vào đầu tư cho kết cấu hạ tầng và dịch vụ xuất khẩu, tạo ra môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
Thứ sáu là, nâng cao kinh nghiệm tham gia vào thị trường thế giới cho các doanh nghiệp
Các cam kết của WTO phải được coi là những qui định về hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp: Muốn nâng cao được NLCT trên thị trường thế giới, mà trước hết là trong khuôn khổ WTO, các doanh nghiệp phải có sự hiểu biết thấu đáo, cặn kẽ các cam kết của tổ chức này. Do đó nhà nước cần hỗ trợ cho doanh nghiệp tổ chức những lớp học, tuyên truyền, hội thảo để doanh nghiệp có những kiến thức cũng như thêm kinh nghiệm tham gia vào thị trường thế giới.
KẾT LUẬN
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển được. Thương mại quốc tế là tất yếu khách quan nên các doanh nghiệp đều không còn lựa chọn nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh mình, có như vậy mới đứng vững, tồn tại và phát triển được.
Tổng công ty rau quả, nông sản là một Tổng công ty lớn thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả, nông sản. Trong thời gian qua Tổng công ty rau quả, nông sản đã có nhiều cố gắng trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu rau quả. Tuy đã đạt được những thành công bước đầu nhưng cũng còn tồn tại rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt hiện nay Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO nên sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng gay gắt hơn bao giờ hết. Do đó việc nâng cao nâng lực cạnh tranh của Tổng công ty rau quả, nông sản là một một vấn đề thiết thực.
Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu về Tổng công ty rau quả, nông sản, em đã nắm bắt được tình hình hoạt động chung của Tổng công ty và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng rau quả xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng. Các giải pháp này để thực thi được không những cần có sự nỗ lực của chính Tổng công ty mà còn cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Để hoàn thành luận văn này em đã cố gắng và nỗ lực, tuy nhiên do trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong thầy cô, bạn đọc đóng góp ý kiến để luận văn của em được hoàn thiện hơn, đồng thời giúp cho ngành rau quả Việt Nam nói chung và Tổng công ty rau quả, nông sản ngày một phát triển, đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thương mại quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Sửu (2005), “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa”, NXB Lao động.
Giáo trình kinh tế chính trị - NXB chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Giáo trình kinh tế thương mại – ĐHKTQD, NXB Thống kê
Giáo trình luật kinh tế - ĐH Luật, NXB Đại học quốc gia
Giáo trình chiến lược kinh doanh – ĐHKTQD, NXB Thống kê
Đề án phát triển rau quả đến 2015 của Bộ Thương mại
Đề án phát triển rau, hoa, cây cảnh thời kỳ 1999-2010 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Bản tin thị trường - Tổng công ty rau quả, nông sản
Báo cáo tổng kết công tác các năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 của Tổng công ty rau quả, nông sản
Đề án chuyển đổi, tổ chức lại Tổng công ty rau quả, nông sản theo mô hình Công ty mẹ - công ty con
Tạp chí ngành rau quả Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Các trang web:
www.agro.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.rauhoaquavietnam.vn
www.vietnamnet.vn
www.vegetexco.com.vn
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Các chỉ tiêu tài chính của Tổng công ty rau quả, nông sản những năm gần đây 33
Bảng 2.2: Kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty rau quả, nông sản giai đoạn 2003-2007 35
Bảng 2.3: Chủng loại mặt hàng rau quả xuất khẩu 38
Bảng 2.4: Cơ cấu sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ lực 39
của Tổng công ty theo sản lượng 39
Bảng 2.5 : Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang một số thị trường chính 42
Bảng 2.6 : Tình hình cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến 53
Bảng 2.7 : Giá bán một số sản phẩm của Tổng công ty năm 2005-2007 57
Bảng 2.8: So sánh giá cả một số sản phẩm rau quả xuất khẩu của 58
Tổng công ty 58
Bảng 2.9 : Giá bán một số sản phẩm rau quả của Thái Lan thấp hơn 58
sản phẩm cùng loại của Tổng công ty năm 2007 58
Biểu đồ 2.1: Lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2003-2007 34
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ lực 39
của Tổng công ty theo sản lượng 39
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu rau quả giai đoạn 2003-2007 41
Biểu đồ 2.4: Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang một số thị trường chính 43
Biểu đồ 2.5: Các thị trường xuất khẩu rau quả chính 44
của Tổng công ty năm 2007 44
Hình 01: Hình ảnh một số sản phẩm rau quả xuất khẩu 37
Hình 02: Mẫu mã một số sản phẩm rau quả đóng hộp 60
Hình 03: Logo thương hiệu Vegetexco 61
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1923.doc