Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 (76tr)

Lời nói đầu Việc chuyển mình từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Nền kinh tế này buộc các doanh nghiệp phải tự lo liệu các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình từ việc đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh đến tiêu thụ sản phẩm. Do đó, cạnh tranh để tồn tại là điều không thể tránh khỏi. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải năng động, biết tận dụng thế mạnh của mình và phải biết chớp thời cơ để sản xuất k

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 (76tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh doanh có hiệu quả và không ngừng nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Tự chuyển mình và thay đổi hoàn toàn để thích nghi được với môi trường và không ngừng phát triển đó là một quy luật tất yếu đối với doanh nghiệp khi bước chân vào nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để làm được điều đó thì đòi hỏi mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận. Lợi nhuận đã trở thành nền tảng cho sự phát triển và tồn tại của mỗi doanh nghiệp, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, và là mục tiêu cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều hướng tới. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị, đảm bảo khả năng thanh toán và tạo nguồn tích luỹ quan trọng cho nền kinh tế. Có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ có khả năng chiếm lĩnh thị trường, đánh bại các đối thủ cạnh tranh và khẳng định được vị trí của mình. Vì vậy có thể khẳng định, lợi nhuận có vai trò rất quan trọng đối với mọi đơn vị sản xuất kinh doanh, nó đã và đang trở thành mục tiêu hàng đầu của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Trong thời gian thực tập tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18, với kiến thức bản thân trong suốt 4 năm học tại trường Đại học Thương mại và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, các chú trong phòng tài chính – kế toán; em đã được tìm hiểu về tình hình tài chính, kế toán ở công ty. Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 thuộc Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập. Đơn vị với cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối hiện đại, đội ngũ cán bộ và công nhân viên được đánh giá là có năng lực chuyên môn cao đã giúp công ty kinh doanh ngày càng có hiệu quả. Thu nhập của cán bộ công nhân viên hàng năm tăng cao và đời sống của họ được cải thiện rõ rệt, đóng góp cho ngân sách nhà nước cũng thường xuyên tăng. Tuy nhiên, với thế và lực của công ty thì thực sự tiềm năng của công ty chưa được khai thác triệt để, nên đã làm hạn chế lợi nhuận của công ty. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là: “một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18” Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất, nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Qua đây, đánh giá khái quát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa lợi nhuận cho công ty. Trên cơ sở này, đề tài được chia thành 3 phần cơ bản như sau: Chương i: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương ii: Phân tích tình hình lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. Chương iii: Các giải pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. Mặc dù được sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của Cô giáo Nguyễn Thị Minh Hạnh, cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô, các chú phòng Tài chính – Kế toán của công ty và sự nỗ lực của bản thân nhưng kết quả của đề tài nhất định còn nhiều sai sót cả về lý luận và thực tiễn. Em rất mong Cô giáo hướng dẫn, các thầy, cô trong bộ môn và các cô, các chú ở Công ty chỉ bảo thêm để giúp em hoàn thành tốt đề tài. Chương i những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. I/ lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp(dn). Khái niệm lợi nhuận của DN: Từ khi nước ta chuyển từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế hay nói cách khác là chuyển từ quan hệ theo chiều dọc từ trên xuống sang quan hệ theo chiều ngang mà trong đó mỗi DN là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Điều kiện tiền đề thực hiện quá trình chuyển đổi này là phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản và thực hiện quyền này về mặt kinh tế tức là các DN quốc doanh vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Còn quyền sử dụng Nhà nước giao vốn cho DN, DN có trách nhiệm bảo tồn duy trì vốn. Thực hiện quyền này DN tự mình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lựa chọn công nghệ đến tiêu thụ sản phẩm. Dựa trên cơ sở tự chủ hoàn toàn mà nâng cao trách nhiệm vật chất của cả tập thể và cá nhân người lao động, thực hiện nghiêm ngặt chế độ thưởng phạt vật chất, khuyến khích người lao động bằng lợi ích vật chất. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi DN là người sản xuất hàng hoá, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh hay chính là sản xuất kinh doanh có lợi nhuận. Họ thường xuyên so sánh đối chiếu đầu vào và đầu ra để sao cho chênh lệch lợi nhuận là cao nhất. Lợi nhuận luôn được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi DN đề hướng tới. Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, người ta đều phải tính toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Vậy lợi nhuận là gì? mà mọi DN đều đặt nó làm mục tiêu phấn đấu của DN mình. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập thu được và các khoản chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kỳ nhất định. Như vậy để xác định lợi nhuận thu được trong một thời kỳ nhất định, người ta căn cứ vào hai yếu tố: Thu nhập phát sinh trong một thời kỳ nhất định. Chi phí phát sinh nhằm đem lại thu nhập trong thời kỳ đó, hay nói cách khác chỉ những chi phí phân bổ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đã thực hiện trong kỳ. Công thức chung xác định lợi nhuận như sau: Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng chi phí Nguồn gốc lợi nhuận: Theo sự phát triển chung của nhân loại thì có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của lợi nhuận. Trường phái trọng nông với việc đánh giá cao vai trò của ngành nông nghiệp và coi nó là lĩnh vực duy nhất trong xã hội tạo ra của cải. ở đây, tiền lương công nhân là thu nhập theo lao động còn sản phẩm ròng là thu nhập của nhà tư bản gọi là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra. Trường phái trọng thương cho rằng: “ Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông. Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, do sự lừa gạt mà có. Còn lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trừ khai thác vàng bạc, đều không tạo ra lợi nhuận”. C.Mác gọi AdamSmith là nhà lí luận tổng hợp thời kỳ công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Theo A.Smith, lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai trong sản phẩm của người lao động( có nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân). Nhưng mặt khác, ông lại cho rằng lợi nhuận là khoản thưởng cho sự mạo hiểm của nhà tư bản hoặc là khoản thưởng cho lao động của tư bản. Theo A.Smith, qui mô của tư bản quyết định qui mô của lợi nhuận. Ông đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi tức và lợi nhuận và cho rằng lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ của nó để được sử dụng tư bản. A.Smith đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên. Và ông cũng nhận ra được mối quan hệ đối kháng giữa lợi nhuận và tiền lương. Tăng lương không làm tăng lợi nhuận mà ngược lại nó làm giảm lợi nhuận; và ngược lại giảm lương sẽ làm tăng lợi nhuận và đằng sau đó là mối quan hệ giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Tuy nhiên, A.Smith vẫn còn có hạn chế trong lí luận lợi nhuận của mình như không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Và ông cho rằng lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đẻ ra kể cả trong lĩnh vực lưu thông và sản xuất do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Một đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh là D.Ricardo. Học thuyết của ông được xây dựng trên cơ sở phát triển quan điểm của A.Smith và trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. Ông đã dựa vào đó để phân tích rõ nguồn gốc của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm của D.Ricardo, giá trị hàng hoá là do người công nhân tạo ra nhưng người công nhân chỉ được hưởng một phần tiền lương phần còn lại là lợi nhuận của nhà tư bản. Nói cách khác, nguồn gốc của lợi nhuận là từ việc bóc lột lao động người công nhân. Cơ sở của việc tồn tại lợi nhuận là tăng năng suất lao động và coi nó là qui luật tồn tại vĩnh viễn( giá trị thặng dư tương đối). Tuy nhiên, ông không phân biệt được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận mặc dù đã nhìn thấy sự tồn tại của lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận. Ra đời trong những năm 60-70 của thế kỉ, “ Kinh tế học của trường phái chính hiện đại” với đại biểu là Paul A.Samuelson thì lại có cách suy nghĩ khác về lợi nhuận. Theo Samuelson, trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất các hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người tiêu dùng. Với ông, lợi nhuận cũng đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Kế thừa có chọn lọc các nhân tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, kết hợp với những phương pháp biện chứng duy vật C.Mác đã nghiên cứu thành công học thuyết giá trị thặng dư.C.Mác khẳng định: Lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư nhưng lại không phải là giá trị thặng dư mà chỉ là biểu hiện bề ngoài của giá trị thặng dư. C.Mác đã phân tích để thấy được rằng giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có một khoản chênh lệch, lượng tiền lời do chênh lệch ấy mang lại gọi là lợi nhuận(ký hiệu là p). Như vậy, lợi nhuận là giá trị thặng dư nhưng được coi như là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước (C+V) được so với toàn bộ tư bản ứng trước mang hình thái chuyển hoá là lợi nhuận khi m chuyển thành p; (C+V) chuyển thành k thì khi đó giá trị của hàng hoá là = k+p. Trong đó, C là tư bản bất biến là là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức nguyên vật liệu, máy móc thiết bị; V là tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động; m là giá trị thặng dư là giá trị do người lao động tạo ra mà không được trả công; (C+V) = k là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua đây, ta thấy lợi nhuận đã che đậy quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa bởi vì lợi nhuận được so với k =(C+V) và như vậy thì lợi nhuận được coi là con đẻ của k nhưng thực chất lợi nhuận là biểu hiện bề ngoài của m mà m do V tạo ra cho nên p cũng do V tạo ra chứ không phải là k. Quan điểm của C.Mác về tư bản thương nghiệp là không tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó được phân phối lợi nhuận bởi nó đã làm việc cho nhà tư bản. Theo C.Mác, lợi nhuận thương nghiệp là một bộ phận của giá trị thặng dư do công nhân sản xuất tạo ra mà nhà tư bản công nghiệp “ nhường” cho nhà tư bản thương nghiệp. Nhà tư bản thương nghiệp không phải bán hàng hoá cao hơn giá trị thì mới có lợi nhuận mà vì họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị. Vậy lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua của thương nghiệp và nó cũng tuân theo quy luật tỷ suất lợi nhuận do cạnh tranh. Tóm lại, kể từ khi xuất hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận không chỉ là cái đích của mỗi doanh nghiệp mà nó còn trở thành đề tài nghiên cứu, tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế. Mọi học thuyết, mọi nghiên cứu của họ tuy còn có hạn chế nhưng tất cả đều cố gắng chỉ cho mọi người thấy rõ nguồn gốc của lợi nhuận trong nền kinh tế. Kết cấu lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở cộng với cơ chế hạch toán kinh doanh thì phạm vi kinh doanh của DN ngày càng được mở rộng. Do đó mà DN có thể đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Về cơ bản hoạt động kinh doanh của DN bao gồm: Hoạt động SXKD: là các hoạt động như sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính, phụ. Hoạt động tài chính: là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn nhằm một mục đích là kiếm lời như góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, cho vay vốn, hay mua bán ngoại tệ.... Hoạt động khác: là các hoạt động ngoài hoạt động kinh doanh ở trên. Nó diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng xảy ra ví như các việc thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải quyết tranh chấp, vi phạm hợp đồng kinh tế; xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân... Căn cứ vào các hoạt động kinh doanh của DN mà lợi nhuận thu được cũng đa dạng theo phương thức đầu tư của mỗi DN. Lợi nhuận của DN thường được kết cấu như sau: Lợi nhuận kinh doanh: đây là bộ phận lợi nhuận được cấu thành bởi lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ và lợi nhuận từ hoạt động tài chính. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ: tuỳ theo từng phương thức, từng hoạt động đầu tư mà DN xác định đâu là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh được hình thành từ việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này được nêu trong quyết định thành lập doanh nghiệp. Bộ phận lợi nhuận này thường chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các DN còn có thể tham gia vào các hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra bên ngoài DN như: góp vốn liên doanh, liên kết kinh doanh, góp vốn cổ phần, hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi và lãi cho vay thuộc nguồn vốn kinh doanh và quỹ...Các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này góp phần làm tăng tổng lợi nhuận cho DN. Lợi nhuận khác: đó là các khoản lãi thu được từ các hoạt động riêng biệt khác ngoài những hoạt động nêu trên. Những khoản lãi này phát sinh không thường xuyên, có thể do chủ quan hoặc khách quan đưa tới. Nó bao gồm lãi thu từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định; lợi nhuận từ các khoản phải trả không xác định được chủ nợ; thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ... Trên thực tế, tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận ở các DN là có sự khác nhau do phương thức kinh doanh cũng như lĩnh vực kinh doanh và môi trường kinh tế khác nhau. + Sẽ có sự khác biệt giữa DN thuần hoạt động sản xuất kinh doanh với DN hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh hàng hoá đặc biệt đó là kinh doanh tiền. Nếu ở DN hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường thì tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ là lớn nhất. Nhưng nó sẽ thua tỷ trọng của lợi nhuận từ hoạt động tài chính nếu đấy là một DN hoạt động trên lĩnh vực tài chính, ngân hàng. + Ngoài ra môi trường kinh tế bên ngoài của mỗi DN cũng làm cho tỷ trọng lợi nhuận trong mỗi DN khác nhau. Nếu như trước kia, nền kinh tế thị trường chưa phát triển và thị trường chứng khoán chưa sôi nổi như ngày nay thì lợi nhuận từ hoạt động tài chính chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Ngược lại, khi thị trường chứng khoán với hoạt động tài chính cùng đà phát triển với nền kinh tế thị trường thì tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuậnlại có sự thay đổi. Vai trò của lợi nhuận: Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta đã chứng tỏ rằng: sẽ không có một nền kinh tế cũng như một DN hoạt động thực sự có hiệu quả chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị và phạm trù của nó. Nắm được điều đó, Nhà nước ta đã chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại. Và lúc này cạnh tranh là điều tất yếu, các DN phải đấu tranh với nhau để tồn tại và thương trường trở thành chiến trường. Trong điều kiện này, DN có tồn tại và phát triển hay không điều đó phụ thuộc vào việc DN hoạt động có hiệu quả hay không? Qua đây, vai trò của lợi nhuận được bộc lộ rõ nét hơn không chỉ là duy trì sự tồn tại, phát triển của DN mà bên cạnh đó còn giúp cải thiện hơn nữa đời sống cho người lao động và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Lợi nhuận đối với doanh nghiệp. Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường hiện nay, bất kỳ một DN nào muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải mang lại hiệu quả nghĩa là kinh doanh phải có lãi. Các DN lúc này phải độc lập, tự chủ, chịu trách nhiệm hoàn toàn trước mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên tắc lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, DN phải bỏ ra những chi phí ban đầu như: chi phí nguyên vật liệu, lao động, máy móc, đất đai, vốn...Đồng thời để hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục thì hoạt động đó phải có thu nhập để bù đắp được chi phí bỏ ra và phải có lợi nhuận để tái đầu tư trở lại. Nếu hoạt động kinh doanh không có lợi nhuận thì DN đó sẽ lâm vào tình trạng suy thoái và có thể dẫn đến phá sản. Ngoài ra, lợi nhuận còn là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Lợi nhuận cũng chính là thang điểm để DN tự đánh giá kết quả hoạt động của mình. Từ khâu đầu tiên là nghiên cứu thị trường, tìm kiếm sản phẩm, tiến hành sản xuất, cho đến phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động của DN trong nền kinh tế thị trường là nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận trong khuôn khổ của pháp luật. Xuất phát từ mục tiêu đó, trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh các DN luôn tìm cho mình một con đường riêng tối ưu để có thể thoả mãn cao nhất nhu cầu của thị trường và đạt đến lợi nhuận tối đa. Tóm lại, động lực lợi nhuận đã giúp các DN không những tự hoàn thiện mình hơn mà còn thúc đẩy họ hoạt động ngày càng mở rộng. Và một lần nữa có thể khẳng định, lợi nhuận chính là tiền đề vật chất giúp DN tồn tại và phát triển, giúp mở rộng quy mô kinh doanh. Lợi nhuận đối với người lao động. Người lao động chính là nhân vật trung tâm và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và có ảnh đến lợi nhuận của doanh nghiệp nói riêng. Lợi nhuận chính là nguồn mà qua đây doanh nghiệp thể hiện được sự quan tâm đối với người lao động thông qua việc trả lương cũng như việc trích lập các quỹ khen thưởng, trợ cấp, quỹ phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm..Nếu DN làm ăn kinh doanh có lãi thì lợi nhuận mà DN thu về sẽ ngày càng cao, và sẽ có điều kiện để thoả mãn được nhu cầu ngày càng cao của người lao động. Nếu như lương cao, ổn định và được hưởng nhiều quyền lợi từ các quỹ thì đời sống người lao động không những được cải thiện mà từ đó còn khuyến khích họ hăng say hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động. Một khi nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần của cán bộ công nhân viên trong DN được thoả mãn thì tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc sẽ cao và từ đó sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của DN phát triển. Điều này không những giúp doanh nghiệp đứng vững mà còn giúp nó mở rộng hơn nữa và không ngừng tìm kiếm lợi nhuận. 4.3. Lợi nhuận đối với ngân sách nhà nước(NSNN). Trong nền kinh tế, khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi nhuận thì nguồn thu của NSNN sẽ tăng lên ( thể hiện ở thuế thu nhập doanh nghiệp). Lợi nhuận của doanh nghiệp chính là cơ sở để doanh nghiệp tính và đóng góp thuế thu nhập vào NSNN. Đóng thuế chính là doanh nghiệp đã vừa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Đây chính là nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu của NSNN. Và đã đáp ứng nhu cầu tích luỹ vốn để thực hiện quá trình đầu tư phát triển kinh tế theo chức năng của Nhà nước. Có nguồn thu lớn thì Nhà nước sẽ có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình công cộng nhằm nâng cao đời sống cho người dân...sẽ có điều kiện để Nhà nước thực hiện vai trò to lớn của mình trên các mặt văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp có thể tích luỹ vốn, thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng đối với doanh nghiệp mình. Khi mỗi doanh nghiệp với tư cách là một tế bào trong nền kinh tế thực hiện tái sản xuất kinh doanh mở rộng thì quá trình tái sản xuất xã hội cũng tất yếu là quá trình tái sản xuất mở rộng. Tóm lại, lợi nhuận có vai trò rất quan trọng không những đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mà còn đối với cả người lao động. Mỗi doanh nghiệp với tư cách là một tế bào của cơ thể sống là nền kinh tế, thì doanh nghiệp có mạnh thì nền kinh tế mới vững được. Điều đó phụ thuộc vào việc doanh nghiệp hoạt động có thu được lợi nhuận hay không. Qua đây, ta thấy lợi nhuận cũng có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bởi lợi ích của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. II/ Phương pháp xác định và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp: Phương pháp xác định lợi nhuận. Như chúng ta đã biết, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đa dạng và phong phú. Vì vậy mà mỗi bộ phận lợi nhuận thu được từ những hoạt động khác nhau thì sẽ có phương pháp xác định khác nhau. Đối với hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Thuế gián thu trong khâu tiêu thụ Chi phí kinh doanh hợp lệ Doanh thu bán hàng Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ = -_ _ Trong đó: + Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ như: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại...Doanh thu này không bao gồm thuế giá trị gia tăng nếu tính theo phương pháp khấu trừ, và bao gồm cả thuế giá trị gia tăng nếu tính theo phương pháp trực tiếp. + Chi phí kinh doanh hợp lệ: là toàn bộ chi phí kinh doanh phân bổ cho các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được coi là tiêu thụ trong kỳ. Chi phí kinh doanh được xác định như sau: CPQLDN phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ CPBH phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ Trị giá vốn hàng đã tiêu thụ Chi phí sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ = + + + Thuế gián thu trong khâu tiêu thụ: gồm thuế giá trị gia tăng( nếu tính theo phương pháp trực tiếp), thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. Chi phí từ hoạt động tài chính Doanh thu từ hoạt động tài chính Lợi nhuận từ hoạt động tài chính = - Trong đó: _ Doanh thu từ hoạt động tài chính có thể bao gồm: + Thu do chia liên doanh. + Lợi tức cổ phiếu. + Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác. + Thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán( chênh lệch giá mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu). + Thu từ việc cho thuê tài sản. + Hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá chứng khoán đã trích năm trước nhưng không sử dụng hết. + Chiết khấu thanh toán được hưởng khi mua. + Doanh thu tài chính khác... _ Chi phí hoạt động tài chính là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp, nhằm sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản chi phí này bao gồm: + Chi phí thực hiện hoạt động liên doanh liên kết( không bao gồm phần vốn góp liên doanh). + Chi phí cho thuê tài sản. + Chi phí mua bán các loại chứng khoán, kể cả các tổn thất trong đầu tư (nếu có). + Chiết khấu thanh toán dành cho khách hàng. + Chi phí lập dự phòng giảm giá chứng khoán. + Chi phí tài chính khác. Đối với hoạt động khác. Chi phí khác Thu nhập khác Lợi nhuận khác = - Trong đó: _ Thu nhập khác: là những khoản thu nhập phát sinh không thường xuyên từ những hoạt động riêng biệt. Là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc là những khoản thu xảy ra một cách không đều đặn. Những khoản thu nhập này có thể do chủ quan hay khách quan đưa đến gồm: + Thu về nhượng bán thanh lý TSCĐ. + Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng. + Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xoá sổ. + Thu các khoản nợ không xác định được chủ. + Các khoản thu nhập của những năm trước bị bỏ sót hay quên ghi sổ năm nay mới phát hiện. + Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và các khoản thu khó đòi. + Các khoản thu nhập bất thường khác... _ Chi phí khác: là những khoản chi không thường xuyên như: + Chi phí thanh lý nhượng bán TSCĐ. + Tiền phạt do vi phạm hợp đồng. + Khoản tiền bị phạt thuế, truy thu thuế. + Các khoản chi phí năm trước bị bỏ sót không ghi sổ nay phát hiện ghi bổ sung + Chi phí bất thường khác... Qua đây, ta thấy việc xác định chính xác từng bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận trong kỳ hoạt động của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi nó sẽ phản ánh đúng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp nói chung và ở từng lĩnh vực hoạt động nói riêng. Phân phối lợi nhuận. Phân phối lợi nhuận là một khâu không thể thiếu sau khi doanh nghiệp đã hoạt động có lãi. Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là việc phân chia số tiền lãi thu được. Mà việc phân phối này còn phải đảm bảo nguyên tắc giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và công nhân viên. Doanh nghiệp cũng phải dành phần thích đáng lợi nhuận để lại để giải quyết các nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình, đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đơn vị. Tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được về ngoài việc nộp thuế, bù đắp chi phí, chia liên doanh liên kết...thì phần còn lại sẽ được trích lập vào các quỹ DN. Các DN khác nhau thì tỷ lệ trích lập các quỹ là khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là: Quỹ đầu tư phát triển được trích lập nhằm cải tiến, hiện đại hoá TSCĐ đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh; đầu tư cho việc phát triển thị trường và sản phẩm mới; bổ sung nhu cầu vốn lưu động tăng thêm... Quỹ dự phòng tài chính được trích lập nhằm để bù đắp những thiệt hại, tổn thất do những rủi ro bất khả kháng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đưa đến... Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được sử dụng để trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ bị mất việc làm tạm thời do hoạt động sản xuất kinh doanh của DN có những biến động bất lợi. Quỹ này đảm bảo ổn định đời sống của người lao động trong những thời kỳ việc làm không đều đặn... Quỹ khen thưởng, phúc lợi là một quỹ khuyến khích vật chất, nhằm nâng cao hơn nữa về đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ đối với công việc. Quỹ này dùng để khen thưởng định kỳ hay đột xuất cho tập thể và cá nhân; hay dùng để xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ đời sống và cải thiện điều kiện sinh hoạt, chăm lo sức khoẻ cho lao động trong doanh nghiệp. III/ Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có đứng vững hay không điều đó tuỳ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. Trên phạm vi xã hội, lợi nhuận là nguồn để thực hiện tái sản xuất xã hội. Tuy vậy, lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động của một doanh nghiệp. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan. Do vậy, để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, người ta phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận như tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh... Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là một chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa tổng mức lợi nhuận với tổng doanh thu trong kỳ. Tổng mức lợi nhuận trong kỳ Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng = x 100 Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thu được thì doanh nghiệp sẽ có được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Do vậy, tỷ suất lợi nhuận doanh thu càng lớn thì kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, nếu thuần chỉ sử dụng tỷ suất này thì sẽ không đưa cho ta đánh giá chính xác về hiệu quả kinh doanh. Bởi có thể tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao nhưng hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào lại không cao. Tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh là một chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận và tổng vốn kinh doanh sử dụng bình quân trong kỳ. Tổng lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh = xx 100 Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn nghĩa là cứ 100 đồng vốn đem đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư hay không đều được biểu hiện qua con số này và thông qua đó giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình sử dụng vốn cũng như có biện pháp quản lý chặt chẽ sao cho vốn được sử dụng có hiệu quả nhất nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận/chi phí. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí là chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận với tổng chi phí kinh doanh trong kỳ. Tổng lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí kinh doanh trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí = x 100 Qua chỉ tiêu này cho thấy cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp nắm được tình hình sử dụng chi phí trong đơn vị tiết kiệm hay lãng phí để từ đó đề ra biện pháp quản lý sao cho có hiệu quả. IV/ Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận. Trong kinh doanh, lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp đã hoàn thành được kế hoạch của mình; có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp sẽ thực hiện được nghĩa vụ đối với Nhà nước...Tuy nhiên, liệu doanh nghiệp có đạt được mức lợi nhuận như đã đề ra hay không là còn phụ thuộc vào từng biện pháp cũng như kế hoạch kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Và để vượt qua mọi trở ngại đi đến cái đích cuối cùng là lợi nhuận cao thì doanh nghiệp cần phải có các biện pháp nâ._.ng cao lợi nhuận trên cơ sở phân tích kỹ các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận. Những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận: Những nhân tố khách quan: Chính sách kinh tế của Nhà nước: Trên cơ sở pháp luật về kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo ra môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động của doanh nghiệp phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong mỗi thời kỳ. Sự thay đổi trong chính sách kinh tế của Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tới lợi nhuận của doanh nghiệp nói riêng. Bởi điều tiết mọi hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô chính là vai trò chính của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường này. Bằng các chính sách, luật lệ và các công cụ tài chính khác Nhà nước định hướng, khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp. Trong đó thuế là một công cụ giúp cho Nhà nước thực hiện tốt công việc điều tiết vĩ mô của mình. Thuế là một hình thức nộp theo luật định và không có hoàn trả trực tiếp cho mọi tổ chức kinh tế. Vì vậy, thuế là một trong những khoản chi phí của doanh nghiệp, nên đóng thuế cao hay thấp sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận. Chính sách lãi suất: Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài những kinh nghiệm, kiến thức thì vốn vẫn luôn là điều kiện vật chất không thể thiếu được đối với sự tồn tại và phát triển của DN. Vốn quyết định quy mô, hiệu quả kinh doanh, chỗ đứng vị thế của DN trên thương trường. Nhưng thông thường ngoài nguồn vốn tự có thì doanh nghiệp đều phải đi vay thêm vốn. Doanh nghiệp có thể vay bằng nhiều cách nhưng để có được khoản tiền đó thì doanh nghiệp phải trả cho người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay. Lãi vay phải được tính trên cơ sở tiền gốc, lãi suất và thời gian vay. Vì vậy, lãi suất phần nào quyết định đến số tiền lãi vay phải trả. Nếu số tiền phải trả này lớn thì lợi nhuận trong đơn vị sẽ giảm và ngược lại. Thị trường và cạnh tranh: Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp bởi muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm của doanh nghiệp phải đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng. Mọi biến động về cung cầu trên thị trường đều có ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm, hàng hoá mà doanh nghiệp định cung ứng . Vì vậy, doanh nghiệp phải định hướng nhu cầu cho khách hàng tiềm năng đối với sản phẩm hiện có và các sản phẩm mới. Mặt khác, doanh nghiệp cần quan tâm tới khả năng của các đối thủ cạnh tranh, của những sản phẩm thay thế cho những sản phẩm của doanh nghiệp bởi cạnh tranh là yếu tố không thể bỏ qua khi nhắc đến thị trường. Cạnh tranh là một yếu tố khách quan mà mọi DN đều phải đối mặt. Cạnh tranh xảy ra giữa các đơn vị cùng sản xuất kinh doanh một sản phẩm hàng hoá, hay những sản phẩm có thể thay thế lẫn nhau làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Cạnh tranh nhiều khi tạo ra những yếu tố tích cực giúp doanh nghiệp phát triển nhưng nhiều khi chính nó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bị suy thoái, phá sản. Vì vậy, mỗi một doanh nghiệp khi bắt tay vào thực hiện một vấn đề gì cần nghiên cứu kỹ thị trường kèm theo các yếu tố cạnh tranh vốn có của nó để tránh tình trạng bị “ cá lớn nuốt cá bé”. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội: Một đất nước mà tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định không có khủng bố, chiến tranh...thì sẽ tạo ra một môi trường tốt kích thích doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, sẽ tạo ra những bất lợi ảnh không nhỏ đến mọi kế hoạch trong kinh doanh của DN. Và nó sẽ làm cho lợi nhuận có xu hướng giảm. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật: Một khi khoa học ngày càng tiến bộ thì đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải không ngừng tiếp thu những tiến bộ đó như cải tiến, hiện đại hoá máy móc; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn cho người lao động sao cho theo kịp với thời đại. Nếu không thì mọi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra sẽ trở nên lạc hậu khó lòng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và như vậy lợi nhuận lại giảm là điều không thể tránh khỏi. Những nhân tố chủ quan: Nhân tố con người: Có thể nói con người luôn đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là yếu tố quyết định tạo ra lợi nhuận. Trình độ quản lý và trình độ chuyên môn cũng như sự nhanh nhạy của người lãnh đạo trong cơ chế thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp mà số lượng cán bộ công nhân viên có trình độ đại học, trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, có thêm nhiều sáng kiến cải tiến đem lại lợi nhuận. Bên cạnh đó tinh thần trách nhiệm cũng như ý thức trong công việc của người lao động cũng rất quan trọng, quyết định đến sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp mà hội tụ đủ những con người như vậy thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ thành công với lợi nhuận thu về là cao nhất. Khả năng về vốn: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài những nhân tố quan trọng như con người, kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh..thì vốn là yếu tố không thể thiếu đối với sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp nào “ trường vốn”, có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế kinh doanh. Khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp dành được thời cơ trong kinh doanh, có điều kiện mở rộng thị trường từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Về trình độ quản lý chi phí sản xuất kinh doanh: Chi phí sản xuất kinh doanh là những khoản chi phí phát sinh liên quan đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp, liên quan đến việc sử dụng các yếu tố đầu vào có hiệu quả hay không. Chi phí là một nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận bởi nếu chi phí được sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả thì lợi nhuận sẽ đạt tối đa còn nếu không sẽ ngược lại. Vì vậy, vấn đề đặt ra với mỗi doanh nghiệp là phải xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố tới chi phí để từ đó có những biện pháp sử dụng chi phí hợp lý góp phần tăng lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ : Cạnh tranh là điều tất yếu khi mà trên thị trường có trăm người bán có vạn người mua. Để có thể cạnh tranh được thì sản phẩm, hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng ra thị trường phải đạt chất lượng cao và được người tiêu dùng chấp nhận. Chất lượng là yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận và nó giữ vai trò quyết định đến khối lượng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ sẽ tiêu thụ ra thị trường. Khi doanh nghiệp sản xuất ra được những sản phẩm, hàng hoá có chất lượng cao thì mức tiêu thụ cũng sẽ cao và doanh thu cũng như lợi nhuận về doanh nghiệp sẽ tăng. Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận: Thông qua vai trò của lợi nhuận, chúng ta thấy lợi nhuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội. Chính vì vậy, phấn đấu tăng lợi nhuận trên cơ sở phân tích kỹ các nhân tố ảnh hưởng tới nó đang là vấn đề được mỗi doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm tiến tới tăng doanh thu: Đây là một phương hướng quan trọng để tăng thêm lợi nhuận cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nếu như các điều kiện khác không có gì thay đổi thì khối lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Đầu tư theo chiều rộng như mở rộng qui mô sản xuất, xây dựng thêm nhiều phân xưởng, kho tàng, tuyển thêm nhiều lao động...cũng đồng nghĩa với việc tăng số lượng sản phẩm. Nhưng tăng số lượng sản phẩm chưa chắc đã làm tăng doanh thu bởi số lượng phải đi kèm với chất lượng. Vì vậy, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là mục tiêu mà mọi doanh nghiệp đều phấn đấu. Bên cạnh việc đầu tư theo chiều rộng các doanh nghiệp cũng cần phải mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư theo chiều sâu như trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị hiện đại, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất hay đào tạo cán bộ công nhân viên có trình độ để theo kịp với sự phát triển chung. Nếu làm được điều đó thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không những được người tiêu dùng chấp nhận mà còn làm cho doanh thu cũng như lợi nhuận tăng một cách đáng kể. Giảm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm: Giảm chi phí là biện pháp cơ bản để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp và cũng tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hạ thấp giá thành sản phẩm giúp cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, các đơn vị cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau để có thể tiết kiệm chi phí cả về lao động sống lẫn lao động vật hoá: + Tăng năng suất lao động sao cho số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên hoặc thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm. Và để làm tốt được điều đó thì doanh nghiệp cần phải chịu khó đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh; áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến tạo tiền đề làm thay đổi căn bản điều kiện sản xuất. Ngoài ra, cần phải biết sử dụng hết công suất của máy móc nhằm giảm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản phẩm. Nâng cao tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động cũng là một giải pháp giúp tăng năng suất lao động. Bởi nếu người lao động có trình độ cao đồng thời được bố trí đúng ngành, đúng nghề thì họ sẽ phát huy hết khả năng của mình giúp đẩy nhanh tốc độ sản xuất. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng phải biết gắn bó họ với công việc, với doanh nghiệp; kích thích lòng say mê làm việc ở họ..thông qua tiền lương, tiền thưởng hay những sự quan tâm tới đời sống vật chất cũng như tinh thần của họ.. + Cần hạn chế đến mức thấp nhất các khoản chi phí không cần thiết. + Cần phải biết tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất. Bởi chi phí cho chúng thường chiếm tỷ lệ lớn trong giá thành sản phẩm nên nếu tiết kiệm được chi phí này ta sẽ góp phần làm hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy, ngay từ trước khi sản xuất doanh nghiệp phải lập kế hoạch chi tiết về nguyên vật liệu để tránh tình trạng ứ đọng hoặc thiếu trong quá trình sản xuất. Nên nhất thiết phải tổ chức tốt công tác cung ứng vật tư đảm bảo phù hợp với kế hoạch sản xuất đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất nhằm ngăn chặn kịp thời tình trạng sử dụng lãng phí nguyên vật liệu.. + Đẩy nhanh mức lưu chuyển nhằm giảm tỷ suất chi phí. + Tinh giảm biên chế và giảm thiểu các khâu trung gian. + Phải biết lập dự toán chi phí theo từng kỳ nhất định căn cứ vào kế hoạch đã vạch ra để tránh tình trạng chi phí bị sử dụng một cách không có hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý tài chính: Nói đến lợi nhuận không thể không nhắc đến bộ máy quản lý tài chính nên muốn nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp cần phải tăng cường công tác quản lý tài chính chặt chẽ ở tất cả các khâu trong mọi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm: Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi có vốn - một tiền đề vật chất không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường thì sử dụng vốn có hiệu quả chính là mục tiêu mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới. Một khi qui mô sản xuất kinh doanh ngày càng lớn mạnh thì lượng vốn mà doanh nghiệp cần phải có ngày càng nhiều. Nó là điều kiện để doanh nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; nó quyết định tới hiệu quả kinh doanh, chỗ đứng, vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Bởi vậy, huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả chính là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể khai thác gồm: vốn trong liên doanh, liên kết; vốn trong thanh toán; vốn tín dụng; vốn từ thị trường tài chính hoặc nguồn vốn huy động từ chính cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp..Tuy nhiên, cần phải đảm bảo giữ vững chữ tín trong công tác huy động vốn có thế doanh nghiệp mới có thể tranh thủ được sự giúp đỡ của các đơn vị bạn, của ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng khác. Việc huy động vốn đã khó nhưng việc sử dụng đồng vốn đó sao cho có hiệu quả nhất mới là việc khó khăn hơn nhiều. Bởi vốn cũng như mọi thứ khác muốn có quyền sử dụng nó ta phải bỏ ra chi phí, nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không có hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc ta đã sử dụng lãng phí chi phí, làm giảm lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu về. Điều này đòi hỏi các đơn vị phải tận dụng nguồn vốn sao cho chi phí bỏ ra để được sử dụng vốn là thấp nhất nhưng hiệu quả đem về lại là cao nhất: + Lên kế hoạch rõ ràng cho việc huy động và sử dụng vốn tránh tình trạng vốn về đến doanh nghiệp mà chưa biết sử dụng vào việc gì. + Xác định rõ chi phí và lợi ích thu được từ việc huy động và sử dụng vốn. + Xác định rõ lượng vốn cần huy động một cách chính xác để tiết kiệm chi phí sử dụng vốn. + Sử dụng một cách tiết kiệm, tránh lãng phí thất thoát vốn. + Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với thực lực của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bắt tay vào hoạt động đều phải vạch ra cho mình một phương án sản xuất kinh doanh hợp lý. Hợp lý có nghĩa là nó phải tận dụng được mọi điều kiện, mọi nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp, chi phí bỏ ra cho phương án phải là min trong khi hiệu quả thu về phải là max. Điều này cũng giúp đóng góp những viên gạch xây nên móng vững chắc cho doanh nghiệp trên thị trường. Để xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp cần phải xác định được vị trí của mình trên thương trường, cũng như xác định những thuận lợi khó khăn của doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp phải xác định được đối thủ cạnh tranh của mìnhlà ai, đối tượng cần phục vụ là ai..Tất cả mọi điều này đều có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Phân phối và sử dụng lợi nhuận một cách hợp lý. Đây cũng là một công việc khó trong suốt quá trình hoạt đông của doanh nghiệp. Lợi nhuận là khoản thu được về sau mỗi một quá trình sản xuất kinh doanh; có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ có điều kiện tái sản xuất mở rộng qui mô, có điều kiện nâng cao đời sống người lao động và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước ..Cho nên, việc phân phối và sử dụng lợi nhuận cần phải dựa trên nguyên tắc sau: Doanh nghiệp cần phải giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao đông. Doanh nghiệp cũng phải dành một phần thích đáng lợi nhuận để lại để giải quyết các nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cũng như chú trọng tới lợi ích người lao động trong doanh nghiệp. Chương II Phân tích tình hình lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công công nghiệp và đô thị số 18. I/ Tổng quan chung về Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 thuộc Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập và là thành viên Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà nội. Công ty được thành lập từ năm 1968. Để phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố, đặc biệt là phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và đô thị, ngày 10 tháng 12 năm 2002, UBND Thành phố Hà nội đã ra quyết định số 8515/2002/QĐ-UB về việc đổi tên và bổ xung nhiệm vụ cho công ty với tên gọi mới là: Tên tiếng Việt của công ty: Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. Tên tiếng Anh của công ty: N018 URBAN AND INDUSTRIAL ZONE INFRASTRUCTURE INVESTMENT COMPANY. Tên viết tắt: UIZIDECOM 18 Trụ sở: số 193 – 195 Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội. Giám đốc công ty: Nguyễn Huy Thăng. Điện thoại: (84-4) 5.55701 – 5.565509 – 5.565514. Fax: (84-4) 5.565498 Địa chỉ Email: UIZIDECOM 18@hn.vnn.vn Mã số thuế: 0100100738-1 Tài khoản: 21110000000715 Tại: Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của công ty. Đầu tư phát triển các khu công nghiệp, Cụm công nghiệp. Xây dựng và kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp và đô thị. Kinh doanh, dịch vụ khu công nghiệp bao gồm: cho thuê lại đất đã xây dựng hạ tầng, cho thuê và nhượng bán nhà xưởng, văn phòng, kho bãi xây dựng sẵn. Xây dựng công trình công nghiệp, dân dụng, công cộng và xây dựng khác. Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng. Kinh doanh nhà. Lập dự án đầu tư, tổ chức xây dựng các cơ sở kỹ thuật hạ tầng như giải phóng, san lấp mặt bằng, xây dựng điện hạ thế, cấp thoát nước, đường nội bộ, quy hoạch cây xanh, xây dựng di chuyển nhà máy. Lắp đặt thiết bị các công trình công nghiệp và dân dụng: cấp thoát nước, thiết bị cơ điện, hệ thống thông tin, tín hiệu điều kiển nút giao thông thành phố. Xây dựng, lắp đặt các công trình thuỷ lợi: Đê, kè, cống, trạm bơm, kênh mương, cửa van, đường ống và các công trình phụ trợ; Xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị, san nền, đường sá, vỉa hè đến nhóm B. Xây dựng, lắp đặt công trình thông tin, bưu điện gồm: mương, cống, bể, lắp ống luồn cáp. Giấy phép kinh doanh số: 110982 ngày 22 tháng 7 năm 1996 do Uỷ Ban Kế Hoạch Hà Nội cấp. Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. 3. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Cũng giống như các công ty, doanh nghiệp khác, Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh lãi hưởng lỗ chịu nhưng trước tiên là phải hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước. Nếu công ty thiếu vốn trong quá trình hoạt động thì với tư cách pháp nhân của mình, công ty có thể vay vốn tại ngân hàng để đảm bảo duy trì mọi hoạt động của công ty. Nhưng với đặc điểm là công ty xây dựng, thì sau khi ký kết được các hợp đồng, Công ty sẽ giao cho từng xí nghiệp với đích danh từng người phụ trách. Đây là hình thức khoán gọn cho từng xí nghiệp, từng đội xây dựng nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với từng người cán bộ, nhân viên trong công ty, đồng thời tạo cho họ chủ động trong công việc. Để có thể đảm bảo uy tín của Công ty và bàn giao hợp đồng đúng tiến độ cũng như chất lượng thì tại các công trình thi công, ngoài máy móc hiện đại sẵn có công ty có thể chủ động thuê thêm máy móc bên ngoài thi trường nhằm đáp ứng đúng yêu cầu kỹ thuật của từng công trình. Bên cạnh đó Công ty cũng không ngừng trang bị máy móc hiện đại cũng như chú trọng đến công tác đào tạo đội ngũ lao động gián tiếp nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của công ty. 4. Tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán tại công ty. * Nhân sự của công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18: Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ nghiệp vụ của công ty có năng lực chuyên môn được đánh giá cao, có kinh nghiệm tổ chức và quản lý thi công ở nhiều lĩnh vực, ở nhiều ngành nghề, cả ở những công trình có qui mô lớn, có yêu cầu kỹ thuật và chất lượng cao. Đội ngũ công nhân lành nghề, được đào tạo cơ bản, có tay nghề giỏi và tính kỷ luật cao. Nhân sự toàn công ty được tổ chức và biên chế thành 14 đầu mối quản lý gồm: + Các phòng ban nghiệp vụ công ty. + 5 xí nghiệp xây lắp số 2, 4, 5, 6, 8. + 6 đội xây lắp tổng hợp ( gồm cả xây, lắp, điện, nước). + 1 xưởng sản xuất gạch lát, đá ốp lát, cấu kiện bê tông trong xây dựng. + Một xưởng sản xuất đồ mộc và trang trí nội thất. + 1 xưởng sản xuất cửa cuốn, cửa nhôm, cửa xếp và các cấu kiện thép... + 1 xưởng cơ khí và cơ điện. + 1 đội cung ứng vật tư vận tải. Tổng số cán bộ, nhân viên toàn công ty là: 1.120 người. Cơ cấu lao động: + Gián tiếp : 128 người. + Trực tiếp sản xuất: 892 người. Phân loại trình độ nghiệp vụ: + Trình độ đại học : 93 người. + Trình độ trung cấp: 40 người. + Công nhân kỹ thuật và công nhân hợp đồng lao động : 987 người. 4.1. Bộ máy quản lý: Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 với mô hình tổ chức quản lý đứng đầu công ty là giám đốc, tiếp đó là các phó giám đốc, dưới là các phòng ban chức năng. Các bộ phận chức năng được uỷ quyền chỉ đạo ra quyết định, giải quyết những vấn đề chuyên môn do mình phụ trách, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả chất lượng quản lý.(Cơ cấu quản lý- trang bên) Sơ đồ 1: Bộ máy quản lý của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18. Tổng công ty Giám đốc công ty C.ty UIZIDECOM 18 Phòng Hành chính quản trị Phòng Tổ chức lao động Phòng Tài chính kế toán Phòng Kỹ thuật quản lý XL Phòng Kế hoạch tổng hợp Đội xây lắp 401 402 Đội xây lắp 201 202 BQL DA Cụm CN Ninh Hiệp Trung tâm thiết kế Xí nghiệp xây lắp 8 Xí nghiệp xây lắp 6 Xí nghiệp xây lắp 5 Xí nghiệp xây lắp 4 Xí nghiệp xây lắp 2 Các xưởng sản xuất P. Giám đốc P. Giám Đốc P. Giám đốc P. Giám đốc Theo sơ đồ trên, các bộ phận có chức năng như sau: Giám đốc Công ty là người chịu trách nhiệm chính mọi hoạt động của Công ty đồng thời là người có thẩm quyền cao nhất trong Công ty đại diện cho quyền lợi cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty. Phó giám đốc là người giúp việc Giám đốc, điều hành một hay một số lĩnh vực hoạt động của công ty theo sự phân công và uỷ quyền của Giám đốc. Phòng kế hoạch tổng hợp là phòng chuyên môn, có chức năng tham mưu cho lãnh đạo về công tác sản xuất kinh doanh, đưa ra các kế hoạch, dự án để đầu tư. Phòng kỹ thuật quản lý xây lắp có nhiệm vụ quản lý mọi mặt hoạt động liên quan đến kỹ thuật trong công tác xây lắp. Phòng tài chính kế toán có chức năng tham mưu cho lãnh đạo và lĩnh vực kế toán-tài chính. Theo dõi tập hợp mọi chi phí phát sinh, tổ chức các công việc kế toán từ việc tổ chức các chứng từ kế toán ban đầu đến công việc lập báo cáo tài chính.. Phòng tổ chức lao động có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc những vấn đề trong tổ chức lực lượng sản xuất, đào tạo tuyển dụng hay cho thôi việc. Hàng tháng tổng hợp tình hình lao động, giải quyết mọi chế độ liên quan đến người lao động.. Phòng hành chính quản trị là phòng quản lý mọi việc có liên quan đến công tác hành chính của toàn Công ty. Bộ máy kế toán Công ty: * Mô hình tổ chức phòng kế toán - tài chính:(trang bên) Theo mô hình này, bộ máy kế toán của công ty sẽ chịu trách nhiệm hạch toán và tổng hợp toàn bộ thông tin của toàn công ty. Còn các ban kế toán của xí nghiệp thường chỉ thực hiện một số phần việc kế toán nhưng không lập các báo cáo tài chính. Sơ đồ 2: Mô hình phòng kế toán - Tài chính của công ty. Ban kế toán xí nghiệp Kế toán trưởng công ty Ban kế toán xí nghiệp Ban kế toán xí nghiệp Kế toán tiền lương và tạm ứng Kế toán theo dõi TSCĐ Tài vụ Kế toán thanh toán với khách hàng Kế toán thanh toán với ngân hàng Kế toán tổng hợp và tính giá thành * Tổ chức bộ máy kế toán Công ty: Công ty đã tiến hành tập hợp đồng bộ các cán bộ kế toán để đảm bảo thực hiện khối lượng công việc kế toán trong từng phần hành cụ thể. Các cán bộ, nhân viên kế toán mà công ty đã lựa chọn đều được quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, để từ đó tạo thành mối liên hệ có tính vị trí, lệ thuộc, chế ước lẫn nhau. Guồng máy kế toán hoạt động được có hiệu quả là do sự phân công, tạo lập mối liên hệ chặt chẽ giữa các loại lao động kế toán theo tính chất khác nhau của khối lượng công tác kế toán. Công việc kế toán cụ thể và tố chất của người lao động là hai điều kiện cơ bản để thực hiện sự phân công lao động kế toán. Ngoài ra, khi phân công lao động kế toán trong bộ máy còn cần phải tôn trọng các điều kiện có tính nguyên tắc khác như: Nguyên tắc bất vị thân, bất kiêm nhiệm, hiệu quả và tiết kiệm, chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động... Trong bộ máy kế toán, mỗi nhân viên kế toán phần hành đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng về khối lượng công tác kế toán được giao. Các kế toán phần hành có thể chuyên môn hoá sâu theo từng phần hành hoặc có thể kiêm nhiệm một số phần hành theo nguyên tắc chung của tổ chức khoa học lao động kế toán. Kế toán phần hành phải có trách nhiệm quản lý trực tiếp, phản ánh thông tin kế toán, thực hiện sự kiểm tra qua ghi chép phản ánh tổng hợp; đối tượng kế toán phần hành được đảm nhiệm từ giai đoạn hạch toán ban đầu(trực tiếp ghi chứng từ hoặc tiếp nhận và kiểm tra) tới các giai đoạn kế toán tiếp theo( ghi sổ kế toán phần hành, đối chiếu kiểm tra số liệu trên sổ với thực tế tài sản, tiền vốn và hoạt động...lập báo cáo phần hành) được giao. Các kế toán phần hành đều có trách nhiệm liên hệ với kế toán tổng hợp để hoàn thành ghi sổ tổng hợp hoặc lập báo cáo định kỳ chung ngoài báo cáo phần hành. Quan hệ giữa các lao động kế toán phần hành là quan hệ ngang, có tính chất tác nghiệp, không phải quan hệ trên dưới có tính chất chỉ đạo. Phòng kế toán – tài chính của Công ty gồm: Kế toán trưởng. Kế toán tổng hợp và tính giá thành. Kế toán thanh toán với khách hàng. Kế toán thanh toán với ngân hàng. Kế toán tiền lương và tạm ứng. Kế toán theo dõi TSCĐ. Tài vụ Trong đó: + Kế toán trưởng có trách nhiệm giúp đỡ Giám đốc tổ chức hoạt động kinh tế trong Công ty một cách thường xuyên nhằm đánh giá đúng tình hình, kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phát hiện những lãng phí thiệt hại đã xảy ra, những việc làm không có hiệu quả, những sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc phục. + Kế toán tổng tại công ty có nhiệm vụ tổng hợp số liệu, vào sổ cái các tài khoản. Từ đó tiến hành lập các báo cáo tài chính, kết hợp với kế toán trưởng tiến hành phân tích quyết toán của đơn vị. + Kế toán thanh toán có nhiệm vụ phản ánh các khoản nợ phải thu, nợ phải trả, các khoản phải nộp, phải cấp cũng như tình hình thanh toán và còn phải thanh toán với các đối tượng(người mua, người bán, cấp trên, cấp dưới, với ngân hàng, ngân sách, công nhân viên...) + Kế toán tài sản cố định theo dõi tài sản không những về mặt hiện vật mà còn theo dõi cả về nguyên giá và giá trị còn lại của từng loại. * Hình thức kế toán: Hình thức kế toán mà Công ty áp dụng là hình thức nhật ký – chứng từ. Đặc trưng cơ bản của hình thức nhật ký- chứng từ: sử dụng nhật ký chứng từ để theo dõi vế có của các tài khoản khi có nghiệp vụ kinh tế phát sinh và có phân tích theo các tài khoản đối ứng, sử dụng sổ cái của các tài khoản để tổng theo vế nợ của các tài khoản tại thời điểm cuối kỳ. Các sổ kế toán được sử dụng kết hợp kế toán tổng hợp với chi tiết, kết hợp ghi theo thời gian và ghi theo hệ thống. Các sổ kế toán được sử dụng trong hình thức nhật ký- chứng từ: nhật ký chứng từ, bảng kê, sổ cái tài khoản và các sổ kế toán chi tiết. Trình tự kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ: hàng ngày khi có nghiệp vụ kinh tế phát sinh, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi vào các nhật ký chứng từ có liên quan. Đối với các nhật ký chứng từ được ghi căn cứ vào các bảng kê hoặc sổ chi tiết thì số liệu trên các chứng từ kế toán được ghi vào bảng kê hoặc sổ chi tiết, cuối tháng tổng hợp số liệu trên bảng kê hoặc sổ chi tiết để ghi vào nhật ký chứng từ. Đối với các khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động cần phải tính toán phân bổ sẽ được tập hợp trên các bảng phân bổ, cuối kỳ được tính toán phân bổ để ghi vào các bảng kê, nhật ký chứng từ có liên quan. Cuối kỳ tổng hợp số liệu trên các nhật ký chứng từ để ghi vào sổ cái của các tài khoản, căn cứ vào số liệu tổng hợp trên sổ cái, trên bảng tổng hợp chi tiết và trên các nhật ký chứng từ, bảng kê để lập các báo cáo tài chính. Sơ đồ 3: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ. Chứng từ gốc và các bảng phân bổ Sổ thẻ kế toán chi tiết Bảng kê NKCT Bảng tổng hợp chi tiết Sổ cái Báo cáo tài chính Ghi chú: : Ghi hàng ngày. : Ghi cuối tháng. : Đối chiếu, kiểm tra. Tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 So sánh ST TL% 1. Doanh thu từ hđ SXKD h2-dv 60053 94283.21 34230.21 57 2. Chi phí SXKD h2-dv 59155.54 92934.75 33779.21 57.1 3. Tổng lợi nhuận 813.28 1398.31 585.03 71.93 - Lợi nhuận kinh doanh 813.28 1319.42 506.14 62.23 + Lợi nhuận từ hđ SXKD h2-dv 897.46 1348.46 451 50.25 + Lợi nhuận từ hđ tài chính -84.18 -29.04 55.14 -65.5 - Lợi nhuận khác - 78.89 78.89 - 4. Nộp NSNN 3416.39 5846.69 2430.3 71.14 5. Thu nhập bình quân 1ng/1tháng 1.3 1.35 0.05 3.85 Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nhìn chung, kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị là tốt. Bởi doanh thu từ hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ năm 2004 tăng 57% so với năm 2003, số tiền tăng 34230.21 triệu đồng. Chi phí sản xuất kinh doanh tăng 57.1% nhưng là để đảm bảo tính hiệu quả trong việc quản lý và sản xuất kinh doanh. Tổng lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước là 585.03 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 71.93% trong đó chiếm tỷ trọng lớn là lợi nhuận kinh doanh. Cả lợi nhuận từ hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ lẫn lợi nhuận từ hoạt động khác năm sau đều tăng so với năm trước, riêng chỉ có lợi nhuận từ hoạt động tài chính vẫn là con số âm. Đây chính là điều mà công ty đang từng bước khắc phục. Có lợi nhuận công ty thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình đối với nhà nước và hơn thế đời sống người lao động được cải thiện rõ rệt với tỷ lệ thu nhập bình quân 1người/1 tháng tăng 3.85%, số tiền tăng 0.05 triệu đồng. II/ Phân tích tình hình lợi nhuận của Công ty. Kết cấu lợi nhuận của Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18: Trong nền kinh tế mở hiện nay, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp là rất rộng. Các doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh nhiều hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau miễn là thu được lợi nhuận cao cho doanh nghiệp mình. Do đó, lợi nhuận của các doanh nghiệp có thể bao gồm lợi nhuận từ nhiều hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp. Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Ngân hàng đầu tư phát triển Hà nội; được Ban kế hoạch Hà nội cấp giấy phép kinh doanh. Đây chính là những điều kiện thuận lợi giúp Công ty tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH418.doc
Tài liệu liên quan