Một số giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Quảng Ninh

Lời mở đầu Vốn là một trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đặc biệt đối với các nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá như Việt Nam hiện nay. Trong chiến lược huy động vốn nội địa thì huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư và phát triển đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Tham gia khai thác nguồn vốn trung và dài hạn có nhiều tổ chức tài chính khác nhau. Trong điều kiện thị trường chứng khoán ở nước ta còn rất sơ khai, các t

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổ chức trung gian tài chính huy động vốn không nhiều khiến sức ép vốn đầu tư trong nền kinh tế đè nặng trên vai hệ thống ngân hàng. Chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh là một đơn vị trực thuộc ngân hàng Công thương Việt Nam. Hiện nay tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ của tỉnh Quảng Ninh đang tăng rất nhanh với việc hình thành các khu công nghiệp, cụm khu công nghiệp, nhiều dự án sản xuất điện, thép, xi măng... thì nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng trong tỉnh nói chung và chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh nói riêng một nhiệm vụ quan trọng là phải khai thác được tối đa nguồn vốn trung và dài hạn để đáp ứng đầu tư phát triển địa phương. Chính vì vậy, sau một thời gian tham gia thực tập và đi sâu vào nghiên cứu công tác huy động vốn trung và dài hạn tại Chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh em đã chọn đề tài "Một số giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh". Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, là một ngành ra đời từ rất sớm (đầu thế kỷ XV). Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, ban đầu nghề ngân hàng chỉ bắt đầu với việc đổi tiền của những nhà buôn tiền, dần dần có uy tín thì những người này giữ hộ tiền và thực hiện thanh toán hộ. Lúc đầu những nhà buôn tiền đã sử dụng vốn tự có để cho vay nhưng từ hoạt động thực tiễn họ nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người rút tiền ra, song tất cả không rút tiền cùng một lúc.Chính vì thế nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền thành hoạt động ngân hàng. Ngân hàng ra đời, trở thành một cầu nối không thể thiếu giữa những người muốn tiết kiệm và những người muốn đầu tư, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số lượng tiền trong nền kinh tế. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, và ngược lại sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến nhanh chóng. Quá trình tích tụ và tập trung vốn đã làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng, tạo ra các ngân hàng cổ phần có số vốn lớn. Quá trình tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Sự mở rộng hợp tác kinh tế dẫn đến hình thành các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nghiệp vụ ngân hàng cũng không ngừng được mở rộng: bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, các hình thức huy động vốn, cho vay ngày càng đa dạng, hoạt động thanh toán áp dụng công nghệ hiện đại đem lại nhiều tiện ích cho ngân hàng... Có rất nhiều cách tiếp cận để định nghĩa ngân hàng thương mại, có thể định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Một cách thận trọng có thể xem tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự chuyển dịch nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam năm 1986 tất yếu dẫn dến sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và tổ chức tín dụng. Để quản lý và hướng dẫn hoạt động cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích của cá nhân và các thành phần kinh tế, Pháp lệnh số 38 ngày 25/5/1990 dã viết: "ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các phương tiện thanh toán". Và mới đây theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 12/09/2000, khoản 2, điều 1 quy định: " ngân hàng thương mại là ngân hàng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan, vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước". Tóm lại, dù định nghĩa ngân hàng thương mại như thế nào cũng đều có chung một nội dung và tính chất hoạt động của ngân hàng là nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác của ngân hàng. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu của xã hội đối với sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại luôn luôn phải đổi mới và gia tăng các hoạt động của mình nhằm đáp ứng những nhu cầu đó. Tuy nhiên nhìn chung lại sự thay đổi đó vẫn luôn xoay quanh những hoạt động truyền thống của ngân hàng - hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các dịch vụ trung gian khác. 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. Hoạt động này quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đó. 1.1.2.1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ của toàn bộ tài sản do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được, được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất, nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích: thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập. Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời chính hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.1.2.1.2. Phân loại nguồn vốn Do vốn có một vai trò quan trọng nên việc phân loại nguồn vốn theo từng tiêu chí khác nhau để từ đó có các phương thức huy động và sử dụng vốn cho phù hợp là công việc không thể thiếu được trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Thông thường trong ngân hàng thương mại nguồn vốn được phân loại theo các tiêu chí: Theo loại tiền Vốn nội tệ: là toàn bộ số tiền mà ngân hàng tự có hoặc huy động được bằng đồng nội tệ. Trong các ngân hàng thương mại nguồn này chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn. Vốn ngoại tệ: là vốn ngân hàng huy động được bằng đồng tiền của nước ngoài. Phần lớn nguồn này ngân hàng có được là do các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài gửi tiền, đầu tư hoặc dưới dạng tài trợ theo dự án ODA... thông qua ngân hàng. Theo các khoản mục trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại Vốn tự có Vốn tự có là vốn thuộc sở hữu của ngân hàng thương mại. Vốn chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn, song là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng. Loại vốn này một phần do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp khi thành lập, một phần được bổ sung trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp. Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. Nguồn bổ sung có thể từ lợi nhuận chưa phân phối, trích lập từ các quỹ, do ngân sách nhà nước cấp bổ sung hoặc do ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu mới. Vốn tự có là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng, xác định mức nợ tối đa và tỷ lệ an toàn, góp phần hình thành quy mô của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là đầu tư trung và dài hạn, cũng như tạo ra trang thiết bị và công nghệ ngân hàng hiện đại. Nguồn tiền gửi Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất để bắt đầu hoạt động của ngân hàng. Đây là nguồn tiền ngân hàng huy động từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút. * Tiền gửi thanh toán Là khoản tiền gửi của cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi không kỳ hạn vào ngân hàng nhờ giữ hộ và thanh toán, chi trả cho hàng hoá, dịch vụ, các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh. Lãi suất của các khoản tiền gửi này rất thấp nhưng thay vào đó khách hàng có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp, thủ tục mở đơn giản. Khoản nhập thường lớn hơn xuất trên tài khoản tiền gửi thanh toán tạo nên một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và ngân hàng có thể sử dụng một phần để kinh doanh. * Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền. Mặc dù tiền gửi thanh toán rất thuận tiện cho việc thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Trong khi đó không phải lúc nào những khoản thu bằng tiền cũng phải chi trả ngay mà có nhiều khoản sẽ chi trả sau một thời gian xác định. Do đó để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Theo hình thức này người gửi sẽ không được sử dụng hình thức thanh toán nhưng nó lại tạo ra nguồn ổn định hơn cho ngân hàng nên hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài kỳ hạn. * Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử dụng đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn. Trong môi trường cạnh tranh, nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đã không ngừng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng, tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng, phong phú về kỳ hạn, hấp dẫn về lãi suất. * Tiền gửi của các ngân hàng khác Khi ngân hàng cần nhờ thanh toán hộ hoặc khi có một số mục đích đặc biệt thì nó có thể gửi cho ngân hàng khác. Nhưng nguồn vốn này quy mô thường không lớn. Nguồn đi vay Nguồn này thể hiện quan hệ vay vốn giữa NHTM với NHNN hoặc giữa các NHTM với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM phải vay thêm để bổ sung vốn hoạt động khi đã dùng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ để hoạt động kinh doanh. * Vay ngân hàng nhà nước Đây là những khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước trên cơ sở giấy tờ có giá. Các giấy tờ này phải là giấy tờ có chất lượng, hợp pháp và đảm bảo an toàn. Ngân hàng nhà nước nhận các giấy tờ có giá mà ngân hàng thương mại đã chiết khấu để thực hiện tái chiết khấu. Nếu chưa có thương phiếu, ngân hàng nhà nước cho vay tái cấp vốn dưới hình thức hạn mức tín dụng. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với ngân hàng thương mại được giới hạn trong mức cho phép để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước. * Vay các tổ chức tín dụng khác Bên cạnh việc vay từ ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại còn tiến hành vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Khi một ngân hàng có dự trữ vượt quá yêu cầu do có sự gia tăng bất ngờ của các khoản huy động hay sự sụt giảm của các khoản cho vay, có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, những ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ, để đảm bảo khả năng thanh toán họ phải tạm thời vay mượn. Giống như hình thức vay ngân hàng nhà nước, NHTM chỉ vay các tổ chức tín dụng với kỳ hạn ngắn, lãi suất thấp, chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách. * Vay trên thị trường vốn Ngân hàng thương mại cũng có thể vay mượn trên thị trường vốn như các doanh nghiệp khác thông qua việc phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu). Nguồn vốn này bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn.Thông thường họ thường phải vay thông qua ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. Các nguồn khác Ngoài các nguồn trên, ngân hàng thương mại còn có thêm một số nguồn khác như nguồn uỷ thác đầu tư, nguồn trong thanh toán... Uỷ thác đầu tư là hình thức theo đó ngân hàng thương mại sẽ thay mặt tổ chức có vốn tiến hành cho vay, đầu tư hay giải ngân theo dự án chỉ định. Thực hiện dịch vụ này ngân hàng vừa tăng được vốn vừa thu được hoa hồng. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt cũng có thể hình thành nguồn vốn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C...). Theo thời gian Vốn ngắn hạn: Đây là nguồn vốn mà ngân hàng chỉ được quyền sử dụng trong một thời gian ngắn (dưới 12 tháng). Ơ các ngân hàng thương mại vốn ngắn hạn được hình thành do ngân hàng nhận tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng hoặc tiền gửi thanh toán của các tổ chức, các cá nhân. Nguồn vốn ngắn hạn được dùng để cho vay ngắn hạn và một phần để cho vay trung và dài hạn. Tỷ lệ tối đa mà các ngân hàng thương mại được phép dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn do ngân hàng nhà nước quy định. Đây là tỷ lệ để đảm bảo độ an toàn tối thiểu cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Vốn trung và dài hạn: Là một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng thương mại vì ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này trong một thời gian dài thường từ 12 tháng trở lên. Điều này giúp các ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên hầu hết trong các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay nguồn vốn này vẫn chưa phải là đủ so với nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế. 1.1.2.1.3. Hoạt động huy động vốn của NHTM Các NHTM thường huy động bằng các phương thức khác nhau. Đầu tiên ngân hàng phải huy động vốn tự có của mình. Với tính chất sở hữu khác nhau, nguồn hình thành vốn tự có ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì là vốn do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thì do ngân sách nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông góp thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp. Trong quá trình hoạt động để mở rộng quy mô các ngân hàng thường gia tăng vốn chủ sở hữu bằng nhiều cách khác nhau. Các ngân hàng có thể xin cấp thêm vốn ngân sách, góp thêm hoặc có thể phát hành thêm cổ phần. Khi ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì lợi nhuận của ngân hàng sau khi nộp thuế và các nghĩa vụ khác của nhà nước, một phần sẽ được chuyển bổ sung vào vốn tự có. Đồng thời để bảo toàn giá trị trong điều kiện lạm phát, khi gặp tổn thất hay do biến đổi vốn, các ngân hàng thường trích lập các quỹ như quỹ dự phòng tổn thất, quỹ đầu tư, quỹ thặng dư vốn. Các quỹ này có thể được sử dụng vào kinh doanh nếu ngân hàng thấy cần thiết. Phương thức huy động vốn phổ biến nhất là nhận tiền gửi. Nguồn tiền gửi được chia thành: tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút bất cứ lúc nào. Đặc trưng của nguồn vốn này đối với ngân hàng là thường xuyên biến động, khó có thể đoán được vì nhu cầu rút và gửi của mỗi người khác nhau tuỳ theo mục đích và công việc. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa ngân hàng và khách hàng, gồm tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi trung dài hạn. Tiền gửi ngắn hạn là loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng, còn tiền gửi trung dài hạn từ 12 tháng trở lên. Huy động tiền gửi trung và dài hạn đang là một hình thức phổ biến của các NHTM nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong thời hạn dài hơn. Các NHTM tận dụng tối đa nguồn vốn này để đầu tư các dự án trung và dài hạn. Phương thức huy động thứ ba là huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ngân hàng. Hình thức huy động vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi với mệnh giá lớn có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý tài sản nợ hơn là biện pháp để các NHTM huy động vốn, vì nó chỉ được sử dụng khi cần thiết. Trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường do các tổ chức tín dụng phát hành với cam kết trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.Với việc huy động vốn qua trái phiếu ngân hàng, các NHTM có thể thu hút được một lượng tiền khá lớn trong nền kinh tế, thu hẹp lượng tiền mặt trong lưu thông. Qua đó làm giảm áp lực tăng giá cả hàng hoá, góp phần kiềm chế lạm phát. Đây là một cách huy động vốn rất nhanh của các ngân hàng và nó góp phần đa dạng hoá các loại hang hoá giao dịch trên thị trường chứng khoán, khuyến khích các tầng lớp dân cư tích luỹ vốn dùng cho đầu tư phát triển. Một phương thức huy động khác nữa của NHTM là đi vay các ngân hàng khác. Nguồn huy động theo phương thức này được dựa trên mối quan hệ giữa NHTM với ngân hàng nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng. Ngân hàng nhà nước đóng vai trò là người cho vay cuối cùng nhằm đảm bảo hoạt động của cả hệ thống ngân hàng được an toàn. Các NHTM vay mượn lẫn nhau nhằm tăng dự trữ đang thiếu hụt cho ngân hàng vay để đảm bảo thanh khoản và tăng thu nhập cho các ngân hàng cho vay. Tuy nhiên hình thức huy động này chỉ mang tính tạm thời nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả và phải chịu chi phí lớn nên trong thực tế nguồn huy động này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động vốn nhàn rỗi từ các hoạt động uỷ thác. Các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu.Từ đó hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. 1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Sử dụng và khai thác các nguồn vốn huy động được là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Vốn của ngân hàng thương mại thường được sử dụng trong hai hoạt động lớn là tín dụng và đầu tư. 1.1.2.2.1. Hoạt động tín dụng Trong quan hệ tín dụng, bên cho vay chuyển giao tài sản (tiền hoặc hàng hoá) cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ có cho vay bằng tiền mà còn cho vay dưới hình thức cho thuê tài sản (tín dụng thuê mua) hoặc bảo lãnh. Cả hai hình thức này giúp ngân hàng mở rộng tín dụng cũng như các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán... góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: * Phân loại theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê... Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoản thời gian xác định. Ngân hàng cho thuê khi khách hàng không đủ điều kiện để vay. Ngân hàng có thể mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định và cũng phải hoàn trả cả gốc và lãi khi hết hạn. Bảo lãnh là hoạt động ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. * Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng thì hoạt động tín dụng gồm có tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm. Tín dụng có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Nhưng ngân hàng có thể cấp tín dụng không có bảo đảm cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Ngoài ra, các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. * Phân loại theo thời gian cho vay có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tín dụng ngắn hạn có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tín dụng trung và dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 12 tháng để tài trợ cho tài sản cố định, đổi mới công nghệ, xây dựng...Các ngân hàng thương mại ngày càng trở nên năng động trong việc tìm kiếm các dự án trung dài hạn để cho vay. Đây là loại hình chiếm phần lớn tỷ trọng của ngân hàng trong hoạt động tín dụng vì một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vốn trung và dài hạn của xã hội trong mở rộng sản xuất đầu tư, xây dựng cơ bản, mặt khác nó phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một cao của ngân hàng. * Ngoài các tiêu thức trên, ngân hàng còn phân loại tín dụng theo độ rủi ro, theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo mục đích sản xuất... 1.1.2.2.2. Hoạt động đầu tư Đây cũng là một trong những hoạt động giúp ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn đã huy động, tăng cường khả năng thanh khoản cho dự trữ của các NHTM đồng thời tăng thu nhập cho ngân hàng. Các ngân hàng đầu tư thông qua hoạt động hùn vốn, góp vốn liên doanh và kinh doanh chứng khoán. Thường khi đầu tư các ngân hàng đều có được những thông tin chính xác và hoàn hảo nên ít khi gặp rủi ro. 1.1.2.3. Các dịch vụ trung gian khác Bên cạnh hoạt động cơ bản là huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn, các NHTM còn thực hiện các dịch vụ trung gian khác. Chính việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả đã tạo ra sự khác biệt và ưu thế cạnh tranh cho từng ngân hàng. Có thể kể các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp như dịch vụ mua bán ngoại tệ, trung gian thanh toán, dịch vụ uỷ thác và tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, quản lý ngân quỹ, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý... 1.2. Huy động vốn trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2.1.Quan niệm về nguồn vốn trung và dài hạn Như đã nói ở trên có rất nhiều cách phân loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại và phân loại theo thời gian là một trong những cách phân loại đó. Theo cách này, ngân hàng có thể xác định được quy mô và cơ cấu hợp lý của các nguồn tiền chia theo thời gian, từ đó quyết định kế hoạch kinh doanh và chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn trung và dài hạn là nguồn vốn ngân hàng huy động có thời hạn dài, từ 12 tháng trở lên. Nguồn vốn này được ngân hàng sử dụng tối đa để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Đây là một nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng thương mại. Nó là nhân tố đầu tiên quyết định việc ra đời của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng để được thành lập và hoạt động đuợc thì phải có một lượng vốn ban đầu nhất định để hình thành nên trang thiết bị, tài sản nhà cửa cho ngân hàng. Và trong quá trình hoạt động, khi ngân hàng muốn mở rộng địa bàn hoạt động hay thị trường kinh doanh của mình thì nhất thiết phải có vốn lâu dài và ổn định. Việc ngân hàng huy động được vốn hay không, đặc biệt là vốn trung và dài hạn quyết định khả năng kinh doanh của ngân hàng đồng thời quyết định đến lợi nhuận hay hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng không thể lấy toàn bộ nguồn ngắn hạn của mình để cho vay trung và dài hạn vì như vậy rất rủi ro, khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào. Vì vậy để đảm bảo an toàn và phát triển lâu dài, ngân hàng phải có một nguồn vốn trung và dài hạn hợp lý. Hơn thế nữa nguồn vốn trung và dài hạn còn góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Việc ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào đồng nghĩa với việc ngân hàng có quy mô vốn lớn, khả năng thanh toán cao. Từ đó sẽ giúp ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thoả mãn nhu cầu ngày một cao của khách hàng đồng thời tạo một sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường. Không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng mà nguồn vốn trung và dài hạn còn quan trọng đối với nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế là sự tổng hoà chung sự phát triển của các tổ chức kinh tế, mà sự phát triển này lại tuỳ thuộc vào khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của họ hay nói cách khác là tuỳ thuộc vào khả năng vốn trung và dài hạn mà họ có. Chính vì thế, mỗi quốc gia khi muốn phát triển kinh tế đều tìm cách tăng tích luỹ vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó, nguồn vốn trung và dài hạn còn góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tham gia vào sự phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực đồng thời đảm bảo cho sự phát triển bền vững và phúc lợi công cộng. Như vậy có thể thấy nguồn vốn trung và dài hạn có một vai trò quan trọng. Đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay, khi thị trường chứng khoán - một kênh huy động vốn trung và dài hạn - còn chưa phát triển thì ngân hàng thương mại trở thành một kênh dẫn vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Chính vì thế, các ngân hàng thương mại luôn coi trọng hoạt động huy động vốn trung và dài hạn và luôn tìm cách tăng cường hoạt động này. 1.2.2. Các hình thức huy động vốn trung và dài hạn 1.2.2.1. Vốn tự có Đây là nguồn vốn dài hạn, được huy động từ sự đóng góp của những người chủ ngân hàng. Tuy nguồn vốn này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng lại là nguồn cung cấp những cơ sở vật chất ban đầu để ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, đồng thời cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng quy mô của ngân hàng cũng như khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Hơn thế nữa vốn tự có còn là nguồn tạo uy tín của ngân hàng, là cơ sở thu hút các nguồn vốn khác và được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng mất khả năng thanh khoản. Mức vốn tự có của các ngân hàng phụ thuộc vào vốn điều lệ ban đầu khi thành lập ngân hàng và vào sự phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Vốn tự có ban đầu của ngân hàng ít nhất phải bằng vốn pháp định và trong quá trình họat động nguồn vốn này được bổ sung bằng nhiều phương thức khác nhau như nguồn bổ sung từ lợi nhuận, phát hành cổ phiếu hoặc xin thêm vốn ngân sách hay được trích từ các quỹ như quỹ dự phòng tổn thất, quỹ đầu tư, quỹ thặng dư vốn... Vốn tự có ban đầu, vốn trích từ lợi nhuận, vốn lập các quỹ đều thuộc sở hữu của ngân hàng và được ngân hàng sử dụng như một nguồn vốn dài hạn trong hoạt động kinh doanh của mình. 1.2.2.2. Huy động tiền gửi trung và dài hạn Vốn tự có chỉ là cơ sở ban đầu cho hoạt động của ngân hàng còn để phát triển được, ngân hàng phải huy động vốn. Trong đó nguồn tiền gửi huy động của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Với vai trò của nguồn vốn trung và dài hạn, ngân hàng đang xúc tiến mở rộng huy động tiền gửi trung và dài hạn dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là những khoản tiền tạm thời chưa dùng đến của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và dân cư gửi vào ngân hàng nhằm đáp ứng cho những mục tiêu hay một nhu cầu tài chính được dự tính trong tương lai. Người gửi tiền sẽ được thanh toán cả gốc và lãi một lần khi đến hạn. Nhưng để tạo thuận lợi cho khách hàng, ngân hàng cho phép được rút trước hạn nhưng với lãi suất không kỳ hạn. Trong hoạt động của ngân hàng, tiền gửi phải dự trữ bắt buộc và hiện nay nhiều ngân hàng còn mua bảo hiểm cho tiền gửi. Chính vì vậy gửi tiền vào ngân hàng có tính an toàn cao và còn mang lại thu nhập ổn định nên hình thức này thu hút được đông khách hàng. Tuy nhiên lượng vốn khả dụng dùng cho vay từ nguồn này lại bị hạn chế. Hơn nữa, kỳ hạn dài cũng chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro cao hơn, chi phí cơ hội thực hiện khoản tiền gửi cũng lớn hơn nên lãi suất phải trả cho khách hàng thường cao hơn các khoản tiền gửi ngắn hạn khác. Nhưng bù lại ngân hàng có một nguồn tương đối ổn định dùng cho vay trung và dài hạn. Các khoản cho vay trung và dài hạn thường mang lại khoản thu nhập lớn, đủ bù đắp chi phí huy động nên các ngân hàng vẫn không ngừng cạnh tranh, tìm ra các hình thức huy động tiền gửi mới để gia tăng quy mô tiền gửi trung và dài hạn. 1.2.2.3. Vốn đi vay trung và dài hạn: Huy động tiền gửi là hình thức huy động chính của ngân hàng thương mại nhưng đôi khi cần thiết thì các ngân hàng vẫn phải đi vay mượn thêm. Nguồn tiền ngân hàng thương mại vay ngân hàng nhà nước hay vay tổ chức tín dụng khác chủ yếu là ngắn hạn, nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách mang tính tình thế nên nguồn trung và dài hạn chủ yếu theo phương thức này là từ thị trường tài chính. Ngân hàng thương mại vay thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá: trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu trung và dài hạn. Thực chất trái phiếu và kỳ phiếu là những công cụ vay nợ. Chúng là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, theo đó người phát hành (hay người đi vay) phải thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền nhất định bao gồm cả lãi và gốc trong những khoảng thời gian cụ thể cho đến ngày đáo hạn. Thông thường trái phiếu ngân hàng và kỳ phiếu được thanh toán một lần vào ngày đáo hạn. Khác với nhận tiền gửi, huy động bằng việc phát hành trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu trung và dài hạn (bản chất kỳ phiếu là công cụ nợ ngắn hạn nhưng trong thực tế ngân hàng hiện nay vẫn dùng kỳ phiếu để huy động ._.cả vốn ngắn, trung và dài hạn) thường là các khoản đi vay có thời hạn và quy mô xác định trước. Thông thường ngân hàng chỉ phát hành những công cụ này khi dự định tiến hành cho vay các dự án khả thi trung và dài hạn. Vì vậy ngân hàng hoàn toàn chủ động và linh hoạt trong việc quyết định quy mô vay, thời hạn vay cũng như mức lãi suất chi trả, phương thức thanh toán phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay này không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi, đồng thời trái phiếu và kỳ phiếu có tính lỏng thấp hơn tiền gửi nên rủi ro thường lớn hơn và lãi suất cho người mua (người cho vay) cũng cao hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kỳ hạn. Chính vì vậy đây là một trong những phương thức huy động vốn trung và dài hạn hấp dẫn được cả người mua và ngân hàng. Mặc dù phải trả lãi suất cao hơn các nguồn khác nhưng ngân hàng vẫn sử dụng hình thức này vì đây là hình thức huy động vốn hữu hiệu không những giúp ngân hàng gia tăng nguồn trung và dài hạn đáp ứng được các yêu cầu như ổn định, quy mô đủ lớn trong thời gian xác định mà còn góp phần phát triển thị trường chứng khoán và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, khả năng vay mượn theo hình thức này còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính - thị trường tạo điều kiện chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Vì vậy đòi hỏi ngân hàng khi thực hiện phương thức này phải nghiên cứu, phân tích kỹ thị trường để quyết định về quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay cho phù hợp. 1.2.2.4. Nguồn vốn nhận uỷ thác Các ngân hàng thương mại thường nhận dịch vụ uỷ thác của khách hàng, có thể là cá nhân, tổ chức, Chính phủ, tổ chức trong hoặc ngoài nước. Các cá nhân và tổ chức thường uỷ thác cho ngân hàng trong hoạt động đầu tư, cho vay và thường từ nước ngoài đầu tư vào trong nước. Còn Chính phủ thường uỷ thác cho các ngân hàng giải ngân, cấp phát cho các dự án lớn với thời hạn dài. Với dịch vụ này ngân hàng thu được nguồn vốn nhận uỷ thác và nó trở thành nguồn vốn trung và dài hạn đặc biệt. Đặc biệt bởi nguồn này chịu lãi suất thấp, ổn định, không phải tìm kiếm đầu ra, đồng thời lại thu được hoa hồng uỷ thác. Tuy nhiên nguồn vốn hấp dẫn này không phải có thường xuyên nên quy mô không lớn. Các ngân hàng thương mại vẫn luôn tìm kiếm và huy động nguồn uỷ thác này để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của mình. 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn trung dài hạn Mọi hoạt động kinh doanh diễn ra đều chịu sự tác động nhất định của môi trường xung quanh. Hoạt động huy động vốn trung và dài hạn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong cơ chế thị trường, các ngân hàng thương mại muốn mở rộng địa bàn hoạt động hay thị trường kinh doanh của mình thì nhất thiết phải có vốn lâu dài và ổn định nên ngân hàng luôn tìm cách huy động được nguồn vốn lớn trung và dài hạn với chi phí thấp nhất. Do đó, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đếnviệc huy động vốn trung và dài hạn là rất cần thiết. Cũng như nhiều hoạt động khác của ngân hàng, huy động vốn trung và dài hạn cũng chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan trong ngân hàng cũng như các nhân tố khách quan khác. 1.3.1. Nhân tố chủ quan Chính sách marketing của ngân hàng Trong những năm gần đây, chính sách marketing trở thành chính sách không thể thiếu cho những hoạt động của ngân hàng và huy động vốn trung và dài hạn không là ngoại lệ. Chính sách lãi suất Lãi suất là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn trung và dài hạn củangân hàng thương mại, đặc biệt đối với các khoản vốn mà khách hàng mong được hưởng một khoản lãi từ ngân hàng. Lãi suất chi trả càng cao thì càng có thể huy động, vay mượn được nhiều. Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của ngân hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận sẽ giảm tương ứng. Hơn nữa sự tăng lên của lãi suất cho vay do ảnh hưởng của lãi suất huy động sẽ có tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng vay. Bên cạnh đó, các ngân hàng không chỉ cạnh tranh về lãi suất huy động với các ngân hàng khác mà cả với thị trường tiền tệ. Do đó, chỉ một sự khác biệt nhỏ về lãi suất có thể đẩy dòng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư theo những chiều hướng khác nhau. Đó cũng là lý do, động lực để các nhà đầu tư hoặc người gửi tiền chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Vì vậy, xác định một lãi suất hợp lý, có tính cạnh tranh là một vấn đề vô cùng quan trọng. Chính sách lãi suất của ngân hàng sẽ có hiệu quả khi ngân hàng đó đưa ra mức lãi suất vừa đủ để hấp dẫn khách hàng gửi tiền song cũng đủ để ngân hàng đưa ra lãi suất cho vay để thu hút người vay mà vẫn đảm bảo có được lợi nhuận. Với hình thức huy động vốn trung và dài hạn, ngân hàng nên đặt ra sự cách biệt rõ ràng giữa lãi suất huy động ngắn hạn và dài hạn. Có như vậy mới khuyến khích khách hàng đầu tư hoặc gửi tiền dài hạn hơn. Chính sách sản phẩm Chính sách sản phẩm được thể hiện ở sự đa dạng hoá hình thức huy động và các tiện ích đi kèm. Đối tượng chủ yếu khi ngân hàng huy động vốn trung và dài hạn là dân cư mà hoàn cảnh, mục đích gửi tiền của họ khác nhau nên nhu cầu đối với sản phẩm huy động của ngân hàng khác nhau. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại để thu hút được vốn trung và dài hạn từ khách hàng đã đưa ra một cơ cấu sản phẩm đa dạng với những kỳ hạn khác nhau. Bên cạnh đó ngân hàng lại có thêm nhiều dịch vụ, tiện ích đi kèm. Việc ngân hàng cho ra đời những sản phẩm đa dạng như vậy, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Và với nhiều dịch vụ, tiện ích kèm theo làm tăng lợi thế cạnh tranh của ngân hàng, giúp ngân hàng thu hút được nhiều vốn của mọi thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội. Qua đó, tạo thêm nhiều mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn giữa ngân hàng và khách hàng. Chính sách khuếch trương giao tiếp khách hàng Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các ngân hàng phải tự quảng bá, tuyên truyền về ngân hàng để người dân biết đến ngân hàng, đến những sản phẩm, dịch vụ tiện ích mà ngân hàng đó cung cấp. Khách hàng sẽ biết các thông tin về ngân hàng, lợi ích của bản thân khi sử dụng sản phẩm của ngân hàng từ đó thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Trong hoạt động huy động vốn trung và dài hạn, nếu ngân hàng nào biết áp dụng và kết hợp một cách hợp lý các chính sách marketing thì ngân hàng đó sẽ thu hút không chỉ nhiều vốn trung và dài hạn mà còn thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Chiến lược sử dụng vốn trung và dài hạn của ngân hàng Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng huy động vốn và phải sử dụng vốn hợp lý thì mới thu được lợi nhuận. Nếu ngân hàng huy động mà không có kế hoạch đầu tư, cho vay thì ngân hàng bị lỗ là tất yếu. Do vậy khi huy động vốn, đồng thời ngân hàng phải tìm kiếm khách hàng để đầu tư, cho vay với mức sinh lợi cao hơn chi phí để có được khoản vốn đó. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp ngân hàng đạt được các mục tiêu đề ra về chi phí cũng như lợi nhuận. Chính vì vậy, có thể thấy rằng chiến lược sử dụng vốn của ngân hàng rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn, trong đó có huy động vốn trung và dài hạn. Khi ngân hàng có chiến lược mở rộng cho vay trung và dài hạn thì ngân hàng sẽ phải tăng cường huy động vốn trung và dài hạn vì không thể dùng toàn bộ nguồn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Nếu chiến lược sử dụng vốn của ngân hàng không rõ ràng, thục hiện cho vay kém hiệu quả sẽ dẫn đến uy tín bị giảm sút và như vậy rất khó huy động được vốn nhất là vốn trung và dài hạn. Tiềm lực tài chính của ngân hàng Tiềm lực tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn. Điều đó thể hiện ở vốn tự có của ngân hàng. Để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, ngân hàng nhà nước thường giới hạn quy mô huy động vốn của mỗi ngân hàng dựa trên vốn tự có theo một tỷ lệ nhất định. Hơn nữa vốn tự có còn là nguồn tạo uy tín của ngân hàng, được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng mất khả năng thanh khoản nên vốn tự có càng lớn thì lượng vốn huy động nói chung, vốn huy động trung và dài hạn nói riêng càng nhiều. Tiềm lực tài chính của ngân hàng còn thể hiện ở tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các hoạt động nếu được diễn ra trên địa bàn rộng, có nhiều phòng giao dịch, chi nhánh thì khả năng huy động vốn càng cao. Tiềm lực tài chính cũng góp phần tạo nên uy tín và vị thế trên thị trường, giúp tạo được lòng tin nơi khách hàng khiến họ có thể gửi tiền vào ngân hàng những khoản tiền lớn và thời gian dài. Năng lực quản lý của lãnh đạo, trình độ, tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng đối với khách hàng Ngân hàng muốn hoạt động và phát triển thì không thể thiếu sự lãnh đạo của những người quản lý. Họ là người đề ra và giải quyết các chính sách, phương hướng và những hoạt động quan trọng của ngân hàng trong đó có hoạt động huy động vốn trung và dài hạn. Như vậy việc tăng cường hoặc giảm quy mô huy động vốn trung và dài hạn chịu sự ảnh hưởng của quyết định của ban lãnh đạo. Khi đến ngân hàng gửi tiền, người đầu tiên mà khách hàng tiếp xúc là các cán bộ, nhân viên giao dịch của ngân hàng nên một thái độ phục vụ tốt của cán bộ nhân viên sẽ tạo ra một tâm lý thoải mái cho khách hàng, tin cậy và từ đó sẵn sàng gửi tiền của mình vào ngân hàng, thậm chí trong một thời gian dài một cách tự nguyện. Bên cạnh đó, với trình độ chuyên môn cao là điều kiện cần thiết để các cán bộ giải quyết công việc nhanh chóng, khoa học... làm nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, là điều mà khách hàng rất quan tâm. Cơ sở hạ tầng và trình độ khoa học công nghệ của ngân hàng Trong điều kiện hiện nay, các ngân hàng cạnh tranh với nhau trong việc thu hút khách hàng không chỉ ở uy tín của ngân hàng thể hiện thông qua tiềm lực tài chính mà còn ở địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, những hình ảnh đẹp về cơ sở vật chất hạ tầng và các trang thiết bị hiện đại. Khả năng huy động phụ thuộc vào quy mô tích luỹ, thu nhập của dân cư cũng như các tổ chức kinh tế nên địa điểm của ngân hàng phải nằm ở vị trí thuận lợi như khu trung tâm, khu đông dân cư, đi lại thuận tiện...; ngân hàng phải có mạng lưới chi nhánh rộng, hợp lý để thu hút nhiều vốn hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí khi thực hiện giao dịch. Tuy nhiên việc mở rộng chi nhánh phải phù hợp với điều kiện và năng lực của ngân hàng. Trình độ khoa học công nghệ cũng đã góp phần to lớn trong việc huy động vốn của ngân hàng. Với việc áp dụng những tiến bộ khoa học vào hoạt động của mình, ngân hàng có thể giảm thời gian giao dịch, tăng độ chính xác của nghiệp vụ và tạo hình ảnh ngân hàng hiện đại. Thêm vào đó, cùng với đội ngũ cán bộ giỏi, ngân hàng có thể giảm chi phí hoạt động, chi phí quản lý, tạo điều kiện áp dụng những chính sách khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn dài. 1.3.2. Nhân tố khách quan Việc huy động vốn trung và dài hạn không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố nội tại ngân hàng mà còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố bên ngoài như sự ổn định và phát triển kinh tế, tình hình chính trị xã hội, nhu cầu vốn trung và dài hạn và chính sách của Đảng và Nhà nước. Sự ổn định và phát triển nền kinh tế Khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, môi trường đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp, thu nhập của người dân giảm sút, quá trình huy động vốn sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là huyđộng vốn trung và dài hạn. Không những thế, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ ồ ạt rút tiền đã gửi hoặc không yên tâm gửi tiền vào ngân hàng với thời gian dài mà dùng tiền để mua hàng hoá, ngoại tệ mạnh hay vàng... với kỳ vọng giữ được giá trị đồng tiền của mình. Muốn giữ được nguồn vốn không ra khỏi ngân hàng và tránh sự sụp đổ do mất khả năng thanh khoản, các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất danh nghĩa lên lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Như vậy người có tiền thường quan tâm đến lãi suất thực, đièu đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập khá. Khoản thu nhập cao này giúp họ đảm bảo được cuộc sống và có những khoản dư thừa để gửi vào ngân hàng. Đồng thời khi nền kinh tế tăng trưởng cao thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, nhu cầu về vốn trung và dài hạn tăng lên. Điều này là một trong những nguyên nhân để ngân hàng tăng cường huy động vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư. Như vậy những động thái của nền kinh tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn, đặc biệt là huy động vốn trung và dài hạn. Duy trì được sự ổn định nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của ngân hàng. Tình hình chính trị xã hội Tình hình chính trị của mỗi đất nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân, các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Những bất ổn chính trị, chiến tranh, khủng bố, an ninh trật tự không đảm bảo, người dân trong đát nước đó lúc nào cũng lo sợ về sự an toàn của mình thì họ sẽ không còn tâm trí để nghĩ đến việc dự trữ tiền của cũng như không an tâm khi gửi tiền vào ngân hàng. Do đó hoạt động huy động vốn của ngân hàng không thể phát triển được. Ngoài ra những yếu tố về xã hội như trình độ dân trí, phong tục tập quán, điều kiện địa lý cũng có tác động không nhỏ đến quyết định gửi tiền của người dân vào ngân hàng. Nếu người dân có trình độ dân trí cao, có ý thức tiết kiệm và biết cách lựa chọn các hình thức tiết kiệm có lợi nhất thì hoạt động huy động vốn nói chung và huy động vốn trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng đó rất có khả năng phát triển. Nhu cầu về vốn trung và dài hạn của các tổ chức kinh tế Cũng như quy luật cung - cầu, khi các tổ chức kinh tế muốn mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, sẽ cần đến một lượng vốn lớn với thời gian dài và tìm đến ngân hàng để vay. Do đó ngân hàng phải tiến hành huy động vốn, trong đó có vốn trung và dài hạn để nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, nhu cầu vốn trung và dài hạn của các tổ chức kinh tế là tiền đề ban đầu để ngân hàng mở rộng hoạt động huy động vốn trung và dài hạn để tiến hành cho vay, đầu tư. Chính sách của Đảng và Nhà nước Hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, đều chịu sự điều tiết của các chính sách của Đảng và Nhà nước. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng chịu ảnh hưởng của các luật như Luật tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng nhà nước... Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của ngân hàng thương mại so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và cả mức cho vay của ngân hàng thương mại đối với một khách hàng... Nếu muốn khuyến khích hay hạn chế hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng thì Nhà nước sẽ đưa ra các văn bản, các quy định hay một hành lang pháp lý thông thoáng và các hướng dẫn cụ thể cho ngân hàng thực hiện. Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp lý hay không cũng ảnh hưởng đến chính sách huy động của ngân hàng. Để khuyến khích sản xuất, đầu tư, nhà nước có chính sách bảo hộ cho hàng hoá sản xuất trong nước, chính sách trợ giá... tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển và có lãi. Các doanh nghiệp và người lao động có tích luỹ là nền tảng tốt cho ngân hàng huy động vốn được nhiều hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính Một mặt, thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu sẽ cho ra đời nhiều loại công cụ vay nợ có tính lỏng cao. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc đa dạng hoá các loại hình huy động có kỳ hạn dài. Mặt khác, sự phát triển theo chiều rộng sẽ làm gia tăng các tổ chức tín dụng phi ngân hàng dẫn dên sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư hay tổ chức kinh tế, xã hội khác. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này cũng là động lực để ngân hàng phát triển. Chu kỳ thời vụ và tâm lý người tiêu dùng Vào đầu thời vụ sản xuất bao giờ nhu cầu sử dụng vốn đàu tư cũng cao, do đó nguồn tiền gửi trung và dài hạn tại ngân hàng cũng bị thu hẹp lại, còn nguồn tiền gửi ngắn hạn có xu hướng tăng lên do có sự gia tăng nhiều khoản thu tạm thời. Ngược lại, vào cuối vụ, vốn đầu tư được thu hồi cộng với lợi nhuận giữ lại là cơ sở để ngân hàng thu hút làm gia tăng nguồn dài hạn. Tâm lý chi tiêu là yếu tố khó nắm bắt song lại có tác động nhất định đến nguồn vốn của ngân hàng. Vào những dịp đặc biệt như lễ hội hay thời điểm bắt đầu năm học mới... nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt là trong điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt. Tóm lại, phân tích và lượng hoá được sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan là cơ sở để ngân hàng duy trì được quy mô, cơ cấu hợp lý và những biện pháp phù hợp, hiệu quả để tăng cường khả năng huy động vốn trung và dài hạn. Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng Công thương tỉnh Quảng Ninh 2.1. Giới thiệu khái quát về chi nhánh ngân hàng Công thương tỉnh Quảng Ninh 2.1.1. Sự thành lập và cơ cấu tổ chức Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập tháng 7 năm 1988 trên cở sở sáp nhập vụ tín dụng thương nghiệp và công nghiệp của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Công thương Quảng Ninh là chi nhánh phụ thuộc của ngân hàng công thương Việt Nam được thành lập ngày 08/8/1988. Nhìn lại ngày đầu mới thành lập: Ngân hàng Công thương Quảng Ninh tiếp nhận 3 chi nhánh của ngân hàng nhà nước Quảng Ninh là: Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí, tổng nguồn vốn của chi nhánh chỉ có 22 tỷ đồng thì đến nay mạng lưới kinh doanh của chi nhánh bao gồm một hội sở và 4 chi nhánh trực thuộc, 11 phòng giao dịch, 19 quỹ tiết kiệm và 2 cửa hàng vàng bạc, tổng vốn huy động lên tới 1.560 tỷ. Có thể nói 17 năm qua chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh đã làm tốt nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ góp phần đáng kể vào kết quả của công cuộc phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh, xứng đáng là trung tâm tín dụng - thanh toán - tiền tệ của tỉnh. Về cơ cấu nguồn nhân lực, chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh liên tục nhận những cán bộ được đào tạo cơ bản cũng như quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ hiện có. Tính đến ngày 31/12/2004 tổng số cán bộ công nhân viên tại chi nhánh là 391 người, trong đó 102 nam, 289 nữ, trình độ chuyên môn có 205 người tốt nghiệp đại học, 132 người trình độ trung cấp. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh gồm có Ban giám đốc và 11 phòng nghiệp vụ. Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc thực hiện việc chỉ đạo chung và ra những quyết định chỉ đạo chiến lược kinh doanh, chính sách kinh doanh, các biện pháp thực hiện cụ thể trong từng thời kỳ phù hợp với chiến lược phát triển chung của ngân hàng. Các phòng nghiệp vụ là phòng tài chính kế toán, phòng nguồn vốn kinh doanh, phòng tín dụng, phòng dịch vụ khách hàng, phòng tiền tệ kho quỹ, phòng tổ chức hành chính, phòng giao dịch, phòng thẩm định quản lý tín dụng, phòng thanh toán quốc tế, phòng kiểm tra kế toán nội bộ, phòng kinh doanh. 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh những năm gần đây Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt nhưng hoạt động không nằm ngoài mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng thương mại là khoản chênh lệch mà ngân hàng có được khi thực hiện hai hoạt động chính - hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay. 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là hoạt động trọng tâm và xuyên suốt của tất cả các ngân hàng. Chính vì vậy, chiến lược chủ động thu hút vốn là nhiệm vụ hàng đầu đặt ra cho chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh. Bảng 1: Tình hình huy động vốn phân theo tính chất nguồn huy động đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 20042.1.3. Tình hình hoạt động kinh nă Năm 2004 So 03/02 % So 04/03 % %% Tiền gửi của tổ chức kinh tế 215 255 326 118,6 127,84 Tiền gửi của dân cư 1.068 1.184 1.233 110,86 104,14 Tổng nguồn 1.285 1.440 1.560 112,06 108,33 (nguồn: báo cáo kết quả hoạt động của Chi nhánh) Theo số liệu trên ta thấy tổng nguồn vốn ngân hàng tăng trưởng rõ rệt qua các năm. Năm 2003 tổng nguồn huy động là 1.440 tỷ đồng, tăng 12,06% so với năm 2002 thì đến 31/12/2004, con số này tăng lên 120 tỷ đồng, bằng 108,33% năm 2003. Trong đó tiền gửi của dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn: năm 2003 chiếm 82,22% và năm 2004 là 79,04%. Điều này là một bất lợi cho công tác kinh doanh của ngân hàng nhưng lại chứng minh rằng chi nhánh có uy tín trong lòng người dân tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên tốc độ tăng của tiền gửi dân cư giảm đi (chỉ tăng 4,14% so với năm 2003) mà thay vào đó là sự tăng lên của tiền gửi của các tổ chức kinh tế (năm 2004 tăng 27,84% so với năm 2003) - đây là một tín hiệu khả quan của chi nhánh trong việc khơi tăng nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế. Bảng 2: Tình hình huy động vốn phân theo thời hạn vốn huy động đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 So 03/02 % So 04/03 % Không kỳ hạn 53 65 74 122,64 113,85 Kỳ hạn < 12 tháng 561 620 665 110,51 107,26 Kỳ hạn > 12 tháng 671 755 821 112,52 108,73 Tổng cộng 1.285 1.440 1.560 112,06 108,33 (nguồn: báo cáo kết quả hoạt động của Chi nhánh) Về cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời hạn vốn, ta thấy: năm 2004, quy mô loại vốn theo kỳ hạn đều tăng lên cả số tuyệt đối và tương đối. Vốn không kỳ hạn tăng 13,85%, nguồn có kỳ hạn 12 tháng tăng 8,73%. Song tốc độ tăng này không cao như năm 2003 (tương ứng là 22,64%; 10,51%; 12,52%). Mặc dù năm 2004 chi nhánh đã tăng cường tiếp thị, tìm kiếm khách hàng có nguồn tiền gửi lớn, mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra nhiều hình thức huy động với các kỳ hạn khác nhau, tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh có tăng lên nhưng đã không đạt được kế hoạch đã đề ra là 15% và thấp hơn trên địa bàn (tăng 18%). Một phần đó là do một trong các đơn vị trực thuộc không hoàn thành nhiệm vụ và do những tác động của nền kinh tế (như chỉ số giá cả một số mặt hàng thiết yếu tăng đột biến ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động nhất là tiền gửi dân cư...). 2.1.2.2. Hoạt động cho vay Bên cạnh công tác huy động vốn, chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh cũng luôn coi trọng hoạt động sử dụng vốn, đặc biệt tập trung vào hoạt động tín dụng. Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh đến ngày 31/12/2004 đạt 1.448 tỷ đồng bao gồm cả nợ khoanh, tăng 87 tỷ đồng (tăng 6,39%). Dư nợ đã trừ nợ khoanh là 1445 tỷ, tăng 96 tỷ đồng (7,11%). Năm 2004, việc tăng trưởng tín dụng của chi nhánh gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng dư nợ thấp so với các năm trước, chỉ đạt 96,5% kế hoạch trung ương giao, việc tăng dư nợ tại các địa bàn lớn (Hội sở, Cẩm phả) rất khó khăn. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu xuất phát từ việc hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ theo chỉ đạo của ngân hàng Công thương Việt Nam và tình hình thuận lợi trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn. Bảng 3: Tình hình dư nợ tại ngân hàng Công thương Quảng Ninh đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 20022.1.3 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 So 03/02 % So 04/03 % Dư nợ cuối kỳ (gồm cả nợ khoanh) 1.144 1.361 1.448 118,96 106,39 Dư nợ cuối kỳ( đã trừ nợ khoanh) 1.121,6 1.349 1.445 120,27 107,11 Trong đó: Cho vay ngắn hạn Cho vay trung-dài hạn 438 683 572 777 498 947 130,59 113,76 87,06 121,87 (nguồn: báo cáo kết quả hoạt động của Chi nhánh) Mặt khác, việc tăng trưởng dư nợ của NHCT Quảng Ninh tập trung ở cho vay trung dài hạn . Nếu như năm 2003, cho vay ngắn hạn tăng 30,59% thì năm 2004 có xu hướng giảm hẳn so với đầu năm(chỉ bằng 87,06% đầu năm). Ngược lại, cho vay trung và dài hạn tăng đáng kể - 170 tỷ (tăng 21,88%) và chiếm hơn 65% trên tổng dư nợ. Có thể thấy dư nợ trung và dài hạn tại chi nhánh luôn lớn hơn dư nợ ngắn hạn. Điều này cho thấy nhu cầu vốn trung và dài hạn ở Quảng Ninh rất lớn, đòi hỏi chi nhánh phải có tiềm lực đủ lớn để cho vay nhưng vẫn an toàn. Về đối tượng đầu tư, chi nhánh quan tâm nhất về khối quốc doanh và các đơn vị ngành than. Dư nợ khối quốc doanh là 1.189 tỷ đồng, chiếm 82% tổng dư nợ (năm 2003 là 87%), tuy có tăng về số tuyệt đối so với năm 2003 nhưng lại giảm về số tương đối- điều này là do tốc độ tăng của tổng dư nợ lớn hơn tốc độ tăng của dư nợ khối quốc doanh. Ngành than là khách hàng lớn của chi nhánh nên cũng rất được quan tâm. Dư nợ các đơn vị ngành than là 897 tỷ đồng, chiếm 61,9% tổng dư nợ( năm 2003 là 60%). Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Nợ quá hạn từ 1 đến 180 ngày 1.077 1.003 274 Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày 144 92 16 Nợ quá hạn trên 360 ngày 5.877 2.958 1.806 Tổng dư nợ quá hạn 7.098 4.053 2.096 (nguồn: báo cáo kết quả hoạt động của Chi nhánh) Tổng dư nợ quá hạn đến 31/12/2004 là 2.096 triệu đồng = 0,14% trên tổng dư nợ (năm 2003 là 0,29%), so với 31/12/2003 giảm 1.957 triệu (trong đó giảm do xử lý rủi ro là 1.675,5 triệu), về số tương đối giảm 0,15%. Nếu tính cả nợ khoanh thì nợ xấu tại chi nhánh là 5.305 triệu đồng = 0,36% trên tổng dư nợ, so với đầu năm giảm 10.549 triệu đồng (về tỷ lệ giảm 0,80%). Trong năm 2004, bên cạnh việc tích cực đôn đốc thu hồi nợ tồn đọng và xử lý tài sản tồn đọng, tìm mọi biện pháp tận thu nợ khó đòi, nợ đã xử lý rủi ro (toàn chi nhánh thu nợ tồn đọng được 9.057 triệu đồng trong đó thu nhóm I đạt 557 triệu = 114,4% kế hoạch trung ương giao- thu từ nợ đã xử lý rủi ro là 230 triệu, nhóm III thu 8.500 triệu – nợ khoanh của Công ty cơ khí Động lực), chi nhánh tiếp tục thực hiện phân loại lựa chọn khách hàng để đầu tư, tăng cường công tác thẩm định cho vay. Do vậy, chất lượng công tác tín dụng ngày càng được nâng cao, nợ quá hạn toàn chi nhánh cả về số tuyệt đối và tương đối đều vượt mục tiêu đề ra (mục tiêu 3,5 tỷ, tỷ lệ dưới 0,3%- thực hiện 2,096 tỷ, tỷ lệ 0,14%). Kết quả kinh doanh Trong những tháng cuối năm 2004, tình hình KT-XH có nhiều diễn biến không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng. Đến 31/12/04, về cơ bản Chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh đã hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu kế hoạch kinh doanh năm 2004. Lợi nhuận hạch toán nội bộ năm 2004 là 37.735 triệu đồng (tăng 103,96% so với năm 2003)- đây là mức lợi nhuận cao nhất từ khi chi nhánh thành lập đến nay, vượt 64,06% mục tiêu đề ra và đạt 150,94% kế hoạch NHCT Việt Nam giao năm 2004. Tóm lại, trong những năm gần đây, bằng biện pháp tích cực nhằm chuyển dịch cơ cấu tài sản Nợ - Có, chi nhánh Ngân hàng Công thương Quảng Ninh đã thu được những kết quả rất khả quan, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động và vị thế của ngân hàng trên địa bàn. 2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng công thương tỉnh Quảng Ninh Xu hướng xã hội ngày càng phát triển thì nền kinh tế ngày càng đòi hỏi có thêm nhiều vốn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là nhu cầu về vốn trung và dài hạn. Đây là nguồn để doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị, xây dựng mới nhà xưởng... Theo nguyên lý chung, thị trường vốn là nơi cung ứng vốn trung và dài hạn nhưng trong điều kiện ở Việt Nam, vai trò này lại chủ yếu thuộc về hệ thống ngân hàng. Là một trong những chi nhánh ngân hàng thương mại hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh - một tỉnh đang chuyển dịch sang cơ cấu kinh tế công nghiệp và dịch vụ nên nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất nhiều, Chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh cũng đang phấn đấu đáp ứng nhu cầu đó. 2.2.1. Quy mô nguồn vốn trung và dài hạn của Chi nhánh Thực tế trong vòng 3 năm qua nguồn vốn trung và dài hạn mà Chi nhánh huy động được cũng có nhiều biến đổi Bảng 5: Nguồn vốn trung và dài hạn của Chi nhánh đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So 03/02 So 04/03 ± % ± % Tổng nguồn 1.285 1.440 1.560 155 112,06 120 108,33 Nguồn TDH 671 755 821 84 112,52 66 108,74 Nguồn TDH/ tổng nguồn 52,21% 52,43% 52,63% - - - - (nguồn: báo cáo kết quả hoạt động của Chi nhánh) Từ bảng số liệu trên ta thấy rằng sự biến đổi nguồn trung và dài hạn của Chi nhánh trong vòng 3 năm qua là tương đối ổn định và được đánh giá theo chiều hướng tích cực. Xét về con số tuyệt đối có thể thấy rằng qua các năm nguồn vốn trung và dài hạn tại Chi nhánh đều tăng lên, tuy nhiên năm 2003 tăng nhiều hơn năm 2004. Năm 2003 tăng 84 tỷ ( tăng 12,52%) nhưng năm 2004 chỉ tăng 66 tỷ(108,74%). Có sự tăng trưởng này là do Chi nhánh đã thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã đề ra. Cụ thể là đã tiến hành đa dạng hoá các phương thức huy động kết hợp với sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi dân cư và các tổ chức kinh tế đặc biệt là thông qua huy động tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu, trái phiếu dài hạn. Tuy nhiên xét trên tổng nguồn vốn thì nguồn vốn trung và dài hạn đều tăng qua các năm: Năm 2002 chiếm 52,21%; năm 2003 là 52,43% và năm 2004 là 52,63%. Nhưng tốc độ tăng của nguồn vốn này không nhiều. Với nguồn vốn trung và dài hạn chiếm trên 50% tổng nguồn là một kết quả rất tốt vì ở hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay thì nguồn vốn ngắn hạn vẫn chiếm tye trọng cao hơn nguồn trung và dài hạn. Đó là những nét tổng quát về nguồn vốn trung và dài hạn của Chi nhánh ngân hàng Công thương Quảng Ninh, để có cái nhìn chính xác hơn chúng ta sẽ xem xét đến từng khoản mục trong tổng nguồn trung và dài hạn của Chi nhánh. 2.2.2. Nguồn tự huy động trung và dài hạn Nguồn tự huy động trung và dài hạn gồm 2 loại hình chính là huy động từ tổ chức kinh tế và huy động từ dân cư. Nguồn tiền gửi trung và dài hạn của các tổ chức kinh tế Bảng 6: Nguồn tiền gửi trung và dài hạn của tổ chức kinh tế đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So 03/02 So 04/03 ± % ± % Nguồn TDH 671 755 821 84 112,52 66 108,74 Tiền gửi của TCKT 113 134 171,5 21 118,58 37,5 127,98 Tỷ trọng so với tổng nguồn TDH 16,84% 17,75% 20,89% - - - - (nguồn: phòng nguồn vốn) Nhìn chung trong 3 năm qua nguồn tiền gửi trung và dài hạn mà Chi nhánh huy động cũng tăng lên. Tuy nhiên so với các ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn tỉnh Quảng Ninh thì nguồn tiền này của chi nhánh không phải là nhiều, chỉ chiếm 16 - 20% tổng nguồn trung và dài hạn. Năm 2002, số tiền huy động được từ các tổ chức kinh tế là 113 tỷ, chiếm 16,84% so với tổng nguồn tiền gửi trung và dài hạn, đến năm 2003 con số này có tăng lên nhưng không nhiều nên cũng chỉ chiếm 17,75%. Đến năm 200._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28661.doc
Tài liệu liên quan