Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vốn lưu động tại Tổng Công ty chè Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu Đối với bất kì doanh nghiệp nào thì vốn luôn là điều kiện tiên quyết để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn. Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng bởi vì nếu vốn được sử dụng không đúng mục đích sẽ gây lãng phí và ảnh hưởng tới tiềm lực tài chính cũng như tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, nâng cao hiệu

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vốn lưu động tại Tổng Công ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả sử dụng vốn lưu động là một vấn đề bức xúc, thiết thực và cũng là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gay gắt cùng với sự biến động không ngừng của các yếu tố trên thị trường như hiện nay thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Tổng công ty chè Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sản xuất và chế biến chè lớn nhất ở Việt Nam, tuy nhiên trong quá trình thực tập em thấy việc sử dụng vốn lưu động của Tổng công ty còn chưa đạt hiệu quả cao. Do đó em đã chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vốn lưu động tại Tổng công ty chè Việt Nam” Do kiến thức và thời gian có hạn, đề tài khó tránh khỏi những hạn chế. Em rất mong được sự góp ý của thày cô và các bạn để em hoàn thành ý tưởng này tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Vũ Duy Hào, giảng viên trường Đại học KTQD cùng các bác, các cô công tác tại Tổng công ty chè Việt Nam đã giúp em hoàn thành đề tài này. Chương 1 Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp I. Khái niệm, hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. 1. Khái niệm, đặc điểm vốn lưu động. 1.1. Khái niệm. Một doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh ngoài tư liệu lao động phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được thể hiện thành các bộ phận. Một bộ phận là vật tư dự trữ cho quá trình sản xuất làm cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên liên tục (như nguyên, nhiên, vật liệu...), một bộ phận khác là vật tư đang trong quá trình chế biến, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hoá. Mặt khác doanh nghiệp nào cũng gắn liền với lưu thông, do đó trong lưu thông lại hình thành nên một số khoản hàng hoá, tiền tệ và vốn trong thanh toán. Như vậy, doanh nghiệp nào cũng phải có vốn thích đáng để đầu tư mua sắm các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó gọi là vốn lưu động trong doanh nghiệp. Hay nói một cách tổng quát: Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, được biểu hiện bằng giá trị của tài sản lưu động bao gồm tiền mặt, đầu tư chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu, dự trữ tồn kho và các tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền trong vòng một năm trở lại mà không làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2. Đặc điểm vốn lưu động - Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của phần tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào giá trị hàng hoá và thông qua lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một chu kì sản xuất kinh doanh. - Vốn lưu động khi được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ luân chuyển không ngừng và mang nhiều hình thái khác nhau. Vòng luân chuyển của vốn lưu động được thể hiện qua sơ đồ tổng quát sau. Vốn bằng tiền ban đầu Vốn bằng tiền thu hồi Vốn vật chất Sơ đồ 1: Vòng luân chuyển của vốn lưu động + Vốn lưu động bằng tiền ban đầu, ở dạng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản tương đương tiền... + Khi doanh nghiệp sử dụng tiền để mua sắm nguyên, vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm đầu vào...Vốn bằng tiền chuyển sang vốn vật chất. Vốn vật chất này khi tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm sẽ biểu hiện tiếp tục ở dạng vốn vật chất dưới hình thức: sản phẩm đang chế tạo, thành phẩm... + Khi thành phẩm được tiêu thụ, vốn vật chất trở về hình thái vốn bằng tiền ban đầu kết thúc một vòng luân chuyển vốn lưu động và bắt đầu vòng luân chuyển mới... Quá trình trên được diễn ra liên tục và thường xuyên lập lại theo chu kì và được gọi là quá trình tuần hoàn và chu chuyển của vốn lưu động. Trong thực tế, quá trình vận động của vốn lưu động diễn biến phức tạp hơn nhiều bởi vì ngoài các giai đoạn cơ bản như trên, vốn lưu động có khi còn phải chuyển hoá qua một hoặc nhiều giai đoạn trung gian như: công nợ phải thu của người mua vật tư hàng hoá chưa trả tiền, công nợ phải trả của người bán đã nhận tiền nhưng chưa giao hàng, các khoản tiền tạm ứng cho công nhân viên chưa được thanh toán, các khoản vốn phải thu khác... - Trong quá trình vận động, các giá trị của vốn lưu động có thể được biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế khác nhau. + Khi vốn lưu động được đầu tư vào chu kì sản xuất kinh doanh, giá trị của vốn lưu động được biểu hiện qua chi phí biến đổi (như chi phí nguyên vật liệu, chi phí cho lao động trực tiếp, chi phí thuê ngoài chế biến, hoa hồng bán hàng...) + Khi vốn lưu động được hoàn lại, một phần giá trị vốn lưu động được biểu hiện qua doanh thu bán hàng sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. 1.3. Vai trò của vốn lưu động trong kinh doanh. Vốn nói chung và đặc biệt là vốn lưu động giữ một vai trò quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động đảm bảo cho sự thường xuyên liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu mua sắm vật tư đến tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đây cũng chính là vốn luân chuyển giúp cho doanh nghiệp sử dụng tốt máy móc thiết bị và lao động để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Vốn lưu động với đặc điểm về khả năng chu chuyển của mình có thể giúp doanh nghiệp thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường cũng như các nhu cầu tài chính trong các quan hệ kinh tế đối ngoại cho doanh nghiệp. Vốn lưu động luân chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm và là một trong những nhân tố chính tạo nên giá thành sản phẩm. Do vậy, quản lý tốt vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí giá thành, tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra, vòng tuần hoàn và chu chuyển của vốn lưu động diễn ra trong toàn bộ các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh nên đồng thời trong quá trình theo rõi sự vận động của vốn lưu động, doanh nghiệp quản lý được gần như toàn bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, vốn lưu động có ảnh hưởng lớn đến việc thiết lập chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô của vốn lưu động ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại, nó làm tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp nhờ cơ chế dự trữ, khả năng tài chính trong các quan hệ đối ngoại, tận dụng được các cơ hội trong kinh doanh và khả năng cung cấp tín dụng cho khách hàng. Đó là những công cụ đặc biệt hiệu quả trong cơ chế cạnh tranh hiện nay. 2. Cơ cấu vốn lưu động Để quản lí và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có các cách phân loại sau đây: 2.1. Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển của vốn lưu động: Người ta chia vốn lưu động thành 3 loại: - Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất gồm giá trị các khoản: nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động nhỏ. - Vốn lưu động trong khâu sản xuất gồm các khoản: giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển... - Vốn lưu động trong khâu lưu thông gồm: thành phẩm, vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, các khoản thế chấp, kí cược, kí quỹ ngắn hạn. Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong từng công đoạn sản xuất. Nó giúp cho doanh nghiệp có biện pháp kịp thời để điều chỉnh cơ cấu vốn sao cho có hiệu quả nhất ( như việc hạn chế vật liệu và thành phẩm tồn kho...) 2.2. Căn cứ vào nguồn tài trợ * Nguồn tài trợ dài hạn: Là những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng trên một năm gồm những khoản sau: Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm: + Nguồn vốn do ngân sách cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách. + Nguồn vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu. + Nguồn vốn có do liên doanh, liên kết. + Nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận giữ lại. Nguồn vốn nợ dài hạn: Là những khoản nợ dài hạn của danh nghiệp, thường là trên một năm hoặc phải trả sau một kỳ kinh doanh, không phân biệt đối tượng và mục đích cho vay. Nợ dài hạn có thể là vay ngân hàng hoặc phát hành các loại trái phiếu dài hạn. * Nguồn tài trợ ngắn hạn: Là những khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm trả trong vòng một chu kỳ kinh doanh, thông thường là một năm. Nguồn ngắn hạn bao gồm những khoản sau: - Nợ dài hạn đến hạn trả. - Tín dụng thương mại: Đây là nguồn vốn ngắn hạn thường hay được các doanh nghiệp khai thác nhất. Nó còn được gọi là tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với toàn doanh nghiệp mà đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% thậm chí 30% trong tổng nguồn vốn. Có thể nói, đây là một phương pháp tài trợ tiện lợi trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên cần nhận thấy tính chất rủi ro của nguồn vốn này khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. Đó là mức chi phí cho các khoản trả chậm. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này thường được ấn định dưới hình thức thay đổi mức giá (nâng đơn giá cao hơn để bao hàm lãi suất tín dụng trong đó). Tốt nhất, tuỳ theo lãi suất và thời hạn, doanh nghiệp phải xác định quy mô khoản tín dụng này ở mức an toàn nhất. - Tín dụng ngân hàng: Trong một khoảng thời gian ngắn nhất, đây là nguồn tài trợ quan trọng đối với doanh nghiệp. Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất theo các phương thức sau: + Cho vay theo món: Theo phương thức này, khi phát sinh nhu cầu bổ sung vốn với một lượng nhất định và thời gian xác định, doanh nghiệp làm đơn xin vay. Nếu được ngân hàng chấp nhận, ngân hàng sẽ ký khế ước nhận nợ và sử dụng tiền vay. Việc trả nợ được thực hiện theo các kỳ hạn nợ hoặc trả một lần vào ngày đáo hạn. + Cho vay luân chuyển: Phương pháp này được áp dụng khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ sung thường xuyên trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh và đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra. Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời gian nhất định (ví dụ 1 năm). Hạn mức tín dụng được xác định trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thoả thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay nhiều lần, nhưng tổng các món nợ không được vượt quá hạn mức đã xác định. - Các khoản nợ ngắn hạn khác: Bao gồm các khoản như lương và phụ cấp phải trả cho công nhân viên, thuế phải nộp cho Nhà nước, tiền ứng trước của khách hàng, các khoản chi phí chưa chi... Tài sản lưu động Vay ngắn hạn Vay dài hạn Vốn chủ sở hữu Sơ đồ 2: Các nguồn vốn tài trợ cho tài sản lưu động Việc phân loại vốn lưu động theo cách này sẽ giúp doanh nghiệp luôn biết được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của mình. Từ đó có thể đưa ra cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm tối đa chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. 2.3. Căn cứ vào hình thái biểu hiện ta có: Vốn bằng tiền: Bao gồm tiền mặt hiện có trong két, tiền gửi ngân hàng và các khoản tiền đang chuyển. Nó được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngay lập tức của doanh nghiệp. Tiền bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi. Do vậy, trong công tác quản lý tiền thì việc tối thiểu hoá lượng tiền phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên, việc giữ tiền trong kinh doanh cũng hết sức cần thiết bởi những lý do sau: - Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội trong kinh doanh, chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả. - Khi mua hàng hoá dịch vụ, nếu có đủ tiền mặt, công ty có thể được hưởng lợi thế chiết khấu. - Khi có đủ tiền mặt doanh nghiệp có thể đối phó với những tình huống khẩn cấp như hỏa hoạn, đình công... Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Do tiền không sinh lãi nên những doanh nghiệp muốn duy trì một lượng tài sản có tính lỏng cao thường để chúng dưới dạng đầu tư tài chính ngắn hạn. Chúng thường là những chứng khoán như trái phiếu hoặc cổ phiếu dễ dàng mua và bán trên thị trường tài chính theo mức giá đã định. Khác với việc giữ tiền, đầu tư tài chính mang lại một khoản thu nhập cho doanh nghiệp. Sự chuyển dịch từ tiền sang chứng khoán ngắn hạn tuỳ theo khả năng của các nhà quản lý tài chính và tuỳ thuộc vào lãi suất thị trường. Các khoản phải thu: Đây là một trong những bộ phận quan trọng của vốn lưu động. Khi doanh nghiệp bán hàng hoá của mình cho doanh nghiệp khác, thông thường người mua sẽ không trả tiền ngay lúc giao hàng. Các hoá đơn chưa được trả tiền này thể hiện quan hệ tín dụng thương mại và chúng tạo nên những khoản phải thu khách hàng. Các khoản phải thu khách hàng có tính “lỏng” ở mức trung bình, thường được chuyển thành tiền trong từ 30-60 ngày. Tuy nhiên cũng có những trường hợp rủi ro do khách hàng không trả tiền. Do vậy khi xem xét thực hiện chính sách tín dụng thương mại, doanh nghiệp nên cân nhắc kỹ. Ngoài ra còn có một số khoản phải thu khác như thu nội bộ, tiền ứng trước cho người bán, tiền thế chấp... Hàng dự trữ: Bao gồm vật tư, hàng hoá, thành phẩm, giá trị sản phẩm dở dang. Đây là loại tài sản có tính “lỏng” thấp nhưng rất quan trọng trong quá trình sản xuất. Do vậy, doanh nghiệp cần có phương pháp quản lý hiệu quả để tránh thiếu hay tồn đọng quá lớn gây khó khăn cho sản xuất. Tài sản lưu động khác: Đây là những khoản tồn tại của vốn lưu động mà người ta khó có thể phân loại chúng vào một nhóm nào đó. Nó bao gồm: tạm ứng, chi phí trả trước chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản ký quỹ, ký cược... Tạm ứng là những khoản tiền doanh nghiệp giao cho cán bộ công nhân viên nhận tạm để thực hiện nhiệm vụ nào đó cho doanh nghiệp. Chi phí trả trước là những khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và sẽ được kết chuyển sau này. Dựa vào cách phân loại này, doanh nghiệp có cơ sở để thanh toán, kiểm tra kết cấu tối ưu của vốn lưu động, từ đó có những quyết định để tận dụng số vốn lưu động đã bỏ ra. 2.4. Căn cứ vào phương pháp xác định Có thể chia vốn lưu động làm 2 loại: Vốn lưu động định mức: là số vốn lưu động cần thiết tối thiểu, thường xuyên trong hoạt động kinh doanh, bao gồm có: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm, hàng hoá mua ngoài cần cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến. Vốn lưu động không định mức: là số vốn lưu động phát sinh trong quá trình kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính toán định mức được. Mặc dù có thể phân loại vốn lưu động theo nhiều tiêu thức khác nhau, song về cơ bản, vốn lưu động được cấu thành từ các khoản mục nhất định mà mỗi một trong số đó đều có vị trí và tầm quan trọng riêng. Vì vậy việc hiểu rõ từng bộ phận của vốn lưu động nhằm sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất là đòi hỏi tất yếu được đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp. II. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đặc trưng cơ bản nhất của vốn lưu động là sự luân chuyển liên tục trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh và chuyển toàn bộ giá trị một lần vào sản phẩm trong chu kì kinh doanh. Do vậy khi đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động, người ta chủ yếu đánh giá về tốc độ luân chuyển của nó. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt công tác, mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp hợp lí hay không hợp lí, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không tốt, các khoản phí tổn trong sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay không tiết kiệm. Ngoài mục tiêu sử dụng cho mua sắm, dự trữ, vốn lưu động còn được sử dụng trong thanh toán. Bởi vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn thể hiện ở khả năng đảm bảo lượng vốn lưu động cần thiết để thực hiện thanh toán. Đảm bảo đầy đủ vốn lưu động trong thanh toán sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh, vừa tạo uy tín với bạn hàng và khách hàng. Tóm lại, hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ và năng lực quản lí vốn lưu động của doanh nghiệp, đảm bảo vốn lưu động được luân chuyển với tốc độ cao, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp luôn ở tình trạng tốt và mức chi phí vốn bỏ ra là thấp nhất. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. * Sức sản xuất của vốn lưu động : Là chỉ số được tính bằng tỷ lệ giữa tổng doanh thu tiêu thụ trong một kì chia cho vốn lưu động bình quân trong kì của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động nhanh hay chậm, trong một chu kì kinh doanh vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng Sức sản xuất của vốn lưu động = Tổng doanh thu tiêu thụ Vốn lưu động bình quân Nếu chỉ số này tăng so với những kì trước thì chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động luân chuyển vốn có hiệu quả hơn và ngược lại. Thời gian một vòng chu chuyển Thời gian của kì phân tích Số vòng quay của vốn lưu động trong kì = *Thời gian của một vòng chu chuyển Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho một vòng quay của vốn lưu động trong kì phân tích. Thời gian luân chuyển của vốn lưu động càng ngắn thì chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động rất linh hoạt, tiết kiệm và tốc độ luân chuyển của nó sẽ càng lớn. * Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Vốn lưu động bình quân Tổng doanh thu tiêu thụ = Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động phản ánh để được một đồng doanh thu tiêu thụ thì cần phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn lưu động tiết kiệm được càng lớn. *Sức sinh lợi của vốn lưu động: Sức sinh lợi của vốn lưu động Lợi nhuận trước thuế Vốn lưu động bình quân trong kì = Chỉ tiêu này đánh giá một đồng vốn lưu động hoạt động trong kì kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 2.2. Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động a. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện khá rõ nét qua một số chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kì với các khoản phải thanh toán trong kì. Do tính chất “lỏng” cao, vốn lưu động được coi là nguồn chủ yếu để thực hiện thanh toán của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán gồm: * Hệ số thanh toán hiện hành: Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các khoản chứng khoán ngắn hạn bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng, tín dụng thương mại và các khoản phải trả khác. Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có một thời hạn tồn tại rất ngắn (thường < 1 năm). Tỷ lệ này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn các khoản nợ đó. Hệ số thanh toán hiện hành Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn = Tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh và từng thời kỳ kinh doanh mà hệ số này được đánh giá là tốt hay xấu. Tuy nhiên, chủ nợ sẽ tin tưởng hơn nếu chỉ số này của doanh nghiệp > 1. *Hệ số thanh toán nhanh: Là tài sản được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho), là những tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được đem bán. Do vậy, hệ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ đi phần dự trữ và chia cho nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh Tài sản lưu động- dự trữ Nợ ngắn hạn = = Tiền mặt + CK ngắn hạn + phải thu Nợ ngắn hạn Nếu chỉ số này >1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đánh giá là khả quan, ngược lại doanh nghiệp sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ. *Hệ số thanh toán tức thời: Tỷ lệ này phản ánh khả năng thanh toán ngay lập tức tại thời điểm xác định tỷ lệ không phụ thuộc vào các khoản phải thu và dự trữ. Nó được tính bằng tỷ lệ giữa tổng số vốn bằng tiền hiện có và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Tổng số vốn bằng tiền được xác định là toàn bộ số tiền mặt và chứng khoán thanh khoán có khả năng thanh khoản cao mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Hệ số thanh toán tức thời Tiền mặt + CK ngắn hạn Nợ ngắn hạn = Chỉ số này thường > 0,5 đối với các doanh nghiệp được đánh giá là có tình hình thanh toán tương đối tốt. Ngược lại thì doanh nghiệp khó khăn trong tiền mặt dự trữ. Tuy nhiên, nếu tỷ suất này quá cao thì nó lại phản ánh tình hình không tốt vì lượng vốn bằng tiền quá lớn gây rủi ro chi phí cơ hội cao, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. b. Nhóm chỉ tiêu phân tích khả năng hoạt động của các bộ phận của vốn lưu động. Vốn lưu động được hợp thành từ nhiều bộ phận cấu thành. Do vậy, khi xem xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta cần đánh giá đến những chỉ tiêu hoạt động của bộ phận cấu thành nên vốn lưu động. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm: Vòng quay tiền mặt Tổng doanh thu tiêu thụ Tiền mặt và CK ngắn hạn bình quân = *Vòng quay tiền mặt: Vòng quay tiền mặt phản ánh một đồng tiền mặt và chứng khoán ngắn hạn tạo được mấy đồng doanh thu trong kì nghiên cứu hay nó quay được bao nhiêu vòng. Chỉ số này nói lên hiệu quả sử dụng tiền mặt và chứng khoán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp đang sử dụng có hiệu quả tài sản này. *Vòng quay hàng tồn kho: Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ trong năm và giá trị tài sản dự trữ (nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hoá bình quân...) Vòng quay hàng tồn kho = Tổng doanh thu tiêu thụ Dự trữ bình quân Thông thường chỉ tiêu này > 9 thì được đánh giá là tương đối tốt. *Thời gian một vòng quay hàng tồn kho: Thời gian một vòng quay hàng tồn kho Thời gian kì phân tích Số vòng quay hàng tồn kho trong kì = Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kì kinh doanh, hàng dự trữ quay hết một vòng tốn bao nhiêu thời gian. Chỉ tiêu này có thể lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào ngành kinh doanh và tính chất của sản phẩm. Tuy nhiên, dù thế nào thì nó vẫn rất quan trọng đối với quản lí hàng tồn kho. Doanh nghiệp có khả năng quản lí vốn dự trữ tốt thì chỉ tiêu này thường nhỏ hơn so với chỉ tiêu trung bình của ngành, nó phản ánh đồng vốn lưu động của doanh nghiệp rất linh hoạt không bị ứ đọng ở khâu dự trữ. Vòng quay của các khoản phải thu = Tổng doanh thu tiêu thụ Các khoản phải thu bình quân * Vòng quay các khoản phải thu: Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng thu hồi vốn từ các khoản phải thu của doanh nghiệp. Nó xác định trong một chu kì kinh doanh các khoản phải thu của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. *Kì thu tiền bình quân: Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh nghiệp và các khoản trả trước. Kì thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu bình quân một ngày Chỉ tiêu này cho biết thời gian cần thiết để doanh nghiệp thu được nợ từ các khoản phải thu trong một ngày là bao nhiêu. Nó cũng đánh giá thể hiện rõ chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp (thoáng hay chặt chẽ). Chỉ tiêu này nằm vào khoảng từ 20-30 ngày là có thể chấp nhận được. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên đã cho thấy sự đánh giá khá đầy đủ về tình hình sử dụng vốn lưu động trong một doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động quản kinh doanh vốn rất đa dạng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động không chỉ được đánh giá từ giác độ định lượng tài chính. Muốn thực hiện tốt công tác phân tích, đánh giá quản lí để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì cần xem xét dưới góc độ tổng thể. Do đó, để có kết quả đánh giá chính xác thì cần xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này. ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động có rất nhiều nhân tố, tuy nhiên để tiện lợi cho việc nghiên cứu ta có thể chia làm hai nhóm: 1. Nhóm nhân tố chủ quan ở doanh nghiệp. 1.1. Quản trị vốn tiền mặt ở doanh nghiệp Tiền mặt tại quỹ là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của doanh nghiệp . Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ tiền mặt hay tiền mặt tương đương (các chứng khoán có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt dễ dàng ) ở một quy mô nhất định. Nhu cầu dự trữ tiền mặt trong doanh nghiệp thông thường là để đáp ứng nhu cầu giao dịch hằng ngày như mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động lực “ đầu cơ ‘ trong việc dự trữ tiền mặt để có thể sử dụng ngay khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp cơ hội thu được chiết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn, làm tăng khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Quy mô vốn tiền mặt là kết quả thực hiện nhiều quyết định kinh doanh trong các thời kỳ trước, song việc quản trị vốn tiền mặt không phải là một việc thụ động. Nhiệm vụ quản trị vốn tiền mặt do đó không chỉ là đảm bảo cho doanh nghiệp có đầy đủ lượng vốn tiền mặt cần thiết để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán mà quan trọng hơn là tối ưu hoá số ngân quỹ hiện có, giảm tối đa các rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái và tối ưu hoá việc đi vay ngắn hạn hoặc đầu tư kiếm lời. Nội dung quản trị vốn tiền mặt trong doanh nghiệp thông thường bao gồm: - Xác định mức tồn tối thiểu. Mức tồn quỹ tối thiểu cần được xác định sao cho doanh nghiệp có thể tránh được . + Rủi ro do không có khả năng thanh toán ngay, phải ra hạn thanh toán nên phải trả lãi cao hơn. + Mất khả năng mua chịu của doanh nghiệp + Không có khả năng tận dụng các cơ hội kinh doanh tốt. Phương pháp thường dùng để xác định mức tồn quỹ tối thiểu là lấy mức xuất quỹ trung bình hằng ngày nhân với số lượng ngày dự trữ tồn quỹ. - Dự đoán và quản lý các nguồn nhập xuất ngân quỹ . - Dự đoán ngân quỹ là tập hợp các dự kiến về nguồn và sử dụng ngân quỹ. Ngân quỹ hàng năm được lập vừa tổng quát vừa chi tiết cho từng tháng và tuần.. Dự đoán các nguồn nhập ngân quỹ bao gồm luồng thu nhập thu nhập từ kết quả kinh doanh, luồng đi vay và các nguồn tăng vốn khác. Trong các luồng thu nhập ngân quỹ kể trên, luồng nhập ngân quỹ từ kết quả kinh doanh là quan trọng nhất. Nó được dự đoán dựa trên cơ sở các khoản doanh thu bằng tiền mặt dự kiến trong kỳ. Dự đoán các nguồn xuất ngân quỹ thường bao gồm các khoản chi cho hoạt động kinh doanh như mua sắm tài sản, trả lương, các khoản chi cho hoạt động đầu tư theo kế hoạch của doanh nghiệp, các khoản chi trả tiền lãi phải chia, nộp thuế và các khoản chi khác. Trên cơ sở so sánh các luồng thu nhập và luồng xuất ngân quỹ, doanh nghiệp có thể thấy được mức dư hay thâm hụt ngân quỹ. Từ đó thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi ngân quỹ như tăng tốc độ thu hồi các khoản nợ phải thu, đồng thời giảm tốc độ xuất quỹ nếu có thể thực hiện được hoặc có nghệ thuật sử dụng các khoản nợ đang trong quá trình thanh toán. Doanh nghiệp cũng có thể huy động các khoản vay thanh toán của ngân hàng. Ngược lại khi luồng nhập ngân quỹ lớn hơn luồng xuất ngân quỹ thì doanh nghiệp có thể sử dụng phần dư ngân quỹ để thực hiện các khoản đầu tư trong thời hạn cho phép để nâng cao hiệu quả sử dụng số vốn tạm thời nhàn rỗi của mình 1.2 Quản trị các khoản phải thu ở doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau thường tồn tại một khoản vốn trong quá trình thanh toán: các khoản phải thu, phải trả. Tỷ lệ các khoản phải thu phải trả trong các doanh nghiệp có thể khác nhau, thông thường chúng chiếm từ 15% - 20% trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô các khoản phải thu thường là: - Khối lượng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ bán chịu cho khách hàng: trong một số trường hợp để khuyến kích người mua, doanh nghiệp thường áp dụng phương thức bán chịu (giao hàng trước, trả tiền sau) đối với khách hàng. Điều này có thể làm tăng thêm một số chi phí do việc tăng thêm các khoản nợ phải thu của khách hàng (chi phí quản lý khoản phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro ...). Đổi lại, doanh nghiệp cũng có thể tăng thêm được lợi nhuận nhờ mở rộng số lượng sản phảm tiêu thụ . - Sự thay đổi theo thời vụ của doanh thu: Đối với các doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ, trong những thời kỳ sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu tiêu dùng lớn, cần khuyến khích tiêu thụ để thu hồi vốn. Giới hạn của lượng vốn thu hồi: nếu lượng vốn phải thu quá lớn thì không thể tiếp tục bán chịu vì sẽ làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp. - Thời hạn bán chịu và chính sách tín dụng của mỗi doanh nghiệp, Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm có đặc điểm sử dụng lâu bền thì kỳ thu tiền bình quân thường dài hơn các doanh nghiệp ít vốn, sản phẩm dễ hư hao, mất phẩm chất, dễ bảo quản. - Một điều dễ nhận thấy, hầu như các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đều mắc một sai làm nghiêm trọng là quá dễ dãi trong vấn đề bán chịu. Trong thương mại, hình thức bán chịu không thể bị loại bỏ mà buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự tồn tại của nó song song với các hình thức bán sản phẩm khác. Bạn muốn có nhiều cơ may phát triển thì phương thức bán “ đồng trả đồng chịu“ phải được coi như là một chính sách, một điều tất yếu trong hoạt động kinh doanh của bạn nhưng có điều bán hàng thiếu chịu cho ai? đều phải được xử lý thận trọng. Doanh nghiệp chỉ nên cho thiếu chịu những người xét thấy có khả năng được hư._.ởng sự tín dụng, đó là những người “tâm huyết với nghề” đều trả những khoản nợ đúng hẹn. Họ không thuộc những thành phần hay khuếch trương về doanh thu và đặc biệt họ không bao giờ chấp nhận giá cả một cách tuỳ tiện. Không ít doanh nghiệp cho bạn hàng thiếu chịu, sau đó không thể thu hồi được đồng vốn, mà trong số các lý do không chỉ đơn thuần là việc tin tưởng khách hàng ngay lần gặp gỡ đầu. Có những khách hàng thời gian đầu thanh toán rất đúng hẹn nhưng đến một lúc nào đó số nợ tăng lên lớn quá, với tốc độ gia tăng rất nhanh và chủ doanh nghiệp buộc phải đến ngân hàng vay tiền vì số tiền thu về đã ít lại chậm không đủ để trang trải cho khoản chi cần thiết. Trong trường hợp này chủ doanh nghiệp là người phải chịu trách nhiệm trước nhất. Các doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng chủ yếu do những nguyên nhân sau: - Cả nể và dễ tin vào lời hẹn của khách hàng . - Sợ mất một bạn hàng. - Muốn khuếch chương thực lực của mình. Trong trường hợp này, phía khách hàng thường đưa ra những nguyên nhân dẫn đến chậm thanh toán . - Hàng hoá không bán được, tốc độ lưu thông chậm. - Chưa thu được nợ của bạn hàng. - Những biến cố bất ngờ Và để kết thúc cuộc trao đổi thông tin, phía bên cho nợ sẽ tự biện hộ cho mình: - Cứ suất hàng để kịp giao cho khách rồi ngày một ngày hai sẽ thanh toán số tiền còn lại . - Số nợ như vậy không đáng kể gì so với thực lực kinh tế của doanh nghiệp đang cho nợ. Để giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, hạn chế việc phát sinh các chi phí không cần thiết hoặc rủi ro, doanh nghiệp cần coi trọng các các biện pháp chủ yếu sau đây: - Phải mở sổ theo rõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp và thường xuyên đôn đốc để thu hồi đúng hạn. - Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro không được thanh toán (lựa chọn khách hàng, giới hạn giá trị tín dụng, yêu cầu đặt cọc, tạm ứng hay trả trước một phần giá trị đơn hàng, bán nợ ...) - Có chính sách bán chịu đúng đắn đối với từng khách hàng. Khi bán chịu cho khách hàng phải xem xét kĩ khả năng thanh toán trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết. - Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng, nếu vượt quá giới hạn thanh toán theo hợp đồng thì doanh nghiệp được thu lãi suất tương ứng như lãi suất quá hạn của ngân hàng. - Phân loại các khoản nợ quá hạn: Tìm nguyên nhân của từng khoản nợ (khách quan, chủ quan) để có biện pháp xử lý thích hợp như gia hạn nợ; thoả ước xử lý nợ, xoá một phần nợ cho khách hàng hoặc yêu cầu toà án kinh tế giải quyết theo thủ tục phá sản doanh nghiệp. 1.3. Quản trị vốn tồn kho dự trữ ở doanh nghiệp * Tồn kho dự trữ và các nhân tố ảnh hưởng đến vốn tồn kho dự trữ. Hàng dự trữ là một trong những tài sản có giá trị lớn trong doanh nghiệp. Thông thường giá trị hàng dự trữ của các doanh nghiệp chiếm 40-50% tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc quản lý kiểm soát tốt hàng dự trữ có một ý nghĩa kinh tế vô cùng quan trọng, nó góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành liên tục, có hiệu quả. Bản thân vấn đề quản lý hàng dự trữ có hai mặt trái ngược nhau là, để đảm bảo sản xuất liên tục, tránh đứt quãng trên dây chuyền sản xuất, đảm bảo sản xuất đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của người tiêu dùng trong bất kỳ tình huống nào, doanh nghiệp có ý định tăng dự trữ. Ngược lại, dự trữ tăng lên, doanh nghiệp lại phải tốn thêm những chi phí khác có liên quan đến dự trữ chung. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp cần phải tìm cách xác định mức độ cân bằng giữa mức độ đầu tư cho hàng dự trữ và lợi ích do thoả mãn nhu cầu của sản xuất và nhu cầu người tiêu dùng với chi phí tối thiểu nhất. Hàng dự trữ bao gồm các nguyên vật liệu, bán thành phẩm dụng cụ phụ tùng, thành phẩm tồn kho... Tuỳ theo các loại hình doanh nghiệp khác nhau mà các dạng hàng dự trữ cũng khác nhau và nội dung hoạch định, kiểm soát hàng dự trữ cũng khác nhau. Mức tồn kho dự trữ của doanh nghiệp nhiều hay ít chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Tuỳ theo theo từng loại tồn kho dự trữ mà các nhân tố ảnh hưởng có đặc điểm riêng. Đối với mức tồn kho dự trữ nguyên vật liệu, nhiên liệu, thường phụ thuộc vào: + Quy mô sản xuất và nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất của doanh nghiệp. Nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu của doanh nghiệp thường bao gồm 3 loại : dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm, dự trữ thời vụ ( đối với doanh nghiệp sản xuất có tính thời vụ ) . + Khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường . + Chu kỳ giao hàng quy định trong hợp đồng giữa đơn vị cung ứng nguyên vật liệu với doanh nghiệp . + Thời gian vận chuyển nguyên vật liệu từ nơi cung ứng đến doanh nghiệp. + Giá cả của các nguyên vật liệu, nhiên liệu được cung ứng. Đối với mức tồn kho dự trữ bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, các nhân tố ảnh hưởng gồm: + Đặc điểm và các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chế tạo sản phẩm . + Độ dài thời gian, chu kỳ sản xuất sản phẩm. + Trình độ sản xuất của doanh nghiệp . Đối với tồn kho dự trữ sản phẩm, thành phẩm, thường chịu ảnh hưởng các nhân tố : + Sự phối hợp giữa khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm . + Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng . + Khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp . * Các phương pháp quản trị vốn tồn kho dự trữ Mô hình đặt hàng kinh tế cơ bản ( EOQ ). Khi sử dụng mô hình này người ta dựa vào các giả thiết quan trọng sau: + Nhu cầu phải biết trước và nhu cầu không đổi + Phải biết trước thời gian kể từ khi đặt hàng cho tới khi nhận được hàng và thời gian đó không đổi. + Lượng hàng của mỗi đơn hàng được thực hiện trong một chuyến hàng và được thực hiện ở một thời điểm đã định trước. + Chỉ có duy nhất hai loại chi phí là chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng. + Sự thiếu hụt trong kho hoàn toàn không xảy ra nếu như đơn đặt hàng được thực hiện đúng thời gian. Nếu ta gọi : D - nhu cầu hàng năm về loại hàng dự trữ . Q - lượng hàng dự trữ cho một đơn hàng. S - chi phí đặt hàng tính trên một đơn hàng . H - chi phí tồn trữ trung bình trên một đơn vị dự trữ trong năm . D - nhu cầu hằng ngày về nguyên vật liệu. d = D / số ngày sản xuất trong năm. P - mức độ cung ứng hàng ngày. L - thời gian vận chuyển một đơn hàng. Với giả thiết trên đây sơ đồ biểu diễn mô hình sử dụng hàng dự trữ cơ bản có dạng như sau: Q* Q=Q*/2 Thời gian Sơ đồ 3: Biểu diễn mô hình sử dụng hàng dự trữ cơ bản Khi đó Ctt (chi phí tồn trữ) = Q x H/2. Cdh (chi phí đặt hàng) = D xS/Q. Như vậy có hai loại chi phí là chi phí là biến đổi khi lượng dự trữ thay đổi là Ctt và Cdh . Mục tiêu của doanh nghiệp là tối thiểu hoá tổng các chi phí này. Có TC = Ctt + Cđh = QxH/2 +DxS/Q. Lấy đạo hàm 2 vế theo Q ta được: (TC)’ =H/2 - DxS/Q2 Để TCmin thì (TC)’ =0 Û H/2 =DxS/Q2 Û Q*= Vậy Q*= thì TCmin N =D/Q* ROP (Điểm đặt hàng lại) = dxL * Mô hình sản lượng theo đơn đặt hàng sản xuất (POQ) Trong mô hình EOQ, chúng ta giả định toàn bộ lượng hàng của một đơn hàng được nhận ngay trong một chuyến hàng. Tuy nhiên, có những trường hợp doanh nghiệp sẽ nhận hàng dần dần trong một thời gian nhất định. Trong trường hợp như thế chúg ta hãy nghiên cứu mô hình POQ. Trong mô hình này, các giả thiết giống như mô hình EOQ, điểm khác biệt duy nhất là hàng được đưa đến nhiều chuyến. Cũng bằng phương pháp tương tự như trên ta tính được: Q* = *Mô hình khấu trừ theo số lượng Để tăng doanh thu bán hàng, nhiều Công ty thường đưa ra chính sách bán hàng theo giá giảm khi số lượng mỗi lần mua cao lên. Chính sách bán hàng như vậy được gọi là mô hình bán hàng khấu trừ theo số lượng bán. Nếu chúng ta mua với số lượng lớn sẽ được hưởng giá thấp. Nhưng số lượng dự trữ sẽ cao và do đó, lượng chi phí tồn trữ sẽ tăng. Xét về mức chi phí đặt hàng thì lượng đặt hàng tăng lên, sẽ dẫn đến chi phí đặt hàng giảm đi. Mục tiêu đặt ra là chọn mức đặt hàng sao cho tổng chi phí về dự trữ hàng năm là bé nhất. tổng chi phí được tính như sau: TCdt =Pr xD xS/Q + Q xH/2 Trong đó: Pr xD là chi phí mua hàng Để xác định được lượng đơn hàng tối ưu phù hợp với các mức bán hàng khác nhau, ta tiến hành 4 bước sau đây: Bước 1: Xác định lượng đặt hàng tối ưu Q* ở từng mức khấu trrừ theo công thức: Q* = = Trong đó: Chi phí tồn trữ bằng tỷ lệ (%) chi phí tồn trữ tính theo giá mua một đơn vị hàng. I -là tỷ lệ % chi phí tồn trữ tính theo giá mua một đơn hàng. Pr -là giá mua một đơn hàng. Bước 2: Xác định lượng đơn hàng tối ưu điều chỉnh Q* theo mỗi mức khấu trừ khác nhau, ở mỗi mức khấu trừ khác nhau, nếu sản lượng đơn hàng đã tính ở bước 1 quá thấp đến nỗi không đủ điều kiện để hưởng mức giá khấu trừ, chúng ta điều chỉnh sản lượng của đơn hàng lên đến mức sản lượng tối thiểu để được hưởng giá khấu trừ. Bước 3: Sử dụng công thức tính tổng chi phí của hàng dự trữ nêu trên để tính toán tổng chi phí cho các mức sản lượng đã được xác định ở bước 1 và bước 2. Bước 4: Chọn Q* nào có tổng cho phí của hàng dự trữ thấp nhất đã xác định ở bước 3. Đó chính là sản lượng tối ưu của đơn hàng. 2. Nhóm các nhân tố khách quan ở doanh nghiệp Là nhóm các nhân tố do môi trường bên ngoài doanh nghiệp gây ra. Nó không phụ thuộc vào hoạt động của doanh nghiệp và không nằm trong tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Đối với các nhân tố này, doanh nghiệp chỉ có thể tận dụng hay tự điều chỉnh nhằm phù hợp với quy luật của chúng. Ta sẽ xem xét một số nhân tố sau: * Các chính sách vĩ mô: Trên cơ sở luật pháp, các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Sự thay đổi trong chế độ chính sách đều có tác động tốt hoặc xấu đối với doanh nghiệp. Đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì các chính sách thuế, chính sách tín dụng của Nhà nước sẽ có tác động rất lớn. Lãi suất và thuế suất thay đổi sẽ có thể làm tăng hay giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp cần nắm bắt đúng đắn pháp luật để từ đó lợi dụng làm lợi cho mình từ những sự ưu tiên hay những kẽ hở của luật pháp. * Nhu cầu tiêu dùng: Thị trường đầu ra là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, có tác động trực tiếp lên hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nếu như cầu tiêu dùng lớn, doanh thu tiêu thụ cao, doanh nghiệp sẽ tận dụng được tối đa công suất của vốn lưu động, giảm tối thiểu thời gian ứ đọng vốn. Ngược lại, những biến động bất lợi về nhu cầu sẽ gây nên ứ đọng vốn lớn, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Do vậy, để có hoạt động tốt, doanh nghiệp cần tiến hành nắm bắt thị trường thông qua nghiên cứu. Có như vậy doanh nghiệp mới lập được kế hoạch sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nhất. * Tình hình cung ứng đầu vào: Biến động thị trường đầu vào về lượng, về giá đều làm hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng hay giảm. Giá cả nguyên vật liệu tăng, cung về nguyên vật liệu giảm đều sẽ có những tác động nhất định đến lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vấn đề của doanh nghiệp là phải nắm bắt kĩ tình hình thị trường đầu vào để có kế hoạch mua sắm phù hợp. Ngoài ra thái độ người bán cũng cần được chú ý đối với quản lí vốn lưu động. Chính sách bán của người bán (bán chịu, chiết khấu) ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động huy động vốn lưu động trong doanh nghiệp. Với bạn hàng, doanh nghiệp nên tận dụng tốt nhất nguồn vốn chiếm dụng để quay vòng, nhưng cũng cần chú ý tới những thay đổi từ phía bạn hàng để có những ứng phó kịp thời với những bất ngờ. *Tiến bộ khoa học công nghệ: Ngày nay, khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhiều phát minh mới ra đời thay thế những cái cũ, lạc hậu. Công nghệ có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Công nghệ mới sẽ làm rút ngắn thời gian vốn lưu động bị ứ đọng trong sản xuất, tăng thêm vòng quay cho nó. Do đó, doanh nghiệp cần phải thường xuyên cập nhật những công nghệ mới để cải tiến quy trình sản xuất của mình thì mới nâng cao được hiệu quả hoạt động quản lí vốn lưu động. 3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết, vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng cần cho quá trình sản xuất như máu cần cho cơ thể con người. Nếu như con người cần hấp thụ máu để tồn tại thì vốn đóng vai trò không thể thiếu được trong việc làm lưu thông các mạch máu trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất, duy trì và đẩy nhanh tốc độ phát triển của toàn thể doanh nghiệp. Vốn là nhân tố hàng đầu tạo ra sức bật cho doanh nghiệp tiến từng bước vững chắc. Tóm lại, tầm quan trọng của vốn nói chung và tầm quan trọng của vốn lưu động nói riêng được mặc nhiên thừa nhận. Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp đang phải đối diện trực tiếp với vấn đề nan giải của sự “đói vốn”. Tuy vậy, điều đáng lo ngại và đáng nói hơn đó là việc họ đã và đang sử dụng vốn lưu động của mình đã thật sự có hiệu quả hay chưa. Bởi vì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn, cụ thể là: + Vốn lưu động được sử dụng cho sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả cao thì năng lực sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm càng lớn. Vì việc không ngừng tiết kiệm trong việc sử dụng vốn lưu động sẽ từng bước hạ chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, tăng doanh thu, từ đó đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. + Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động chính là đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động, làm cho nó quay được nhiều vòng hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn từ một đồng vốn bỏ ra. Thêm vào đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng góp một phần rất lớn vào việc giảm đi những chi phí huy động những nguồn vốn có chi phí cao vào sử dụng, từ đó giảm tối đa được chi phí sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + Vốn lưu động được sử dụng hợp lí, có hiệu quả còn góp phần cải thiện tình hình thanh toán cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng chi trả cho các khoản nợ vay. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay vốn của ngân hàng hay của các đối tượng khác để bù đắp phần thiếu hụt của đơn vị mình dẫn đến một thực trạng là riêng số tiền lãi phải trả hàng năm đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì những lí do trên mà mỗi doanh nghiệp phải tiến hành thường xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động thông qua các chỉ tiêu như vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, hệ số nợ ...Cho đến nay, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu và tính tất yếu khách quan của nó trong việc nâng cao sức cạnh tranh và góp phần làm tăng mức doanh lợi cho doanh nghiệp, tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Chương 2 thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Tổng công ty chè việt nam I. Tổng quan về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty chè Việt Nam. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty. Cây chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng nhiều ở vùng trung du miền núi và qua thời gian nó đã giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu cây trồng ở nước ta. Sản xuất, chế biến chè trong nhiều năm qua đã giải quyết công ăn việc làm cho gần 1 triệu lao động, đáp ứng được nhu cầu về chè uống cho nhân dân, đồng thời còn là một trong số các mặt hàng xuất khẩu chiến lược của nước ta, kim nghạch xuất khẩu chè đạt hàng chục triệu USD mỗi năm. Năm 1974, Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất các nhà máy chè xuất khẩu của Trung ương và một số xí nghiệp chè hương ở miền Bắc. Nhiệm vụ của Liên hiệp chè là chế biến chè xuất khẩu theo kế hoạch do Nhà nước giao. Năm 1979, Chính phủ ra quyết định 75/TTg và 224/TTg về thống nhất tổ chức nghành chè, hợp nhất hai khâu trồng chọt và chế biến giao cho các nông trường chè thuộc Liên hiệp các xí nghiệp nông công nghiệp chè Việt nam. Căn cứ theo văn bản số 5826/ĐMDN ngày 13/10/1995 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ NN&CNTP(nay là Bộ NN&PTNT) và uỷ quyền ký quyết định thành lập các Tổng công ty theo quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 29/12/1995 Bộ trưởng Bộ NN&PTNT ra quyết định số 394/NNTCCB/QĐ thành lập Tổng công ty chè Việt nam trên cơ sở sắp xếp lại các doanh nghiệp thuộc Liên hiệp các xí nghiệp nông công nghiệp chè Việt nam. Tổng công ty chè Việt nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Tea Coporation (Vinatea Corp) trụ sở chính đặt tại 46 Tăng Bạt Hổ – Hai Bà Trưng – Hà nội. Tài khoản VND số 361-111 004 020, tài khoản ngoại tệ số 362 111 004 020 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Tổng công ty chè Việt Nam chính thức đi vào hoạt động vào tháng 6/1996 với quy mô ban đầu là 28 đơn vị thành viên, tổng số lao động là 22.500 cán bộ công nhân viên. Hình thức hoạt động của Tổng công ty chè Việt nam là kinh doanh xuất nhập khẩu và đầu tư sản xuất. Lĩnh vực kinh doanh của Tổng công ty là hàng nông sản, chè, vật tư, máy móc, thiết bị, hàng tiêu dùng. Từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ đến nay một số đơn vị thành viên đã được cổ phần hoá. Cho đến nay, Tổng công ty có 30 đơn vị , trong đó có 4 công ty hạch toán độc lập, 14 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 7 công ty cổ phần, 3 công ty liên doanh và 2 đơn vi sự nghiệp với tổng số cán bộ công nhân viên là 18.500 người. 2. Vai trò của Tổng công ty Chè Việt Nam trong sự nghiệp phát triển ngành chè. Tổng công ty chè Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sản xuất và chế biến chè lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Nếu tính từ năm 1956, khi Nhà máy chè Phú Thọ được Liên Xô (cũ) giúp đỡ xây dựng thì đến nay Tổng công ty đã có gần 50 năm hình thành và phát triển. Gần 50 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các thế hệ cán bộ, công nhân viên toàn Tổng công ty đã làm hết sức mình để xây dựng Tổng công ty nói riêng và Ngành Chè Việt Nam nói chung. Vì vậy có thể khẳng định rằng những kết quả mà Ngành Chè Việt Nam đạt dược hôm nay có sự đóng góp to lớn của Tổng công ty chè Việt Nam. Vai trò của Tổng công ty không chỉ ở quá khứ hay hiện tại mà còn ở cả tương lai của Ngành Chè Việt Nam. - Vai trò của Tổng công ty Nhà nước trong lĩnh vực thị trường: Tổng công ty chè Việt Nam kể từ ngày thành lập cho đến nay đã và đang hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Tổng công ty hiện có quan hệ với hơn 100 công ty mua bán chè trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Sản phẩm chè Việt Nam đã được Tổng công ty xuất khẩu sang 49 nước và đang tiếp tục mở rộng nhiều hơn nữa. - Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp vào vùng sâu, vùng xa: ở các tỉnh Trung du, Miền núi và các khu vực vùng sâu, vùng xa hiện điều kiện cơ sở hạ tầng rất thấp kém, dân trí còn lạc hậu, đời sống của bà con dân tộc còn rất nhiều khó khăn nên chưa hấp dẫn được nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Trong điều kiện như vậy, Tổng công ty phải đứng ra lãnh trách nhiệm này. Trong thời gian qua Tổng công ty chè Việt Nam đã tự bỏ vốn đầu tư hoặc liên doanh với nhiều doanh nghiệp nước ngoài để thu hút vốn đầu tư xây dựng nhiều nhà máy ở vùng sâu, vùng xa. - Vai trò của Tổng công ty Nhà nước trong lĩnh vực quản lý, khoa học và công nghệ, Tổng công ty chè Việt Nam đã, đang và sẽ đảm nhận các nhiệm vụ sau: + Giúp các tỉnh quy hoạch và xây dựng các dự án đầu tư phát triển chè. + Xây dựng, phổ biến hướng dẫn quy trình khai hoang, xây dựng đồng ruộng, trồng, chăm sóc, thu hái và bảo quản chè phù hợp với điều kiện nông hoá thổ nhưỡng và khí hậu của mỗi vùng. + Cung cấp giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt cho các địa phương trồng chè. + Hướng dẫn lựa chọn công nghệ, thiết bị, quy hoạch nhà xưởng. Đào tạo công nhân công nghệ, cán bộ kỹ thuật chế biến cho các nhà máy sản xuất chè thuộc mọi thành phần kinh tế. 3. Cơ cấu tổ chức và nội dung hoạt động. Tổng công ty chè Việt nam là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước. Tổng công ty chịu sự quản lý của Nhà nuớc, của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ Uỷ ban Nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời chịu sự quản lý của các cơ quan này với tư cách là cơ quan thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước theo luật doanh nghiệp nhà nước và các quy định khác của pháp luật. - Hội đồng quản trị : Hội đồng quản trị thực hiện trức năng quản lý hoạt động của Tổng công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao. Hội đồng quản trị có 5 thành viên do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm. Tiêu chuẩn của các thành viên Hội đồng quản trị được quy định tại Điều 32 Luật Doanh nghiệp nhà nước. - Ban kiểm soát : Ban kiểm soát có 5 thành viên, trong đó 1 thành viên Hội đồng quản trị làm trưởng ban theo sự phân công của Hội đồng quản trị và 4 thành viên khác do Hội đồng quản trị quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỉ kuật. + Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên Tổng công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật. + Báo cáo Hội đồng quản trị theo định kỳ hàng quý, hàng năm và theo vụ việc về kết quả kiểm tra, giám sát của mình, kịp thời báo cáo ngay Hội đồng quản trị về những hoạt động không bình thường, có dấu hiệu phạm pháp trong Tổng công ty. - Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc: + Tổng giám đốc do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty. Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng công ty. + Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty theo sự phân công của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện. + Kế toán trưởng Tổng công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng công ty. + Văn phòng và các phòng ban hoặc chuyên môn, nghiệp vụ của Tổng công ty có chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành công việc. Quan hệ giữa các phòng ban là quan hệ phối hợp, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Phòng kế hoạch đầu tư: Tham mưu cho Tổng giám đốc về các lĩnh vưc, chiến lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch SXKD đầu tư và phát triển hợp tác Quốc tế. - Phòng hợp tác đối ngoại: Quản lý các doanh nghiệp mà Tổng công ty có vốn đầu tư, theo dõi thị trường nước ngoài. - Phòng kỹ thuật công nghiệp: Tham mưu cho Tổng giám đốc về Khoa học-kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp nhằm đẩy nhanh sự phát triển khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm chè. - Phòng kỹ thuật nông nghiệp: Tham mưu cho Tổng giám đốc về Khoa học-kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, các giải pháp quản lý nhằm đẩy nhanh sự phát triển của SX chè và nâng cao chất lượng chè búp tươi. - Phòng Sản phẩm - KCS: Quản lý về mặt nghiệp vụ đối với KCS của các đơn vị trực thuộc Tổng công ty. Phúc tra chất lượng sản phẩm sau nhập kho tại Xí nghiệp tinh chế Kim Anh và Công ty chè Hải Phòng. Phối hợp với phòng kỹ thuật Công nghiệp chỉ đạo uốn nắn quy trình sản xuất của đơn vị khi phát hiện thấy sản phẩm có khuyết tật. - Phòng tổ chức lao động: Tham mưu và giúp việc cho Tổng giám đốc về các lĩnh vực : Tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tổ chức cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo cán bộ và công nhân. - Phòng kế toán-tài chính: Tham mưu và giúp việc cho Tổng giám đốc về lĩnh vưc Kế toán-Tài chính trong mọi hoạt động SXKD của toàn Tổng công ty. - Phòng Thông tin Lưu trữ: Thông tin các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong Tổng công ty, quản lý và lưu trữ tài liệu, thông báo các chủ trương đường lối của lãnh đạo Tổng công ty đến người làm chè. - Phòng Pháp chế Thanh tra: Kiểm tra giám sát các văn bản mà các phòng ban đưa ra. - Văn phòng Tổng công ty: Tham mưu và giúp việc cho Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị về các lĩnh vực hoạt động văn phòng của cơ quan Tổng công ty. - Ban Thi đua: Tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng cho các đơnvị, cá nhân trong toàn Tổng công ty. Tổng công ty có các công ty thành viên hạch toán độc lập, công ty hạch toán phụ thuộc và các đơn vị sự nghiệp. Tổng công ty giao vốn, tài nguyên và các nguồn lực khác cho các đơn vị thành viên trên cơ sở vốn và nguồn lực Nhà nước giao cho Tổng công ty phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh của từng đơn vị thành viên và phương án kinh doanh được Hội đồng quản trị phê duyệt. Các đơn vị thành viên chịu trách nhiệm trước Tổng công ty và Nhà nước về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực được giao. Doanh thu, chi phí, lợi nhuận của Tổng công ty là tổng hợp doanh thu, chi phí, lợi nhuận của các đơn vị thành viên hạch toán độc lập và từ phần hạch toán tập trung của Tổng công ty. Kinh phí hoạt động của bộ máy quản lý và điều hành của Tổng công ty được huy động từ các đơn vị thành viên và một phần từ kinh doanh trực tiếp của Tổng công ty. Các doanh nghiệp thành viên được hạch toán khoản kinh phí này vào trong giá thành sản phẩm hoặc chi phí lưu thông. Các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập hàng tháng, quý phải báo cáo thường xuyên tình hình thực hiện kế hoạch, 6 tháng và hàng năm phải lập báo cáo quyết toán tài chính gửi về Tổng công ty và cơ quan quản lý tài chính theo quy định. Các doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo phân cấp của Tổng công ty. Phó TGĐ Phòng thông tin lưu trữ. Hội đồng quản trị Ban Kiểm soát Tổng giám đốc Phòng kỹ thuật nông nghiệp. Phó TGĐ Phòng xây dựng cơ bản. Phòng pháp chế thanh tra. Phó TGĐ Phòng kế hoạch đầu tư. Phòng KCS. Phòng kỹ thuật công nghiệp. Phòng hợp tác đối ngoại. Phòng tổ chức lao động. Phòng kế toán-tài chính. Ban thi đua Văn phòng TCT. Các công ty trực thuộc (14 ) Các công ty hạch toán độc lập (2) Viện điều dưỡng Đồ Sơn. Viện nghiên cứu chè. Sơ đồ 4: Mô hình tổ chức của Tổng công ty chè Việt nam 4. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Tổng công ty ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Trong suốt mất chục năm qua ở các tỉnh Trung du và miền núi nước ta đặc biệt là các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, đã tìm tòi và trồng thử nghiệm rất nhiều loại cây khác nhau, song thực tế chỉ có cây chè là một trong số ít cây công nghiệp còn trụ lại được. Giờ đây, cây chè đã khẳng định là cây có giá trị kinh tế xã hội cao ở Việt nam. Vì vậy, nó giữ vị trí không kém phần quan trọng trong nền Kinh tế Quốc dân. Không giống như các loại sản phẩm khác, sản phẩm chè ngay từ lúc được hái, lá chè trong vòng 8 tiếng phải được dưa ngay vào chế biến nếu để lâu hơn thì lá chè sẽ bị lên men và sẽ không đảm bảo chất lượng. Quy trình công nghiệp chế biến chè cũng mang tính liên tục, khi lá chè được đưa vào chế biến thì không thể dừng lại ở một công đoạn nào, nếu bị dừng lại sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu tới chất lượng sản phẩm sau này. Nhiên liệu búp tươi chủ yếu mua của nông dân hoặc của công nhân nhưng đã nhận khoán từ vườn chè 30 – 50 năm. Các công ty thu mua chè búp tươi phải trả tiền ngay và bằng tiền mặt cho người nông dân bởi và đa số các hộ trồng chè đều không có vốn bỏ ra ban đầu. Có khi người thu mua còn phải đầu tư ban đầu về vốn, thuốc sâu, phân bón cho các hộ trồng chè rồi sau đó trừ vào phần sản phẩm thu mua. Ngành công nghiệp chế biến chè là một khâu quan trọng trong quá trình sản xuất, kinh doanh chè. Nó là khâu kết tinh những giá trị quý báu của sản phẩm chè, nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Là cầu nối giữa người nông dân trồng chè với thị trường tiêu thụ. Nó thúc đẩy phát triển trồng chè và tạo điều kiện mở rộng thị trường. Vì chỉ có qua chế biến thì sản phẩm chè mới được người tiêu dùng chấp nhận, phát huy được những đặc tính vốn có và trở thành sản phẩm được tiêu dùng rộng rãi. Theo số liệu điều tra chưa đầy đủ, trên địa bàn 21 tỉnh và thành phố có gần 400 cơ sở sản xuất chế biến chè, đến nay cả nước có 174 xưởng, nhà máy chế biến chè có công suất 5 tấn búp tươi/ ngày trở lên, trong đó có 164 nhà máy chế biến từ chè búp tươi với tổng công suất 1823 tấn búp tươi/ ngày. Năng lực chế biến 273.000 – 280.000 tấn búp tươi/ năm. Ngoài ra, còn có hàng nghìn xưởng chế biến chè bán cơ giới và thủ công quy mô hộ gia đình. Tỷ trọng sản phẩm chè qua công nghiệp chế biến chiếm khoảng 85%, còn 15% là chè được chế biến thủ công. Đến nay chúng ta có đủ các quy mô sản xuất chế biến, vừa và lớn phát triển ở các vùng chè, vùng sâu, vùng xa, đáp ứng sản xuất chế biến hết lượng chè búp tươi sản xuất ra, với đầy đủ các dây chuyền thiết bị của các nước: Liên Xô, ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Với công nghệ chế biến chè đen OTD của Liên Xô, ấn Độ, công nghệ chế biến chè đen CTC ấn Độ, công nghệ chế biến chè xanh Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… đã tạo hàng trăm mặt hàng chè đen, chè xanh, chè ướp hương, ướp hoa, chè hoà tan, chè túi lọc, các loại chè dược liệu, ướp các loại hương vị khác nhau với mẫu mã bao bì đẹp và phong phú. 4.1 Về mặt kỹ thuật. Quy trình kỹ thuật chế biến chè đen phải qua nhiều công đoạn bao gồm cả thủ công và máy móc, do đó nó đòi hỏi sự khéo léo và tỷ mỉ trong từng khâu vì chè rất dễ bị dập nát. Trước năm 1945, người Pháp chỉ nghiên cứu và ứng dụng chế biến chè đen theo phương pháp truyền thống (OTD) của Anh và Hà Lan. Sau năm 1945 bắt đầu sản xuất chè đen mảnh C.T.C tại nhà máy chè Bầu Cạn ở Plâycu và nhà máy chè Lê Minh San ở Bảo Lộc. Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất chè Xuất khẩu Nhập kho thành phẩm Đóng gói Sàng tách Chè sơ chế Sàng Cắt cán Tách râu tơ Sấy Sàng Cắt cán Tách râu tơ Đóng gói Đấu trộn Quạt Sấy Quạt ủ chè Sao hương Đấu trộn SX chè hương nội tiêu sản xuất chè xanh, đen XK Tiêu thụ trong nước Nhập kho thành thành phẩm 4.2 Đặc điểm của nguyên vật liệu. Chất lượng chè là tập hợp các tính chất đặc trưng của sản phẩm chè, nhằm thoả mãn nhu cầu của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29689.doc