Lời mở đầu
Trong nhữnh năm gần đây, cùng với sự đổi mới của cơ chế quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng ở nước ta có nhiều bước phát triển vượt bậc.đóng góp cho sự phát triển này là lỗ lực phấn đấu không ngừng của ngành xây dựng cơ bản, một ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển của đất nước. Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản có tính chất kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật cao, góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát triển của khoa học kỹ thuật,nâng cao đời sống
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động tại Công ty Xây dựng số 18 - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vât chất, tinh thần cho người dân. Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để quản lý - sử dụng vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, chống thất thoát vốn trong điều kiện xây dựng cơ bản trải qua những giai đoạn thời gian thi công kéo dài và địa bàn trải rộng, phức tạp.
Để góp phần giảy quyết vấn đề này và đặc biệt đước sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn , cùng với sự quan tâm, giúp đỡ, chỉ bảo của tập thể cán bộ, nhân viên phòng hành chính tổng hợp, phòng kinh tế kỹ thuật Công ty xây dựng số 18 – Chi nhánh Hà nội. Em đã quyết đinh chọn đề tài ”Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xây dưng số 18 - Chi nhánh Hà nội ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình, với mong muốn vận dụng những kiến thức đã được học ở nhà trường vào nghiên cứu thực tiễn, từ đó phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được cùng những vấn đề còn tồn tại góp phân hòan thiện công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xây dựng số 18-Chi nhánh Hà nội.
Tất cả đựơc tập hợp lại trong ba phần chính của bài luận văn tốt nghiệp của em.
Chương 1: Lý luận chung về quản lý và sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty xây dựng số 18 - Chi nhánh Hà nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xây dựng số 18 - Chi nhánh Hà nội.
Nhân đây em xin tỏ lòng biết ơn các thầy cô giáo, Ban giám hiệu Trường ĐHDL Thăng Long đã tạo điều kiện cho em học tập trong những năm qua.
Danh mục sơ đồ và bảng
Nội dung Trang
I. Sơ đồ
1.1. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh của chi nhánh 33
1.2. Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức sản xuất thi công của chi nhánh 34
II. Bảng biểu
2.1. Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh
trong 2 năm 2000 - 2001 36
2.2.Bảng 2: Kết cấu vốn của chi nhánh năm 2000 - 2001 38
2.3.Bảng 3: Cơ cấu vốn lưu động của chi nhánh năm 2000 - 2001 39
2.4.Bảng 4: Nguồn vốn lưu động của chi nhánh năm 2000 - 2001 42
2.5. Bảng 5: Cơ cấu vốn bằng tiền của chi nhánh 43
2.6. Bảng 6: Cơ cấu vốn trong thanh toán của chi nhánh 44
2.7. Bảng 7: Cơ cấu vốn vật tư hàng hoá của chi nhánh 46
2.8.Bảng 8: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong 2 năm 2000 - 2001 51
2.9. Bảng 9: Các chỉ tiêu các biệt đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn lưu động của chi nhánh trong 2 năm 2000 - 2001 53
2.10: Bảng 10: Tình hình khả năng thanh toán của
chi nhánh trong 2 năm 2000 - 2001 57
Danh mục chữ cái viết tắt
BCTC : Báo cáo tài chính
BQĐN : Bình quân đầu người
CC-DC : Công cụ dụng vụ
CĐKT : Bảng cân đối kế toán
CPSXKDDD : Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
ĐVT : Đơn vị tính
HĐKD : Hoạt động kinh doanh
HĐ ĐTTC : Hoạt động đầu tư tài chính
HĐBT : Hoạt động bất thường
HĐQT : Hội đồng quản trị
LN : Lợi nhuận
NL-VL : Nguyên liệu vật liệu
NSNN : Ngân sách nhà nước
NV : Nguồn vốn
TSLĐBQ : Tài sản lưu động bình quân
TL : Tỷ lệ
VC : Vốn chủ sở hữu
VLĐ :Vốn lưu động
VLĐBQ :Vốn lưu động bình quân
VĐ (VLĐĐK) :Vốn lưu động đầu kỳ
VC(VLĐCK) :Vốn lưu động cuối kỳ.
Chương 1
Lý luận chung về quản lý và sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
i. Khái niệm, phân loại và vai trò của vốn lưu động trong doanh nghiệp.
1. Khái niệm.
Cũng như các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm thì cần phải có đủ ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất đó là: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Trong đó sức lao động là tổng hợp thể lực, trí lực của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất xã hội. Mọi quá trình vận động phát triển sản xuất kinh doanh đều đòi hỏi sức lao động ngày càng có chất lượng cao hơn.
Đối tượng lao động là hết thảy những vật mà con người tác động vào nhằm biến đổi nó phù hợp với mục đích sử dụng. Bao gồm các loại có sẵn trong thiên nhiên như cây gỗ trong rừng nguyên thuỷ, hải sản ngoài biển khơi… và các loại đã qua chế biến như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm… chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm.
Khác với đối tượng lao động, tư liệu lao động là một vật hay một hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người đến đối tượng lao động, làm thay đổi hình thái tự nhiên của nó, biến đối tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu của con người. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật thì được gọi là tài sản lưu động, còn xét về hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để hình thành các tài sản lưu động, doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư nhất định. Vì vậy ta có thể hiểu vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục.
2. Phân loại vốn lưu động.
Phân loại vốn lưu động cần căn cứ vào một số tiêu thức nhất định để sắp xếp vốn lưu động theo từng loại, từng nhóm nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý và mục đích sử dụng. Vì vậy việc phân loại có thể căn cứ vào một số tiêu thức sau:
2.1 Đặc điểm luân chuyển của vốn lưu động.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm luân chuyển của vốn lưu động chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Vì vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh bao gồm:
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất như: Vốn sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, vốn về phí tổn đợi phân bổ.
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ gồm: Vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu đóng gói.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông gồm: Vốn thành phẩm, vốn trong thanh toán, vốn bằng tiền.
Các quá trình trên diễn ra thường xuyên liên tục lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động.
Do các nhà doanh nghiệp sản xuất hoạt động theo phương thức
T - H - SX - H’ - T’ nên hình thái ban đầu của vốn lưu động là tiền tệ rồi chuyển sang hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, nguyên vật liệu được đưa vào chế tạo thành sản phẩm hoặc bán thành phẩm. Kết thúc quá trình vận động, sau khi sản phẩm đã được tiêu thụ vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ. Như vậy vốn lưu động luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác.
Trong các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của vốn lưu động là khác nhau. Chẳng hạn, trong các doanh nghiệp thương mại thì phương thức vận động của vốn là T – H – T’. Do vậy bắt đầu quá trình vận động vốn lưu động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá và kết thúc lại trở về hình thái tiền tệ chứ không qua giai đoạn sản xuất, chế biến.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
* Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn lưu động được phân bổ khắp cả trong và ngoài doanh nghiệp. Nó có liên quan đến tất cả mọi người trong doanh nghiệp và những đối tượng ngoài doanh nghiệp.
* Vốn lưu động được chuyển dịch toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm.
* Vốn lưu động vận động thường xuyên và nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động biến đổi từ hình thái này qua hình thái khác và sau đó sẽ chuyển về hình thái ban đầu. Qua quá trình vận động, vốn lưu động không chỉ biến đổi về hình thái, mà quan trọng hơn nó còn tạo nên sự biến đổi về giá trị.
Những thông tin về sự biến đổi này rất cần thiết cho sự tìm ra phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, mặt khác việc thu hồi vốn lưu động sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh có tác dụng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp vì có thể thu hồi vốn lưu động thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành mua sắm vật tư, thiết bị, trang trải nợ nần phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
2.2 Hình thái biểu hiện của vốn lưu động.
Theo tiêu thức này thì vốn lưu động bao gồm:
- Vốn lưu động vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động biểu hiện bằng hình thái hiện vật hàng hoá cụ thể như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, hàng hoá.
- Vốn lưu động bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn.
ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau, việc phân tích kết cấu vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng, từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua việc thay đổi kết cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau ta có thể thấy được những biến đối tích cực hay những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý vốn lưu động của từng doanh nghiệp.
2.3 Nguồn hình thành vốn lưu động.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung kinh tế, người ta có thể chia làm 2 nguồn hình thành cơ bản sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu
- Nguồn vốn vay ngắn hạn
2.3.1 Nguồn vốn chủ sở hữu.
Đối với một doanh nghiệp, tổng số tiền lớn hay nhỏ là rất quan trọng. Song trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng vốn do doanh nghiệp đang nắm giữ được hình thành từ nguồn nào. Nguồn vốn của doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý và quyền sở hữu của người chủ về các tài sản hiện có của doanh nghiệp vốn chủ sở hữu được tạo nên từ các nguồn sau:
* Vốn ban đầu của chủ sở hữu: Là số tiền đóng góp của các nhà đầu tư người chủ sở hữu doanh nghiệp nó phụ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn chủ sở hữu do nhà nước (hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước.
- Đối với công ty cổ phần: Nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán các cổ phiếu đó.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân: Nguồn vốn này do chủ doanh nghiệp đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp, nên được gọi là vốn tự có.
- Đối với doanh nghiệp liên doanh: Nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp mới.
* Vốn doanh nghiệp tự bổ sung: Là số vốn được bổ sung hàng năm từ lợi nhuận hoặc từ các quỹ của doanh nghiệp. Ngoài ra cần phải kể đến số vốn do các chủ sở hữu bổ sung mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp.
2.3.2 Nguồn vốn tín dụng (vốn vay).
Trong nền kinh tế thị trường, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu nguồn vốn tín dụng vẫn luôn được coi là nguồn vốn quan trọng thường xuyên và hiệu quả đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cả trên lý thuyết cũng như thực tế.
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không những chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn tín dụng được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:
-Vốn tín dụng ngân hàng: Là các khoản vốn mà các doanh nghiệp vay các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hay các tổ chức kinh doanh khác… theo nguyên tắc hoàn trả theo thời gian quy định.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng quan trọng nhất. Nó có quan hệ với các thành phần kinh tế trong xã hội và thoả mãn phần vốn khá lớn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động không chỉ giúp cho doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn về vốn mà còn có tác dụng phân tán rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên để sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả, doanh nghiệp cũng cần phải có những phân tích đánh giá nhiều mặt khi quyết định sử dụng nguồn vốn này, đặc biệt là việc lựa chọn ngân hàng cho vay, khả năng trả nợ và chi phí sử dụng vốn vay từ các ngân hàng.
- Vốn tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá, mua bán trả góp, trả chậm hàng hoá, nguồn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả một nền kinh tế. Quy mô của nguồn vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vào số lượng hàng hoá dịch vụ mua chịu và thời hạn mua chịu của khách hàng. Thời hạn mua chịu càng dài thì nguồn vốn tín dụng thương mại càng lớn.
- Vốn chiếm dụng của các đối tượng khác: Bao gồm các khoản phải trả cán bộ công nhân viên, phải trả thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước nhưng chưa đến hạn phải trả, phải nộp hay các khoản tiền đặc cọc. Mặc dù doanh nghiệp có quyền sử dụng số vốn này vào các hoạt động kinh doanh mà không phải trả lãi, nhưng nguồn vốn này không lớn và không có kế hoạch trước, mà chỉ đáp ứng vốn lưu động tạm thời.
- Vốn do phát hành trái phiếu: Là nguồn vốn doanh nghiệp thu được do phát hành trái phiếu ngắn hạn ra thị trường nhằm thu hút được các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Việc phát hành trái phiếu cho phép phân phối rộng rãi, người vay tránh được các khó khăn và sự giàng buộc của ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể phát hành trái phiếu.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, bằng các hình thức huy động rất đa dạng và phong phú. Mỗi hình thức có ưu điểm, nhược điểm nhất định. Vì vậy các nhà quản trị tài chính cần phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục với chi phí sử dụng vốn thấp nhất.
3. Vai trò của vốn lưu động.
Vốn trong các doanh nghiệp có vai trò quyết định đến việc thành lập, hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất của sự ra đời, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Là một bộ phận không thể thiếu được trong vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, vốn lưu động có những vai trò chủ yếu sau.
Một là: Vốn lưu động giúp cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách liên tục có hiệu quả. Nếu vốn lưu động bị thiếu hay luân chuyển chậm sẽ hạn chế việc thực hiện mua bán hàng hoá, làm cho các doanh nghiệp không thể mở rộng được thị trường hay có thể bị gián đoạn sản xuất dẫn đến giảm sút lơị nhuận gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là: Do đặc điểm của vốn lưu động là phân bố khắp trong và ngoài doanh nghiệp, đồng thời chúng lại chu chuyển nhanh nên thông qua quản lý và sử dụng vốn lưu động, các nhà tài chính doanh nghiệp có thể quản lý toàn diện tới việc cung cấp, sản xuất và phân phối của doanh nghiệp. Chính vì vậy, có thể nói rằng vốn lưu động là một công cụ quản lý quan trọng. Nó kiểm tra, kiểm soát, phản ánh tính chất khách quan của hoạt động tài chính thông qua đó giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu trong kinh doanh như khả năng thanh toán, tình hình luân chuyển vật tư, hàng hoá, tiền vốn, từ đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Ba là: Vốn lưu động là tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại và các doanh nghiệp nhỏ, bởi ở các doanh nghiệp này vốn lưu động chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn, sự sống còn của các doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức, quản lý và sử dụng vốn lưu động. Mặc dù, hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng, sự bất lực của một số công tác trong việc hoạch định và kiểm soát chặt chẽ vốn lưu động và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là nguyên nhân dẫn đến thất bại của họ.
Thứ tư : Vốn lưu động còn là nguồn lực quan trọng để thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh nhằm phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp đưa hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông, giải quyết được mâu thuẫn vốn có giữa sản xuất và tiêu dùng.
Tóm lại, vốn lưu động có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng vốn lưu động như thế nào cho có hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu chung của doanh nghiệp.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất luôn luôn vận động luân chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, do đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động luôn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố trong quá trình vận động đó. Bao gồm:
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức quản lý sản xuất,... các yếu tố này ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Các nhân tố về mặt cung ứng như: khoảng cách giữa các doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung cấp của thị trường, kỳ hạn giao hàng, khối lượng vật tư mỗi lần giao hàng, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư,... tất cả các yếu tố này sẽ tác động đến chi phí vận chuyển, kế hoạch mua hàng, chi phí bảo quản...
- Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng, thủ tục thanh toán, việc chấp hành nguyên tắc thanh toán của khách hàng.
- Các nhân tố về mặt quản lý có vai trò quan trọng trực tiếp quyết định đến hiệu quả sử dụng và kết cấu của vốn lưu động, đồng thời nó cũng tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Các nhân tố về mặt sử dụng: Quá trình mua vật tư không phù hợp với quy trình công nghệ hoặc vật tư không đủ tiêu chuẩn chất lượng không thu hồi được phế liệu. Điều này có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Nhân tố về lạm phát: Do tác động của nền kinh tế luôn tồn tại lạm phát, nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của vật tư hàng hoá sẽ làm cho giá trị vốn lưu động của doanh nghiệp bị giảm theo tốc độ trượt giá của tiền tệ.
- Nhân tố về rủi ro: Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, bình đẳng cạnh tranh và với sức mua thị trường là có hạn thì sẽ luôn tồn tại những rủi ro về thua lỗ cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các rủi ro về thiên tai, địch họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào dẫn đến sự thâm hụt về vốn cho doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng và kết cấu vốn của doanh nghiệp. Vậy doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình, điều kiện sản xuất kinh doanh cụ thể của mình để kiếm chế bớt bất lợi, phát huy ưu thế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
II. Quản lý và sử dụng vốn lưu động
1. Yêu cầu đối với việc quản lý vốn lưu động.
Trong cơ chế hiện nay, vấn đề quản lý vốn kinh doanh là rất cấp thiết và cấp bách đối với doanh nghiệp bởi vì quản lý vốn là khâu quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với vốn lưu động cũng vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì phải quản lý tốt vốn lưu động. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ta không thể không xem xét đến việc quản lý vốn lưu động. Và để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì trong khâu quản lý vốn cần chú ý những vấn đề sau:
Một là: Xác định lượng vốn lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn lưu động, luôn đảm bảo một lượng vốn lưu động cần thiết tối thiểu cho quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi liên tục. Đồng thời, tránh được tình trạng ứ đọng vốn, gây lãng phí nguồn lực, tăng chi phí cho doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn lưu động để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Hai là: Lựa chọn hình thức khai thác huy động vốn lưu động thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, triệt để khai thác các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp. Đồng thời, tính toán huy động vốn bên ngoài như vốn chiếm dụng, vay ngân hàng, phát hành trái phiếu,... một cách hợp lý nhằm hạ thấp chi phí và đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp.
Ba là: Phải luôn có những giải pháp an toàn và phát triển vốn lưu động. Mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng trước đó vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận là phải bảo toàn vốn lưu động.
Bốn là: Thường xuyên tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhằm tăng cường nâng cao hiệu qủa tổ chức sử dụng vốn lưu động, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Năm là: Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt, trước xu thế hội nhập với khu vực và thế giới.
Như vậy, quản lý tốt vốn lưu động sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời áp dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Từ đó, tạo ra khả năng để doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm , hạ thấp chi phí giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đồng thời khai thác được các nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, làm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, giảm bớt nhu cầu vay vốn, giảm bớt chi phí về lãi vay.
2. Nội dung cơ bản của quản lý vốn lưu động.
2.1 Quản lý tiền mặt.
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền mặt trong quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển… Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn phát sinh các khoản thu chi thanh toán ngay bằng tiền mặt, do đó việc dự trữ tiền mặt tại doanh nghiệp là cần thiết và rất quan trọng.
Động cơ chủ yếu của việc nắm giữ tiền mặt trong doanh nghiệp là để làm thông suốt các giao dịch trong kinh doanh cũng như duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm. Ngoài ra,còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu bất thường chưa dự đoán được và động lực đầu cơ trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng sử dụng khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì mức dự trữ tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội thu chiết khấu từ các nhà cung cấp.
Nội dung chủ yếu của việc quản lý tiền mặt bao gồm:
* Xác định số dư tiền mặt mục tiêu:
Số dư tiền mặt mục tiêu bao gồm sự đánh đổi giữa chi phí cơ hội của việc nắm giữ quá nhiều tiền mặt và chi phí giao dịch của việc nắm giữ quá ít tiền mặt.
2*T*F
C*O =
K
William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quản lý tiền mặt chính thức liên kết giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch (C*). Mô hình của ông có thể được dùng để tính toán mức số dư tiền mặt mục tiêu và được xác định bằng công thức:
Trong đó:
C*: Số dư tiền mặt mục tiêu.
T: Tổng nhu cầu về tiền mặt trong một chu kỳ.
F: Chi phí một lần giao dịch.
K: Lãi suất trên thị trường.
Như vậy, nếu doanh nghiệp giữ số tiền mặt ở mức quá thấp, doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán, do đó có thể doanh nghiệp phải bán các tài sản lưu động có tính thanh khoản cao thường xuyên hơn là nếu giữ số tiền mặt cao hơn, điều đó sẽ làm cho chi phí giao dịch tăng lên. Ngược lai, chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt sẽ tăng lên, khi số tiền mặt giữ lại tăng. Do đó, nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải xác định được số dư tiền mặt mục tiêu hay nói cách khác chính là sự cân đối giữa chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt và chi phí giao dịch sao cho tổng chi phí là tối thiểu.* W. S. BAUMAL, “ The transaction demand for cash: An inventory theoric approach”, Quarterly of Economics 66, November, 1952.
* Hoạch định ngân sách tiền mặt:
Ngân sách tiền mặt là một kế hoạch ngắn hạn dùng để xác định nhu cầu chi tiêu và nguồn thu tiền mặt của doanh nghiệp, kế hoạch này thường được xây dựng trên cơ sở quý, tháng, tuần.
Dự đoán nguồn thu tiền mặt bao gồm thu nhập từ hoạt động kinh doanh, nguồn đi vay và các nguồn khác, trong các nguồn thu kể trên, nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh coi là quan trọng nhất, nó được dự đoán dựa trên cơ sở doanh số bán ra và phần trăm doanh số được thanh toán tiền mặt dự kiến trong kỳ.
Dự đoán nhu cầu chi tiêu bao gồm các khoản chi cho sản xuất kinh doanh như mua sắm tài sản, trả lương, các khoản chi cho hoạt động đầu tư theo kế hoạch của doanh nghiệp, các khoản chi trả lãi, nộp thuế và các khoản chi khác.
Trên cơ sở so sánh nhu cầu chi tiêu, doanh nghiệp có thể thấy được mức thăng dư hay thâm hụt ngân quỹ. Từ đó thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi ngân sách như tăng tốc độ thu hồi công nợ hoặc giảm tốc độ xuất quỹ nếu có thể thực hiện được, hoặc khéo néo sử dụng các khoản nợ đến thời hạn thanh toán.
* Đầu tư tiền nhàn rỗi: Hầu hết các công ty lớn quản lý tài sản tài chính ngắn hạn của mình và giao dịch thông qua ngân hàng và các trung gian. Do đó, nếu công ty có dư thừa tiền mặt tạm thời, công ty có thể đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn. Các loại chứng khoán có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt cao là những công cụ tài chính được mua bán trên thị trường tiền tệ hay thị trường vốn có tính linh hoạt rất cao. Việc đầu tư vào các loại chứng khoán này có vai trò như một bước đệm cho quản lý tiền mặt, khi lượng tiền mặt của doanh nghiệp giảm thấp hơn mức ấn định, các loại chứng khoán này được dùng để chuyển đổi nhanh thành tiền mặt. Ngược lại, tiền nhàn rỗi có thể được đầu tư tạm thời vào các loại chứng khoán này. Tuy nhiên, khi đầu tư vào các loại chứng khoán cần xem xét kỹ các đặc tính như tính thanh khoản, tính rủi ro, thời gian đáo hạn, lợi nhuận kỳ vọng.
Để thực hiện các nội dung quản lý tiền mặt nói trên doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp như:
- Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt
- Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt
Trong đó tăng tốc độ thu hồi tiền mặt có thể được thực hiện thông qua việc khuyến khích khách hàng thanh toán sớm với việc áp dụng chính sách chiết khẩu đối với các khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn, quy định phương thức thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng tổ chức theo dõi và đôn đốc thu hồi công nợ.
Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt là việc thay vì dùng tiền thanh toán sớm các hoá đơn mua hàng, người quản lý tài chính có thể trì hoãn việc thanh toán trong phạm vi thời gian và các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự suygiảm vị thế tín dụng của doanh nghiệp thấp hơn những lợi ích cho việc thanh toán chậm mang lại.
2.2 Quản lý các khoản phải thu, phải trả.
Việc chiếm dụng vốn lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một nét đặc trưng trong quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, thậm chí còn được coi là một “sách lược” trong kinh doanh trên thị trường. Các khoản phải thu chính là số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng, các khoản phải trả là số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng.
Độ lớn các khoản phải thu, phải trả phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ thu hồi hay trả công nợ cũ, tốc độ tạo ra nợ mới và sự tác động của các yếu tố chung nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp như chu kỳ suy thoái của nền kinh tế, khủng hoảng tiền tệ… Doanh nghiệp đặc biệt chú ý tới các nhân tố mà mình có thể kiểm soát được, tác động lớn tới chất lượng của các khoản phải thu, phải trả. Đó là chính sách tín dụng.
* Chính sách tín dụng:
Khi thực hiện các chính sách tín dụng, doanh nghiệp cần lưu ý các điểm sau:
- Phải xác định được các tiêu chuẩn tín dụng tức là sức mạnh tài chính tối thiểu mà có thể chấp nhận được các khoản mua và bán chịu
- Chiết khấu tiền mặt: Là việc nhằm khuyến khích khách hàng trả tiền sớm bằng cách thực hiện việc giảm giá đối với các trường hợp mua hàng bằng tiền mặt hoặc trả tiền trước thời hạn.
- Thời hạn bán chịu: Là độ dài thời gian của các khoản tín dụng.
- Chính sách thu tiền và biện pháp xử lý với các khoản tín dụng quá hạn.
Các yếu tố trên tác động mạnh mẽ đến doanh thu bán hàng của doanh nghiệp, chẳng hạn doanh thu sẽ có xu hướng tăng lên khi các tiêu chuẩn tín dụng được lới lỏng, tỷ lệ chiết khấu tăng, thời gian bán chịu dài và phương thức thu tiền bớt gắt gao. Tuy nhiên, trong việc thiết lập chính sách tín dụng và tổ chức thực hiện nó, người làm công tác quản lý tài chính phải xác minh được phẩm chất tín dụng của khách hàng trên cơ sở đó thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng thích hợp, bởi nếu các tiêu chuẩn tín dụng quá cao có thể loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng do đó làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, nếu tiêu chuẩn tín dụng quá thấp sẽ làm tăng doanh số bán nhưng đồng thời cũng làm cho rủi ro tín dụng tăng, gia tăng các khoản nợ khó đòi, chi phí thu tiền tăng lên.
* Theo dõi các khoản phải thu, phải trả:
Người làm công tác quản lý tài chính phải theo dõi thường xuyên các khoản phải thu nhằm xác định đúng thực trạng của chúng và đánh giá đúng tính hữu hiệu của chính sách thu tiền của doanh nghiệp, kịp thời phát hiện các khoản tín dụng có vấn đề để có biện pháp giải quyết thích ứng. Để theo dõi các khoản phải thu, phải trả có thể sử dụng các công cụ sau đây.
- Kỳ thu, trả tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu, kỳ trả tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để doanh nghiệp trả các khoản phải trả, được xác định theo công thức:
= 365
Vòng quay các khoản phải thu
= 365*Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh thu thuần (Trong kỳ)
Kỳ thu tiền bình quân._.
= 365
Vòng quay các khoản phải trả
= 365 * Số dư bình quân các khoản phải trả
Giá vốn hàng bán (Trong kỳ)
Kỳ trả tiền bình quân
Mục tiêu trong quản lý các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp là “thu sớm và trả muộn”. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp thành công trong việc thực hiện như trên, khách hàng và nhà cung cấp bị thiệt, và sự đánh đổi ở đây chính là sự tác động đối với mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác trên. Cho nên, kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có kết luận chắc chắn là tốt hay xấu mà còn phải xem xét lại mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như mở rộng thị trường, chính sách tín dụng, quan hệ khách hàng…
- Phân tích tuổi của các khoản phải thu: Phương pháp này dựa trên thời gian biểu về tuổi của các khoản phải thu tức là khoảng thời gian có thể thu được tiền của các khoản phải thu để phân tích. Sự phân tích theo phương pháp này có tác dụng rất hữu hiệu, nhất là khi các khoản phải thu được xem xét dưới góc độ sự biến động về thời gian. Nó cho phép tạo ra một phương pháp theo dõi hiệu quả đối với các khoản phải thu, tất nhiên, phương pháp này có hạn chế là nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của doanh số bán theo thời vụ. Khi doanh thu bán thay đổi thất thường, biểu thời gian sẽ cho thấy sự thay đổi rất lớn mặt dù mô hình thanh toán không thay đổi.
- Mô hình số dư các khoản phải thu: Phương pháp này đo lường phần doanh số bán chịu của mỗi tháng vẫn chưa thu được tiền tại thời điểm cuối tháng đó và tại thời điểm kết thúc của tháng tiếp theo. Ưu điểm của mô hình này so với mô hình phân tích tuổi của các khoản phải thu là nó hoàn toàn không chịu sự tác động của yếu tố thời vụ mức biến động của doanh số bán không ảnh hưởng tới sự phân bổ hợp lý những khoản nợ tồn đọng theo thời gian.
2.3 Quản lý hàng tồn kho.
Hàng tồn kho là những tài sản mà doanh nghiệp lưu trữ để sản xuất hoặc bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp, hàng tồn kho dự trữ thường ở 3 dạng:
- Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ
- Các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm
- Các thành phẩm, hàng hoá chờ tiêu thụ
Quản lý hàng tồn kho bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý các hoạt động nhằm vào nguyên vật liệu, hàng hoá đi vào, đi qua và đi ra khỏi doanh nghiệp. Quản lý hàng tồn kho dự trữ trong các doanh nghiệp là rất quan trọng bởi vì nếu dự trữ không hợp lý sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị giám đoạn, hiệu quả kém. Việc quản lý hàng tồn kho có hiệu qủa phải đạt được 2 mục tiêu sau:
- Mục tiêu an toàn: Đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có một khối lượng hàng hóa dự trữ đủ để đảm bảo sản xuất và bán ra thường xuyên, liên tục.
- Mục tiêu kinh tế: Đảm bảo chi phí cho dự trữ là thấp nhất.
Để kết hợp hài hoà giữa hai mục tiêu này, nhà kinh tế Ford. W. Harris đã đề xuất mô hình EOQ (Economic Order Quantity Model) áp dụng trong quản lý hàng tồn kho để tối thiểu hoá chi phí hàng tồn kho và tối đa hoá an toàn trong cung ứng, đã được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng. Mô hình này giả thiết rằng:
- Một lượng hàng hoá như nhau được đặt tại mỗi thời điểm đặt hàng lại.
- Các nhà quản lý chỉ quan tâm tới chi phí bảo quản và chi phí đặt hàng là những chi phí chịu ảnh hưởng bởi số lượng hàng tồn kho.
Theo lý thuyết về mô hình này thì số lượng hàng đặt hiệu quả là: EOQ = Q* = 2*S*O
C
Trong đó :
EOQ: Số lượng hàng đặt hiệu quả.
S: Tổng nhu cầu về hàng lưu kho trong một năm
O: Chi phí một lần đặt hàng
C: Chi phí bảo quản một đơn vị hàng hoá trong năm
Vậy mức dữ trữ trung bình tối ưu là: Q*/2
Theo giả thuyết của mô hình thì nhu cầu và thời gian đặt hàng là xác định. Tuy nhiên thực tế không phải như vậy, dự trữ an toàn được sử dụng như là một lớp đệm chống lại sự gia tăng bất thường của nhu cầu hay thời gian mua hàng hoặc tình trạng không sẵn sàng cung cấp. Dự trữ an toàn là mức tồn kho hay dữ trữ tồn kho ở mọi thời điểm, ngay cả khi lượng tồn kho được xác định theo mô hình EOQ.
Vậy dự trữ trung bình tối ưu thực tế là:
Q* + Dự trữ an toàn thực tế
2
Như vậy, việc quản lý và sử dụng vốn lưu động là 2 vấn đề không thể tách rời nhau, nếu quản lý tốt thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ cao và ngược lại. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động doanh nghiệp phải quản lý vốn lưu động một cách khoa học, có hiệu quả.
III. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh tới số vốn lưu động bỏ ra trong kỳ. Với việc cụ thể hoá kết quả kinh doanh và sử dụng vốn lưu động bằng các chỉ tiêu sát thực, doanh nghiệp sẽ đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách đúng đắn và khách quan, sau đây chúng ta xem xét lần lượt các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời.
1.1. Hệ số sinh lời:
Hệ số sinh lời của vốn lưu động hay còn gọi là mức doanh lợi vốn lưu động phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lời vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả. Hệ số sinh lời vốn lưu động có thể tính theo công thức sau:
HSL = Lợi nhuận
VLĐbq
Trong đó:
HSL : Hệ số sinh lời vốn lưu động
VLĐbq : Vốn lưu động bình quân trong kỳ
VLĐbq = VLĐĐK + VLĐCK
2
Trong đó: VLĐĐK: Số vốn lưu động đầu kỳ
VLĐCK: Số vốn động cuối kỳ
Các chỉ tiêu trên đây dùng để phản ánh tình hình sử dụng vốn lưu động là tiết kiệm hay lãng phí, hiệu quả hay không hiệu quả. Dựa vào các chỉ tiêu này, người ta có thể đánh giá khái quát về tình hình sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
1.2. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động được xác định bằng công thức:
HĐN = VLĐBQ
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển.
Sử dụng hợp lý, hiệu quả vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm, việc nâng cao tốc độ chu chuyển vốn lưu động có ý nghĩa to lớn vì với một số vòng không tăng nhưng có thể hoàn toàn tăng nhanh doanh số bán ra. Nó chính là điều kiện cơ bản để tăng thu nhập, lợi nhuận, tiết kiệm vốn lưu động và cũng là nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được thể hiện bằng số vòng quay và số ngày của một vòng chu chuyển vốn lưu động.
2.1 Số vòng quay vốn lưu động.
Số vòng quay vốn lưu động phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động được thể hiện trong một thời kỳ nhất định thường tính trong một năm. Công thức tính như sau:
V = Doanh thu thuần (trong kỳ)
VLĐBQ
Trong đó:
V: Số lần luân chuyển của vốn lưu động trong kỳ
Số lần luân chuyển càng lớn thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
2.2 Thời gian trung bình một vòng luân chuyển vốn lưu động.
Số ngày trung bình của một vòng luân chuyển vốn lưu động phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động, kỳ luân chuyển vốn lưu động càng ngắn thì càng tốt và ngược lại.
Công thức được xác định như sau:
K = 365 = 365*VLĐBQ
V Doanh thu thuần (trong kỳ)
Trong đó:
K: Thời gian trung bình một vòng luân chuyển vốn lưu động.
3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành vốn lưu động.
Để đánh giá một cách chính xác hơn, cặn kẽ hơn về hiệu quả sử dụng vốn lưu động chúng ta hãy lần lượt phân tích từng khoản mục cụ thể cấu thành lên vốn lưu động của doanh nghiệp:
3.1 Vòng quay các khoản phải thu.
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu của doanh nghiệp thành tiền mặt và được xác định bằng công thức:
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần (vòng)
Số dư bình quân các khoản phải thu
Trong đó:
Số dư bình quân Số dư các khoản + Số dư các khoản
các khoản phải thu = phải thu đầu kỳ phải thu cuối kỳ
2
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thể hiện rằng doanh nghiệp thu hồi càng nhanh các khoản nợ. Điều đó được đánh giá là tốt vì vốn bị chiếm dụng giảm.
3.2 Kỳ thu tiền bình quân được xác định bằng công thức.
Kỳ thu tiền bình quân = 365 (ngày)
Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân càng ngắn thể hiện chính sách thu hồi công nợ của doanh nghiệp có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu kỳ thu tiền bình quân mà quá ngắn nghĩa là phương thức tín dụng quá hạn chế, có thể sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, bởi lẽ trong thời đại “Khách hàng là thượng đế” hiện nay việc mua bán chịu là một tất yếu khách quan và khách hàng luôn mong muốn thời hạn trả tiền được kéo dài thêm.
3.3 Kỳ trả tiền bình quân.
Kỳ trả tiền bình quân thể hiện số ngày bình quân của một lần doanh nghiệp đã trả cho các khoản nợ ngắn hạn từ việc mua bán chịu hàng hoá được thể hiện bằng công thức:
Kỳ trả tiền bình quân = 365 (ngày)
Vòng quay các khoản phải trả
= 365 * Số dư bình quân các khoản phải trả
Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp
Những nhà quản lý doanh nghiệp luôn mong muốn kỳ trả tiền bình quân dài, nghĩa là khả năng đi chiếm dụng vốn từ các doanh nghiệp, cá nhân khác sẽ tăng. Tuy nhiên, không phải kỳ trả tiền bình quân càng dài càng tốt, vì khi đó khách hàng và nhà cung cấp bị thiệt, và sự đánh đổi ở đây chính là tác động đối với mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác trên.
3.4 Thời gian quay vòng hàng tồn kho.
Thời gian quay vòng hàng tồn kho phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho, thời gian quay vòng hàng tồn kho càng ngắn thì số vòng quay hàng tồn kho càng lớn, chứng tỏ việc kinh doanh càng có hiệu quả, công thức xác định như sau:
Vòng quay hàng lưu kho = Giá vốn hàng bán (vòng)
Hàng lưu kho trung bình
Số ngày bình quân của = 365 (ngày)
một vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng lưu kho
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho càng ngắn (hay hệ số doanh số lưu kho cao) thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Song, trong quá trình phân tích đánh giá, cần xem xét một cách cụ thể những yếu tố khác có liên quan, như phương thức bán hàng vận chuyển thẳng hoặc bán giao tay ba nhiều, thì hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao hoặc nếu duy trì mức tồn kho thấp cũng sẽ làm cho số ngày một vòng quay hàng tồn kho thấp nhưng cũng sẽ làm cho khối lượng tỉêu thụ hàng hoá sẽ bị hạn chế hơn.
3.5 Thời gian quay vòng tiền mặt (C.C.C).
Vòng quay tiền mặt là khoản thời gian bắt đầu từ khi trả tiền mặt cho nguyên vật liệu và kết thúc khi thu được tiền mặt từ các khoản phải thu và được xác định bằng công thức:
= Doanh thu thuần
Vốn bằng tiền + Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Vòng quay tiền mặt
Các doanh nghiệp luôn mong muốn có vòng quay tiền mặt ngắn vì khi đó số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ cho một hiệu quả cao hơn từ đó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều đó buộc các doanh nghiệp phải có chính sách quản lý tín dụng cấp cho khách hàng chặt, đồng thời tăng khả năng chiếm dụng vốn của khách hàng. Nhưng quan hệ của doanh nghiệp là mối quan hệ giữa các đối tác, khách hàng và nhà cung cấp nên khi doanh nghiệp có lợi thì nhất định các đối tác bị thiệt hại, điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt tới các mối quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường.
4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán.
Các hệ số này đo lường khả năng đáp ứng các ràng buộc pháp lý về tài chính của doanh nghiệp (nghĩa là thanh toán các khoản nợ ngắn hạn). Khi doanh nghiệp có đủ tiền, doanh nghiệp sẽ tránh được việc vi phạm các ràng buộc pháp lý về tài chính và vì thế tránh được nguy cơ chịu các áp lực về tài chính. Khả năng thanh khoán kế toán đo lường, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và nó thường liên quan đến vốn lưu động ròng, chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn.
Để tính toán khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng một số phương pháp cụ thể như : hệ số thanh toán hiện thời, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán bằng tiền.
4.1 Hệ số thanh toán hiện thời (CR).
Hệ số thanh toán hiện thời phản ánh mối quan hệ giữa tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn. Nó thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn và được xác định bằng công thức:
CR = TSLĐBQ
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán hiện thời cao sẽ phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp là tốt. Tuy nhiên, không phải hệ số này càng cao là càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động lớn bị tồn chữ, làm việc sử dụng tài sản lưu động không hiệu quả, vì bộ phận này không sinh lời. Do đó tính hợp lý của hệ số thanh toán hiện thời còn phụ thuộc vào từng ngành nghề, góc độ của người phân tích cụ thể.
4.2 Hệ số thanh toán nhanh (QR).
= TSLĐBQ - Hàng lưu kho
Tổng nợ ngắn hạn
QR
Hệ số thanh toán nhanh đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu động trước các khoản nợ ngắn hạn. Trong tài sản lưu động của doanh nghiệp hiện có thì vật tư hàng hoá có tính thanh khoán thấp nhất, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy khi xác định hệ số thanh toán nhanh người ta đã trừ phần hàng tồn kho ra khỏi tài sản đảm bảo thanh toán nhanh và được thể hiện bằng công thức:
Cũng như hệ số thanh toán hiện thời, độ lớn hay nhỏ của hệ số này còn tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh cụ thể thì mới có thể kết luận là tích cực hay không tích cực. Tuy nhiên nếu hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán công nợ.
4.3 Hệ số thanh toán bằng tiền (tức thời).
Hệ số thanh toán tức thời = Tiền mặt
Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nợ ngắn hạn thì hiện tại doanh nghiệp có bao nhiêu đơn vị tiền tệ tài trợ cho nó. Nếu chỉ tiêu này cao phản ảnh khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là tốt, nếu chỉ tiêu này mà thấp thì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là chưa tốt. Tuy nhiên, khó có thể nói cao hay thấp ở mức nào là tốt và không tốt. Vì nó còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh hoặc góc độ của người phân tích .
Như vậy có thể nói, việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tài chính của doanh nghiệp. Bởi vì nó không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận mà còn liên quan đến việc thu hút các nguồn lực cho doanh nghiệp.
VI. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là phát triển. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp luôn cần nỗ lực hết sức phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà trong đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có vị trí quan trọng hàng đầu.
Việc sử dụng vốn lưu động hiệu quả luôn gắn liền với lợi ích và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là vấn đề có tính cấp thiết đối với sự tồn tại của doanh nghiệp và là một tất yếu khách quan mà doanh nghiệp cần đạt được. Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động kém hiệu quả sẽ làm tốc độ luân chuyển chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp ở mức nghiêm trọng hơn hiện tượng này rất dễ dẫn đến thất thoát vốn và ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất. Quy mô vốn giảm khiến cho chu kỳ sản xuất sau thu hẹp hơn so với chu kỳ trước. Tình trạng trên nếu kéo dài liên tục thì chắc chắn doanh nghiệp không thể đứng vững được trên thị trường.
Với ý nghĩa như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hết sức cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Vì vốn lưu động là một bộ phận cấu thành nên tổng nguồn vốn của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng tài trợ cho tài sản lưu động, là công cụ để thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo cho sự hoạt động nhịp nhàng cân đối, củng cố và tăng cường công tác kế hoạch hoá cũng như việc hạch toán kinh tế và đẩy mạnh thi đua sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả, hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Nhằm phát huy được những mặt mạnh, giảm thiểu những mặt tiêu cực tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đòi hỏi các nhà quản lý phải nắm bắt được các nhân tố tác động đó.
2.1 Nhân tố khách quan.
Bao gồm các nhân tố:
* Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh: đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh nghiệp làm nhiệm vụ sản xuất khác doanh nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông, doanh nghiệp có tính chất thời vụ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động khác với doanh nghiệp không mang tính thời vụ.
Chu kỳ sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu sử dụng vốn lưu động và khả năng tiêu thụ sản phẩm do đó cũng ảnh hưỏng tới hiệu qủa vốn lưu động. Những doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh ngắn thì nhu cầu vốn lưu động thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng. Điều đó giúp doanh nghiệp dễ dàng trang trải các khoản nợ nần, đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh do đó nó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài thì nhu cầu vốn lưu động thường biến động lớn, tiền thu bán hàng không đều, tình hình thanh toán chi trả gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chính vì vậy các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tình hình thực tế để đề ra kế hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
* Thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm: Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động và nó càng có ý nghĩa hơn trong điều kiện nến kinh tế thị trường hiện nay, khi mà chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng dư cung ở tất cả mọi ngành, mọi lĩnh vực, cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường. Điều đó đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải tiến hành phân tích thị trường xác định đúng đắn mức cầu về sản phẩm, hàng hoá và xem xét đến các yếu tố cạnh tranh. Đồng thời căn cứ vào tình hình hiện tại, doanh nghiệp tiến hành chọn phương án kinh doanh thích hợp nhằm tạo ra lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường.
* Chính sách kinh tế của nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế: vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động của doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế. Thông qua các chính sách, pháp luật và các biện pháp kinh tế… Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo của kế hoạch vĩ mô. Bởi vậy, nó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Tiến bộ của khoa học công nghệ: trong thời đại ngày nay, trình độ tiến bộ khoa học công nghệ cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Vì vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến việc áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm hiện đại hoá trang thiết bị, nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không tiếp cận kịp thời với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ để đổi mới trong thiết bị, sản phẩm thì sẽ có nguy cơ dẫn doanh nghiệp tới tình trạng làm ăn thua lỗ do sản phẩm làm ra không còn thích ứng, phù hợp với nhu cầu thị trường.
* Uy tín của doanh nghiệp:
Uy tín của doanh nghiệp có một nội dung hết sức phong phú thể hiện trong mối quan hệ với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của mình… Một doanh nghiệp có uy tín, điều kiện vật chất được khai thác triệt để tạo ra một sự phát triển vững chắc cho doanh nghiệp. Khi đó doanh nghiệp vẫn có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường mà không cần dự trữ một lượng vốn quá lớn. Điều này sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
* Lạm phát: Là quá trình đồng tiền bị mất giá theo thời gian, nó luôn xuất hiện thường trực trong mọi nền kinh tế, trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội, do đó nó sẽ ảnh hưởng tới giá trị vốn lưu động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không có được sự bổ sung thích hợp thì nó sẽ làm cho vốn lưu động bị giám sút theo tỷ lệ lạm phát và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
* Rủi ro trong sản xuất kinh doanh: Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, quá trình sản xuất kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro bất chắc. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không có những kế hoạch biện pháp phù hợp thì có thể dẫn tới sự suy giảm của vốn lưu động, thậm chí còn dẫn tới tình trạng phá sản.
2.2 Những nhân tố chủ quan.
Bên cạnh những nhân tố khách quan kể trên các nhân tố chủ quan cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp đó là các nhân tố.
* Nhân tố con người: Có thể nói con người luôn đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là nhân tố quan trong tác động đến hiệu quả kinh doanh. Đối với các nhà lãnh đạo thì trình độ quản lý, khả năng chuyên môn của họ sẽ giúp doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tới ưu. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm trong lao động cũng như khả năng thích ứng với yêu cầu thị trường của cán bộ công nhân viên sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho doanh nghiệp.
* Trình độ và khả năng quản lý: Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì trình độ và khả năng quản lý bị coi nhẹ hoặc là không cần thiết, không liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Ngược lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường nó giữ một vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý doanh nghiệp còn non kém sẽ dẫn tới việc thất thoát vật tư, hàng hoá, sử dụng lãng phí tài sản lưu động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động thấp.
* Việc xây dựng chiến lược và phương án kinh doanh: Các chiến lược và phương án kinh doanh phải được xác định trên cơ sở tiếp cận thị trường cũng như phải có sự phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của nhà nước. Đây là một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu qủa sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Ngoài các nhân tố trên, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khác như: lỗ tích luỹ, việc trích lập dự phòng… các nhân tố này tác động đến lợi nhuận do đó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trên đây là một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần xem xét quy mô, loại hình của doanh nghiệp mình mà hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xẩy ra nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau và không doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào, tuy nhiên có thể kể ra một số biện pháp chủ yếu sau:
* Lựa chọn phương án, kế hoạch kinh doanh thích hợp với thực tế thị trường: việc lựa chọn và xây dựng các kế hoach kinh doanh, phải có nhiều bộ phận trong doanh nghiệp cùng hợp tác thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tíếp cận thị trường và đánh giá đúng tình hình thực tế của doanh nghiệp, các phương án, kế hoạch kinh doanh thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả tối ưu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến việc thực thi các phương án kinh doanh mang tính khoa học và thực tiễn. Cụ thể, doanh nghiệp phải tiến hành tìm kiếm bạn hàng nhằm đảm bảo có được nguồn cung cấp và tiêu thụ hàng hoá ổn đinh, lâu dài. Hơn nữa, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị chu đáo và có các giải pháp phù hợp với những biến cố, thử thách của cơ chế thị trường.
* Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động và các hình thức sử dụng: do hoạt động sản xuất kinh doanh luôn biến động và doanh nghiệp thường xuyên tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh nên nhu cầu về vốn lưu động cũng thường xuyên thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định đúng đắn các nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Trên cơ sở đó mà cân đồi với khả năng cung ứng nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất, tránh lãng phí . Cùng với việc xác định nhu cầu vốn lưu động chính xác, doanh nghiệp cũng cần xem xét chi phí cho việc sử dụng lưu trữ vốn lưu động và ưu nhược điểm của mỗi hình thức.
* Sử dụng vốn một cách tiết kiệm, không lãng phí: Để sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả, doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp nhằm góp phần huy động tối đa số tài sản lưu động hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giải phóng các khoản tài sản bị ứ đọng. Mặt khác, định kỳ cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích tài chính này nhằm đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua đó giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp đánh giá tổng quát tình hình luân chuyển vật tư hàng hoá, các khoản phải thu, phải trả… để có thể thấy được nguyên nhân của vốn lưu động bị ứ đọng, kém hiệu quả trong sử dụng và đưa ra các quyết định về sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo mọi nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng tiết kiệm hiệu quả nhất.
* Giải quyết tốt quá trình thanh toán: Doanh nghiệp phải theo dõi thường xuyên, chặt chẽ việc thực hiện thu hồi công nợ từ khách hàng và các khoản phải thu khác, đồng thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro không được thanh toán. Mặt khác, doanh nghiệp phải giám sát chặt chẽ các khoản chi tiêu phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Tóm lại, vốn lưu động là một bộ phận vốn quan trọng của doanh nghiệp, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Do đó, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chương 2
Thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn
lưu động tại công ty xây dựng số 18
chi nhánh hà nội
I. Vài nét khái quát về công ty xây dựng số 18 – chi nhánh hà nội.
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Được thành lập theo quyết định số 1964/QĐ - HĐQT ngày 14 tháng 5 năm 1993 của Công ty xây dựng số 18 (thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng LICÔGI). Số đăng ký kinh doanh: 108840 ngày 21 tháng 6 năm 1993 của trọng tài kinh tế thành phố.
Chi nhánh mở tài khoản riêng tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, tài khoản số: 7023 – 0112D.
Trụ sở: Nhà H2A Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân – Hà Nội. Chi nhánh ra đời sau giai đoạn nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, tiền thân của chi nhánh Hà Nội là xí nghiệp 104 thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1980, theo quyết định của Bộ xây dựng, nên ta có thể chia quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh thành hai giai đoạn.
1.1 Giai đoạn 1: Trước tháng 5 năm 1993.
Tiền thân của chi nhánh là xí nghiệp Xây dựng 104, đóng tại thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, tổng số cán bộ công nhân viên trên 300 người, điều kiện sản xuất khó khăn, nhưng với ưu thế chung của ngành xây dựng và đặc thù riêng của ngành xây lắp là xây dựng các công trình dân dụng, đặc biệt với sự quan tâm toàn diện của tập thể lãnh đạo công ty và cấp trên trong chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao, kết hợp với sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp không ngừng học hỏi tu dưỡng, xí nghiệp đã đứng vững và ngày càng vươn lên chiếm ưu thế trên thị trường, đời sống của toàn thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp ngày càng được nâng cao.
1.2 Giai đoạn 2: Từ tháng 5 năm 1993 đến nay.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự cạnh tranh gay gắt, để bắt kịp với xu thế chung, xí nghiệp đã có sự chuyển đổi để phù hợp với cơ chế đổi mới. Năm 1993 được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Công ty xây dựng số 18, Xí nghiệp 104 đổi tên thành chi nhánh Hà Nội.
Là một đơn vị đại diện của Công ty xây dựng số 18 tại Hà Nội, chịu trách nhiệm thi công, xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp tại khu vực Hà Nội, các tỉnh thuộc Miền Trung và Miền Tây theo kế hoạch hàng năm do Công ty xây dựng số 18 giao.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, để bảo toàn và phát triển một phần vốn và nguồn lực do Công ty giao phó. Ban giám đốc chi nhánh đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý nâng cao năng lực sản xuất cho cán bộ công nhân viên nhằm đạt được hiệu quả ngày một cao hơn nữa trong sản xuất, đưa chi nhánh hoà nhập với nền kinh tế chuyển đổi, đứng vững trên thị trường.
2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của chi nhánh.
2.1 Chức năng của chi nhánh.
Chi nhánh có các chức năng cơ bản sau:
- Xây dựng, sửa chữa các công trình dân dụng và công nghiệp.
- Xây dựng các công trình cấp thoát nước.
- Lắp đặt các thiết bị công nghệ, trang thiết bị điện nước dân dụng.
- Kinh doanh nguyên vật liệu xây dựng.
- Thi công các công trình đường dây và trạm biến áp có điện áp đến 38 KV.
2.2 Nhiệm vụ của chi nhánh.
Chi nhánh được công ty giao quản lý, sử dụng một phần vốn, nguồn lực và có nhiệm vụ bảo toàn phát triển vốn và nguồn lực đó. Ngoài nguồn vốn được giao, chi._. Cơ cấu sản xuất xây lắp chiếm 85% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng chiếm 75% giá trị xây lắp, xây dựng các công trình giao thông, cấp thoát nước, trạm biến áp chiếm 25% giá trị xây lắp.
- Thương mại- Dịch vụ chiếm 15% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó kinh doanh nguyên vật liệu phục vụ ngành xây dựng chiểm 60% giá trị thương mai-dịch vụ, doanh thu cung cấp dịch vụ chiếm 40% giá trị Thương mại–dịch vụ.
* Về nguồn nhân lực: Chi nhánh tiến hành đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để đáp ứng đòi hỏi khắc khe của thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng công trình. Thêm vào đó chi nhánh chủ trương trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp sự năng nổ, nhiệt tình sáng tạo của tuổi trẻ với kinh nghiệm của các thế hệ đi trước nhằm tạo ra động lực mới cho sự phát triển bền vững của chi nhánh.
* Về quản lý các nguồn lực tài chính: Với phương châm đáp ứng đủ cho nhu cầu, tự chủ cao trong quản lý, tiết kiệm trong sử dụng, góp phần sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của chi nhánh.
Ngoài ra chi nhánh cũng đang nghiên cứu các biện pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực kinh doanh nhà ở chung cư cao tầng một lĩnh vực mới mẻ đầy hứa hẹn.
II. Một số kiến nghị.
Trong những năm qua, qúa trình hoạt động kinh doanh của chi nhánh đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ. Đạt được kết quả này là nhờ vào sự nỗ lực và cố gắng trong công việc của toàn thể cán bộ công nhân viên trong chi nhánh, song bên cạnh những thành tích đã đạt được, chi nhánh vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở thực trạng của chi nhánh tôi xin mạnh rạn đề xuất một số giải pháp đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại chi nhánh như sau:
1. Tăng cường công tác quản trị.
Hiện nay ở chi nhánh, việc quản lý và sử dụng vốn lưu động chủ yếu được thực hiện ở các tổ đội xây lắp, vì phần lớn các công trình, hạng mục công trình đều được giao khoán trực tiếp cho các tổ đội tự chịu trách nhiệm cung ứng, thi công. Đối với các nhà quản trị việc đánh giá và phân tích công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động còn chưa được coi trọng, để quản lý chặt chẽ hơn nữa, hàng năm chi nhánh nên tiến hành phân tích đánh giá công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Việc phân tích đánh giá nên được phân tích thông qua các khoản mục cấu thành nên vốn lưu động qua đó sẽ biết được tỷ trọng của từng loại, mức đóng góp của từng loại vào doanh thu, vào lợi nhuận… từ đó xác định được nguyên nhân của sự biến động và đưa ra được các quyết định quản lý để phát huy hoặc hạn chế những ảnh hưởng của từng nhân tố nhằm đạt được lợi ích tốt nhất cho chi nhánh trong kỳ tiếp theo. Hơn nữa, thực hiện tốt các chức năng này, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trên thị trường.
2. Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính.
Hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng… mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.
Phân tích tài chính mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các Phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán và đưa ra các quyết định tài chính phù hợp.
Thực tế hiện nay, tại chi nhánh Hà Nội công tác phân tích tài chính chưa được chú trọng, chẳng hạn như chi nhánh chưa dự đoán các dòng tiền ra vào doanh nghiệp, chưa phân tích các chỉ tiêu tài chính một cách đầy đủ, cụ thể… Việc phân tích tài chính chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của ban giám đốc chi nhánh hay lãnh đạo công ty. Do vậy, các nhà quản trị tài chính cần phải tiến hành phân tích và đánh giá tình hình tài chính theo định kỳ hoặc thường xuyên, chứ không nên chỉ thực hiện khi có yêu cầu của ban lãnh đạo hay trước khi lập báo cáo tài chính năm. Điều này sẽ giúp các nhà lãnh đạo thấy được khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp mình từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn và kịp thời, không ngừng nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của chi nhánh trên thị trường.
Hơn nữa, việc phân tích hoạt động tài chính là một công việc không chỉ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao mà còn tốn rất nhiều công sức. Do vậy, để nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính chi nhánh nên thường xuyên đào tạo và tuyển chọn cán bộ tài chính có năng lực, nhiệt tình trong công việc nhằm trang bị những kiến thức vững vàng trong kinh doanh cho họ. Đồng thời, lãnh đạo chi nhánh cũng phải quan tâm đến điều kiện sống và làm việc của đội ngũ này, động viên kịp thời thoả đáng.
Kế hoạch hoá nguồn vốn.
Vốn là điều kiện tiên quyết không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, do đó việc chủ động xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động là biện pháp cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp.
Thực tế công tác quản lý, tổ chức huy động và sử dụng vốn lưu động ở chi nhánh cho thấy còn nhiều tồn tại, hạn chế như đã nêu ở chương 2, do đó ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở chi nhánh. Vậy để đảm bảo cho việc sử dụng vốn lưu động đạt hiệu quả cao thì khi lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động chi nhánh cần quan tâm, chú ý một số vấn đề sau:
Một là: Chi nhánh cần xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết tối thiểu, từ đó có biện pháp phù hợp huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu này, tránh tình trạng thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh, đồng thời đảm bảo vốn huy động được quyền kiểm soát.
Hai là: Sau khi xác định nhu cầu vốn lưu động, chi nhánh cần xác đinh số vốn lưu động thực có của mình, số vốn thừa (thiếu) từ đó có biện pháp huy động đủ số vốn thiếu hoặc đầu tư số vốn thừa hợp lý từ đó giảm thấp nhất chi phí sử dụng vốn lưu động, mặt khác có thể đưa số vồn thừa vào sử dụng, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Ba là: Mỗi khoản vốn cần có định hướng sử dụng hợp lý:
Đối với các khoản vốn chiếm dụng là nguồn vốn chủ yếu của chi nhánh, đến ngày 31/12/2001 khoản này chiếm 65,8% trên tổng vốn lưu động của chi nhánh (nguồn: Bảng 4, chương 2). Đây là một con số rất lớn, một mặt thoả mãn nhu cầu sử dụng vốn của chi nhánh, mặt khác đòi hỏi chi nhánh phải có kế hoạch quản lý, sử dụng, hoàn trả theo thời gian cụ thể nhất quán, khả thi, nhằm phát huy tính linh hoạt của nguồn vốn này, tránh tình trạng bị động trong hoàn trả vốn sẽ gây phát sinh nhiều chi phí cho chi nhánh.
Đối với khoản vốn vay ngắn hạn, tại thời điểm 31/12/2001 nguồn vốn này chiếm 19,2% trên tổng vốn lưu động tương ứng với số tiền 6.030.877.000đ (nguồn: Bảng 4, chương 2). Nguồn vốn vay tương đối thoả mãn nhu cầu sử dụng trong năm. Tuy nhiên, chi nhánh cần lập kế hoạch huy động và sử dụng theo từng kỳ khác nhau, có kế hoạch vay trả theo từng thời điểm.
Bốn là: Căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế của chi nhánh. Trong thực tế, chi nhánh có thể phát sinh những nghiệp vụ gây thừa vốn hoặc thiếu vốn, do đó chi nhánh cần phải chủ động cung ứng kịp thời, sử dụng vốn thừa hợp lý để đảm bảo sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả.
Việc lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn nhất thiết phải dựa vào phân tích chỉ tiêu kinh tế tài chính của kỳ trước kết hợp với dự tính tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tăng trưởng trong kỳ tới và những dự đoán về nhu cầu của thị trường.
4. Quản lý và sử dụng các khoản mục của nguồn vốn lưu động hữu hiệu hơn.
Vốn lưu động của chi nhánh bao gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, vốn vật tư hàng hoá và vốn lưu động khác, chi nhánh cần quản lý hữu hiệu hơn đối với các khoản mục này.
4.1 Quản lý và sử dụng vốn bằng tiền.
Trong công tác quản lý vốn bằng tiền ở chi nhánh, chi nhánh vẫn chưa lập kế hoạch tiền mặt, đây chính là hạn chế cơ bản trong việc xác định lượng dự trữ tiền mặt hợp lý. Vì vậy việc xác định mức tồn quỹ tối thiểu và lập kế hoạch tiền mặt là rất cần thiết đối với chi nhánh. Chi nhánh cần phải lập bảng thu-chi ngân quỹ và so sánh giữa thu và chi bằng tiền để tìm nguồn tài trợ nếu thâm hụt ngân quỹ, hoặc đầu tư ngắn hạn nếu dư thừa ngân quỹ, trong đó có tính đến số dư bằng tiền đầu kỳ và cuối kỳ tối ưu. Chứ không nên chỉ gửi các khoản tiền dư thừa vào ngân hàng như hiện nay vì tỷ lệ sinh lời của nó là rất thấp gây ra sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn bằng tiền tại chi nhánh.
Có rất nhiều hình thức đầu tư ngắn hạn khác nhau có khả năng sinh lời cao mà chi nhánh có thể lựa chọn như cho vay, đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh… Tuy nhiên, một trong những hình thức đầu tư thường được sử dụng đó là đầu tư chứng khoán có tính thanh khoản cao đặc biệt là trong điều kiện hiện này khi thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động và gặt hái được những thành công nhất định. Khi cần thiết chi nhánh có thể chuyển đổi những chứng khoán này ra tiền mặt.
Khi lập kế hoạch tiền mặt chi nhánh nên lưu ý những vấn đề sau:
- Xác định mức số dư tiền mặt phù hợp
- Thu thập và sử dụng tiền mặt một cách có hiệu quả.
- Đầu tư tiền mặt dư thừa vào chứng khoán khả thị (khả mại).
Ba yếu tố trên nếu được kết nối với qui mô, kế hoạch sản xuất kinh doanh của chi nhánh ở từng thời kỳ nhất định sẽ góp phần quản lý tốt vốn bằng tiền, chi nhánh sẽ tránh được ứ đọng hay thiếu hụt vốn, đưa khả năng sử dụng vốn lưu động của chi nhánh nên cao.
4.2 Quản lý vốn trong thanh toán.
Quản lý tốt vốn trong thanh toán sẽ làm tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho chi nhánh. Đồng thời, điều này còn tạo uy tín và thế đứng vững vàng cho chi nhánh trên thị trường trên cơ sở thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng, hạn chế khoản vốn bị chiếm dụng đến mức thấp nhất. Tuy nhiên, việc quản lý các khoản phải thu, phải trả cũng cần đảm bảo sao cho phù hợp lợi ích giữa các bên với nhau.
Để thúc đẩy tốc độ thu hồi công nợ, chi nhánh cần chú ý đến các vấn đề sau:
4.2.1 Tìm hiểu rõ thực trạng nguồn vốn của các công trình mà chi nhánh thi công.
Tại chi nhánh Hà Nội cũng như nhiều công ty xây dựng khác, các công trình có nguồn vốn đầu tư khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công và có quá trình thanh quyết toán khác nhau.
Đối với các công trình có vốn ngân sách nhà nước cấp thì quá trình thanh quyết toán phải chờ kết quả thẩm định giá trị khối lượng công việc hoàn thành bàn giao của các cơ quan có thẩm quyền, sau đó quá trình thanh toán còn có thể bị chậm chễ do chờ chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước hay các bộ ngành…
Theo kinh nghiệm thực tế thi công qua các năm tại chi nhánh Hà Nội, thì thường các công trình có nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước được thanh toán nhanh nhất, sau đó là các công trình do ngân sách nhà nước cấp phục vụ sử dụng kinh doanh, chậm chế nhất là các công trình có vốn từ ngân sách nhà nước dành cho phúc lợi dân sinh. Việc tìm hiểu nguồn gốc nguồn vốn đầu tư cho các công trình mà chi nhánh trúng thầu như trên sẽ giúp cho chi nhánh đề ra được phương án thi công phù hợp, phương án huy động vốn cho việc khởi đầu thi công cũng như kế hoạch thu hồi vốn sau này.
4.2.2 Thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán.
Hồ sơ quyết toán là cơ sở đầu tiên trong quá trình thu hồi vốn của mỗi công ty xây dựng, nên dù có cần qua thẩm định hay không thì ngay từ bước khởi đầu này chi nhánh cũng cần thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán với chủ đầu tư.
Đối với các công trình có nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp thì ngoài việc hoàn thiện hồ sơ quyết toán thì chi nhánh còn nên thống nhất với chủ đầu tư về cơ quan thẩm định công trình, tránh tình trạng sau khi thi công và hoàn thiện hồ sơ quyết toán song chi nhánh xin thẩm định tại một cơ quan còn chủ đầu tư lại xin thẩm định tại một cơ quan khác… Ngoài ra chi nhánh còn có thể lựa chọn phương án thống nhất với chủ đầu tư thẩm định từng hạng mục công trình, làm đến đâu kiểm tra đến đó tránh tình trạng phá đi làm lại.
4.2.3 Nhất quán chính sách thu hồi công nợ.
Ngoài việc tìm hiểu nguồn gốc vốn đầu tư và hoàn thiện hồ sơ quyết toán thì chính sách tín dụng khách hàng là khâu quan trọng quyết định sự thành công của hai giải pháp trên, cụ thể là:
* Đối với khách hàng mới, ít uy tín: Chi nhánh cần yêu cầu khách hàng có thế chấp, ký cước bảo lãnh, bảo đảm thanh toán của ngân hàng hay một tổ chức có tiềm lực về tài chính. Trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, nếu vi phạm sẽ phạt theo lãi suất quá hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
* Với khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, có uy tín: áp dụng hình thức thanh toán trả chậm đến 30 ngày, tối đa là 60 ngày sau khi hoàn thành thủ tục bàn giao công trình xây lắp và 30 ngày nếu là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ.
* Khách hàng trong nội bộ công ty: Xác định dư nợ thường xuyên với thời hạn thanh toán không quá 30 ngày đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ, không quá 60 ngày đối với sản phẩm xây lắp, thường xuyên đối chiếu bù trừ công nợ đối với các khoản nợ đến hạn.
Ngoài ra, chi nhánh cần tính toán tỷ lệ chiết khấu trong thanh toán để khuyến khích khách hàng thanh toán sớm.
Thực tế tại chi nhánh Hà Nội, việc quản lý các khoản phải thu, phải trả, nhất là đối với các khoản quá hạn chưa được phân tích đánh giá một cách chính xác. Việc lập dự phòng chưa dựa trên cơ sở phân độ rủi ro dự tính, số liệu chi tiết phản ánh trên sổ kế toán chưa chính xác. Chi nhánh cần đối chiếu xem xét các khoản nợ quá hạn có đúng là khó đòi hay không và đánh giá chính xác các khoản nợ khó đòi đã bị xoá sổ.
4.3 Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hàng lưu kho.
Khoản mục này nhìn chung được chi nhánh quản lý tương đối tốt. Song cũng còn một số vấn đề cần giải quyết sau:
Một là: hàng lưu kho trong năm 2001 tuy có giảm về tỷ trọng nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ cao, năm 2000 chiếm 64,6% trên tổng vốn lưu động tương ứng số tiền 20.219.534.000 đ, năm 2001 chiến 62,8% tổng số vốn lưu động với số tiền 21.521.436.000đ (nguồn: Bảng 3 chương 2). Chi nhánh cần lưu ý quản lý khoản mục này nhằm hạn chế những thất thoát trong khâu dự trữ, giảm chi phí bảo quản, đảm bảo thu hồi lượng vốn ứ đọng này.
Hai là: Nguyên vật liệu là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành xây lắp nên chi nhánh cần phải quan tâm nhiều hơn nữa, để tăng cường tính kiểm tra, giám đốc vật tư, phòng kế toán chi nhánh cần bố trí nhân viên thường xuyên theo dõi chi phí vật tư tại các đội công trình, phòng kinh tế kỹ thuật cần bố trí cán bộ quản lý có kinh nghiệm về tổ chức, giám sát thi công tại công trường hỗ trợ các đội trưởng về kỹ thuật, quản lý xây lắp và lập kế hoạch thi công.
Ba là: Trong thi công đôi khi chi nhánh phải ngừng thi công do phải chờ chỉnh sửa thiết kế, để có thể phần nào khắc phục thiệt hại trong trường hợp này, trước khi thi công chi nhánh cần yêu cầu chủ đầu tư khảo sát thiết kế thật kỹ lưỡng. Bên cạnh đó chi nhánh cần đưa ra những điều khoản cam kết thoả thuận cụ thể về trách nhiệm vật chất đối với việc làm chậm tiến độ thi công, lấy đó làm căn cứ yêu cầu chủ đầu tư có trách nhiệm bồi thường đối với những tổn thất do ngừng thi công gây ra.
Bốn là: Đối với sản phẩm kinh doanh dở dang: Các công trình, hạng mục công trình sau khi đã khởi công xây dựng chi nhánh nên tập trung nhân lực, vật lực để đẩy nhanh tốc độ thi công, phấn đấu bàn giao cho chủ đầu tư đúng và trước thời hạn của hợp đồng. Với những công trình đã hoàn thành, chi nhánh cần đẩy mạnh khâu xúc tiến thẩm định để sớm được bàn giao cho chủ đầu tư. Tránh tình trạng công trình đã hoàn thành mà chưa được thẩm định bàn giao, làm ứ đọng vốn, tăng chi phí bảo quản, lãng phí nhân công, vật tư.
5. Quản lý chi phí phát sinh và thiệt hại trong sản xuất.
Chúng ta đều biết rằng tình trạng lãng phí thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc đối với nhà nước, hiện nay con số đó vào khoản 15% - 25% thậm chí còn có thể lên tới 30% hoặc hơn nữa. Thực trạng này đến nay vẫn chưa có một cơ quan nào tổng kết, đánh giá một cách tương đối chính xác mức độ thất thoát này. Tình trạng lãng phí thất thoát này do cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan gây nên.
Đối với chi nhánh, khi phát sinh các khoản lãng phí, thất thoát này thì trách nhiệm đầu tiên thuộc về các đội thi công đã không tổ chức giám sát chặt chẽ, khi phát sinh lại không lập biên bản hoặc có lập thì không chi tiết đầy đủ nhằm xác định khối lượng phá đi làm lại để từ đó có căn cứ xác định nguyên nhân là do thay đổi thiết kế hay do chủ quan của người thực hiện gây nên mà có biện pháp bồi thường hoặc tăng chi phí hoạt động.
Đối với các khoản thiệt hại do khách quan gây ra như mưa, bão… làm hư hại công trình, tạm ngừng thi công, hỏng hóc máy móc, nguyên vật liệu… thì chi nhánh cần có biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các khoản thiệt hại.
Tóm lại, để khắc phục được các khoản chi phí phát sinh và thiệt hại trong sản xuất, chi nhánh cần tăng cường công tác quản lý và biện pháp phòng ngừa vì nó là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận.
6. Hoàn thiện công tác giao khoán.
Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh, một đặc điểm nổi bật hiện nay trong phương thức quản lý của các doanh nghiệp xây lắp là thực hiện khoán sản phẩm xây lắp. Trong kinh doanh xây lắp công trình, hình thức trả lương theo thời gian không còn phù hợp nữa, những năm gần đây các doanh nghiệp xây lắp thường áp dụng hình thức khoán sản phẩm.Đây là một hình thưc quản lý hợp lý tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, tăng năng xuất lao động, tiết kiệm vật tư, tiền vốn và hạ giá thành sản phẩm.
Phương thức khoán sản phẩm trong xây lắp công trình tạo điều kiện gắn liền lợi ích vật chất của người lao động với chất lượng và tiến độ thi công, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Mặt khác xác định rõ trách nhiệm vật chất trong công tác xây lắp đối với từng tổ đội và cá nhân người lao động, trên cơ sở đó phát huy tính chủ động sáng tạo và khai thác tiềm năng sẵn có của đơn vị thi công về mọi mặt.
Hiện nay, trong kinh doanh xây lắp công trình có nhiều hình thức khoán khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung vào hai hình thức sau:
- Hình thức khoán gọn công trình.
- Hình thức khoán theo khoản mục chi phí.
Với chi nhánh Hà Nội, như đã trình bày ở chương 2. Hiện nay, hàng năm việc giao khoán thường mang tính chất “chia phần”, phương thức đấu thầu chưa được áp dụng rộng rãi dẫn đến phát sinh nhiều tiêu cực trong khâu giao và nhận thầu xuất, phát từ thực trạng này, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng quy chế giao khoán khoa học và hợp lý, để vừa đẩy mạnh tiến độ thi công công trình với chất lượng tốt, vừa đảm bảo giải quyết hợp lý các mối quan hệ về lợi ích kinh tế.
Thứ nhất: Việc giao khoán sản phẩm xây lắp, phải dựa trên cơ sở của hợp đồng kinh tế giữa các bên giao nhận khoán, giữa chi nhánh và tổ đội sản xuất thi công. Khi ký kết hợp đồng giao nhận khoán phải xem xét kỹ các điều khoản ghi trong hợp đồng, dự toán chi phí công trình, phương án thi công, thời gian khởi công và hoàn thành… Dự toán công trình phải lập theo đúng các quy định đã được Bộ xây dựng ban hành.
Thứ hai: Khi cần thiết có thể tiến hành điều chỉnh hợp đồng, việc điều chỉnh hợp đồng phải căn cứ vào bản điều chỉnh dự toán, bản điều chỉnh dự toán phải được lập trên cơ sở có xác nhận của một ban điều tra thực tế.
Thứ ba: Về phân phối thu nhập: vấn đề phân phối thu nhập là vấn đề trọng tâm trong việc xác định các điều khoản giao nhận khoán công trình xây lắp. Đồng thời là vấn đề then chốt trong việc giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các bên giao nhận khoán. Các mối quan hệ về phân phối thu nhập có thể giải quyết theo các phương thức sau:
-Thuế thu nhập doanh nghiệp do chi nhánh nộp.
-Lợi tức phải bao gồm cả đơn vị nhận khoán.
-Doanh thu đơn vị nhận khoán là giá khoán được thanh toán.
- Cuối niên độ kế toán chi nhánh có thể quyết toán và phân phối trở lại cho các tổ đội một phần lãi định mức, lãi ngoài kế hoạch, phần còn lại dùng để trích lập các quỹ, nộp ngân sách, nộp cấp trên (nếu có).
Thứ tư: Về trách nhiệm, việc xác định quy chế khoán phải dựa trên cơ sở phân tách rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên giao nhận khoán, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ các bên, tránh tình trạng “khoán trắng” hơn nữa chi nhánh cần phải có trách nhiệm giám sát tình hình thi công để đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công công trình.
Thứ năm: Phương pháp xác định giá khoán: trên cơ sở giá dự toán công trình, chi nhánh phải xây dựng giá giao khoán công trình cho các tổ đội. Về nguyên tắc giá dự toán công trình phải lớn hơn giá giao khoán.
Như vậy, việc xây dựng quy chế khoán và xác định giá khoán ở chi nhánh là vấn đề cần được nghiên cứu , nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý thi công và giao nhận khoán tại chi nhánh hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
7. Một số giải pháp khác.
Ngoài những giải pháp trên, chi nhánh có thể tiến hành một số biện pháp khác như:
- Chi nhánh phải luôn tự đánh giá về khả năng, nguồn lực của mình, phải biết phát huy hết năng lực của cán bộ công nhân viên, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi người trong công việc, luôn gắn quyền lợi của mỗi cá nhân với lợi ích tập thể, qui định rõ ràng chế độ khen thường, kỷ luật.
- Chi nhánh nên thường xuyên đào tạo và tuyển chọn cán bộ có năng lực và trách nhiệm cao với công việc, nhằm trang bị những kiến thức vững vàng trong kinh doanh cho họ. Có như vậy chi nhánh mới ngày càng phát triển hơn, kinh doanh có hiệu quả hơn, thu được nhiều lợi nhuận hơn.
- Thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra, giám đốc tình hình thực hiện các kế hoạch của chi nhánh nhằm đạt tới mục tiêu chung.
Tóm lại, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động sử dụng vốn lưu động của chi nhánh còn tồn tại nhiều điểm cần khắc phục, khai thác triệt để những thuận lợi nhằm đem lại hiệu quả cao cho hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh. Để các biện pháp nêu trên thực sự có tác động mạnh mẽ cần thiết phải thực hiện các Phương pháp này đồng bộ, thống nhất, nếu chỉ sử dụng đơn lẻ một biện pháp sẽ không thể giải quyết những khó khăn của chi nhánh.
8. Một số kiến nghị với nhà nước và cơ quan cấp trên.
Công ty xây dựng số 18 – chi nhánh Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quyết định của Trọng tài kinh tế Thành phố Hà Nội và Hội đồng quản trị công ty xây dựng số 18, với chức năng chủ yếu là xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp. Trong thời gian qua, chi nhánh đã gặt hái được nhiều thành công góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong quá trình phát triển vẫn còn một số khó khăn tồn tại mà chi nhánh cần được giải quyết để chi nhánh ngày càng phát triển hơn, đạt được nhiều thành công hơn trong tương lai. Để làm được điều đó, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân chi nhánh cũng cần sự giúp đỡ của nhà nước và cơ quan cấp trên để hỗ trợ và tạo điều kiện cho chi nhánh trong những năm tới cụ thể là:
8.1 Kiến nghị với nhà nước.
Với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước là nguồn hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế, thông qua các chính sách pháp luật và các biện pháp kinh tế. Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo của chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế của nhà nước đối với các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng phát triển sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, thị trường xây dựng của Việt Nam hiện nay đang hình thành một cách tự phát, các doanh nghiệp chưa có sự hiểu biết rõ về thị trường xây dựng và cách vận hành của nó. Thị trường hoạt động thiếu công bằng: hối lộ để thắng thầu, bán thầu rồi tìm cách nâng giá quyết toán… Do vậy nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của mình bằng cách:
- Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, nghiên cứu điều chỉnh bổ sung và ban hành mới hệ thống văn bản pháp quy gồm: luật xây dựng, các pháp lệnh liên quan đến xây dựng, các chế độ chính sách về giá cả, tài chính, chính sách thuế, tính dụng, chính sách hỗ trợ đầu tư, xây dựng thị trường đấu thầu bình đẳng, tăng cường công tác kiểm tra, hoàn thiện phương thức đầu tư xây dựng cơ bản, cải cách thủ tục, phân cấp rõ ràng trong việc thực hiện dự án đầu tư.
- Công tác giải phóng mặt bằng chậm gây ứ đọng vốn, nhân lực, ách tắc trong khâu đền bù, một số công trình vừa xây dựng vừa giải phóng mặt bằng gây chậm tiến độ dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp hoặc lỗ, do vậy công tác giải phóng mặt bằng cần phải tiến hành trước khi mời thầu.
- Bên cạnh đó chi nhánh cần có sự hỗ trợ của nhà nước về vốn vay với lãi suất ưu đãi, điều này sẽ đảm bảo cho chi nhánh luôn chủ động về vốn, mở rộng đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất tạo đà phát triển bền vững trước khi nước ta ra nhậm AFTA vào năm 2006.
- Giảm bớt một số thủ tục trong quá trình thẩm định, bàn giao, thanh quyết toán công trình, cần quy định những cơ quan chuyên trách về việc kiểm tra, thẩm định công trình, với mỗi công trình chỉ cần một cơ quan kiểm tra.
8.2 Kiến nghị với công ty xây dựng 18.
- Công ty cần phân định rõ ràng và hợp lý quyền hạn, nghĩa vụ đối với đơn vị cấp dưới, việc phân công nhiệm vụ phải dựa trên chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình thực tế của chi nhánh, điều hoà vốn một cách hợp lý.
- Công ty nên để chi nhánh tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn và đầu tư tài sản, liên doanh, liên kết.
- Đối với những dự án lớn do công ty giao, công ty cần có chính sách hỗ trợ về vốn, nguồn lực khác, để chi nhánh chủ động trong thi công.
- Tiếp tục chỉ đạo và hỗ trợ chi nhánh trong việc mở rộng thị trường trong nước, đồng thời tổ chức sắp xếp lại chi nhánh cho phù hợp với tình hình chung của đất nước trong quá trình phát triển, để có thể thực hiện được theo đúng định hướng phát triển của chi nhánh vươn lên trở thành doanh nghiệp có vị thế vững mạnh trên thị trường xây lắp của Việt Nam.
* Với tổng công ty: Tổng công ty nên thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm về xây dựng các chỉ tiêu chung cho tổng công ty và ngành để các đơn vị thành viên có mốc để so sánh từ đó có thể đề ra chiến lược phát triển phù hợp cho từng đơn vị cụ thể.
Kết luận
Muốn tồn tại và phát triển được trước sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Tại công ty xây dựng số 18 – chi nhánh Hà Nội, vốn lưu động là nguồn vốn quan trọng nhất phục vụ trực tiếp quá trình kinh doanh, lưu chuyển vật tư, hàng hoá và thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải luôn đặt trong viêc nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đây chính là mục tiêu cơ bản của chi nhánh.
Việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả sẽ nâng cao được mức doanh thu, mức lợi nhuận đạt được trên tổng vốn lưu động và đẩy mạnh được tốc độ chu chuyển vốn lưu động, đảm bảo cho sự bảo toàn và phát triển vốn. Đồng thời nó sẽ làm tăng sức mạnh về tài chính, tăng cường uy tín cho chi nhánh trên thị trường, là cơ sở nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện thúc đẩy sự nỗ lực, cố gắng và trách nhiệm trong công việc.
Trong thời gian trực tiếp khảo sát thực tế tại chi nhánh Hà Nội, với những kiến thức đã được trang bị trên ghế nhà trường cúng với sự quan tâm giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn – Thạc sỹ Nguyễn Hoàng Nam và tập thể cán bộ công nhân viên phòng hành chính tổng hợp, phòng kinh tế kỹ thuật của chi nhánh, tôi xin đề xuất một số ý kiến chủ yếu nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tai chi nhánh như sau:
- Tăng cường công tác quản trị.
- Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính.
- Kế hoạch hoá nguồn vốn.
- Quản lý sử dụng các khoản mục của nguồn vốn lưu động hữu hiệu hơn.
- Quản lý chi phí phát sinh và thiệt hại trong sản xuất.
- Hoàn thiện công tác giao khoán.
- Và một số giải pháp khác.
Với những giải pháp này, tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại chi nhánh.
Tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn – Thạc sỹ và các cán bộ phòng hành chính tổng hợp, phòng kinh tế kỹ thuật công ty xây dựng số 18 – Chi nhánh Hà Nội đã hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Trường Đại học Thăng Long
2. Giáo trình phân tích và lập dự án đầu tư
TS - Đặng Kim Nhung - Trường Đại học Thăng Long
3. Giáo trình luật kinh tế - Trường Đại học Thăng Long
4. Đọc, lập, phân tích tài chính PGS - TS Ngô Thế Chi, TS Vũ Công Ty, Nhà xuất bản thống kê, tháng 6/2001.
5. Quản trị tài chính doanh nghiệp, giáo trình Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
6. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, Trường Đại học xây dựng 1998.
7. Hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp thương mại, TS Nguyễn Văn Công nhà xuất bản tài chính 2002.
8. Essentials of financial management
George E. Pirches. The University of Kansas. 1990
9. Các bảng báo cáo tài chính, thuyết minh báo cáo tài chính của công ty xây dựng số 18 - Chi nhánh Hà Nội .
10. Thời báo kinh tế, báo đầu tư, báo nhà thầu xây dựng, xây dựng và một số báo, tạp chí khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0118.doc