Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội

Tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội: ... Ebook Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
stt Hä vµ tªn M· sinh viªn Líp Tªn chuyªn ®Ò Gi¶ng viªn h­íng dÉn §µo Quang Long CQ461624 Th­¬ng M¹i 46B Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội Th.s Ng« ThÞ Mü H¹nh Lời nói đầu Thực hiện đường lối đúng đắn mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, làm cho nền kinh tế nước ta đã từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế đa thành phần, các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù có không ít các doanh nghiệp Nhà nước phải giải thể vì làm ăn không có hiệu quả, nhưng bên cạnh đó có những doanh nghiệp đứng vững và ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất, đồng thời cũng có những doanh nghiệp Nhà nước đứng trước cơ chế thị trường với quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của nó vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng. Đối với các doanh nghiệp, cơ chế thị trường tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động nhưng chính nó cũng tạo ra những thách thức mới. Chấp nhận cơ chế thị trường là một tất yếu, chính vì thế trong các doanh nghiệp, các công tác nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như công tác quản trị tiêu thụ, công tác quản trị cung ứng, công tác Marketing...đặc biệt là công tác quản trị vốn trong các doanh nghiệp cần được phát triển và hoàn thiện. Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho từng doanh nghiệp đang là một vấn đề rất bức xúc. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường với sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào hiệu quả kinh doanh. Vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có vốn. Mục đích của sản xuất kinh doanh là thu được lợi nhuận. Do đó vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải huy động vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi, và phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả ngày càng cao để đứng vững hơn trên thương trường, từ đó mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống cho người lao động, đặc biệt lợi nhuận thu được ngày càng nhiều. Nhận thức được tầm quan trọng của vốn và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội, được sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô và tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty em đã bước vào làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội”. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng trình độ lý luận và thực tế còn nhiều hạn chế nên vấn đề nghiên cứu của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên trong Công ty cùng toàn thể các bạn để đề tài của em thêm hoàn thiện. Nội dung đề tài được chia làm ba phần: Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Chương 2. Thực trạng về sử dụng vốn kinh doanh tại ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội. Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP 1.1 VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm vốn kinh doanh trong doanh nghiệp 1.1.1.1 Khái niệm vốn kinh doanh: Trong nội dung hoạt động tài chính doanh nghiệp, việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất quyết định tới mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu qua sử dụng vốn kinh doanh đòi hỏi phải giải quyết vấn đề như: Xác dịnh nhu cầu vốn kinh doanh, tăng hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh, tăng vòng quay vốn kinh doanh, đổi mới, sửa chữa, hiện đại hoá máy móc thiết bị... song tựu chung lại phải tập trung giải quyết hai vấn đề cơ bản sau: Một là: Nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Hai là: Tìm một giải pháp tiết kiệm vốn với một đồng vốn tạo ra được nhiều giá trị hàng hoá dịch vụ. Trước khi đi vào nội dung cụ thể của vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn chúng ta cần xem xét: vốn kinh doanh là gì ? Những đặc điểm của nó trong quá trình vận động như thế nào ? Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ tiền tệ là để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tức là mục đích tích luỹ không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta nói vốn là số tiền phải ứng trước cho kinh doanh. Song khác với một số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp, vốn kinh doanh sau khi ứng ra được sử dụng vào kinh doanh và sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn kinh doanh không thể bị tiêu mất đi như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy cơ phá sản. Cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì trước hết chúng ta phải có tiền. Song có tiền, thậm chí có những khoản tiền rất lớn cũng không phải là vốn. Tiền được gọi là vốn khi nó đồng thời thoả mãn hai điều kiện sau: Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay nói cách khác tiền phải đảm bảo bằng lượng tài sản có thực. Hai là: Tiền phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền đến một hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm rải rác khắp nơi, không được "thu gom" lại thành một khoản lớn thì không tiến hành được việc gì. Vì thế một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp thì nhất thiết phải có một lượng vốn đủ lớn. Để có vốn, doanh nghiệp phải tìm các biện pháp khai thác, thu hồi các nguồn tiền tệ nhàn rỗi thành một khoản lớn để đầu tư kinh doanh. Ba là: Khi có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Các vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau: TLSX (TLLĐ - ĐTLĐ) T - H ... SX ... H' - T' ( T' > T) SLĐ Sự vận động của vốn được bắt đầu bằng hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá (tư liệu lao động, sức lao động), qua quá trình sản xuất vốn trở lại hàng hoá (sản phẩm, dịch vụ.), cuối cùng trở về hình thái tiền tệ lớn hơn lượng tiền tệ ban đầu. 1.1.1.2 Đặc điểm vốn kinh doanh: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải có vốn, đó là một tiền đề cần thiết. Trong thời kỳ bao cấp, phần lớn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được Nhà nước cấp phát hoặc cho vay với lãi suất thấp nên các doanh nghiệp không quan tâm đến tính hàng cũng như đặc trưng của vốn. Trong nền kinh tế thị trường vốn là yếu tố số một của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, số vốn đó không tự nhiên mà có. Vì vậy để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta cần phải nhận thức đủ hơn về những đặc trưng sau đây: Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Vốn chính là hàng hoá được biểu hiện dưới dạng nhà xưởng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chất xám... Vốn vận động phải sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động sinh lời. Tiền là dạng tiềm năng của vốn trong quá trình vận động, đồng vốn được biểu hiện dưới những hình thái khác nhau: Tiền, vật tư, hàng hoá. Nhưng đến khi kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lại quay về hình thái tiền tệ nhưng phải lớn hơn thì sản xuất kinh doanh mới có lãi. Nếu đồng vốn bị ứ đọng, tài sản cố định không cần dùng, tài nguyên, sức lao động không được sử dụng, tiền, vàng bỏ vào dự trữ hoặc các khoản nợ khế đọng khó đòi...chỉ là những đồng vốn ''chết''. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất tán, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn cũng không được bảo đảm chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng. Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định thì mới có thể phát huy tác dụng. Không có đủ lượng vốn nhất định thì không thể đáp ứng được yêu cầu tối thiểu đặt ra trong sản xuất kinh doanh. Vốn phải có giá trị về thời gian: Điều này có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch tập trung vấn đề này không được xem xét kỹ lưỡng vì Nhà nước đã tạo ra sự ổn định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện cơ chế thị trường đều phải xem xét giá trị thời gian của tiền vốn, bởi vì do ảnh hưởng của sự biến động giá cả, lạm phát sức mua của đồng tiền ở những thời điểm khác nhau cũng khác nhau. Vốn phải gắn với chủ sở hữu: Mỗi đồng tiền vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ, bởi lẽ những đồng vốn vô chủ gây ra sự chi tiêu lãng phí kém hiệu quả. Khi xác định được chủ sở hữu thì đồng vốn mới được chi tiêu tiết kiệm có hiệu quả. Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt. Những người có vốn có thể đưa vốn vào thị trường, những người cần tới vốn, tới thị trường vay nghĩa là người đi vay vốn được quyền sử dụng vốn của người chủ sở hữu hay quyền sở hữu của đồng vốn không di chuyển nhưng quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay nợ; người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất thoả thuận đối với người cho vay. Như vậy khác với hàng hoá thông thường, hàng hoá vốn khi được bán đi thì người bán không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bị mất quyền sử dụng. Người mua được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và họ phải trả cho người chủ sở hữu vốn một khoản tiền, đó là lãi suất. Việc mua bán vốn diễn ra trên thị trường tài chính, do đó lãi suất cũng phải tuân theo quan hệ cung cầu của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường vốn không những chỉ biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện bằng những tài sản vô hình như: vị trí kinh doanh, nhãn hiệu, bản quyền phát minh sáng chế, bí quyết công nghiệp, uy tính doanh nghiệp... Những tài sản vô hình này góp phần vô cùng quan trọng trong quyết định đầu tư và phát triển vốn của doanh nghiệp. 1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh ở doanh nghiệp: Căn cứ vào chức năng, công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm 2 loại vốn cố định và vốn lưu động. 1.1.2.1 Vốn cố định. a. Khái niệm vốn cố định. Như mọi hàng hoá khác, tài sản cố định cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, nó cũng là đói tượng để mua bán trao đổi trên thị trường. Như vậy trong nền sản xuất hàng hoá tiền tệ, để mua sắm tài sản cố định trước hết phải có một số vốn ứng trước. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình và vô hình được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. b. Đặc điểm vốn cố định. Là số vốn đầu ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định nên quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Vì vậy trước hết ta phải xem xét đặc điểm trong cách phân loại tài sản cố định. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc, chi phí mua bằng phát minh sáng chế. Đặc điểm cơ bản của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn, song nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Chỉ khi nào tài sản cố định bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì nó mới được thay thế đổi mới. Tài sản cố định là một phạm trù kinh tế, tài sản cố định phải là sản phẩm của lao động xã hội (tức là có giá trị) và tham gia vào quá trình sản xuất với chức năng của tư liệu lao động (giá trị sử dụng). Điều này cho thấy tài sản cố định phải có đầy đủ các thuộc tính của một hàng hoá (giá trị và giá trị sử dụng) như mọi hàng hoá thông thường khác. Do đó những lực lượng tự nhiên như thác nước, dòng sông, đất đai...có trường hợp làm tư liệu lao động của xã hội chế tạo máy chỉ được coi là sản phẩm đang lưu thông; nhà xưởng, thiết bị máy móc đang xây dựng và lắp đặt chỉ được coi là đối tượng lao động. Tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi thoả mãn 2 điều kiện sau. - Có thời gian sử dụng hơn 1 năm - Có giá trị ³ 5 triệu đồng Có thể nói, quá trình vận động của tài sản cố định được cụ thể hoá như sau: Về mặt hiện vật, tài sản cố định gồm những tư liệu lao động chủ yếu tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, bị hao mòn, biểu hiện ở giá trị sử dụng ngày càng giảm bớt nhưng vẫn giữ nguyên hình thái hiện vật cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất. Về mặt giá trị, vốn để mua sắm tài sản cố định phải ứng toàn bộ 1 lần khi bắt đầu tham gia vào quá trình sản xuất, số vốn đó chỉ được hoàn lại từng phần nhỏ do được rút ra từ lưu thông sau khi kết thúc mỗi chu kỳ sản xuất. Như vậy, trong quá trình sản xuất, giá trị tài sản cố định luôn luôn tồn tại dưới 3 hình thái: hình thái ban đầu gắn liền với hiện vật tài sản cố định, một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm sản xuất ra và một bộ phận chuyển hoá thành tiền khi sản phẩm hàng hoá bán được. Bộ phận ban đầu ngày càng giảm bớt, bộ phận tiền tệ ngày càng tăng lên cho đến khi bộ phận này vừa đúng bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì cũng là lúc kết thúc một vòng chu chuyển của vốn cố định. Vì thế mà quá trình tái sản xuất ra hình thái vật chất ban đần của tài sản cố định không tiến hành đồng thời với tái sản xuất ra giá trị của nó và không nhất thiết thực hiện sau một chu kỳ sản xuất mà có thể thực hiện sau một thời gian dài, khi nó kết thúc thời gian sử dụng và bị hư hỏng hoàn toàn. Từ đó cho thấy việc quản lý tài sản cố định rất phức tạp và khó khăn, việc tái sản xuất tài sản cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Từ việc nghiên cứu đặc điểm tài sản cố định ta có thể rút ra một số đặc điểm luân chuyển vốn cố định là: Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định. Hai là: Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định. Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn cố định ban đầu và tài sản cố định lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm sản xuất ra thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định của doanh nghiệp. 1.1.2.2. Vốn lưu động. a. Khái niệm vốn lưu động Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia vào sản xuất không giữ nguyên trạng thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể sản phẩm. Bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải dùng loại đối tượng lao động khác. Cũng do đặc điểm nêu trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các tư liệu lao động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tư liệu lao động và tài sản lưu thông nhằm đảo bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. b. Đặc điểm của vốn lưu động. Vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động trong các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại được thay đổi hình thái thể hiện từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển. Vậy vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Đáp ứng đầy đủ vốn lưu động cho quá trình sản xuất cũng như quá trình lưu thông giúp cho doanh nghiệp có thể rút ngắn được vòng luân chuyển của vốn. Việc đáp ứng không kịp thời và hợp lý nhu cầu vốn lưu động sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, việc xác định nhu cầu vốn lưu động quá cao sẽ gây ra ứ đọng vốn, vật tư, hàng hoá, vốn lưu động chậm luân chuyển. Do đó vấn đề tổ chức, bảo toàn và sử dụng vốn lưu động hợp lý có vai trò rất quan trọng, doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả thì càng sản xuất được nhiều sản phẩm, tiết kiệm được vốn lưu động và mang lại hiệu quả cao, giúp doanh nghiệp đạt đuợc mục đích kinh doanh của mình. Nguồn hình thành vốn kinh doanh: Nếu người quản lý không bao quát được các nguồn vốn, nội dung và tính chất của các nguồn vốn có thể huy động được trong sản xuất kinh doanh thì đó là sai lầm trong công tác quản lý đầu tư, sử dụng vốn kinh doanh. Vì vậy việc nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn sẽ là cơ sở cho việc lựa chọn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp. Vốn kinh doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác, huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế, người ta có thể căn cứ vào nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh nghiệp đó thuộc loại nào. Chẳng hạn, doanh nghiệp có vốn kinh doanh chủ yếu thuộc nguồn ngân sách Nhà nước thì đó là doanh nghiệp Nhà nước, hoặc một doanh nghiệp khác lại có vốn kinh doanh từ nguồn tự có và cổ phần thì đó là một doanh nghiệp tư nhân, một công ty cổ phần. Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi ngành đều có ưu nhược điểm nhất định, vì thế huy động vốn với một chi phí thấp nhất là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với doanh nghiệp. Do đó cần thiết phải phân loại. - Căn cứ vào quyền sở hữu về vốn thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể chia làm hai loại: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả: + Vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sử hữu của doanh nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước chủ sở hữu là Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân chủ sở hữu là những người đóng góp vốn). Khi doanh nghiệp mới được thành lập, vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ, còn có một số nguồn khác cũng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại tài sản... Đây là nguồn rất quan trọng và có tính ổn định cao. + Nợ phải trả: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền huy động từ phát hành trái phiếu, các khoản nợ, phải trả cho Nhà nước, cho người bán, cho công nhân viên. Nguồn này có tính chất tạm thời và thường xuyên biến đổi. Sử dụng loại vốn này doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí gọi là chi phí sử dụng vốn hay lãi vay. Để đo lường vốn vay của chủ sở hữu với số nợ vay người ta thường dùng hệ số nợ hay đòn bẩy tài chính. Nó vừa là một công cụ tích cực cho việc khuyếch đại lợi nhuận ròng trên một đồng vốn chủ sở hữu và là một công cụ kìm hãm sự gia tăng đó. Sự thành công hay thất bại này tuỳ thuộc vào sự không ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp khi chọn cơ cấu nguồn sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào phạm vi huy động có thể chia thành 2 loại nguồn vốn sau: + Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp, nó được hình thành từ tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, các khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. Nguồn vốn bên trong có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển của doanh nghiệp. Huy động và sử dụng nguồn vốn bên trong tốt tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn. Tuy nhiên không vì thế mà xem nhẹ công tác quản lý sử dụng nguồn vốn này, vì trong hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn này sử dụng kém hiệu quả nhất. + Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này có thể từ vốn liên doanh, liên kết, vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các khoản nợ khác. Việc vay vốn bên ngoài giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc... sử dụng nguồn vốn bên ngoài có ưu điểm: do phải trả chi phí cho việc vay vốn nên doanh nghiệp thường sử dụng số tiền vay đó sao cho có hiệu quả nhất để bù đắp được những chi phí mà vốn thu được lợi cho mình. Hơn nữa khi doanh nghiệp đạt mức doanh thu cao thì không phải phân chia phần lợi nhuận cao đó. Song sử dụng nguồn vốn bên ngoài cũng mang lại một số bất lợi đáng kể: cho dù doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không thì vẫn phải trả lợi tức tiền vay và hoàn trả tiền vay đúng thời hạn, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả hoặc trong hoàn cảnh nền kinh tế thay đỏi bất lợi cho doanh nghiệp thì nợ vay là gánh nặng và doanh nghiệp phải chịu rủi ro lớn. Do dó người lãnh đạo phải thận trọng suy xét phương pháp lựa chọn hình thức huy động vốn, chi phí sử dụng vốn thấp nhất, khả năng gặp rủi ro nhỏ nhất, hiệu quả kinh tế đem lại lớn nhất. - Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia thành: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. + Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định và có thể sử dụg trong một thời gian dài gồm: Vốn chủ sở hữu, khoản vay trung và dài hạn. Nguồn vốn này được dùng để mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tư liệu lao động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể dụng mang tính chất tạm thời trong một thời gian ngắn (dưới 1 năm) như: Nguồn vốn chiếm dụng hợp lý vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác. Phân loại nguồn vốn kinh doanh thành nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời, giúp cho người quản lý xem xét, huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô, số lượng cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao. Việc lựa chọn nguồn vốn nào, số lượng và thời hạn bao nhiêu là tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể của từng nguồn cấp vốn. Song cũng phải theo xu hướng khai thác triệt để nguồn vốn tự có, vốn bên trong doanh nghiệp. Chỉ khi nguồn vốn bên trong không đủ đáp ứng thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Nguồn tài trợ từ bên ngoài là cần thiết nhưng cũng không nên trông đợi quá mức vào những nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn sản xuất kinh doanh chúng ta rút ra những ý nghĩa quan trọng. Một là: việc phân loại vốn giúp cho người quản lý nắm bắt được cơ cấu vốn trong doanh nghiệp và xác định chính xác nên bổ sung vốn từ nguồn nào là thích hợp. Hai là: Phân loại nguồn vốn giúp cho công tác lập kế hoạch huy động vốn được chính xác sát với thực tế của doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sử dụng tối đa nguồn vốn đã huy động với chất lượng cao nhất, nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh. Trên đây là một số hình thức doanh nghiệp có thể lựa chọn huy động vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Để sử dụng các nguồn này có hiệu quả nhất doanh nghiệp cần phải có chính sách thích hợp trong từng thời kỳ đối với từng nguồn vốn, đặc biệt cả trong quá trình huy động vốn cũng cần phải có chính sách cụ thể. Tiêu thức quan trọng nhất để xem xét huy động sử dụng vốn là tính đến hiệu quả. 1.2 VAI TRÒ CỦA VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP: Vốn kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trước tiên nó có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển và phá sản của doanh nghiệp. Muốn thành lập được doanh nghiệp cần phải có vốn để đăng ký kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần phải có vốn kinh doanh để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ như mua, bán, dự trữ hàng hóa, vận chuyển, xếp dỡ… Vốn kinh doanh còn đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn phát triển kinh doanh cũng cần phải có đủ vốn để mua sắm trang thiết bị máy móc, chuẩn bị nguồn hàng đủ lớn, mở rộng mạng lưới thu mua và cũng cần phải có đội ngũ đông đảo can bộ công nhân viên đủ lớn để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp lơn hay nhỏ là điều kiện quan trọng để xếp doanh nghiệp vào loại có quy mô lớn, doanh nghiệp có quy mô trung bình và doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Ngoài ra vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhiều hay ít còn là điều kiện để doanh nghiệp có thể phân phối và sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có như sức lao động, nguồn hàng hóa, và các nguồn lực khác một cách tốt nhất nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường được xem xét về quyền sở hữu đối với vốn, từ đó quyết định loại hình doanh nghiệp. Chẳng hạn như đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp là do Nhà nước cấp. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân, đây là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Đối với công ty cổ phần thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp do vốn góp của các cổ đông. 1.3 HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 1.3.1 Hiệu quả vốn kinh doanh 1.3.1.1.Khái niệm hiệu quả vốn kinh doanh. Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới hiệu quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng một cách triệt để mọi nguồn lực sẵn có. Chính vì thế các nguồn lực kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo lập, khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn hợp lý hay không hợp lý sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn nói riêng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Hiệu quả vốn kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử dụng vốn kinh doanh của một doanh nghiệp, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất. Nếu nhìn nhận tổng quát thì hiệu quả vốn kinh doanh của 1 doanh nghiệp được xác định bằng cách so sánh kết quả đầu ra với chi phí đầu vào. Hiệu quả kinh doanh = Hoặc: Hiệu quả kinh doanh = Đứng từ góc độ kinh tế nhìn nhận thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được xem xét bằng chỉ tiêu lợi nhuận hay nói cách khác, chỉ tiêu lợi nhuận ở một góc độ nào đó nói lên hiệu quả của việc sử dụng vốn. Thông qua các chỉ tiêu hiệu quả vốn kinh doanh có thể nhận thấy sự tăng trưởng hay suy thoái, đổ vỡ doanh nghiệp. Người ta có thể đo hiệu quả sử dụng vốn dưới nhiều chỉ tiêu cho từng yêu cầu quản lý. 1.3.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. a. Các chỉ tiêu tổng hợp. * Vòng quay toàn bộ vốn Công thức Vòng quay toàn bộ vốn = Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ ý nghĩa là trên một đồng vốn sản xuất kinh doanh bình quân trong kỳ thì được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Con số này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại: * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn: Công thức Tỷ suất lợi nhuận vốn = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp cho thấy khi ta bỏ ra 1 đồng vốn sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Con số này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh càng tốt và ngược lại. * Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu. Công thức Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Đây là những chỉ tiêu chung về vốn sản xuất kinh doanh, để đánh giá một cách chính xác và tìm ra nguyên nhân khắc phục hay phát huy phục vụ cho công tác quản lý thì doanh nghiệp tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại vốn thông qua các chỉ tiêu cá biệt sau: b. Chỉ tiêu cá biệt. * Hiệu quả sử dụng vốn cố định. - Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. Để đánh giá đúng mức kết quả quản lý của từng thời kỳ, chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định cần._. phải xem xét trong mối liên hệ với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Công thức Hiệu suất sử dụng tài sản cố định= Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. - Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Công thức: Hàm lượng vốn cố định = Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn cố định càng có hiệu quả. - Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định. Công thức: Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = x 100 Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập) * Hiệu quả sử dụng vốn lưu động - Số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ. Công thức: Số lần luân chuyển vốn lưu động = Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển (số vòng quay) vốn lưu động trong kỳ là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng có hiệu quả vốn lưu động, tiết kiệm vốn lưu động. - Kỳ luân chuyển vốn lưu động (số ngày của 1 vòng luân chuyển) Kỳ luân chuyển vốn lưu động = Vòng quay vốn càng nhanh thì luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả. - Hàm lượng vốn lưu động. Công thức: Hàm lượng vốn lưu động = Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng doanh nghiệp thuần có sự tham gia của bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm vốn lưu động. - Doanh lợi vốn lưu động. Công thức Doanh lợi vốn lưu động = Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn lưu động sử dụng trong kỳ tham gia sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Mức doanh loại vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. 1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Sản xuất kinh doanh đòi hỏi sự tồn tại một nguồn vốn đủ lớn như là một tiền đề bắt buộc. Đồng vốn bỏ vào kinh doanh không được hao hụt, lãng phí, mất mát mà phải luôn luôn sinh sôi nảy nở. Vấn đề cốt yếu của doanh nghiệp là đồng vốn đó phải sinh lời và tăng trưởng được bao nhiêu, điều này liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy nâng cao hiệu quả vốn là yêu cầu khách quan đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách cụ thể hơn, việc tăng cường công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp xuất phát từ những lý do chủ yếu sau: 1.3.2.1. Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, đó là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại được hay không thể hiện ở lợi nhuận. Do đó, lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Là nhà quản lý giỏi phải làm sao cho đồng vốn sinh lời với tỷ lệ cao nhất, tình trạng lãng phí vốn không làm tăng được lợi nhuận hay tình trạng thiếu vốn sẽ làm giảm lợi nhuận do sản xuất trì trệ. Hiệu quả đồng vốn đầu tư mang lại thể hiện trong mối quan hệ giữa kết quả thu được do đầu tư mang lại và chi phí bỏ ra để thực hiện đầu tư. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư là mức tăng thu nhập quốc dân. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư là lợi nhuận do đầu tư mang lại. Chỉ tiêu lợi nhuận là một điểm quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp vững chắc. Để dạt được điều đó thì doanh nghiệp phải tăng cường nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có kết quả mới thu được lợi nhuận cao, thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển. 1.3.2.2. Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn là phạm trù kinh tế quan trọng trong doanh nghiệp. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá cạnh tranh xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp không thể tồn tại nếu quá trình sản xuất kinh doanh luôn ở tình trạng thua lỗ. Vì vậy vai trò của vốn đầu tư là phải khai thác tốt nhất mọi tiềm năng và lợi thế của doanh nghiệp, kể cả việc thay đổi và bổ sung máy móc thiết bị, tăng cường sản xuất. Với vai trò quan trọng đó đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó cũng là mục tiêu cần đạt tới của các nhà quản lý vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.2.3. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tổ chức đảm bảo vốn và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc đảm bảo vốn kinh doanh đặt ra nhiệm vụ cho doanh nghiệp phải luôn có một tình trạng tài chính ổn định, phải tính được nhu cầu tài chính hàng ngày, nói lên khả năng phát triển mua sắm và tiêu thụ có lợi nhất. Việc tổ chức đảm bảo đầu đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh xuất phát từ những lý do: - Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghiệp phát triển với tộc độ cao, nhu cầu vốn đầu tư cho các hoạt động kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. - Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp, giảm bớt chi phí sử dụng vốn (như giảm bớt tiền lãi vay ngân hàng). Điều đó có tác dụng rất lớn đến việc tăng lợi nhuận ròng trong doanh nghiệp. Trong có chế bao cấp trước đây, nguồn vốn trong doanh nghiệp do Nhà nước cấp phát, nếu doanh nghiệp phát sinh nhu cầu về vốn thì có thể xin Nhà nước cấp thêm. Cho nên có thể nói trong cơ chế bao cấp, vốn của doanh nghiệp do Nhà nước tài trợ toàn bộ. Vì thế khi sử dụng vốn, doanh nghiệp không quan tâm đến hiệu quả, nếu kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp và trang trải mọi thiếu hụt. Đồng thời vai trò kiến thiết, thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc kiến thiết thu hút vốn trở nên thụ động vì vậy đã thủ tiêu tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc tổ chức và đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng đan xen hoạt động, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song cùng tồn tại với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát không còn nữa, doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức sử dụng vốn mọt cách tiết kiệm và có hiệu quả. Hơn nữa, để tồn tại và phát triển trong cơ chế mới doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghiệp, da dạng hoá sản phẩm và tìm cách hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải có vốn, do đó nhu cầu về đảm bảo vốn để sản xuất kinh doanh, mở rộng ngành nghề mới đã trở thành động lực và là đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. 1.3.2.4. Xuất phát từ tác động của cơ chế. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh nhất thiết phải sản phẩm kinh doanh có hiệu quả cao, đảm bảo không những duy trì bảo toàn vốn mà phải cho đồng vốn lớn lên trong kỳ kinh tế kinh doanh. Để thực hiện tốt mục đích đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm tốt công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH Ở CÔNG TY CP DỊCH VỤ DU LỊCH ĐƯỜNG SẮT HÀ NỘI 2.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ DU LỊCH ĐƯỜNG SẮT HÀ NỘI: 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công Ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội: Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội tiền thân là công ty phục vụ đường sắt được hợp nhất bởi công ty ăn uống đường sắt và trạm bán hàng trên tàu tại quyết định số 3271/QĐ-TC, ngày 9/12/1970 của bộ trưởng bộ giao thông vận tải Trụ sở: 104C đường Lê Duẩn, Hà Nội. Năm 1975 đất nước thống nhất, đường sắt Bắc Nam được khôi phục, tổng cục đường sắt đã chỉ đạo công ty phục vụ đường sắt tổ chức phục vụ tại các ga Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn và năm 1976 đã thành lập công ty phục vụ đường sắt II (Đà Nẵng), công ty phục vụ đường sắt III (Sài Gòn) trên cơ sở cán bộ của công ty phục vụ đường sắt I (Hà Nội). Năm 1989, căn cứ yêu cầu nhiệm vụ đổi mới quản lý của nhà nước về kinh tế, đảm bảo quyền chủ động sản xuất kinh doanh và chuyển các đơn vị kinh tế cơ sở sang hạch toán kinh doanh XHCN trong ngành đường sắt Hà Nội đã đổi tên thành Công ty dịch vụ du lịch đường sắt Hà Nội tại quyết định số 836 ĐS/TC ngày 13/11/1989 của cục trưởng cục đường sắt. Năm 1992, sau khi bàn giao một số đơn vị sang ga, công ty từ 21 đơn vị cơ sở còn lại 8 đơn vị. Năm 2002 căn cứ nghị định số 64/2002/NĐ-CP, ngày 19/06/2002 của chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tại quyết định số 3744/QĐ-BGTVT ngày 07/12/2004 Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải đã ký quyết định chuyển Công ty Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội thành công ty cổ phần. Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội chính thức đi vào hoạt động ngày 01/04/2005 theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty cổ phần số: 0103007241 do sở KHĐT- phòng đăng ký kinh doanh cấp. 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty: 2.1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của công ty: Chức năng: - Chức năng về kỹ thuật: tao ra sản phẩm hoặc dịch vụ thật hoàn của doanh nghiệp nhằm đưa ra thị trường để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. - Chức năng thương mại: thể hiện thật tốt các hoạt động mua bán các sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ. - Chức năng tài chính: quản lý, huy động, sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả trong hoạt động của công ty. - Chức năng quản lý: chức năng này là phải dự báo, điều phối, kiểm soát, chỉ huy để tạo điều kiện cho hoạt động của công ty, phối hợp ăn khớp không chệch mục tiêu dự định. Nhiệm vụ: - Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch, khách sạn, thương mại. - Tổ chức tốt du lịch lữ hành và dịch vụ du lịch cho khách trong nước và quốc tế, - Kinh doanh thương mại tổng hợp: bán buôn, bán lẻ các mặt hàng giải khát, thực phẩm, sản xuất bia, nước ngọt bảo đảm an toàn vệ sinh cho người tiêu dùng. - Cùng đặc điểm chung của ngành dịch vụ, công ty còn có đặc điểm riêng của đơn vị chủ quản là Công ty đường sắt Việt Nam đó là nhiệm vụ được phân bó theo nhu cầu phát triển của ngành đường sắt, vì vậ trong ngành du lịch đường sắt ở đâu có dịch vụ thì ở đó có Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội. - Mặt khác, nhiệm vụ của công ty còn đặt biệt chú trọng đến chất lượng phục vụ uy tín trên thị trường, vì vậy công ty đã không ngừng đầu tư sửa chữa, mua sắm trang thiết bị để phục vụ khách hàng, đây là những kết quả ban đầu đáng khích lệ, xu hướng phát triển mơi cho công ty. 2.1.2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty: Sơ đồ bộ máy tổ chức từ giám đốc đến các phòng ban HéI §ång qu¶n trÞ (chñ tÞch H§QT, c¸c thµnh viªn) Tæng gi¸m ®èc Phã tæng gi¸m ®èc Phã tæng gi¸m ®èc C¸c phßng nghiÖp vô C¸c ®¬n vÞ c¬ së P. tæ chøc hµnh chÝnh Tt l÷ hµnh vµ tm quèc tÕ ®­êng s¾t p.tµi chÝnh- kÕ ho¹ch Tt dÞch vô du lÞch tm ®­êng s¾t p. du lÞch Tt ®iÒu hµnh h­íng dÉn du lÞch p. ®Çu t­- kinh doanh Tt thÓ thao du lÞch ®­êng s¾t Tt du lÞch tm ®­êng s¾t Tt tm vµ kinh doanh du lÞch Chi nh¸nh vinh Chi nh¸nh lµo cai Chi nh¸nh phÝa nam Kh¸ch s¹n mïa xu©n (Nguồn: Phòng Tài chính_Tổng hợp -2007) Nguyên tắc hoạt động của các phòng ban chức năng: Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị là bộ phận quản lý có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty. Hội đồng quản trị không thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị của công ty gồm 5 thành viên bao gồm Chủ tịch và các thành viên khác. Hội đồng quản trị có nhiêm kỳ 3 năm và có thể được bầu lại tại đại hội đồng cổ đông tiếp theo. Hội đồng quản trị được bầu bằng thể thức bỏ phiếu trực tiếp tại Đại hội cổ đông. Thành viên Hội đồng quản trị phải đạt ít nhất 51% tổng số phiếu có quyền biểu quyết của các cổ đông tham dự trực tiếp hoặc thông qua đại diện uỷ quyền có mặt tại Đại hội cổ đông. Thành viên hội đồng quản trị: Thành viên hội đồng quản trị phải có đủ các tiêu chuẩn sau: Là cổ đông thể nhân sở hữu hoặc đại diện sở hữu nhóm thể nhân tối thiểu 5% tổng số cổ phần phổ thông của công ty. Nếu là người đại diện hợp pháp cho cổ đông pháp nhân, thì tỉ lệ sở hữu tối thiẻu là 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty. Có trình độ học vấn từ đại học trở lên, có năng lực kinh doanh và tổ chức quản lý doanh nghiệp, có kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh ngành nghề của công ty, hiểu biết pháp luật. Có sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết. Chủ tịch hội đồng quản trị Hội đồng quản trị bầu chủ tịch trong số những thành viên hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm tổng giám đốc công ty và được đại hội đồng cổ đông thông qua. Các thành viên hội đồng quản trị có thể kiêm nhiệm các chức vụ điều hành sản xuất kinh doanh của công ty. Quyền và nghĩa vụ của chủ tịch hội đồng quản trị do điều lệ của công ty và luật Doanh nghiệp quy định. Chủ tịch hội đồng quản trị phải triệu tập và chủ tọa đại hội cổ đông và các cuộc họp của hội đồng quản trị. Một ủy viên HĐQT sẽ thay mặt chủ tịch khi được chủ tịch uỷ quyền. Trong trường hợp này, chủ tịch phải thông báo cho HĐQT về việc uỷ quyền. Trong trường hợp chủ tịch không thể thức hiện nhiệm vụ vì bất kỳ lý do nào, thì HĐQT có thể bổ nhiệm một người khác trong số các thành viên của hội đồng quản trị để thực hiện thay nhiệm vụ cho chhủ tịch HĐQT. Tổng giám đốc- phó tổng giám đốc: Hội đồng quản trị bầu tổng giám đốc và phó tổng giám đốc và ký kết hợp đồng lao động với tổng giám đốc và phó tổng giám đốc. Hợp đồng lao động quy định rõ mức lương, thù lao, quyền lợi và các điều kiện khác của hợp đồng. Thông tin về mức lương, trợ cấp, quyền lợi của tổng giám đốc phải được báo cáo trước đại hội cổ đông thường niên và được nêu trong báo cáo thường niên của công ty. Nhiệm kỳ tổng giám đốc là 3 năm trừ khi HĐQT có quyết định khác. Khi hết nhiệm kỳ có thể được hội đồng quản trị xem xét bổ nhiệm lại. Nếu bổ nhiệm lại thì phải ký kết hợp đồng lao động lại với tổng giám đốc. Các phòng ban chức năng của công ty: Phòng tài chính kế hoạch: + Nguyên tắc hoạt động: Tổng giám đốc điều hành hoạt động của phòng thông qua kế toán trưởng hoặc trưởng phòng. Kế toán trưởng (hoặc trưởng phòng) điều hành hoạt động của phòng, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về thực hiện chức năng nhiệm vụ và các vụ viêc vi phạm pháp luật, tiêu cực xảy ra trong phòng. Viên chức, nhân viên trong phòng chịu sự quản lý, phân công của kế toán trưởng (hoặc trưởng phòng) trên cơ sở tổng giám đốc hoặc HĐQT đã ký và chịu trách nhiệm trước kế toán trưởng (hoặc trưởng phòng) về phần việc được giao. Trường hợp tổng giám đốc làm việc trực tiếp với nhân viên, viên chức của phòng thì nhân viên, viên chức có trách nhiệm thực hiện sau đó báo cáo lại cho kế toán trưởng (hoặc trưởng phòng). + Chức năng: Tổ chức tham mưu giúp tổng giám đốc quản lý về công tác tài chính, kế toán theo quy định hiện hành của nhà nước, của công ty. Tham mưu định hướng kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của công ty Phòng du lịch + Nguyên tắc hoạt động: Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc được điều hành hoạt động của phòng thông qua trưởng phòng. Trưởng phòng điều hành hoạt độngcủa phòng chiu trách nhiệm trước tổng giám đốc về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng và việc vi phạm pháp luật, tiêu cực xảy ra. Viên chức, nhân viên trong phòng chịu sự quản lý, phân công nhiệm vụ của trưởng phòng trên cơ sở HĐQT, tổng giám đốc đã ký và chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về việc được giáo. Trường hợp tổng giám đốc làm viêc với niên chức, nhân viên của phòng thì viện chức, nhân viên có trách nhiệm thực hiện sau đó báo cáo lại với trưởng phòng. + Chức năng: Tham mưu định hướng chiến lược phát triển kinh doanh du lịch- lữ hành, phát triển kinh doanh dịch vụ du lịch. Tham mưu điều hành kinh doanh du lịch lữ hành và tổ chức dịch vụ toàn công ty. Phòng đầu tư- kinh doanh: + Nguyên tắc hoạt động: Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc được tổng giám đốc phân công điều hành hoạt động kinh doanh của phòng đầu tư- kinh doanh thông qua trưởng phòng. Trưởng phòng điều hành hoạt động của phòng, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về việc thực hiện chức năng hoạt động của phòng, về các vi phạm pháp luật, tiêu cực xảy ra trong phòng Viên chức, nhan viên trong phòng chịu sự quản lý, phân công của trưởng phòng trên cơ sở HĐQT, tổng giám đốc đã ký và chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về phần việc được giao. Trường hợp tổng giám đốc làm việc trực tiếp với nhân viên, viên chức của phòng thì nhân viên, viên chức có trách nhiệm phải thực hiện sau đó báo cáo với trưởng phòng. + Chức năng: Tham mưu công tác đầu tư xây dựngcông trình phục vụ công tác phát triển sản xuất kinh doanh. Tham mưu phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở các ngành nghề hiện có và phát triển các ngành mới. Phòng tổ chức hành chính + Nguyên tắc hoạt động: Tổng giám đốc trực tiếp hoặc phó tổng giám đốc chỉ đạo, điều hành hoạt động của phòng tổ chức hành chínhthông qua trưởng phòng Trưởng phòng điều hành hoạt động của phòng, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về việc thực hiện chức năng nhiệm vụ và các vi phạm háp luật, tiêu cực xảy ra. Viên chức, nhân viên trong phòng chịu sự quản lý, phân công của trưởng phòng trên cơ sở HĐQT, tổng giám đốc đã ký và chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về công việc được giao. Trường hợp tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc phụ trách trực tiếp làm việc với nhân viên, viên chức trong phòng thì nhân viên, viên chức phải thực hiện sau đó báo cáo lại vơi trưởng phòng. + Chức năng: Tổ chức tham mưu giúp việc cho tổng giám đốc quản lý về các mặt công tác: Tổ chức, cán bộ, lao động, tiền lương, đào tạo, quản trị hành chính, quân sự, bảo vệ, thanh tra pháp lý, thi đua, tuyên truyền, khen thưởng, kỷ luật, y tế. Các đơn vi cơ sở: + Chức năng: Các đơn vị cơ sở có chức năng cụ thể khác nhau, song đối với Công ty thì chức năng tổng quát chúng của các đơn vị cơ sở là: trực tiếp tổ chức sản kinh doanh, phấn đấu thực hiện mục tiêu: hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, với doanh nghiệp, với cổ đông, nâng cao quyền lợi của người lao động, tối ưu hoá lợi nhuận + Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị cơ sở: Nhiệm vụ quyền hạn của các đơn vị cơ sở được phân theo các nội dung: kinh doanh lữ hành quốc tế và nội địa, kinh doanh thương mại, kinh doanh khách sạn và kinh doanh lĩnh vực khác. Theo từng đơn vị cơ sở với lĩnh vực kinh doanh khác nhau có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau, trong điều kiện bài viếc giới hạn em xin tóm tắt một số quyền hạn, nghĩa vụ chung nhất của các đơn vị cơ sở: -Đối với kinh doanh lữ hành Xây dựng định hướng phát triển hoạt động du lịch quốc tế và nội địa trên cơ sở đầu tư cơ sở vật chất và hoàn thiện đội ngũ chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng các sản phẩm du lịch phong phú phù hợp với thị hiếu, sở thích của nhiều đối tượng và luôn đối mới tạo sự hấp dẫn, tuyên truyền quảng bá, tiếp thị, báo giá công khai cho khách và điều kiện phục vụ để cạnh tranh với các doanh nghiệp du lịch khác. Luôn ý thức nâng cao uy tín và thương hiệu Haratour. Có trách nhiệm trước công ty và pháp luật về quản lý các đoàn khách du lịch quốc tế từ khi nhập cảnh đến khi xuất cảnh và khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài theo chương trình hợp đồng đã được ký. Trong trường hợp không đủ điều kiện tổ chức lữ hành thì uỷ quyền uỷ thác cho doanh nghiệp lữ hành quốc tế có uy tín thực hiện toàn bộ hoặc một phần tour hoặc một phần du lịch cho khách. Phổ biến và hướng dẫn khách thực hiện đúng các quy định về bảo vệ an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và di sản văn hoá. Đảm bảo bí mật quốc gia, an toàn tài sản và tính mạng của khách. -Đối với kinh doanh thương mại: Tổ chức thực hiện viêc ký kết hợp đồng mua, bán buôn, bán lẻ, đại lý, ký gửi sản phẩm hàng hóa được phép kinh doanh và thực hiện theo đúng pháp luật, đúng quy định của địa phương. Bảo toàn vốn và tăng nhanh vòng quay, không để xảy ra nợ hàng, tiền dây dưa hoặc không có khả năng thanh toán. Vay vốn ngoài phải được tổng giám đốc công ty cho phép bằng văn bản. Tính toán xác định định mức chi phí vận chuyển, bốc xếp, hao hụt thực tế về loại hàng làm cơ sở thực hiện. Hàng hỏng, kém chất lượng, qua hạn sử dụng phải kịp thời sử lý và chịu trách nhiệm về những thiệt hại (nếu có). -Đối với kinh doanh khách sạn: Thực hiện đúng quy định của chính phủ, Bộ công an về điều kiện kinh doanh cho thuê khác lưu trú. Thủ tục đón nhận khách đến lưu trú tại khách sạn. Chỉ nhận khách lưu trú khi có đầy đue giấy tờ hợp lệ. Từ chối đối với khác không chấp hành nôi quy khách sạn đã biết trước, yêu cầu của khách vượt quá khả năng, phát hiện có hành vi phạm pháp luật, khách mang trong người bệnh truyền nhiễm. Từ chối các cuộc thanh tra không đúng pháp luật. Đảm bảo an ninh, bí mật quốc gia, bảo vệ người và tài sản cho khách khi đang lưu trú tại khách sạn. Quản lý lưu trữ danh sách khách đã lưu trú cùng các thông tin cần thiết khác theo quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ chế độ sổ sách kế toán,lưu trữ hồ sơ, tài liệu về hoạt động kinh doanh lưu trú, chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật, của công ty. Duy trì, bảo trì, sửa chữa để không ngừng nâng cấp cơ sở vật chất của khách sạn. Lãnh đạo và nhân viên của khách sạn phải sử sự với khách đúng mực, lịch sự, gây được thiện cảm và uy tín đối với khách. -Đối với kinh doanh lĩnh vực khác: Kinh doanh các lĩnh vực khác phải đúng với giấy phép do sở kế ho¹ch và đàu tư cấp, qua trình kinh doanh phải thực hiện đúng pháp luật, đúng các quy định của địa phương, của công ty. Các lĩnh vực kinh doanh phải tuân thủ các bước tiến hành: Nghiên cứu, phân tích thị trường, thông qua khảo sát thống kê… để đánh giá khả năng thực hiện và tiềm năng của thị trường, thuận lợi, khó khăn, rủi ro… để lập phương án khả thi tiến hành đầu tư, huy động vốn, tính toán vòng quay của vố, thời gian hoàn vốn, các khoản chi phí… hiệu quả kinh doanh. Sử dụng lao động đúng với hợp đồng lao động tổng gi¸m đốc đã ký. Hợp đồng lao động thời vụ quyền hạn, người lao động phải có chuyên môn, tay nghề. Thực hiện an toàn cơ sở vật chất, an toàn lao đông đúng quy định về an toàn của từng ngành nghề, phòng chống cháy nổ, tệ nạn xã hội, những hành vi tiêu cực trong quá trình sản xuất kinh doanh gây thất thoát hàng, tiền của đơn vị. Nhận xét về mô hình quản lý: Mô hình quản lý của công ty được xây dựng theo mô hình quản lý hỗn hợp. Mô hình quản lý nat giúp doanh nghiệp có thể chuyên môn hoá được các hoạt động của doanh nghiệp song cũng có nhược điểm là có thể hình thành các doanh nghiệp quá nhỏ tạo nên sự cồng kềnh trong quản lý và không hiệu quả. Mặt khác, tổ chức quản lý của công ty có sự kết hợp chức năng trong các phòng ban như: phòng tài chính kế hoạch, phòng kinh doanh du lịch, tổ chức hành chính, như vậy có thể tiết kiệm được mặt bằng, nhân công nhưng vẫn có thể tạo ra sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ dẫn đến khó quản lý 2.1.3 Đặc điểm tình hình hoạt động của công ty: 2.1.3.1 Đặc điểm về vốn, nguồn vốn, cơ cấu vốn: Công ty cổ phần Dịch vụ du lịch Đường sắt Hà Nội mới bắt đầu đi vào hoạt động từ cuối đầu năm 2005.Tiền thân là công ty Nhà nước sau đó được đổi thành công ty cổ phần theo nghị định ngày 19/6/2002 của chính phủ về đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Ngay từ những ngày đầu thành lập số vốn điều lệ của công ty là 11 tỷ đồng tương đương với 110.000 cổ phần với mệnh giá 100.000, trong đó vốn góp của nhà nước chiếm 40% vốn điều lệ còn nười lao động và các đối tượng ngoài doanh nghiệp sở hữu 60% vốn điều lệ. Mới đi vào hoạt động được 3 năm (từ đầu năm 2005 đến nay) nhưng công ty nguồn vốn của công ty đã tăng lên nhanh chóng từ 11 tỷ đồng (năm 2005) lên gần 40 tỷ đồng (năm 2007), tăng hơn 3,7 lần so với năm 2005. Trong đó nguồn vốn vay là gần 18,5 tỷ đồng còn lại là vốn chủ sở hữu. Như vậy trong vòng ba năm nguồn vốn của công ty không ngừng tăng. Có được kết quả đó là do chính sách đúng đắn của công ty trong việc sử dụng các nguồn vốn khác nhau vào hoạt động của công ty như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn vay, các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ dài hạn… 2.1.3.2 Các đăc điểm khác: Lĩnh vực hoạt động chính của công ty là kinh doanh du lịch và lữ hành, ngoài ra công ty còn kinh doanh thêm một số mặt hàng khác như rượu bia, thuốc lá, chất bôi trơn làm sạch động cơ, nhiên liệu dùng trong động cơ… Tính trong năm 2007 doanh thu từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ là hơn 81,6 tỷ đồng. Có được kết quả đó là do sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty có trình độ, có tay nghề và có tình yêu trong công việc. Điều đó thể hiện ở đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty tương đối trẻ, tỷ lệ lao động dưới 40 tuổi chiến 62%, trong đó 28% dưới 30 tuổi. Cơ cấu lao động trẻ như vậy sẽ tạo ra sự năng động trong công ty, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đồng thời đội ngũ lao động trên 40 tuổi cũng là thành phần không thể thiếu được của công ty, họ là những người có nhiều cống hiến cho công ty và cũng có rất nhiều kinh nghiệm, đội ngũ này sẽ dẫn dắt lớp trẻ tiếp tục giữ vững vị thế của công ty trên thương trường. Để có được đội ngũ lao động năng động và nhiệt tình như thế, công ty cũng có nhiều chính sách đãi ngộ hợp lý, thu nhập trung bình của cán bộ công nhân viên trong công ty là 2.386 nghìn đồng/người/tháng, mọi người trong công ty đều được tham gia đóng BHYT, BHXH, ngoài ra còn nhiều chính sách khác nữa nhằm đảm bảo đời sống của người lao động. Về hoạt động đầu tư của công ty, trong những năm qua công ty không ngừng đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành thuận lợi và phát triển. Vè hoạt động quản lý chất lượng, hiện nay công ty chưa có phòng quản lý chất lượng nhưng những vấn đề liên quan đến chất lượng như chất lượng sản phẩm, chất lượng đội ngũ công nhân viên hay môi trường làm việc vẫn được kiểm soát một cách chặt chẽ. Mỗi phòng ban, mỗi cơ sở chịu trách nhiệm về công tác quản lý chất lượng của mình theo đúng quy định của pháp luật và của công ty. Nhờ chính sách này mà mọi hoạt động của công ty đều được đảm bảo một cách thông suốt, và có thể ứng phó được với những tình huống bất ngờ xảy ra. 2.2 THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ DU LỊCH ĐƯỜNG SẮT HÀ NỘI: Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn cũng như tình hình sử dụng vốn cho từng doanh nghiệp là một vấn đề bức xúc. Do đó làm thế nào để các nhà quản trị doanh nghiệp nói chung hay các nhà quản trị vốn nói riêng có thể huy động được những nguồn ngân quỹ nào với chi phí thấp nhất, với những điều kiện thị trường thuận lợi nhất để tối đa hoá được lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. Chính vì thế phải phát triển tình hình tổ chức, quản lý sử dụng vốn của Công ty trong vài năm trở lại đây để giúp cho các nhà quản trị vốn nắm bắt được chính xác tình hình sử dụng vốn trong Công ty, tạo điều kiện cho các nhà quản trị có được các thông số, các số liệu liên quan đến quá khứ và hiện tại mà phản ánh rõ nét tình hình sử dụng vốn tại Công ty. Qua đây nhà quản trị vốn mới có thể đề ra phương hướng hoạt động cũng như đưa ra các biện pháp thúc đẩy sự phát huy hay hạn chế những khó khăn mà Công ty đang mắc phải. 2.2.1 Tình hình tổ chức và quản lý vốn kinh doanh của Công ty: Công tác quản lý vốn sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội là một nội dung trong hoạt động tài chính, nó có một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó bao gồm tổ chức đảm bảo các nguồn vốn phân phối , quản lý quá trình đảm bảo các nguồn vốn phân phối và quản lý quá trình sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Để quản lý tốt tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp và không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì những biện pháp quan trọng là phải thực hiện tốt công tác tổ chức và quản lý vốn sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để đánh giá hoạt động này, ta xem xét số liệu về cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Công ty trong hai năm 2006-2007 như sau: Bảng 2.1: Kết cấu tài sản và nguồn vốn tại Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội ( Đơn vị: Nghìn đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 07/06 Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Tỷ lệ % Tài sản I.TSLĐ 1.Vốn bằng tiền 2.Các khoản ĐTTCNH 3.Khoản phải thu 4.Hàng tồn kho 5.TSLĐ khác 6.Chi sự nghiệp II.TSCĐ 14.259.182 456.987 - 4.356.987 5.987.555 3.457.653 - 22.657.234 38,6 3,2 - 30,6 42 24,2 - 63,4 16.890.162 525.535 - 3.856.250 7.873.613 4.634.764 - 23.051.283 32,3 3,1 - 22,8 46,6 27,5 - 57,7 118,4 115 - 88,5 131,5 134 - 101,7 Tổng TS 36.916.416 100 39.941.445 100 108,2 Nguồn vốn I.Nợ phải trả 1.Nợ ngắn hạn 2.Nợ dài hạn 3. Nợ khác II.Vốn CSH 17.109.946 11.566.503 4.647.763 895.680 19.806.470 46,4 67,6 27,2 5,2 53,6 18.400.410 12.145.348 5.359.382 895.680 21.541.035 46 66 29,1 4,9 54 107,5 105 115 100 108,6 Tổng NV 36.916.416 100 39.941.445 100 108,2 (Nguồn: Phòng Tài chính_ Tổng hợp – 2006; 2007) Đánh giá trình hình tài sản và nguồn vốn hình thành tài sản của Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội ta thấy: Tổng tài sản mà doanh nghiệp đang qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20709.doc
Tài liệu liên quan