Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội

Mở đầu Vốn là một yếu tố cần thiết và quan trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời nó cũng là tiền đề để các doanh nghiệp tồn tại, phát triển, đứng vững trong cơ chế thị trường. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm đã không chú trọng đến vai trò của vốn cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong tình hình mới, cùng với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế là quá trình mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tự quản lý và sử dụng, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn. Điều này đã tạo nên những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh năng động thích nghi với cơ chế thị trường đã sử dụng vốn có hiệu quả còn không ít những doanh nghiệp gặp khó khăn bởi việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp là vấn đề cấp bách hiện nay. Công ty Bia Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước đã tự khẳng định mình bằng các kết quả sản xuất kinh doanh mà Công ty đạt được trong thời gian qua. Công ty đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình đổi mới.Việc tăng cường nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề đang được Công ty quan tâm. Với những ý nghĩ trên, qua thời gian thực tập tại Công ty Bia Hà Nội em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là : "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Bia Hà Nội". Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần : Phần I : Vai trò và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp công nghiệp. Phần II : Thực trạng sử dụng vốn của Công ty Bia Hà Nội thời gian qua. Phần III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Bia Hà Nội. Do trình độ lý luận và thực tiễn có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo, các cô chú, anh chị trong Công ty Bia Hà Nội cùng toàn thể các bạn. Phần I Vai trò và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp công nghiệp I - Những vấn đề cơ bản về vốn sản xuất kinh doanh. 1. Khái niệm về vốn sản xuất. Trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp như là các tế bào của nền kinh tế. Doanh nghiệp là một tổ chứcđược thành lập nằm thực hiện mục đích chủ yếu là hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền vốn nhất định. Vốn là tiền nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền chỉ có thể trở thành vốn khi được dùng cho việc sản xuất - kinh doanh để mua sắm tư liệu lao động, đối tượng lao động cho việc sản xuất kinh doanh. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động để tạo ra sản phẩm, lao vụ dịch vụ. Như vậy có thể thấy tư liệu lao động và đối tượng lao động doanh nghiệp dùng cho sản xuất kinh doanh là hình thái vật chất của vốn. Vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất và giá trị. Vốn luôn vận động và chuyển hoá hình thái vật chất, cũng như chuyển hoá từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ. Ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất, còn có loại vốn tồn tại dưới dạng tài sản vô hình có giá trị như bằng phát minh, sáng chế, kinh nghiệm tay nghề, bí quyết. Vốn sản xuất trong doanh nghiệp công nghiệp là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Xét về hình thái vật chất vốn sản xuất bao gồm hai yếu tố cơ bản: tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động tạo nên thực tế sản phẩm, còn tư liệu lao động là phương tiện chuyển hoá đối tượng lao động thành thực tế sản phẩm. Quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện liên tục, do vậy vốn của doanh nghiệp được vận động không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Sự vận động của vốn sản xuất kinh doanh theo sơ đồ : TLLĐ T H SX H' T' ĐTLĐ (T' > T) Bắt đầu là hình thái vốn tiền tệ sang hình thái vốn sản xuất (TLLĐ, ĐTLĐ). Sau quá trình sản xuất vốn chuyển hoá thành hình thái vốn hàng hoá. Cuối cùng trở lại hình thái vốn tiền tệ. Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn của doanh nghiệp tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2. Phân loại vốn sản xuất. Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau về mặt giá trị của vốn sản xuất, có thể chia nó thành 2 loại : vốn cố định và vốn lưu động. 2.1. Vốn cố định. 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm. Vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất, là hình thái giá trị của những tư liệu lao động đang phát huy tác dụng trong sản xuất. Vốn cố định là biểu hiện thành giá trị của những máy móc, thiết bị, nhà xưởng... tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng về mặt giá trị của nó lại không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vốn cố định là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu của vốn sản xuất, nó quyết định trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, quyết định việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật. Quy mô của vốn cố định và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang trí kỹ thuật - "hệ thống xương và bắp thịt" của sản xuất kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó - tài sản cố định. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia một cách trực tiếp vào quá trình sản xuất. Đặc điểm cơ bản của tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất không thay đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất. Tuy nhiên không phải tất cả các tư liệu lao động đang phát huy tác dụng trong sản xuất đều là tài sản cố định. Theo quy định hiện nay những tư liệu lao động được coi là tài sản cố định khi đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau: - Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; - Có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên; Do sự mở rộng và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, cũng như sự gia tăng về nhịp độ tiến bộ khoa học hiện nay nên có một số khoản chi phí đầu tư mà tính chất luân chuyển giá trị của nó cũng tương tự như những đặc điểm luân chuyển vốn cố định. Từ thực tế này đặt ra vấn đề cần phải mở rộng khái niệm về tài sản cố định là không chỉ bao bồm những tài sản có hình thái hiện vật mà còn bao gồm cả những tài sản không có hình thái hiện vật. Loại này là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra đồng thời thoả mãn 2 tiêu chuẩn nêu trên và thường gồm chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về bằng phát minh sáng chế.... 2.1.2 - Cơ cấu vốn cố định. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu vốn hợp lý, cân đối, phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý... Khi nghiên cứu cơ cấu phải xem xét hai khía cạnh: Nội dung cấu thành và quan hệ tỉ lệ mỗi bộ phận so với toàn bộ. Cơ cấu vốn đối với các doanh nghiệp là cơ cấu động. Các bộ phận trong cơ cấu phải thay đổi để tạo ra cơ cấu tối ưu phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Vốn cố định của doanh nghiệp được biểu hiện bằng hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đang dùng trong sản xuất kinh doanh: a. Tài sản cố định vô hình gồm: - Chi phí thành lập; - Quyền khai thác; - Bằng phát minh sáng chế; - Nhãn hiệu thương mại; - Vị trí của cửa hàng; - Các tài sản cố định vô hình khác. b. Tài sản cố định hữu hình gồm: - Nhà xưởng được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý; - Vật kiến trúc để phục vụ quản lý, sản xuất; - Thiết bị động lực; - Hệ thống truyền dẫn; - Máy móc thiết bị sản xuất; - Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm; - Thiết bị và phương tiện vận tải; - Dụng cụ quản lý; - Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp. Cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong đó chủ yếu là các nhân tố: đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bố sản xuất. Khi xây dựng và cải tiến cơ cấu vốn cố định cần chú ý xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. 2.1.3 - Quản lý vốn cố định. a. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình sử dụng tài sản cố định vào sản xuất kinh doanh hoặc không sử dụng, tài sản cố định đều bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần về giá trị của tài sản cố định. Có hai loại hao mòn tài sản cố định là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về vật chất, tức là sự tổn thất dần về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu của tài sản cố định. Cuối cùng tài sản cố định sẽ không được dùng phải thanh lý. Thực chất kinh tế của hao mòn hữu hình là sự giảm dần giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất hoặc do sự tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra Tài sản cố định bị hao mòn hữu hình trước hết là do nó trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỉ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng chúng. Trong khi sử dụng và cả không sử dụng, tài sản cố định còn bị hao mòn hữu hình là do những tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết... Hao mòn vô hình của tài sản cố định là sự giảm dần giá trị của tài sản cố định do có những tài sản cố định cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Nguyên nhân dẫn đến hao mòn vô hình của tài sản cố định là do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật tiến bộ mạnh mẽ, người ta có thể sản xuất ra những máy móc thiết bị cùng loại, cùng thông số kỹ thuật nhưng với giá hạ hơn, hoặc những máy móc thiết bị đó có tính năng, tác dụng, công suất cao hơn. Do vậy tất yếu những máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị giảm giá so với hiện tại. Sự giảm giá đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt, dẫn đến những máy móc để chế tạo ra loại sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Trong quá trình sử dụng tài sản cố định các doanh nghiệp cần nghiên cứu để tìm ra những biện pháp nhằm giảm tối đa tổn thất do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra như nâng cao trình độ sử dụng tài sản cố định, đẩy nhanh việc cải tiến và hiện đại hoá máy móc thiết bị, tổ chức tốt công tác bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị, nâng cao trình độ người lao động... * Khấu hao tài sản cố định. Như vậy trong quá trình sử dụng và bảo quản tài sản cố định bị hao mòn (hữu hình và vô hình). Một bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn đó được chuyển dịch dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này là một yếu tố của chi phí sản xuất và cấu thành trong giá thành sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quĩ khấu hao tài sản cố định. Khấu hao có ý nghĩa quan trọng đối với bảo toàn, phát triển vốn và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện khấu hao đúng, đủ hao mòn thực tế giá trị tài sản cố định không những phản ánh đúng thực chất kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo quĩ khấu hao, duy trì được số vốn bỏ ra. Mức độ chính xác của tiền trích khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu tổng số tiền trích khấu hao cơ bản thấp hơn giá trị mua sắm ban đầu của tài sản cố định thì vốn cố định của doanh nghiệp sẽ bị thâm hụt, không được bảo toàn. Ngược lại, nếu tổng số tiền trích khấu hao quá cao sẽ làm tăng giá thành của sản phẩm sản xuất ra trong kỳ, sản phẩm không bán được sẽ gây ứ đọng vốn. Do đó phải lựa chọn được phương pháp khấu hao thích hợp để phản ánh đúng mức độ hao mòn. Các doanh nghiệp sử dụng số khấu hao luỹ kế của tài sản cố định để tái đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Tuy nhiên khi chưa có nhu cầu đầu tư tái tạo lại tài sản cố định doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao luỹ kế phục vụ yêu cầu kinh doanh của mình. b. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định hàng năm là một nội dung của công tác kế hoạch tài chính. Nó là biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định trên phương diện bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Đồng thời nó là căn cứ để xây dựng các quyết định tài chính về đầu tư. Thông qua kế hoạch khấu hao có thể thấy nhu cầu tăng, giảm vốn cố định trong năm kế hoạch, thấy khả năng đáp ứng nhu cầu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định trước hết cần xác định tổng giá trị tài sản cố định hiện có vào đầu năm kế hoạch, cơ cấu theo nguồn hình thành của giá trị đó và phạm vi tài sản cần tính khấu hao. Tiếp theo căn cứ vào kế hoạch đầu tư dài hạn và tình hình thực hiện kế hoạch để dự kiến điều chỉnh tăng giảm tài sản cố định năm kế hoạch. Sau đó xác định tổng giá trị bình quân tài sản cố định cần trích khấu hao trong năm kế hoạch. Từ đó tính được số tiền trích khấu hao năm kế hoạch. c. Bảo toàn và phát triển vốn cố định. Bảo toàn vốn sản xuất nói chung, vốn cố định nói riêng là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Kinh doanh ít nhất phải đảm bảo hoà vốn, bù đắp được số vốn đã bỏ ra để tái sản xuất giản đơn. Đồng thời doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi để tự tích luỹ bổ sung vốn, tạo vốn cho tái sản xuất mở rộng. Vốn cố định được bảo toàn có nghĩa là trong quá trình vận động, dẫu nó được biểu hiện dưới hình thái nào, nhung khi kết thúc một chu trình tuần hoàn thì vốn được tái lập ít nhất cũng bằng qui mô cũ để có thể trang bị lại tài sản bằng hoặc hơn cũ ở thời gian hiện tại. Về mặt hiện vật, tài sản cố định không được mất mát, hư hỏng trước thời hạn, không sử dụng sai mục đích, duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của tài sản cố định. Về mặt giá trị, người sử dụng vốn phải duy trì giá trị đồng vốn của mình, không bị ăn chia vào vốn, không tạo lãi giả làm giảm vốn. 2.2 - Vốn lưu động. 2.2.1 - Khái niệm và đặc điểm. Các doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tư liệu lao động phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể sản phẩm, bộ phận khác hao phí trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia một chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải dùng loạt đối tượng lao động khác. Toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Đối tượng lao động được biểu hiện thành hai bộ phận, một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục (nguyên nhiên vật liệu...), một bộ phận khác là những vật tư đang trong quá trình chế biến (sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động trong sản xuất. Mặt khác, quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Do đó hình thành một số khoản hàng hoá và tiền tệ, các khoản phải thu... trong khâu lưu thông được gọi là tài sản lưu động trong lưu thông. Như vậy vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất, là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động trong sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hoá và cuối cùng trở lại hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn. Vốn lưu động thường xuyên có các bộ phận tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Thông qua tình hình luân chuyển vốn lưu động có thể đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiêụ quả sử dụng vốn. 2.2.2 - Cơ cấu vốn lưu động. Cơ cấu vốn lưu động là số lượng các bộ phận cấu thành vốn lưu động và mối quan hệ tỉ lệ giữa các bộ phận đó. Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm vốn lưu động, đảm bảo kịp thời vốn lưu động cho từng khâu. Từ đó đảm bảo duy trì quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động chia làm 3 loại: - Vốn dự trữ: Là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế... để dự trữ và chuẩn bị đưa vào sản xuất. - Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất như bán thành phẩm, sản phẩm dở dang. - Vốn lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như thành phẩm, tiền mặt... Theo cách phân loại này có thể thấy vốn dự trữ và vốn lưu thông không tham gia trực tiếp vào sản xuất. Vì vậy phải hết sức hạn chế khối lượng vật liệu cũng như thành phẩm tồn kho. Đối với vốn trong sản xuất phải chú ý tăng khối lượng sản phẩm đang chế tạo với mức hợp lý. Dựa theo hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn lưu động có thể chia thành: - Vốn vật tư hàng hoá: Là biểu hiện bằng tiền của giá trị các loại vật ư, hàng hoá như nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, thành phẩm... - Vốn tiền tệ: Là bộ phận vốn lưu động biểu hiện dưới hình thái tiền tệ như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản phải thu, tạm ứng... Các phân loại này giúp các doanh nghiệp có cơ sở để tính toán và kiểm tra kết cấu tối ưu của vốn lưu động để dự thảo những quyết định tối ưu về mức tận dụng số vốnlưu động đã bỏ ra. 2.2.3- Quản lý vốn lưu động. a. Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch. Vốn lưu động định mức là số vốn lưu động tối thiểu cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động định mức quá thấp sẽ gây khó khăn cho tính liên tục của quá trình sản xuất. Doanh nghiệp thiếu vốn sẽ gây ra những tổn thất như sản xuất bị đình trệ, không đáp ứng được nhu cầu khách hàng, không đủ tiền thanh toán kịp thời nên trong quan hệ mua bán bị mất tín nhiệm. Ngược lại, vốn lưu động định mức quá cao gây nên tình trạng ứ đọng vật tư hàng hoá, lãng phí vốn, vốn lưu động chậm luân chuyển và phát sinh chi phí là tăng giá thành. Do đó doanh nghiệp phải xác định lượng vốn lưu động định mức một cách đúng đắn, hợp lý để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành một cách liên tục, nhưng đồng thời phải tiết kiệm một cách hợp lý. Muốn xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch doanh nghiệp phải lần lượt tính toán vốn lưu động định mức ở từng khâu (dự trữ, sản xuất, lưu thông), sau đó tổng hợp lại thành vốn lưu động định mức kế hoạch. * Vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ. Vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ được tính toán căn cứ vào mức luân chuyển bình quân hàng ngày và định mức số ngày dự trữ. Mức luân chuyển bình quân hàng ngày là giá trị bình quân của nguyên vật liệu, nhiên liệu... bỏ vào sản xuất trong một ngày đêm, được tính bằng mức luân chuyển cả năm (theo dự toán chi phí sản xuất) chia cho 360 ngày. Định mức số ngày dự trữ được xác định như sau: - Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu ( Nhà nước độc quyền quản lý) định mức số ngày dự trữ được cơ qua quản lý cấp trên qui định cho doanh nghiệp. - Đối với nguyên vật liệu mua trong nước có thể sử dụng công thức sau: Định mức số ngày dự trữ Số ngày = cách nhau giữa 2 lần mua Hệ số x thu mua xen kẽ Số ngày + vận chuyển Số ngày + chỉnh lý chuẩn bị Số ngày + bảo hiểm * Vốn lưu động định mức ở khâu sản xuất. Vốn lưu động định mức ở khâu sản xuất được xác định riêng cho sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế và chi phí chờ phân bổ. - Đối với vốn lưu động cho sản phẩm dở dang. Định mức vốn lưu động cho SPDD Tổng mức luân = chuyển cả năm của thành phẩm (tính theo giá thành công xưởng 360 Hệ số x sản phẩm dở dang Chu kỳ x sản xuất sản phẩm - Vốn lưu động định mức cho nửa thành phẩm tự chế được tính theo công thức: Định mức vốn lưu động nửa thành phẩm tự chế Tổng mức luân chuyển = cả năm của thành phẩm (theo giá thành công xưởng 360 Số ngày x định mức dự trữ Hệ số x nửa thành phẩm tự chế - Vốn lưu động cho phi chí chờ phân bổ. Định mức vốn lưu động cho chi phí chờ phân bổ Mức dư đầu năm = chi phí chờ phân bổ Số phát sinh + chi phí chờ phân bổ Số phải - phân bổ trong năm * Vốn lưu động định mức ở khâu lưu thông. Vốn lưu động định mức ở khâu lưu thông gồm vốnlưu động định mức cho thành phẩm và hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm. - Vốn lưu động định mức cho thành phẩm được xác định theo công thức: Vốn lưu động định mức cho = thành phẩm Tổng giá thành công xưởng sản lượng hàng hoá 360 Số ngày dự trữ x định mức thành phẩm Số ngày dự trữ định mức thành phẩm bao gồm: Số ngày dự trữ ở kho, số ngày vận chuyển từ kho đến nơi tiêu thụ. - Vốn lưu động của hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ được tính theo công thức: = x b. Kế hoạch nguồn vốn lưu động định mức. Vốn lưu động định mức của doanh nghiệp công nghiệp được hình thành từ 2 nguồn chính là: - Vốn tự có và coi như tự có của doanh nghiệp. - Vốn đi vay. Vốn lưu động định mức năm kế hoạch được xác định căn cứ vào tình hình thực tế vốn lưu động năm trước và nhu cầu vốn lưu động định mức năm kế hoạch. Nếu năm trước doanh nghiệp đã sản xuất kinh doanh và đã có một lượng vốn lưu động nhất định thì năm kế hoạch chỉ cần lập kế hoạch nguồn vốn lưu động nhằm tính ra mức thừa, thiếu so với nhu cầu vốn lưu động định mức năm kế hoạch. Số vốn lưu động tự có cần thiết cho năm kế hoạch trước hết bù đắp bằng số vốn lưu động tự có và coi như tự có năm trước chuyển sang. c. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Để duy trì và phát triển sản xuất, các doanh nghiệp phải thực hiện bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Sự luân chuyển và chuyển hoá của vốn lưu động thường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động khách quan và chủ quan làm cho vốn lưu động của doanh nghiệp giảm sút dần. Đó là các yếu tố như hàng hoá kém phẩm chất không tiêu thụ được, những rủi ro bất thường trong sản xuất kinh doanh, nền kinh tế có lạm phát, vốn lưu động bị chiếm dụng... Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động bảo toàn và phát triển vốn lưu động nhằm đảm bảo duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ đủ mua ít nhất một lượng vật tư hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả tăng lên. Để thực hiện tốt chế độ bảo toàn và phát triển vốn lưu động đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự bảo toàn và phát triển vốn ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở mức giảm, tăng giá tài sản lưu động, thực tế tồn kho của các doanh nghiệp ở các thời điểm có thay đổi về giá hàng tháng, quí, năm. Định kỳ tháng, quý, năm các doanh nghiệp phải xác định khoản chênh lệch giá trị tài sản lưu động thực tế tồn kho ở các khâu: Vật tư dự trữ, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, chênh lệch tỉ giá số dư ngoại tệ... để bổ sung vốn lưu động. Số vốn lưu động sau khi thực hiện điều chỉnh giá tài sản lưu động ở thời điểm cuối năm là số vốn lưu động doanh nghiệp phải bảo toàn. Số vốn lưu động Số vốn đã được Hệ số trượt giá vốn phải bảo toàn = giao hoặc phải x lưu động của DN đến cuối năm bảo toàn đầu năm trong năm 3. Nguồn hình thành vốn sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau: a. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn chủ yếu sau: - Vốn góp ban đầu khi thành lập của chủ doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước. - Vốn bổ sung thêm từ lợi nhuận để lại. Đây là nguồn vốn rất chủ động của doanh nghiệp, tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn tự có tạo ra hình ảnh tài chính lành mạnh, tăng uy thế của doanh nghiệp trên thị trường vốn. Tuy nhiên vốn tự có thường dẫn đến tâm lý ổn định trong kinh doanh, doanh nghiệp thiếu những bước nhảy trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới. b. Nguồn vốn đi vay. Đây là nguồn vốn quan trọng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng, của các đơn vị tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Việc phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp có thể vay số tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để mở rộng hoạt động kinh doanh. Thông qua đi vay, doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, kịp thời cho kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đạt được một tỉ suất lợi nhuận cao thì việc huy động vốn bằng đi vay có lợi nhất. Tuy nhiên, nếu tỉ suất lợi nhuận thấp thì đây là gánh nặng cho giá thành sản phẩm. c. Nguồn vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu. Đối với loại hình Công ty cổ phần, để tăng thêm vốn sản xuất Công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới. Đây cũng là một nguồn vốn thường xuyên để bổ sung cho doanh nghiệp nên nó cũng được coi là vốn tự có. Doanh nghiệp có uy tín sẽ thu hút nhiều cổ đông tham gia mua cổ phiếu. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả cá cổ đông rút vốn dễ dẫn đến phá sản nhanh. d. Nguồn vốn liên doanh liên kết. Để huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể thực hiện việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác. Nó góp phần huy động một lượng vốn trên cơ sở sự góp vốn của các bên, cùng làm cùng hưởng và cùng chịu trách nhiệm. e. Nguồn vốn trong thanh toán. Nguồn vốn trong thanh toán gồm: - Các khoản phải nộp, phải trả trong doanh nghiệp: Các khoản này tuy không lớn nhưng nó giúp doanh nghiệp giải quyết nhu cầu vốn mang tính tạm thời. Đó là các khoản như thuế phải nộp chưa nộp, các khoản phải trả công nhân viên, người mua ứng trước, các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ. - Tín dụng nhà cung cấp: Nguồn vốn này được các doanh nghiệp khai thác trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là phương thức huy động vốn tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Nó tạo ra khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh lâu bền. Tuy nhiên sẽ rủi ro nếu qui mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. II. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1. Khái niệm về hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh (lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động) để đạt kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Cần hiểu phạm trù hiệu quả một cách toàn diện trên cả hai mặt định lượng và định tính. Về mặt định lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng lượng chỉ đạt hiệu quả khi kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. Về mặt định tính mức độ hiệu quả sản xuất kinh doanh cao phản ánh sự cố gắng, nỗ lực, trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu chi tiết. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. 2.1 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: Giá trị tổng sản lượng (doanh thu) * Hiệu quả sử dụng vốn = ---------------------------------------------- Lượng vốn sản xuất bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn sản xuất bỏ vào kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng, doanh thu trong kỳ. Tổng lợi nhuận. * Tỉ suất lợi nhuận vốn sản xuất = ----------------------------------- Tổng số vốn sản xuất bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn sản xuất trong kỳ. 2.2 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định, cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích: * Các chỉ tiêu tổng hợp. - Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc giá trị tổng sản lượng. Doanh thu (giá trị tổng sản lượng) Hiệu suất sử dụng vốn cố định = ----------------------------------------- Số vốn cố định bình quân trong kỳ Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ= ------------------------------------------------------- 2 Số vốn cố định = Nguyên giá TSCĐ - Số tiền khấu hao luỹ kế đầu kỳ (cuối kỳ) ở đầu kỳ (cuối kỳ) đầu kỳ (cuối kỳ) Số vốn cố định bình quân trong kỳ Hàm lượng vốn cố định = ---------------------------------------------- Doanh thu (giá trị tổng sản lượng) Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra 1 đồng doanh thu hoặc giá trị tổng sản lượng cần bao nhiêu đồng vốn cố định. - Tỉ suất lợi nhuận vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận trước thuế(hoặc sau thuế thu nhập) Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = --------------------------------------------------- Số vốn cố định bình quân trong kỳ * Các chỉ tiêu phân tích: - Hệ số hao mòn tài sản cố định: Phản ánh mức độ hao mòn của tài sản cố định trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu: Số tiền khấu hao luỹ kế Hệ số hao mòn TSCĐ = ------------------------------------------------ Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá - Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Phản ánh 1 đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc giá trị tổng sản lượng. Doanh thu (giá trị tổng sản lượng) Hiệu suất sử dụngTSCĐ = ------------------------------------------------ Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ - Hệ số trang bị TSCĐ cho 1 công nhân sản xuất trực tiếp: Phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất: Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ Hệ số trang bị TSCĐ = -------------------------------------------------- Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất - Hệ số sử dụng máy móc thiết bị về công suất: Hệ số này phản ánh năng lực hoạt động của máy móc trong doanh nghiệp cao hay thấp bằng tỉ lệ giữa công suất mà chúng đạt được thực tế và công suất thiết kế. Công suất thực tế máy móc thiết bị Hệ số sử dụng máy móc = ------------------------._.-------------------------- thiết bị về công suất Công suất thiết kế của máy móc thiết bị - Hệ số sử dụng máy móc thiết bị về thời gian: Chỉ tiêu này phản ánh tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị sản xuất: Thời gian làm việc thực tế Hệ số sử dụng máy móc = -------------------------------------------------- thiết bị về thời gian Thời gian làm việc theo chế độ - Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp : Phản ánh quan hệ tỉ lệ gữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp. 2.3 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. - Sức sản xuất của vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động đem lại bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hay doanh thu trong kỳ. Giá trị tổng sản lượng (doanh thu) Sức sản xuất vốn lưu động = -------------------------------------------------- Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Sức sinh lợi của vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận trong kỳ: Lợi nhuận Sức sinh lợi vốn lưu động = -------------------------------------------------- Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Số vòng quay vốn lưu động: Chỉ tiêu này đánh giá tốc độ luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động quay bao nhiêu vòng trong kỳ. Vòng quay vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn, vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả. Tổng doanh thu thuần Số vòng quay vốn lưu động = ------------------------------------------------- Vốn lưu động bình quân Thời gian của kỳ phân tích Thời gian của một = ------------------------------------------------- vòng luân chuyển Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được 1 vòng. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn. Vốn lưu động bình quân Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = -------------------------------------------- Tổng doanh thu Chỉ tiêu này cho biết để có được 1 đồng doanh thu thì cần mấy đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. * Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính. Tổng số nợ Chỉ số mắc nợ = ---------------------------------------- Tổng số vốn (tài sản có) Chỉ số này càng thấp thì mức độ độc lập về tài chính càng cao vì số tài sản hiện có được đầu tư bằng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Tài sản lưu động Khả năng thanh toán ngắn hạn = ---------------------------------------- Nợ ngắn hạn Chỉ số này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ số này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là khả quan. Tổng tài sản lưu động - tồn kho Khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------------------- Tổng nợ ngắn hạn Chỉ số này ³ 1 thì doanh nghiệp không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Tổng số vốn bằng tiền Khả năng thanh toán tức thời = ---------------------------------------- Tổng nợ ngắn hạn Chỉ số này nếu > 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan còn nếu < 0,5 thì doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán. Tuy nhiên nếu tỉ suất này quá cao lại phản ánh tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Tổng số vốn bằng tiền Tỉ suất thanh toán vốn lưu động = ---------------------------------------- Tổng số tài sảnlưu động Chỉ số này cho biết khả năng chuyển đổi thành tiền của TSLĐ. Nếu chỉ tiêu này > 0,5 hoặc < 0,1 đều không tốt, vì sẽ gây ứ đọng hoặc thiếu tiền để thanh toán. Doanh thu Hệ số quay kho = -------------------------------- Giá trị tồn kho bình quân Đây là chỉ số phản ánh trình độ quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. 360 Thời gian một vòng quay = ------------------------- Hệ số quay kho Trong đó vốn lưu động bình quân được tính như sau: Vốn lưu động đầu tháng + Vốn lưu động cuối tháng Vốn lưu động =-------------------------------------------------------------- bình quân tháng 2 Vốn lưu động bình quân 3 tháng Vốn lưu động bình quân quí = ------------------------------------------ 3 Vốn lưu động bình quân 4 quí Vốn lưu động bình quân năm = --------------------------------------- 4 3. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thông qua các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh như doanh thu, lợi nhuận... với số vốn cố định, vốn lưu động để đạt kết quả đó. Hiệu quả sử dụng vốn cao nhất khi số vốn bỏ vào kinh doanh ít nhất và đạt kết quả cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là đi tìm các biện pháp làm sao cho chi phí về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít nhất mà kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh cao nhất. Lợi nhuận được xác định qua công thức: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí Với một mức doanh thu nhất định, chi phí càng nhỏ lợi nhuận càng cao. Các biện pháp làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn phải trên cơ sở phản ánh chính xác, đầy đủ các loại chi phí trong điều kiện nền kinh tế luôn có sự biến đổi về giá, để đảm bảo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn chính xác, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ bảo toàn về vốn. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao năng lực quản lý các loại tài sản, tận dụng các lợi thế của doanh nghiệp, phát huy khả năng tiềm tàng để tạo ra sự phát triển của doanh nghiệp. Với số vốn cố định, vốn lưu động hiện có việc nâng cao hiệu quả sử dụng có nghiã là sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, thanh toán các khoản nợ một cách kịp thời. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra.,trong đó các chi phí về vốn là chủ yếu III. Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luân chuyển liên tục, không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác. Tại một thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó vốn chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp . Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưuởng của các nhân tố. 1.1 - Chu kỳ sản xuất kinh doanh. Chu kỳ kinh doanh có hai bộ phận hợp thành. Bộ phận thứ nhất là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp nhập kho nguyên vật liệu cho đến khi giao hàng cho người mua. Bộ phận thứ hai là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp giao hàng cho người mua đến khi thu được tiền về. Chu kì kinh doanh gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn và trả lãi các khoản vay, các khoản phải trả. 1.2 - Kỹ thuật sản xuất. Các đặc điểm về kỹ thuật tác động tới một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định như hệ số sử dụng về thời gian, công suất... ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn cố định. Nếu kỹ thuật, công nghệ lạc hậu doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, từ đó việc bảo toàn và phát triển vốn gặp nhiều khó khăn. Ngược lại nếu kỹ thuật, công nghệ hiện đại doanh nghiệp có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm hao phí năng lượng, hao phí sửa chữa... tăng năng suất lao động, là lợi thế để chiếm lĩnh thị trường hàng hoá, thị trường vốn. Doanh nghiệp sẽ bảo toàn và phát triển được vốn, bù đắp các hao mòn hữu hình, vô hình... 1.3 - Đặc điểm về sản phẩm. Đặc điểm của sản phẩm ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm, từ đó tác động đến lợi nhuận, vòng quay của vốn. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như bia, rượu, thuốc lá sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài, giá trị lớn trên mỗi đơn vị sản phẩm ... thì sẽ thu hồi vốn chậm, hạn chế tăng doanh thu. 1.4 - Trình độ quản lý, hạch toán nội bộ doanh nghiệp. Trình độ quản lý của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quản lý tốt đảm bảo cho quá trình đó tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận, các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp. Từ đó hạn chế tình trạng ngừng việc của máy móc thiết bị, vật tư, tiết kiệm các yếu tố sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển của vốn. Mặt khác, công tác hạch toán kế toán dùng các công cụ để tính toán các chi phí phát sinh , đo lường hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó phát hiện những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn và đề xuất những biện pháp giải quyết. 1.5 - Trình độ lao động của doanh nghiệp. Trình độ lao động thể hiện qua trình độ tay nghề, khả năng tiếp thu công nghệ mới, khả năng sáng tạo, ý thức giữ gìn bảo quản tài sản. Nếu lao động có trình độ cao thì các máy móc thiết bị sẽ được sử dụng tốt, năng suất chất lượng tăng. Tuy nhiên, để phát huy tiềm năng lao động doanh nghiệp phải có cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. 1.6 - Các chính sách vĩ mô. Trên cơ sở pháp luật, các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Sự thay đổi trong chế độ chính sách đều tác động đến doanh nghiệp. Đối với hiệu quả sử dụng vốn thì các qui định như thuế vốn, thuế doanh thu, thuế lợi tức, khấu hao... đều có thể làm tăng hay giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.7 - Biến động về thị trường đầu vào, đầu ra. Biến động về thị trường đầu vào là các biến động về tư liệu lao động, là những thay đổi về máy móc, công nghệ... nó có thể giúp cho doanh nghiệp lựa chọn công nghệ phù hợp, học tập kinh nghiệm sản xuất nhưng ngược lại nó đẩy công nghệ của doanh nghiệp đi xuống so với các đối thủ cạnh tranh. Những biến động về đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu... về số lượng, giá cả.... tác động lớn tới vốn cố định, vốn lưu động. Biến động về thị trường đầu ra có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp. Nếu nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp có điều kiện tăng doanh thu và lợi nhuận, qua đó tăng hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, những biến động bất lợi như giảm đột ngột nhu cầu, khủng hoảng thừa làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 2. Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2.1 - Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm. Giải pháp có ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn là lựa chọn đúng đắn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm để huy động các nguồn lực cần thiết. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, qui mô và tính chất sản xuất kinh doanh không phải do chủ quan doanh nghiệp quyết định mà do thị trường quyết định. Do đó các phương án kinh doanh, phương án sản phẩm được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường, xuất phát từ nhu cầu thị trường để quyết định qui mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, giá bán sản phẩm. 2.2 - Xác định, lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn. Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu vốn một cách chính xác số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xây dựng kế hoạch huy động vốn. Các nguồn vốn để huy động gồm nhiều nguồn như nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vay ngân hàng, liên kết liên doanh... Việc huy động nguồn vốn nào là rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu doanh nghiệp đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quĩ khuyến khích phát triển sản xuất, phần còn lại vay tín dụng Nhà nước, vay ngân hàng, thu hút vốn liên doanh liên kết.v.v... Nếu thừa vốn doanh nghiệp phải có biện pháp xử lý linh hoạt. Nếu đưa đi liên doanh liên kết hoặc cho các doanh nghiệp khác vay thì cần thận trọng thẩm tra các dự án liên doanh, tư cách khách hàng để liên doanh có hiệu quả, vốn không bị chiếm dụng. 2.3 - Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh. Điều hành và quản lý tốt sản xuất kinh doanh được coi là một giải pháp quan trọng nhằm đạt kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh tức là đảm bảo cho quá trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp. Các biện pháp điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh phải nhằm hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng thành phẩm, hàng hoá , gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. 2.4 - áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh. Trong điều kiện cách mạng công nghệ, việc mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh là một trong những lợi thế và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới hợp thị hiếu, chất lượng cao. Từ đó doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng lợi nhuận. Nhờ áp dụng kỹ thuật tiến bộ doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng các loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí vật tư, hạ giá thành sản phẩm. 2.5 - Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế. Qua số liệu, tài liệu kế toán, đặc biệt là các báo cáo kế toán tài chính doanh nghiệp thường xuyên nắm được số vốn hiện có về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm vốn trong kỳ, mức độ đảm bảo vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán... Nhờ đó doanh nghiệp đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý kịp thời các vấn đề tài chính nhằm đảm bảo cho qúa trình kinh doanh được tiến hành thuận lợi theo kế hoạch đề ra. Phần II: thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội thời gian qua. I. quá trình hình thành và phát triển của Công ty Bia Hà Nội. 1. Thời điểm hình thành. Công ty Bia Hà Nội hiện nay là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Công nghiệp quản lý. Địa điểm của Công ty tại 70A - Hoàng Hoa Thám - quận Ba Đình - thành phố Hà Nội. Công ty Bia Hà Nội khởi công xây dựng năm 1889 và chính thức đi vào hoạt động tháng 4 năm 1890. Tên gọi của Công ty lúc đó là Công ty Bia Đông Dương, do một chủ tư bản người Pháp lên là Homel bỏ vốn ra đầu tư xây dựng. Do vốn đầu tư hạn chế nên công suất và sản lượng nhỏ, từ 300 - 600 nghìn lít/ năm. Toàn bộ máy móc thiết bị của nhà máy được mang từ Pháp sang. Hầu hết các nguyên vật liệu được nhập từ Pháp, ngoại trừ than là được khai thác tại thị trường nội địa. Tổng số lao động nhà máy lúc đó là 70 - 150 người, trong đó phần lớn là lao động thủ công Việt Nam, còn lao động kỹ thuật và lao động quản lý là người Pháp. Trong thời điểm này, nhà máy sản xuất 2 loại sản phẩm là bia hơi và bia chai. Bia sản xuất ra chủ yếu phục vụ quân đội viễn chinh Pháp, lính đánh thuê và một số ít các nhà tư sản Việt Nam. Năm 1954, thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, toàn bộ máy móc, thiết bị của nhà máy bị đem về Pháp. Ngày 15/8/1957 Chính phủ ra quyết định khôi phục lại nhà máy với sự giúp đỡ của các chuyên gia Tiệp Khắc, Cộng hoà Dân chủ Đức. Ngày 15/8/1958 sản phẩm bia chai mang nhãn hiệu Trúc Bạch ra đời. Nhà máy được mang tên là Nhà máy Bia Hà Nội. Từ đây hoạt động của Nhà máy được chia làm 2 thời kỳ: Thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ sau đổi mới. 2. Thời kỳ trước đổi mới (1958 - 1989 ) 2.1 - Giai đoạn 1958 -1981: Nhà máy hoạt động theo hình thức hạch toán độc lập và trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Sản phẩm của nhà máy là bia chai, bia hơi, các loại nước ngọt giải khát đóng chai. Sản lượng nhà máy không ngừng tăng, năm 1981 đạt 20 triệu lít/năm, gấp 7 lần năm 1958. Đội ngũ lao động của Nhà máy đã nắm hầu hết mọi khâu của qui trình công nghệ. 2.2. - Giai đoạn 1982 - 1989: Giai đoạn này nhà máy tồn tại với hình thức hạch toán phụ thuộc, là xí nghiệp thuộc liên hiệp xí nghiệp rượu, bia, nước giải khát I. Trong giai đoạn này nhờ sự giúp đỡ của Cộng hoà Dân chủ Đức, nhà máy đầu tư nâng công suất lên 40 triệu lít/ năm nhưng do đầu tư không đồng bộ nên kết quả chỉ đạt 30 - 35 triệu lít/năm. Đến năm 1988, tổng số cán bộ công nhân của nhà máy đã là 530 người, bình quân bậc thợ là 3,2/6. Nhìn chung thời kỳ trước đổi mới khách hàng của nhà máy vốn là quân dân miền Bắc. Tuy gặp nhiều khó khăn do hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh, kỹ thuật sản xuất lạc hậu nhưng nhà máy liên tục hoàn thành kế hoạch sản xuất nhà nước giao. Cho dù có những bước tiến đáng kể nhưng cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác, cơ chế kế hoạch hoá tập trung đưa nhà máy vào tình trạng trì trệ, hoạt động kém hiệu quả. Đây là thách thức lớn đối với nhà máy khi bước sang giai đoạn phát triển mới. 3. Thời kỳ sau đổi mới 1989 - 1999: Đây là thời kỳ bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới của nước ta. Tháng 6 năm 1989 nhà máy bia Hà Nội được giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán độc lập.Với môi trường kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt bởi nhiều doanh nghiệp sản xuất bia, nước giải khát ra đời nhà máy chọn con đường đổi mới công nghệ từng phần. Quá trình đầu tư tới năm 2000 gồm 3 bước. - Bước 1 (1989 - 1991): Nhà máy động viên cán bộ công nhân viên sửa chữa, nâng cấp những máy móc còn có thể khai thác được. Mặt khác nhà máy đầu tư dây chuyền sản xuất bia lon và dây chuyền bia chai của Cộng hoà liên bang Đức. - Bước 2 (1991 - 1995): Nhà máy đầu tư bồn lên men 20 triệu lít/ năm, nâng công suất nhà máy 30 - 50 triệu lít/năm. Từ tháng 10 năm 1993, nhà máy đổi tên là "Công ty Bia Hà Nội". Đến tháng 11 năm 1995 Công ty trở thành một thành viên của Tổng Công ty Rượu bia nước giải khát Việt Nam. - Bước 3 (1997 - 2000): Nhà máy tiếp tục đầu tư máy móc thiết bị mới để tăng công suất lên 100 triệu lít/ năm. Nhờ có sự đầu tư đúng hướng nên Công ty đã phát triển về mọi mặt. Chất lượng sản phẩmkhông ngừng tăng lên, sản phẩmCông ty sản xuất ra không đủ bán cho khách hàng, thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Công ty ngày càng tăng. II. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn của Công ty. 1. Đặc điểm sản phẩm - thị trường. Công ty Bia Hà Nội là doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hoá mặt hàng bia. Sản phẩm của Công ty bao gồm bia chai, bia hơi, bia lon. Hiện nay, sản phẩm bia ở thị trường Việt Nam hình thành 3 cấp chất lượng: Bia cao cấp, trung bình và bia chất lượng thấp . Sản phẩm bia của Công ty thuộc cấp chất lượng phổ thông, đối tượng phục vụ chính là những người tiêu dùng có thu nhập từ trung bình trở xuống. Sản phẩm bia của Công ty chất lượng cao, giá rẻ nên chiến lĩnh được thị hiếu của người tiêu dùng. Thị trường sản phẩm của Công ty ngày càng được củng cố, mở rộng và bắt đầu xâm nhập vào các tỉnh miền núi. Hiện nay, Công ty có khoảng 600 khách hàng và khoàng 170 đại lý phân bố rải rác khắp các tỉnh miền Bắc. Đây là những điều kiện thuận lợi để Công ty mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều hãng bia nổi tiếng thế giới đang tìm mọi cách thâm nhập thị trường nước ta. Bên cạnh đó là những nhà máy, cơ sở sản xuất bia trong nước mới xuất hiện. Điều này làm cho sự cạnh tranh trên thị trường bia Việt Nam ngày càng gay gắt. Mặc dù sản lượng của Công ty hàng năm đều tăng (thể hiện qua biểu 1) nhưng tốc độ tăng vẫn thấp hơn sản lượng bia cả nước. Điều này làm cho thị phần của Công ty giảm xuống (biểu 2). Đơn vị: 1000 lít Loại bia Bia lon Bia chai Bia hơi Năm Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % 1995 0 0 25.970 59,9 17.356 40,1 1996 1.345 2,8 28.874 59,4 18.363 37,8 1997 3.048 6,6 30.123 64,8 13.318 28,6 1998 2.106 4,1 32.011 62,3 17.256 33,6 Biểu 1: Sản lượng các loại bia qua các năm Đơn vị: 1000 lít Năm Sản lượng bia cả nước Sản lượng bia Công ty Thị phần (%) 1993 210.000.000 37.895.000 18,05 1994 350.000.000 40.194.000 11,48 1995 502.163.000 43.326.000 8,63 1996 532.000.000 48.582.000 9,13 1997 588.400.000 46.489.000 7,90 1998 656.100.000 51.374.000 7,89 Biểu 2: Sản phẩm bia của Công ty trên thị trường. Qui mô sản xuất của Công ty còn rất nhỏ so với nhu cầu đang ngày càng gia tăng. Lượng bia mà Công ty cung cấp ra thị trường vẫn còn ít, do đó vẫn còn khá nhiều các phần thị trường bỏ ngỏ khiến cho một số hãng đã chớp lấy thời cơ xâm nhập thị trường. Để tăng năng lực sản xuất đòi hỏi Công ty huy động một lượng vốn lớn để đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất. 2. Đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất bia. Các giai đoạn của qui trình công nghệ sản xuất bia gồm: chế biến, lên men, lọc và chiết bia (sơ đồ 1). - Lên men: Dung dịch đường Malto của từng loại bia sau khi đun sôi làm nguội xuống 120 bắt đầu lên men. + Lên men chính: Cho men vào dung dịch nước mạch nha, quá trình này biến đường thành cồn và CO2, độ đường giảm xuống còn 3,50. Kết thúc lên men chính sau đó lên men phụ. Quá trình lên men chính từ 6 - 9 ngày. - Chế biến: Gạo xay nhỏ trộn với nước, nâng nhiệt độ qua giai đoạn hồ hoá 650C rồi đến giai đoạn dịch hoá 750C, đun sôi 1200C trong một giờ rồi trộn với hỗn hợp Malt, nước ở giai đoạn 520C, 650C , 750C. Malt sẽ dịch hoá các tinh bột của gạo và Malt thành đường Malto, lấy dung dịch có độ đường 100 cho bia hơi, 10,50 cho bia chai, 120 cho bia lon. - Lên men phụ: Lên men phụ được thực hiện ở 3 - 50C với mục đích làm bão hoà CO2, ổn định thành phần hoá học của bia và tạo hương liệu cho bia. Thời gian lên men của các loại bia theo qui trình là: Bia hơi 20 ngày, bia chai Hà Nội 28 ngày, bia lon 45 ngày, bia Hager 40 ngày. - Lọc: Sau khi kết thúc lên men phụ, bia được lọc để loại các chất hữu cơ, men và bão hoà thêm CO2 nhằm đạt các tiêu chuẩn chất lượng. - Chiết bia: Sau khi lọc xong bia được chiết vào chai, lon và thanh trùng ở nhiệt độ 620 - 680C để tiêu diệt men bia và các vi sinh, tăng thời gian bảo quản cho bia. Bia hơi được chiết vào thùng không qua thanh trùng nên thời gian bảo quản ngắn hơn. Thời gian bảo quản sản phẩm của các loại bia là: bia hơi 24 giờ, bia chai 30 ngày, bia lon 3 tháng Gạo Malt Sàng Sàng Xay + Malt + lót Ngâm Xay nghiền ướt Trộn nước Trộn nước Nâng 520C Nâng 860C Nâng 650C Dịch hoá 720C Nâng 750C Đun sôi 1000C Lọc dịch đường Đun sôi với hoa Houblon Tách bã hoa Lắng trong Làm lạnh Lên men chính Lên men phụ Tách men giống Lọc bia + KCS Chiết bia Bia hơi Bia lon Bia chai Sơ đồ 1: Qui trình công nghệ sản xuất bia Như vậy toàn bộ qui trình công nghệ sản xuất bia quá trình lên men là dài ngày nhất do Công ty sử dụng phương pháp lên men cổ điển. Điều này là nguyên nhân làm chu kỳ sản xuất bia bị kéo dài, làm giảm tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác Công ty không đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng trong dịp lễ tết. Các đối thủ cạnh tranh sẽ chớp lấy thời cơ tung sản phẩm của họ ra chiếm lĩnh thị trường. Để khắc phục nhược điểm này nhiều nhà máy bia đang có xu hướng chuyển sang công nghệ lên men ngắn ngày, quá trình lên men chính và lên men phụ thực hiện đồng thời, có thể linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường. 3. Đặc điểm về nguyên vật liệu. Nguyên liệu chính để sản xuất bia bao gồm nước, Malt, hoa houblon, gạo và đường. Nước là nguyên liệu quan trọng để sản xuất bia vì nước chiếm tới 98,2% trong thành phần của bia. Chất lượng nguồn nước là một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng bia. Nguồn nước của Công ty bia Hà Nội có nồng độ khoáng rất đặc trưng chỉ riêng Công ty bia Hà Nội mới có, vì hàm lượng Ca++ và Mg++ trong nguồn nước Công ty thấp hơn nhiều so với nguồn nước khác. Nguồn nước này tạo ra hương vị đặc trưng cho sản phẩm bia Hà Nội khác với các loại bia khác. Đây là một lợi thế của Công ty. Hoa Houblon là loại nguyên liệu tạo ra hương bia và vị đắng đặc trưng của bia. Malt là một loại hạt đại mạch nảy mầm đã được phơi khô, loại nguyên liệu này tạo ra vị đặc trưng của bia. Hai loại nguyên liệu quan trọng là Malt và hoa Houblon là hai loại phải trồng ở xứ ôn đới, nước ta không trồng được nên phải nhập ngoại với giá đắt làm giá thành sản xuất bia tăng. Công ty phải sử dụng thêm hai loại nguyên liệu là gạo và đường làm phụ liệu cho malt để giảm giá thành sản xuất bia. Ngoài các nguyên liệu trên, men cũng là yếu tố quan trọng để tạo nên chất lượng bia. Các nguyên liệu dùng để sản xuất bia có nguồn gốc thực vật nên việc bảo quản nguyên liệu phải tuân theo các qui định nghiêm ngặt, tránh ẩm mốc. Kho chứa nguyên liệu phải luôn thoáng mát, kho chứa hoa Houblon phải luôn được bảo quản dưới 50C với độ ẩm dưới 10%. Loại bia Sản lượng (1000 lít) Malt (kg) Gạo (kg) Đường (kg) Hoa bia (kg) Cao hoa (kg) Bia hơi 400 2.900 2.000 800 20 3 Bia chai 400 3.100 2.000 800 20 5 Bai lon 400 3.100 2.000 800 20 5 Biểu 3: Kết cấu nguyên liệu của các loại bia. Qua biểu 3 cho thấy malt và gạo chiếm tỉ trọng lớn trong thành phần cấu thành nên sản phẩm. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm Công ty chú trọng việc tìm mua và theo dõi chất lượng nguyên vật liệu. Công ty có hệ thống kho dự trữ bảo quản đạt tiêu chuẩn và đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục. Tuy vậy việc bố trí kho nguyên liệu chưa hợp lý. Nhà kho ở xa khu vực nấu gây lãng phí khi vận chuyển. 4. Đặc điểm về lao động. Lao động là một nhân tố có ảnh hưởng mạnh tới việc sử dụng máy móc thiết bị và do đó ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Công ty bia Hà Nội có đội ngũ cán bộ công nhân viên khá đông và trình độ ngày càng nâng cao Năm 1995 1996 1997 1998 Chỉ tiêu STĐ % STĐ % STĐ % STĐ % Tổng số lao động 704 100 695 100 668 100 692 100 LĐ có trình độ ĐH 54 7,6 72 10,3 75 11,2 78 11,2 LĐ có trình độ CĐ, TC 25 3,6 30 4,4 35 5,2 40 5,8 LĐ phổ thông 625 88,8 593 85,3 558 83,6 574 83,0 Biểu 4: Trình độ lao động các năm của Công ty bia Hà Nội Qua biểu trên cho thấy tổng số lao động có sự biến đổi không ổn định. Công ty đang chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng lao động. Tỉ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp tăng đều qua các năm, từ 7,6% năm 1995 lên 11,2% năm 1998, và từ 3,6% lên 5,8% .Tỉ lệ lao động phổ thông giảm từ 88,8% năm 1995 xuống 83% năm 1998. Công ty có những nỗ lực đáng kể trong chính sách đào tạo, khuyến khích lao động. Bậc thợ trung bình của lao động ở Công ty khá cao. Bậc 3,8/6 năm 1998 so với bậc thợ 3,2/6 năm 1988. Công nhân cơ khí Công nhân công nghệ Bậc thợ Số CN Tỉ trọng (%) Bậc thợ Số CN Tỉ trọng (%) 7/7 11 7,7 6/6 19 8,3 6/7 21 14,8 5/6 46 19,7 5/7 45 31,8 4/6 28 12 4/7 36 25,4 3/6 125 53,6 3/7 28 19,7 2/6 15 6,4 2/7 1 0,7 Tổng 142 100 233 100 Biểu 5: Bậc thợ công nhân kỹ thuật lành nghề. Nhìn chung tỉ lệ thợ bậc cao còn thấp. Công nhân công nghệ trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng số công nhân bậc 5 và bậc 6 chỉ có 28% trong khi hai bậc thấp nhất là bậc 2 và bậc 3 chiếm tới 60%. Điều này chứng tỏ trình độ tay nghề của công nhân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Ngoài đội ngũ lao động chính, Công ty còn có thêm một lực lượng lao động làm thuê. Lực lượng này có tay nghề thấp kém, ảnh hưởng đến năng suất lao động . 5. Đặc điểm tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của Công ty. Công ty bia Hà Nội là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân và phương thức quản lý theo kiểu trực tuyến. Cơ chế quản lý của Công ty là Đảng lãnh đạo, Giám đốc điều hành và quản lý, công nhân viên chức tham gia quản lý thông qua đại hội công nhân viên chức, Hội đồng Công ty và ban thanh tra công nhân Công ty hiện đang áp dụng chế độ quản lý một thủ trưởng. Giám đốc toàn quyền quyết định, cấp dưới chịu trách nhiệm thi hành. Các bộ phận phòng ban có chức năng tham mưu giúp giám đốc. Toàn Công ty gồm có 6 phòng, 2 ban, 2 phân xưởng, 1 đội và 1 trạm. Chức năng, nhiệm vụ của Ban giám đốc và các phòng ban, đơn vị bộ phận như sau: - Ban giám đốc gồm một giám đốc và hai phó giám đốc. Giám đốc là người có thẩm quyền cao nhất, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Các phó giám đốc có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về các lĩnh vực mình phụ trách, chỉ đạo các hoạt động chung của doanh nghiệp khi được uỷ quyền và lãnh đạo các bộ phận do mình phụ trách. - Phòng tổ chức hành chính: thực hiện công tác tổ chức hành chính như tổ chức lao động, đào tạo và tuyển dụng lao động. - Phòng kế hoạch tiêu thụ: lập kế hoạch và chiến lược kinh doanh ngắn hạn, dài hạn, tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ, theo dõi việc thực hiện kế hoạch. - Phòng tài vụ: thực hiện công tác tài chính kế toán tính giá thành, quản lý toàn bộ về vốn. - Phòng cung ứng vật tư: xây dựng kế hoạch ung ứng vật tư, nguyên liệu. Thực hiện công tác dự trữ, bảo quản vận chuyển vật tư, nguyên liệu. - Phòng kỹ thuật cơ điện: Quản lý toàn bộ trang thiết bị, lập kế hoạch sửa chữa lớn, định kỳ. Lập dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm. - Phòng kỹ thuật công nghệ KCS: nghiên cứu, lựa chọn qui trình công nghệ sản xuất bia, chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Phòng chịu trách nhiệm tập hợp nghiên cứu sáng kiến, chế thử sản phẩm mới, phân tích các chỉ tiêu lý hoá. .. Riêng bộ phận KCS phải bám sát quá trình sản xuất ở mọi công đoạn cùng với các phân xưởng đ._. mới công nghệ từng phần. Điều đó dẫn đến máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, hạn chế việc tăng công suất máy móc thiết bị. Cho đến nay phần giá trị còn lại chiếm khoảng 1/3 nguyên giá và một số TSCĐ đã khấu hao hết nhưng chưa có điều kiện đổi mới. Nếu không đẩy mạnh đổi mới công nghệ thì sản lượng của Công ty tăng ít, không đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm cho thị phần của Công ty giảm xuống. Mặt khác nếu không đổi mới công nghệ thì việc hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ khó khăn. Trong điều kiện hiện nay sự cạnh tranh trong ngành bia rất gay gắt và để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy Công ty phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới công nghệ. Bên cạnh việc đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống máy móc thiết bị, Công ty đổi mới công nghệ để nâng công suất lên 100 triệu lít/năm vào năm 2000 theo kế hoạch. Để tiếp tục đổi mới công nghệ thì việc đầu tiên Công ty cần làm là phải huy động nguồn vốn để Công ty có đủ vốn đầu tư phục vụ quá trình đổi mới công nghệ. Để có số vốn 500 tỷ đồng đổi mới công nghệ Công ty cần phải đa dạng hoá các nguồn vốn huy động. Bên cạnh nguồn vốn ngân sách cấp và vốn tự có Công ty cần huy động từ các nguồn : - Vốn vay các tổ chức tài chính, tín dụng. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng là nguồn quan trọng được sử dụng rộng rãi để đổi mới công nghệ có hiệu quả. Công ty cần tính toán vay vốn sao cho có hiệu quả nhất như xác định tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu. Công ty cần xác định một cơ cấu tài chính tối ưu cho phép mang lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất trong một mức độ rủi ro chấp nhận được. Trong giai đoạn 1989 - 1995, vốn vay của ngân hàng là : 68,921 tỷ đồng trong tổng số vốn đầu tư là 184,114 tỷ đồng. Đây là lượng vốn lớn và do đôi rmới công nghệ có hiệu quả nên cho đến nay Công ty có thể sử dụng nguồn vốn vay như là nguồn quan trọng để đầu tư đổi mới công nghệ. - Phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Để huy động nguồn vốn trong dân, Công ty có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu Công ty là giấy chứng nhận Công ty vay nợ bên ngoài và đảm bảo thanh toán cả vốn lẫn lãi trong một thời hạn nhất định. Thực tế Công ty Bia Hà Nội ngày càng củng cố vững chắc vị thế của mình trên thị trường, sản phẩm của Công ty chất lượng ngày càng nâng cao và tạo được uy tín với khách hàng. Đây là lợi thế để phát hành trái phiếu Công ty nhằm bổ sung vốn cho quá trình đổi mới công nghệ. Bằng uy tín của mình Công ty có thể huy động nguồn vốn trong dân và của các doanh nghiệp khác. Nhưng nếu phát hành trái phiếu thì phải được sự cho phép của Nhà nước và sử dụng vốn đảm bảo để có khả năng thanh toán cho khách hàng. - Vay vốn nước ngoài. Công ty có thể chủ động tìm nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Công ty có thể vay vốn nước ngoài dưới hình thức ODA. Đây là số vốn bổ sung cho quá trình đổi mới công nghệ. - Liên doanh liên kết. Trong điều kiện hiện nay ngành bia đang có sự cạnh tranh rất gay gắt. Nhiều hãng bia nổi tiếng ở nước ngoài cũng như người Công ty sản xuất bia trong nước xuất hiện ở thị trường Việt Nam. Công ty bia Hà Nội bằng những lợi thế của mình có thể mở rộng liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để khắc phục những tồn tại, tạo thêm nguồn vốn cần thiết để đổi mới công nghệ. Ngoài ra để huy động vốn Công ty có thể thương lượng với các Công ty nước ngoài để được phép thanh toán theo phương thức trả chậm khi mua các thiết bị máy móc cũng như các bí quyết công nghệ của họ. Khi có được nguồn vốn thì Công ty cần tính toán để đầu tư vào các bộ phận thiết yếu. Việc đổi mới công nghệ phải đảm bảo cân đối giữa phần cứng và phần mềm để phát huy hiệu quả công nghệ mới. Để nâng cao năng lực công nghệ, Công ty cần xây dựng mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để phát triển công nghệ theo chiều sâu, làm chủ công nghệ hiện đại. Có thể dự kiến hiệu quả kinh tế khi Công ty áp dụng công nghệ mới của sản phẩm bia chai (biểu 26). - Mức tăng lợi nhuận do áp dụng công nghệ mới : DP = [(P1 - Z1)Q1] - [(P0-Z0) Q0) Trong đó : P0, P1 là giá bán sản phẩm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Z0, Z1 là giá thành đơn vị sản phẩm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Q0, Q1 là số sản phẩm sản xuất ra trong năm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Biểu 26 : Dự kiến bia chai khi áp dụng công nghệ mới 1998 2000 (dự kiến) P0 Z0 Q0 P1 Z1 Q1 10.000 đồng 3.097 đồng 32.012 1000 lít 11.000 đồng 3.500 đồng 70.000 1000 lít áp dụng công thức trên ta có : DP = (11.000 - 3.500) x 70.000 - (10.000 - 3.097) x 32.012 = = 304.021.164 (nghìn đồng) Như vậy nếu áp dụng công nghệ mới thì đến năm 2000 mức lợi nhuận tăng khoảng 304 tỷ đồng. II - Tận dụng tối đa dây chuyền sản xuất bia lon. Thực tế tại Công ty dây chuyền sản xuất bia lon hoạt động chưa hết công suất. Năm 1997 sản lượng bia lon sản xuất là 3,048 triệu lít. Năm 1998 giảm xuống còn 2,106 triệu lít. Công suất thiết kế bia lon là 9 triệu lít/năm. Giá trị khấu hao bình quân hàng năm là 1,8 tỷ đồng. Việc sản xuất thấp so với công suất làm cho giá thành sản phẩm tăng lên vì chi phí khấu hao toàn bộ máy móc. Năm 1997 giá thành tăng thêm 400 đ/lít, năm 1998 tăng thêm 657 đ/lít. Bên cạnh đó công nhân vẫn phải trả lương vì phương thức trả lương của Công ty là theo thời gian. Từ thực tế đó Công ty cần tận dụng dây chuyền sản phẩm bia lon hết công suất. Nếu như dây chuyền bia lon hoạt động hết công suất thì sẽ đem lại các kết quả : - Tăng lượng bia tiêu thụ, tăng thị phần của Công ty. - Chi phí hấu hao trong giá thành hạ xuống còn 200đ/lít. Nhưng điều khó khăn là làm thế nào để tiêu thụ lượng bia lon tăng thêm. Hiện nay phòng kế hoạch và tiêu thụ bán ra với tỷ lệ 80/20 (khách hàng mua 80% chai bia và 20% bia lon). Lượng bia lon bán cưỡng ép cho khách hàng, họ phải mua bia lon để được mua bia chai. Để bán được bia lon họ phải bán với giá thấp hơn giá mua tại Công ty. Bên cạnh đó Công ty bia Hà Nội không quảng cáo cho mặt hàng của mình. Có đại lý đến lấy hàng không được chiết khấu, giảm giá mà còn phải ký cược vỏ chai, nếu chai hỏng hoặc thiếu thì bị khấu trừ vào tiền cược. Việc cược vỏ chai gây nhiều phiền hà cho khách hàng nếu khi đến lấy bia phải đổi số chai đúng như lượng bia sẽ lấy. Nếu chai không đảm bảo kỹ thuật thì khách phải mua bù vào hoặc sẽ được bộ phận kiểm tra chai viết giấy chứng nhận thiếu chai và khách hàng phải cầm giấy đó để bộ phận bán hàng viết hoá đơn cho thuận lợi. Vì những lý do trên để bán được bia lon Công ty nên cải thiện hoạt động bán hàng bằng cách chiết khấu, giảm giá, khuyến mại cho khách hàng khi mua bia lon. Hiện nay dây chuyền bia lon chỉ hoạt động 23,33% công suất. Nếu hoạt động hết công suất và giữ giá như hiện nay thì sẽ tiết kiệm được 1,380 tỷ đồng. Nếu hạ giá thì sau tăng giá sẽ khó khăn. Số tiền tiết kiệm này sẽ được trích ra để khuyến mại, chiết khấu cho khách hàng và các đại lý. Nếu Công ty nâng công suất thực tế bia lon lên 9 triệu lít/năm và tiêu thụ hết lượng bia này thì kết quả rất khả quan. - Thị phần của Công ty tăng thêm, uy tín với khách hàng sẽ được nâng cao khi tất cả các loại sản phẩm được tiêu thụ mạnh mẽ. Hình ảnh mới về bia Hà Nội được tạo ra đối với người tiêu dùng, nó ngày càng lớn mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp bia Việt Nam. - Tạo ra sự gắn bó giữa các đại lý, khách hàng và Công ty - đây là điều quan trọng để tiếp nhận những thông tin phản hồi từ các đại lý và khách hàng. - Tận dụng nguồn lao động sẵn có. - Giảm chi phí tồn kho nguyên vật liệu, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn lưu động. - Hạ giá thành sản phẩm xuống mức có thể. - Nếu các chi phí khuyến mại, quảng cáo ít hơn 1,8 tỷ đồng thì Công ty có thể tăng thêm lợi nhuận. Năm 1998 lợi nhuận bia lon là 4,6332 tỷ đồng. Nếu hoạt động hết công suất và giữ giá bán như hiện nay thì lợi nhuận sẽ là 19,8 tỷ đồng. IV - Cải thiện công tác khấu hao TSCĐ. Trong những năm qua Công ty thực hiện khấu hao theo quyết định 1062/TC/QĐ/CSTC, khấu hao đường thẳng với tỷ lệ 10% - 12%/năm khấu hao cơ bản. Với tỷ lệ này 8 năm - 10 năm mới khấu hao hết TSCĐ và thực hiện đổi mới hoàn toàn TSCĐ./ Thực tế Công ty có những máy móc thiết bị lạc hậu, cần phải đổi mới. Dưới sự tác động của tiến bộ kỹ thuật, sự biến động của giá cả, sự hư hỏng mất mát giảm công suất máy móc trước thời hạn là nguyên nhân làm cho quỹ khấu hao không thể bù đắp để tái đầu tư vào TSCĐ. Trong thời gian tới Công ty cần phải có sự đổi mới công tác trích khấu hao, cụ thể là tăng tỷ lệ khấu hao tài sản cố định để đảm bảo tái đầu tư vào TSCĐ. Công ty cần phân loại từng nhóm tài sản cố định và xác định tỷ lệ khấu hao mỗi nhóm cho phù hợp. Theo quy định về khấu hao hiện nay Công ty có thể trích khấu hao cơ bản TSCĐ với tỷ lệ 20%. Để tăng nguồn vốn tự có cho đổi mới công nghệ, tuỳ theo nhóm tài sản cố định Công ty có thể tăng tỷ lệ trích khấu hao trên 10 - 12%. Ví dụ : Dây chuyền chiết bia chai có nguyên giá 47.504.679.000 đồng, đưa vào sử dụng đầu năm 1994. KHCB đã trích năm 1994 : 6.530.755.000 đ Giá trị còn lại đến ngày 01/01/1995 : 40.973.924.000 đ Nếu mức khấu hao cơ bản hàng năm là 12% thì thời gian thu hồi vốn là : T1 = + 1 ằ 8 năm Nếu mức khấu hao cơ bản hàng năm là 20% thì thời gian thu hồi vốn là : T2 = + 1 ằ 5 năm Như vậy với tỷ lệ trích khấu hao cơ bản mới Công ty rút ngắn 3 năm cho thời gian thu hồi vốn. Điều này thể hiện sự phù hợp với thực tế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự rút ngắn chu kỳ đổi mới máy móc thiết bị. Đồng thời nó hạn chế được sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy vậy việc áp dụng tỉ lệ trích khấu hao 20% sẽ làm tăng giá thành dẫn đến tăng giá bán các loại bia. Công ty cần xác định tỉ lệ trích khấu hao hợp lý để vừa có thể thu hồi vốn nhanh, vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến giá thành, giá bán các loại bia. Thực tế tài sản cố định Công ty sử dụng rất có hiệu quả trong những năm qua. Do vậy Công ty có điều kiện để tăng tỉ lệ khấu hao cơ bản, đẩy mạnh đổi mới TSCĐ. IV - áp dụng mô hình quản lý tiền mặt Millerr - Orr 1 Lưu Thị Hương-Tài chính doanh nghiệp-NXB Giáo dục 1998,trang 141 . Như phần trên đã trình bày Công ty giữ một lượng tiền mặt tương đối lớn. Lượng tiền này gửi với lãi suất thấp và ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý và sử dụng vốn lưu động. Nếu giữ một lượng tiền lớn thì sẽ tránh được thiếu tiền một cách tạm thời và do đó không phải đi vay ngắn hạn. Tuy nhiên giữ tiền cũng có chi phí vì nếu Công ty nắm giữ tiền thì tiền đó không sinh lãi, ứ động vốn. Vấn đề đặt ra là Công ty cần giữ một lượng tiền mặt để vừa đảm bảo không thiếu vốn tạm thời, vừa đảm bảo chi phí giữ là là ít nhất. Do đó Công ty có thể áp dụng mô hình Miller - Orr trong việc quản lý tiền mặt. Miller và Orr đã nghiên cứu một vấn đề là làm thế nào để doanh nghiệp có thể quản lý được việc cân đối tiền mặt của nó nếu như doanh nghiệp không thể dự đoán mức thu chi ngân quỹ hàng ngày. Để trả lời câu hỏi này chúng ta xem đồ thị 1 dưới đây. Giới hạn trên Mức tiền mặt theo thiết kế Giới hạn dưới Mức cân đối tiền mặt Thời gian Đồ thị 1 Nhìn vào đồ thị ta thấy mức cân đối tiền mặt dao động lên xuống và không thể dự đoán được cho đến khi nó đạt tới mức giới hạn trên. Tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức tiền mặt thiết kế để mua thượng phiếu và cân đối tiền mặt trở về mức dự kiến. Với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cân đối tiền mặt lại tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống dưới giới hạn dưới - là điểm mà doanh nghiệp cần phải có sự bổ sung tiền mặt để đáp ứng cho những hoạt động cần thiết, do vậy tại giới hạn dưới doanh nghiệp phải bán thương phiếu để có 1 lượng tiền mặt ở mức dự kiến. Như vậy mô hình này cho phép việc nắm giữ tiền mặt ở những mức độ hoàn toàn tự do trừ phi nó đạt đến điểm giới hạn trên hoặc giới hạn dưới. Tại giới hạn trên hoặc giới hạn dưới doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh bằng cách mua hoặc bán thương phiếu để có mức tiền mặt theo như thiết kế ban đầu. Doanh nghiệp nên để mức cân đối tiền mặt dao động trong khoảng nào ? Mô hình này chỉ ra rằng khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt phụ thuộc vào 3 yếu tố. Nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày rất lớn hoặc chi phí cố định của việc mua bán thương phiếu cao thì doanh nghiệp nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại nếu như lãi suất cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền mặt được xác định theo công thức sau : = 3 ( x ) Nhìn vào đồ thị trên ta thấy mức cân đối tiền mặt thiết kế không nằm giữa giới hạn trên và giới hạn dưới. Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm 1/3 khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định : = + Mô hình của Miller - Orr chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp luôn duy trì được mức cân đối tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra. Trên thực tế việc áp dụng mô hình Miller - Orr rất dễ dàng.Tuy nhiên mô hình này chỉ thực hiện được khi các loại thương phiếu được mua bán tự do trên thị trường .Sự hình thành thị trường chứng khoán là điều kiện để thực hiện mô hình này. Công ty cần thực hiện những bước sau : - Bước thứ nhất : Công ty xác định giới hạn dưới của cân đối tiền mặt. Giới hạn dưới có thể bằng 0 và cũng có thể lớn hơn 0 để đảm bảo mức an toàn tối thiểu. - Bước thứ hai : Công ty cần ước tính phương sai của thu chi ngân quỹ. Dựa vào số liệu thu chi ngân quỹ 100 ngày để tính toán phương sai cho mẫu. Việc tiêu thụ sản phẩm bia mang tính mùa vụ nên Công ty cần chọn mẫu theo từng mùa đặc thù. - Bước thứ ba là quan sát lãi suất và chi phí giao dịch mỗi lần mua bán thương phiếu. - Bước cuối cùng là tính toán giới hạn trên và mức tiền mặt theo thiết kế đồng thời đưa ra những thông tin để nhân viên tài chính thực hiện chiến lược kiểm soát theo giới hạn được xác định bởi mô hình Miller - Orr. V - Tăng cường hoạt động Marketing. Trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh như ngày nay thì hoạt động marketing là không thể thiếu được nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động sử dụng vốn nói riêng. Hoạt động marketing tiến hành phân tích khả năng thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, soạn thảo chương trình marketing - mix với các chính sách (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến) tác động mạnh tới hoạt động sử dụng vốn của Công ty. Thông qua hoạt động marketing Công ty sẽ biết được nhu cầu của người tiêu dùng đối với từng loại sản phẩm, từ đó Công ty sẽ đầu tư dài hạn vào sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. Mặt khác hoạt động marketing sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận, tốc độ luân chuyển vốn... Thực tế thời gian qua tại Công ty chưa chú trọng đến hoạt động marketing. Điều này được thể hiện rõ qua mô hình tổ chức bộ máy của Công ty là không có phòng marketing. Hoạt động marketing của Công ty mang tính đơn lẻ, không tập trung. Hoạt động marketing nằm phân tán ở các phòng như phòng kế hoạch - tiêu thụ (phụ trách các vấn đề kế hoạch, chính sách giá cả, tiêu thụ sản phẩm...), phòng kỹ thuật (nghiên cứu sản phẩm mới). Hoạt động marketing của Công ty không được chú trọng nên đã dẫn đến một quyết định sai lầm trong việc đầu tư vào sản phẩm mới là bia lon Trúc Bạch. Do việc nghiên cứu thị trường và nghiên cứu sản phẩm mới của Công ty không đầy đủ nên sản phẩm bia lon Trúc Bạch có độ nặng, không hợp lý với nhu cầu người tiêu dùng dù việc Công ty tung thêm sản phẩm ra thị trường là đúng đắn. Kết quả là hoạt động sản xuất bia lon bị thua lỗ và bia lon Trúc Bạch chỉ tồn tại 4 năm. Mặt khác hiện nay các hoạt động đẩy mạnh tiêu thụ như quảng cáo, chiết khấu, khuyến mãi Công ty vẫn chưa chú trọng. Do đó hiện nay sản phẩm bia lon của Công ty tiêu thụ chậm và hoạt động sản xuất bia lon ở mức thấp so với công suất. Theo kế hoạch Công ty sẽ sản xuất 100 triệu lít/năm vào năm 2000. Liệu Công ty có dễ dàng tiêu thụ được khối lượng sản phẩm lớn như vậy để đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nếu không đẩy mạnh hoạt động marketing. Vì vậy vấn đề cấp bách hiện nay là Công ty cần phải đẩy mạnh hoạt động marketing. Công ty nên thành lập phòng marketing để chuyên phụ trách hoạt động marketing. Hoạt động marketing bao gồm những nhiệm vụ cơ bản : * Nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu. - Nghiên cứu thị trường hiện tại, thị trường tiềm năng của Công ty theo khu vực địa lý, thu nhập của người tiêu dùng. Cần xác định quy mô, cơ cấu, sự vận động của các loại thị trường này. - Nghiên cứu nhu cầu đối với từng loại bia : bia lon, bia chai, bia hơi, xác định những nhu cầu có khả năng thanh toán mà Công ty có thể đáp ứng. - Nghiên cứu những yêu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, mẫu mã, phương thức thanh toán. - Nghiên cứu tình hình cạnh tranh của thị trường bia. Công ty cần chú ý các đối thủ cạnh tranh với các chiến lược cũng như tiềm năng của họ, từ đó đề ra chính sách đối phó để duy trì và phát triển thị phần của Công ty. Từ những nghiên cứu trên Công ty lựa chọn thị trường mục tiêu cho mình. Theo thực tế của Công ty hiện nay, Công ty nên chọn đoạn thị trường mà mức thu nhập đầu người từ trung bình đến sát mức thu nhập cao. Đây là đoạn thị trường mà hiện tại sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng và giá cả nhưng lại chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng. * Xây dựng chính sách sản phẩm. Công ty cần xây dựng chính sách chủng loại và cơ cấu sản phẩm bia. Hiện tại Công ty có ba loại sản phẩm, bia chai, bia lon, bia hơi. Công ty có thể thay đổi cơ cấu của chúng để phù hợp với nhu cầu thị trường. Công ty có thể nghiên cứu và đưa vào thị trường loại bia tươi, là loại bia đang được người tiêu dùng chấp nhận. Ngoài ra Công ty cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng bia cũng như mẫu mã, kích thước chai bia, lon bia. Hiện tại mẫu mã, nhãn mác bia Hà Nội còn kém xa các loại bia khác. Công ty cần thay đổi để hấp dẫn người tiêu dùng hơn. Mặt khác Công ty cần đa dạng hoá kích cỡ sản phẩm để phục vụ nhu cầu 1 người hoặc nhiều người. Để nâng cao chất lượng Công ty cần tạo ra hương vị đặc trưng của bia khác biệt với các loại bia của các hãng khác. * Xây dựng chính sách giá cả. Giá cả có tác động mạnh mẽ đến thu nhập và từ đó tác động đến lợi nhuận của Công ty. Mặc dù hiện nay trên thị trường cạnh tranh về giá cả đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh về chất lượng và thời gian nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng đối với cạnh tranh, nhất là trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Do vậy Công ty cần xây dựng chính sách giá cả linh hoạt để phù hợp với sự biến động nhu cầu. Công ty căn cứ vào chi phí xây dựng các mức giá dự kiến ngoài ra Công ty cần xem xét giá của các loại bia khác nhau của các đối thủ cạnh tranh để định giá cho phù hợp để duy trì và phát triển thị phần. Ngoài ra Công ty cần áp dụng chính sách giá phân biệt. Khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì Công ty cần phân biệt giá để tăng tốc độ tiêu thụ. * Xây dựng chính sách phân phối. Chính sách phân phối hợp lý thúc đẩy hàng hoá lưu thông nhanh về hiệu quả, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Trong thời gian tới sản lượng Công ty tăng 100 triệu lít/năm thì phân phối sản phẩm có vai trò quan trọng. Mặc dù nhu cầu bia của Công ty bia Hà Nội rất lớn nhưng để tiêu thụ hết 100 triệu lít/năm thì Công ty phải tổ chức lại và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối. Hiện tại hệ thống kênh phân phối của Công ty bao gồm các loại khách hàng : người tiêu dùng trực tiếp (chiếm 0,5% doanh thu), người bán lẻ (1,5%), người bán buôn (41%) và các đại lý (57%). Công ty chỉ bán hàng cho các khách hàng có khả năng thanh toán ngay. Để thúc đẩy khả năng tiêu thụ, đối với các đại lý Công ty cần tháo gỡ những khó khăn trong thanh toán. Các đại lý gặp khó khăn là phải thanh toán ngay khi mua hàng. Để thuận lợi Công ty có thể cho phép trả chậm sau một thời gian nhất định. Bên cạnh đó cần chiết khấu các đại lý thanh toán tiền ngay, các đại lý mua với số lượng lớn. Bia Hà Nội hiện nay chủ yếu tiêu thụ ở thị trường miền Bắc. Công ty cần mở thêm các đại lý ở các tỉnh miền Trung, miền Nam và tăng thêm các đại lý ở miền Bắc. Công ty cần tạo ra sự gắn bó giữa Công ty và các loại khách hàng để biết rõ tình hình tiêu thụ sản phẩm, kiểm soát việc tiêu thụ sản phẩm, những khó khăn của các thành viên trong kênh phân phối. Vấn đề lưu thông sản phẩm của Công ty gặp khó khăn do các khách hàng nhận hàng tại kho của Công ty trong khi công nhân và phương tiện bốc xếp hạn chế. Mặt khác khách hàng vận chuyển sản phẩm chỉ vận chuyển một số giờ trong ngày do đường vào Công ty bị cấm. Công ty cần xây dựng các kho phân phối sản phẩm ở các đầu mối giao thông quan trọng đi các tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vận chuyển sản phẩm. * Chính sách giao tiếp và khuyếch trương. Hiện nay Công ty chưa đẩy mạnh quảng cáo sản phẩm. Để mở rộng thị trường tại khu vực miền Trung, miền Nam Công ty cần chú ý quảng cáo về sản phẩm của Công ty. Bên cạnh đó Công ty thực hiện các hoạt động kích thích tiêu thụ như xổ số, trò chơi, tham gia hội thảo và triển lãm chuyên ngành. Các chính sách marketing phải phối hợp với nhau chặt chẽ, thống nhất để tăng cường hiệu quả hoạt động marketing, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động sử dụng vốn. VI - Cải tiến cơ cấu vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty nhằm sử dụng hợp lý và tiết kiệm vốn. Hiệu quả sử dụng vốn không chỉ phụ thuộc vào khối lượng vốn đưa vào sản xuất kinh doanh mà còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu lượng vốn đó. Tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng ngành, từng doanh nghiệp mà từ đó xác định cơ cấu vốn tối ưu. Hiện nay cơ cấu vốn của Công ty vẫn chưa hợp lý trong việc phân phối vào tài sản. Như đã phân tích, tài sản cố định của Công ty có khả năng sinh lợi cao nhưng việc đổi mới tài sản cố định chưa mạnh mẽ, các bộ phận thiếu đồng bộ, công suất thực tế vẫn chưa đạt mức thiết kế. Trong khi đó tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn hơn nhưng sử dụng không có hiệu quả. Tốc độ luân chuyển chậm và bị ứ đọng. Sản phẩm của Công ty được tiêu thụ mạnh mẽ nên được khách hàng thanh toán ngay khi mua hàng. Do đó vốn lưu động của Công ty bị chiếm dụng rất ít (3,5% giá trị tài sản lưu động). Hàng tồn kho chiếm tỷ lệ 20,5% và 16,04% giá trị tài sản lưu động đầu năm và cuối năm. Bộ phận nguyên vật liệu trong hàng tồn kho chiếm tỷ trọng cao nhưng Công ty đã có những cố gắng để giảm xuống mức có thể. Như vậy các khoản nợ phải thu và hàng tồn kho của Công ty tương đối hợp lý. Nguyên nhân của tình trạng sử dụng vốn lưu động kém hiệu quả là do lượng tiền tồn quá nhiều. Về tình hình tài chính, tổng số nợ của Công ty chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số vốn sản xuất (15,9% đầu năm và 12,4% cuối năm). Từ những phân tích trên cho thấy để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý thì Công ty nên đầu tư vào tài sản cố định bằng phần vốn bằng tiền dư thừa. Cơ cấu vốn sản xuất của Công ty đầu năm là : Vốn lưu động : 140.903.835.000 đ Giá trị tài sản cố định : 90.579.976.000 đ Tổng tài sản : 231.483.811.000 đ Cơ cấu của tài sản lưu động. Tiền : 102.900.523.000 đ TSLĐ khác : 38.003.302.000 đ Tỷ suất thanh toán vốn lưu động : = 0,73 Chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 chứng tở lượng tiền ứ đọng vì mức hợp lý của chỉ tiêu này là Ê 0,5 và ³ 0,1. Để đảm bảo khả năng thanh toán cao, giả sử chỉ tiêu tỉ suất thanh toán vốn lưu động đầu năm là 0,5 thì vốn bằng tiền là : 38.003.302.000 đ. Khi đó cơ cấu tài sản lưu động thay đổi. Tiền : 38.003.302.000 đ TSLĐ khác : 38.003.302.000 đ Tổng TLSĐ : 76.006.604.000 đ Vốn bằng tiền còn lại sau khi điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động : 102.900.533.000 - 328.003.302.00 = 64.897.231.000 đ Với số vốn bằng tiền này đầu tư vào tài sản cố định sẽ mang lại hiệu quả cao hơn để ứ đọng. Nếu hiệu suất sử dụng tài sản cố định khi được đầu tư thêm vào không đổi thì năm 1998 doanh thu tăng thêm. 64.897.231.000 x 1,67 = 108.378.376.000 đ Khả năng thanh toán tức thời đầu năm là : = 1,035 Như vậy mặc dù giảm tiền nhưng khả năng thanh toán cao. Sau khi TSCĐ được đầu tư thì công suất thực tế sẽ nâng cao, lượng vốn lưu động dư thừa sẽ giảm, tăng vòng quay vốn lưu động. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Công ty cần cố gắng giảm khối lượng nguyên vật liệu dự trữ để giảm hàng tồn kho đến mức tối thiểu. VII - Đào tạo đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Đội ngũ lao động hiện nay của Công ty đã được nâng cao trình độ, năng lực so với những năm trước. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học từ 6,3% năm 1993 lên 11,2% năm 1997. Tỷ lệ lao động phổ thông giảm từ 90% (1993) xuống 83,6% (1997). Nhìn chung Công ty đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc phát triển nhân lực thông qua đào tạo nâng cao năng lực trình độ lao động. Công ty đã có chương trình, phương pháp đào tạo phù hợp với điều kiện của mình như đào tạo chuyên gia đánh giá tác động môi trường, bồi dưỡng kiến thức liên quan đến công nghệ, bồi dưỡng đội ngũ đốc công, trưởng ca, tổ trưởng sản xuất. Ngoài ra Công ty tổ chức công tác nâng bậc, nâng cấp cho công nhân lao động. Tuy nhiên công tác đào tạo chưa hợp lý, Công ty chỉ tập trung đào tạo về nâng cao năng lực kỹ thuật, kinh tế trong khi đào tạo năng lực quản trị còn bỏ ngỏ. Hình thức đào tạo chưa phong phú, chỉ dừng lại ở các hình thức truyền thống như đào tạo ngắn hạn tại các trường đại học. Do vậy Công ty cần đổi mới hoạt động đào tạo. Công ty cần mở rộng nội dung đào tạo, kết hợp nâng cao năng lực chuyên môn kỹ thuật với nâng cao năng lực quản trị. Số người có trình độ trên đại học còn rất ít, Công ty có thể bố trí tuyển chọn những người có năng lực dưới 40 tuổi để đào tạo trên đại học, đặc biệt là chuyên ngành quản trị kinh doanh để nâng cao năng lực quản trị. Bên cạnh đó Công ty cần đào tạo bộ phận chuyên trách marketing. Không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn, Công ty cần giáo dục các giá trị tinh thần góp phần làm phong phú trình độ nhận thức chung của người lao động. Công ty cần sử dụng các hình thức, phương pháp đào tạo hiện đại. Bên cạnh việc đào tạo tại các trường đại học Công ty cần mời các nhà quản lý có kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước để giảng dạy. Thay đổi phương pháp đào tạo bằng đào tạo tình huống. Ngoài ra Công ty cần sự giúp đỡ từ phía các nhà cung cấp công nghệ để nâng cao trình độ người lao động, làm chủ các công nghệ mới. Hiệu quả đào tạo đội ngũ lao động là rất lớn và khó đo lường kết quả đem lại. Hàng năm Công ty chi 1 triệu đồng cho một cán bộ công nhân viên để đào tạo thì tổng chi phí đào tạo khoảng 700 triệu. Đây là con số khiêm tốn so với lợi nhuận hàng năm của Công ty nhưng vẫn đảm bảo khả năng đào tạo. Để tiến hành đào tạo, vào thời kỳ sản xuất không bận rộn như vào đầu mùa đông, sau tết 1 tháng cán bộ công nhân viên có thể đi học theo sự sắp xếp của Công ty. Một số kiến nghị với Nhà nước. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ Công ty bia Hà Nội để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bên cạnh những nỗ lực của Công ty. Dưới đây là một số kiến nghị với Nhà nước. - Tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty huy động vốn để đưa công suất lên 100 triệu lít / năm. Công ty cần huy động một lượng vốn là 500 tỷ đồng. Là một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đóng góp nhiều cho ngân sách, Công ty bia Hà Nội cần được sự cấp vốn của ngân sách để đổi mới công nghệ. Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước tạo điều kiện cho Công ty vay vốn nhanh chóng và có những nguồn vốn ưu đãi ,Nhà nước nên cho phép Công ty phát hành trái phiếu huy động vốn trong dân. - Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hình thành rộng rãi các tổ chức tư vấn công nghệ, các cơ quan nghiên cứu công nghệ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được công nghệ thích hợp cũng như nâng cao năng lực công nghệ. - Nhà nước cần có chính sách tài chính thích hợp để huy động các nguồn vốn ứ đọng vào sản xuất kinh doanh, hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khai thác mọi nguồn vốn. - Nhà nước kiên quyết thực hiện chống buôn lậu, hàng giả, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Kết luận Với sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Do đó vấn đề sử dụng vốn kinh doanh một cách có hiệu quả là hết sức thiết thực đối với doanh nghiệp. Trong phạm vi luận văn này em xin nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội với những nội dung chủ yếu : * Về lý luận : Trình bày có hệ thống lý luận chung về hiệu quả sử dụng vốn. - Những vấn đề cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh. - Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. * Về thực tiễn : - Trình bày một số đặc điểm của Công ty ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn. - Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn. - Đề ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Do thời gian và điều kiện có hạn nên nội dung luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp giúp đỡ của thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy giáo Trương Đức Lực và các cô, chú, anh chị trong phòng kế toán - tài vụ Công ty bia Hà Nội đã giúp em hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - NXB thống kê 1997 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Lưu Thị Hương - NXB Giáo dục 1998 3. Phân tích tài chính doanh nghiệp. Josette Peyrard - NXB Thống kê 1997 4. Tài chính doanh nghiệp sản xuất Trường Đại học tài chính - kế toán Hà Nội - NXB Thống kê 1991 5. Bảo toàn và phát triển vốn. Nguyễn Công Nghiệp - Phùng Thị Đoan - NXB Thống kê 1992. 6. Giải pháp huy động, sử dụng nguồn vốn. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước 1991 7. Quản lý tài chính vi mô Trung tâm xuất bản Hà Nội 1990 8. Niên giám thống kê 1996 9. Tạp chí Thông tin tài chính số 22/1998, số 1/1997. 10. Tạp chí Ngân hàng số 14/1998, số 9/1998. 11. Chế độ quản lý, sử dụng, trích khấu hao TSCĐ NXB Tài chính 1996. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36768.doc