Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải

Tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải: ... Ebook Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt như: chính trị, kinh tế xã hội đến văn hoá, giáo dục… Mà đặc biệt là việc nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đã làm đòn bảy cho sự phát triển của toàn xã hội. Điều đó được thể hiện rõ khi số liệu thống kê cho thấy: Việt Nam luôn nằm trong số những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới. Vừa qua nước ta đã chính thức góp tiếng nói chung với nền kinh tế thế giới khi hoàn tất những thủ tục cuối cùng gia nhập WTO - Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới. Việc gia nhập WTO sẽ tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi cho bước phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Mối quan hệ giao lưu, buôn bán giữa các quốc gia với Việt Nam ngày càng mở rộng. Lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ trao đổi, buôn bán ngày càng có khối lượng lưu thông lớn. Chính vì vậy mà hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay và trong tương lai sẽ rất phát triển. Những lợi ích mà kinh doanh xuất nhập khẩu đem lại là làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. Kinh doanh xuất nhập khẩu vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên toàn thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống toàn xã hội. Là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Cục hàng hải, Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải đã và đang không ngừng nỗ lực vươn lên về mọi mặt trong nỗ lực chung của toàn ngành. Hoạt động của Công ty bao gồm những hoạt động như: - Đại lý cho các hãng tàu quốc tế tại Việt Nam. - Dịch vụ kho bãi hàng hoá - Tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá - Dịch vụ vận tải quốc tế và trong nước - Dịch vụ tư vấn hàng hải,… Và trong quá trình thực tập em đã cố gắng tìm hiểu và đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải". Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn và các cán bộ Công ty cổ phần dịch vụ hàng h ải để hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU I. XUẤT NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP NỀN KINH TẾ 1. Bản chất và tính tất yếu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1.1. Khái niệm, bản chất kinh doanh xuất nhập khẩu Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ giữa các nước với nhau thông qua hành vi mua bán. Về cơ bản hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng tương tự như những hoạt động kinh doanh thông thường giữa các đối tượng, giữa các tổ chức kinh tế tham gia trên thị trường nhưng ở đây diễn ra trên một quy mô lớn hơn với khối lượng hàng hoá có giá trị lớn và đưa từ nước này qua nước khác. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những đối tượng sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Trước đây khi chưa có quan hệ trao đổi buôn bán hàng hoá giữa các nước, thì mỗi cá nhân cũng như mỗi quốc gia đều tự thoả mãn các nhu cầu và điều đó gây ra sự hạn chế về nhu cầu của con người và quốc gia. Cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và tác động của những quy luật kinh tế phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng rộng, nó đã vượt ra khỏi biên giới một nước và hình thành nên các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các mối quan hệ quốc tế càng được mở rộng, các nước càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình thành các mối quan hệ buôn bán với nhau. Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền kinh tế: từ xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng phục vụ đời sống hàng ngày cho đến những tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá thiết bị cao. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra rất rộng về quy mô, không gian, thời gian diễn ra thường rất lớn. Nó có thể trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm trên phạm vi một quốc gia hoặc nhiều quốc gia khác nhau. Và mục tiêu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chính là khai thác được hết mọi lợi thế cũng như khắc phục những hạn chế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, thực hiện mục tiêu quan trọng là thu ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế mỗi quốc gia. Và đối với nước ta thì hoạt động này sẽ góp phần rất lớn vào mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với nền kinh tế thế giới để vươn lên thành một quốc gia giàu mạnh. 1.2. Tính tất yếu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Trao đổi hàng hoá là một hình thức của mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành một lĩnh vực vô cùng quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào quá trình phân công lao động, phát triển kinh tế và đạt được lợi ích một cách tối đa nhất để làm giàu cho đất nước. Sự ra đời và phát triển của kinh doanh xuất nhập khẩu gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Khi xã hội càng phát triển thì phân công lao động quốc tế diễn ra càng nhanh chóng và sâu sắc. Nó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng lớn và sâu sắc. Khi quá trình phân công lao động càng sâu sắc như vậy thì xuất nhập khẩu chính là lĩnh vực kinh doanh tạo tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Thực tế trên thế giới đã cho thấy một quốc gia sẽ không thể tồn tại được chứ chưa nói gì đến sự phát triển lớn mạnh nếu như tự cô lập hay bị cô lập với kinh tế khu vực và quốc tế. Hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng minh chứng được điều này: điển hình đó là cách các quốc gia mạnh muốn trừng phạt những quốc gia nhỏ luôn sử dụng đến biện pháp về kinh tế. Mà cụ thể đó là hình thức cấm vận nền kinh tế, không cho phép những quốc gia này có quan hệ giao lưu luôn bán với các quốc gia khác. Ví dụ như: Iran, CHDCND Triều Tiên… là những quốc gia đang bị lệnh trừng phạt cấm vận nền kinh tế. Điều đó đã cho thấy kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành cầu nối các quốc gia. Nó trở thành vấn đề sống còn vì nó còn cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của một quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước, nó tạo cho mỗi nước có khả năng mở rộng thị trường ra quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao. Về sự ra đời, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia, giữa các khu vực thế giới. Chính sự khác nhau đó đã tạo cho mỗi quốc gia, khu vực địa lý khác nhau có những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và xã hội khác nhau riêng biệt. Và tạo cho mỗi quốc gia có thể chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những loại hàng hoá khác cần thiết. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những mặt hàng nào là thế mạnh của nước mình và phải có lợi nhất trên thị trường quốc tế. Chính vì thế mà sự gia tăng hoạt động xuất nhập khẩu xét về kim ngạch cũng như chủng loại hàng hoá đã làm cho vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia được xem xét một cách đặc biệt hơn. Trên thế giới đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này, các quốc gia phát triển chỉ xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng nhất định như: Nhật Bản xuất khẩu hàng công nghiệp, hàng công nghệ cao và chỉ nhập khẩu nguyên liệu thô; các nước thuộc khu vực Tây Nam Á lại có thế mạnh về dầu mỏ - và xuất khẩu dầu thô, dầu qua tinh chế trở thành ngành kinh doanh chủ lực của cả quốc gia và rộng hơn đó là cả khu vực Tây Nam Á… Để hiểu thêm về vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu đến "Lý thuyết lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế" của David Ricardo. D. Ricardo cho rằng: Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng trở nên phong phú đa dạng. Để giải thích cơ sở kinh tế của thương mại quốc tế đã có nhiều trường phái đưa ra những hàng hoá khác nhau. Trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ các nhà trọng thương chủ trương nhà nước phải tích cực tác động vào nền kinh tế thông qua các chính sách thuế quan bảo hộ, chính sách xuất nhập khẩu tiện tệ, tỷ giá hối đoái để bảo vệ các ngành sản xuất non trẻ; kiểm soát nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu. Tuy vậy, ở thế kỷ XV- XVII, các nhà trọng thương coi trao đổi thương mại là hành vi tước đoạt lẫn nhau giữa các quốc gia cũng như giữa các thành viên trong một nước. Tuy nhiên, học thuyết trao đổi quốc tế của các nhà trọng thương và trọng nông còn rất sơ sài. Đến cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, những nhà kinh tế học tài sản cổ điển đã đưa ra quan niệm dựa trên sự chuyên môn hoá sản xuất giữa các quốc gia làm cơ sở giải thích quan hệ thương mại quốc tế. Theo quan điểm này, nước nào có đất tốt trồng lúa thì cần chuyên môn vào ngành trồng trọt và mua hàng hoá công nghiệp của các nước khác. Ngược lại, nước nào có nhiều tài nguyên khoáng sản thì nên phát triển công nghiệp và mua lúa mì ở nước khác. Quan điểm đó gọi là lợi thế tuyệt đối trong trao đổi quốc tế. Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với các nước khác về một loại hàng hoá thì lợi ích của thương mại là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu nước A có thể sản xuất hiệu quả hơn nước B cả hai mặt hàng đem trao đổi? Để giải đáp cho câu hỏi này, D. Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết lợi thế so sánh khẳng định rằng, nếu một đất nước có lợi thế so sánh trong một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh trong một số sản phẩm khác thì nước đó sẽ có lợi trong chuyên môn hoá và phát triển thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế chủ yếu phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải chỉ phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đối. Để giải thích thực chất của lợi thế so sánh, D. Ricardo cho rằng một đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó nếu nước đó có chi phí sản xuất tương đối về mặt hàng đó thấp hơn so với nước khác. Có thể minh hoạ lý thuyết lợi thế so sánh bằng ví dụ sau: Do trình độ năng suất lao động khác nhau nên Mỹ có chi phí sản xuất lương thực và quần áo thấp hơn châu Âu. Nhưng nếu áp dụng nguyên tắc lợi thế so sánh để chuyên môn hóa sản xuất thì Mỹ và Châu Âu đều có lợi: Sản phẩm Hao phí lao động Mỹ Châu Âu 1. Đơn vị lương thực 1 3 2. Đơn vị quần áo 2 4 Bảng số liệu cho thấy: Nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối cả về hai mặt hàng lương thực và quần áo. Nếu so sánh chi phí sản xuất mặt hàng lương thực thì Mỹ sản xuất rẻ hơn châu Âu 3 lần, còn mặt hàng quần áo rẻ hơn 2 lần. Tuy vậy Châu Âu lại có lợi thế so sánh về mặt hàng quần áo, còn Mỹ có lợi thế so sánh về mặt hàng lương thực. Vậy nước Mỹ nên chuyên môn hoá sản xuất lương thực, châu Âu chuyên môn hoá sản xuất quần áo, thì cả 2 bên cùng có lợi trong thương mại quốc tế. Lý thuyết lợi thế so sánh (hay tương đối) của David Ricardo đã cho thấy cơ chế lợi ích khi kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, người ta cùng thấy rằng kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn diễn ra giữa các quốc gia khi chúng có các điều kiện sản xuất khá giống nhau. Ví dụ như, sự trao đổi buôn bán các mặt hàng điện tử công nghệ cao giữa các nước Tây Âu phát triển, hay sự trao đổi buôn bán ô tô giữa Đức và Mỹ,… ở đây, các quốc gia hoàn toàn tự do lựa chọn các đối tác buôn bán, các mặt hàng có khả năng đem lại lợi ích lớn nhất cho họ. Hiện nay, kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ đem lại lợi ích về kinh tế cho mỗi quốc gia mà nó còn là cầu nối cho toàn xã hội, cho sự giao lưu gắn bó của loài người trên thế giới. Chính vì vậy mà hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành một bộ phận tất yếu cho mỗi quốc gia phát triển. 2. Các nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá tại các doanh nghiệp 2.1. Quy trình xuất nhập khẩu hàng hoá 2.1.1. Quy trình xuất khẩu hàng hoá Về cơ bản hoạt động xuất khẩu hàng hoá được biểu diễn như sơ đồ sau: Tạo nguồn hàng và khách hàng xuất khẩu Đàm phán ký kết hợp đồng Những thủ tục hành chính Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu Làm thủ tục thuê tàu lưu cước nếu giữa CIF Mua bảo hiểm Thực hiện thủ tục hải quan Giao nhận hàng với chủ tàu Làm thủ tục thanh toán 2.1.2. Quy trình nhập khẩu hàng hoá Hoạt động nhập khẩu hàng hoá được biểu diễn qua sơ đồ sau: Chọn đối tác Ký kết hợp đồng Mở tín dụng Thuê và cho tàu đến tiếp nhận vận chuyển hàng Thực hiện bảo hiểm vận chuyển hàng hoá Tiếp nhận hàng về Kiểm tra chứng từ và thanh toán Mua bảo hiểm Thực hiện thủ tục hải quan Nghiệm thu hàng hoá Bồi thường nhập khẩu Làm thủ tục hải quan Khai báo hải quan 2.2. Công tác nghiên cứu thị trường Do hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra trên thị trường quốc tế, các cá nhân và tổ chức kinh doanh nằm tại các quốc gia khác nhau vì vậy khi tiến hành hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá sẽ phải chuyển từ biên giới nước này sang nước khác. Mặt khác, mỗi nước lại có những chính sách, hệ thống luật pháp, thể lệ và tập quán giao thương khác nhau vì vậy các cá nhân và tổ chức kinh doanh khi tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ phải tự đặt câu hỏi và giải đáp chúng như: kinh doanh hàng hoá gì? với ai? ở đâu? Thanh toán bằng hình thức nào? Thời điểm thực hiện là bao giờ?... 2.2.1. Nghiên cứu thị trường thế giới Khi tiến hành nghiên cứu thị trường thế giới, mà thựuc chất ở đây là việc nghiên cứu đối với thị trường trong nước. Mỗi doanh nghiệp kinh doanh cần tập trung nghiên cứu các khía cạnh chủ yếu sau: Đặc tính - chất lượng hàng hoá, thị hiếu của người tiêu dùng, các chính sách thương mại - luật pháp mỗi quốc gia, tập quán thương mại tại bản địa, tình hình kinh tế toàn quốc gia, điều kiện chuyên chở và bốc xếp, đặc tính thị trường cũng như dung lượng và giá cả thị trường v.v.. 2.2.2. Nghiên cứu thị trường trong nước Khi nghiên cứu thị trường trong nước, trước hết doanh nghiệp phải nắm bắt tình hình trong nước về những mặt liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. - Nhận biết hàng hoá xuất nhập khẩu: Tìm hiểu những mặt hàng trong nước có uy tín và được thị trường thế giới đánh giá cao, những mặt hàng có đủ tiêu chuẩn ISO- đó sẽ là điều kiện thuận lợi để bạn hàng dễ chấp nhận. Tìm hiểu nhu cầu của thị trường trong nước đang thiếu những loại hàng hoá nào, sở thích - tâm lý của khách hàng người tiêu dùng có chuộng hàng ngoại không?… - Các doanh nghiệp cần phải nắm chắc luật pháp, các chính sách kinh tế, chế độ tập quán của nước liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Nắm rõ tính ổn định nền kinh tế, chính trị, … 2.2.3. Tiến hành lựa chọn đối tượng kinh doanh Sẽ có rất nhiều doanh nghiệp, nhà kinh doanh trên cùng một thị trường và đều kinh doanh cùng chủng loại hàng hoá như nhau vì vậy khi tiến hành lựa chọn đối tác mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu về: phạm vi kinh doanh, khả năng tài chính, quy mô hoạt động, cơ sở vật chất kỹ thuật, uy tín của đối tác trên thị trường,… và thái độ liên quan đến chính trị của đối tác. Để có thể lựa chọn đối tác kinh doanh một cách tốt nhất, các doanh nghiệp có thể dùng một số phương pháp để điều tra như sau: + Qua sách báo, thông tin tài liệu từ Internet. + Qua các dịch vụ tư vấn của các doanh nghiệp hay của cơ quan nhà nước. + Qua điều tra trực tiếp + Hoặc buôn bán thử để tìm hiểu,… 2.3. Tiến hành lập phương án giao dịch Để tiến hành hoạt động giao dịch gồm các bước chi tiết sau: - Lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu. - Lựa chọn thị trường - khách hàng tiêu dùng - phương thức giao dịch vận chuyển. - Xác định số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. - Kiểm tra chất lượng hàng hoá - Lựa chọn thời gian, thời điểm, địa điểm giao nhận. - Xây dựng lựa chọn các biện pháp phát triển quan hệ như: hội nghị khách hàng, tổ chức chiêu đãi, đầu tư quảng cáo, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới,… - Tính toán và dự báo kết quả công việc giao dịch hàng hoá xuất nhập khẩu. 2.4. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng 2.5. Thực hiện ký kết, chính thức hoạt động xuất nhập khẩu 3. Vai trò của xuất nhập khẩu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập nền kinh tế ở nước ta Đối với nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia và tác động qua lại lẫn nhau bắt nguồn từ hoạt động thương mại khác nhau nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hoạt động xuất nhập khẩu đã tác động vào các quốc gia tham gia quá trình phân công lao động quốc tế. Các quốc gia sẽ tập trung sản xuất các sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu, và ngược lại sẽ nhập khẩu hàng hoá mà mình không có lợi thế. Hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế mỗi quốc gia. Chính vì vậy màhoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua hoạt động này sẽ giúp nền kinh tế nội địa tăng ngoại tệ thu được, thay đổi cán cân thanh toán theo hướng có lợi, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách quốc gia, tiếp cận được những phương thức quản lý kinh tế tiên tiến trên thế giới, tiếp xúc với khoa học công nghệ cao áp dụng cho sản xuất phát triển, tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho hàng hoá trong và ngoài nước,… và trên hết là hướng đến mục đích nâng cao đời sống cho nhân dân. Đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế còn đang phát triển với trình độ thấp như nước ta, thì những yếu tố thiếu hụt như: vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý… hay có những yếu tố là thế mạnh và tiềm năng của đất nước như: tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào,… Việc xây dựng chiến lược cho hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng và cấp bách đối với nước ta, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Và mục đích của việc cố gắng đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào tổ chức WTO cũng chính là giải pháp mở cửa nền kinh tế để huy động những nguồn vốn, kỹ thuật từ các quốc gia khác trên thế giới kết hợp với nguồn lực trong nước để tạo ra sức mạnh mới cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Tất cả với mục đích đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thu hẹp khoảng cách với các nước khác trên thế giới. Để đạt được mục tiêu đề ra, thì nhà nước phải xây dựng được chính sách xuất nhập khẩu nói riêng- chính sách kinh tế nói chung phù hợp với hoàn cảnh điều kiện nền kinh tế nước ta. Một khi đã xây dựng được những chính sách hợp lý trong điều kiện hội nhập nền kinh tế như hiện nay nó sẽ góp phần quan trọng giúp cho các doanh nghiệp có thể: + Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch mở rộng thị trường của mình, qua đó các doanh nghiệp tạo được tên tuổi của mình với các đối tác nước ngoài. + Giúp các doanh nghiệp tạo được nguồn thu ngoại tệ, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng xuất khẩu, thay thế, bổ sung… phục vụ cho quá trình phát triển. + Phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ xuất nhập khẩu cũng như các đơn vị tham gia: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt hàng trong khả năng xuất khẩu mà doanh nghiệp có thể thâm nhập. + Giúp các doanh nghiệp có thể đổi mới công tác quản trị kinh doanh đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống một sản phẩm trên thị trường. + Khi có sự cạnh tranh lành mạnh giúp các doanh nghiệp phải có kế hoạch, chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm yếu tố đầu vào… II. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1. Các hình thức xuất nhập khẩu chủ yếu 1.1. Các hình thức xuất khẩu - Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ - bộ phận, vật tư phụ tùng dành cho sản xuất. - Xuất khẩu các loại hàng hoá dưới hình thức trao đổi, hợp tác sản xuất gia công liên doanh quốc tế. - Các hình thức chuyển khẩu - tạm nhập tái xuất. - Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác cho các doanh nghiệp tổ chức nước ngoài. - Hoạt động của các tổ chức kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài. 1.2. Các hình thức nhập khẩu cơ bản - Nhập khẩu uỷ thác - Nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng - Nhập khẩu theo hình thức đổi hàng - Nhập khẩu tái xuất 2. Các phương pháp đánh giá hiệu quả 2.1. Một số quan điểm về hiệu quả Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Nếu ký hiệu K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau. D. là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. t: là hiệu quả Ta có công thức hiệu quả chung là: E = K - C (1) hiệu quả tuyệt đối E = (2) hiệu quả tương đối Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích đánh giá và lựa chọn các phương án hành động. 2.1.1. Các khái niệm hiệu quả Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều khái niệm khác nhau. a) Hiệu quả tổng hợp: là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mới mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong mối quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. b) Hiệu quả kinh doanh: là hiệu quả nếu chỉ xét về khía cạnh kinh tế của vấn đề, là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau. Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó. c) Hiệu quả chính trị xã hội: là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Chẳng hạn giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, môi trường,… d) Hiệu quả trực tiếp: là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án, một doanh nghiệp (một đối tượng). e) Hiệu quả gián tiếp: là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một đối tượng khác Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt những dự án khác. Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiểu quả của các dự án khác là hiệu quả gián tiếp. f) Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối: là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số giữa kết quả và chi phí. Lợi nhuận ròng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt đối, tỷ suất lợi nhuận là hình thức của hiệu quả tương đối. 2.1.2. Hiệu quả tài chính Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lơi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu, chi có liên quan trực tiếp. 2.1.3. Hiệu quả kinh tế quốc dân Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người đại diện cho nó là Nhà nước. Vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế. 2.1.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài Căn cứ vào lợi ích nhận được trong những khoảng thời gian dài hay ngắn hình thành khái niệm hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích được xem xét trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt mang tính tạm thời. Việc nhập những thiết bị cũ, công nghệ kém tiên tiến, rẻ tiền có thể mang lại hiệu quả trước mắt nhưng về lâu dài không hẳn là như vậy. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài. Việc bỏ tiền mua bảo hiểm có lợi ích trước mắt bị vi phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn định lâu dài, nó cho phép san bớt rủi ro cho các nhà bảo hiểm. 2.2. Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: "Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ…" (Văn kiện Đại hội Đảng VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 1996). Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm. Kinh doanh thương mại quốc tế chiếm một vị trí quan trọng trong tái sản xuất xã hội. Khi sản xuất các hàng hoá để xuất khẩu, các quốc gia bỏ ra những chi phí nhất định. Các tỷ lệ trao đổi (mua bán) được hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan của nó khác với giá trong nội bộ của nước xuất khẩu. Mặt khác, sản phẩm nhập khẩu tham gia vào lưu thông hàng hoá trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, thực tế không tái sản xuất tại nước đó. Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi đối với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước. Với đặc thù của kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường văn hoá của các tác nhân nước ngoài. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động kinh doanh này cần phải xem xét tổng quan các tác nhân ảnh hưởng đến nó để có các phương pháp làm việc và giải quyết công việc tối ưu, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh này ngày càng phát triển phù hợp với xu thế chung của thời đại và định hướng của Đảng và Nhà nước ta. Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế là góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân có thể sử dụng, qua đó tạo thêm nguồn tích luỹ cho sản xuất và nâng cao mức sống trong nước. - Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích xã hội. 2.3. Các phương pháp phân tích đánh giá hiệu quả tài chính a) Các phương pháp phân tích hiệu quả tài chính giản đơn + Phương pháp hệ số hoàn vốn giản đơn + Phương pháp thời gian hoàn vốn b) Các phương pháp giá trị tương đương + Phương pháp giá trị hiện tại thuần + Phương pháp giá trị tương lai + Phương pháp giá trị hiện tại thuần hàng năm c) Phương pháp tỉ số lợi ích/chi phí (B/C) 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 3.1. Đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu - Lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của từng hợp đồng xuất khẩu. Lợi nhuận là tiền để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, là điều kiện để nâng cao mức sống cho nhân viên. Lợi nhuận là toàn bộ tiền có được sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu từ tổng doanh thu có được của hợp đồng. Công thức tính lợi nhuận như sau: P = TR - TC Trong đó: P: Lợi nhuận TR: Tổng doanh thu TC: Tổng chi phí Nếu P>0 thì hoạt động kinh doanh có hiệu quả, ngược lại nếu P<0 thì làm ăn thua lỗ, nếu P = 0 thì hoạt động hoà vốn. Khi đánh giá dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận thì phải thống kê đầy đủ các chi phí phát sinh, chi phí cơ hội và giá trị thời gian của tiền, mức lạm phát… đây là yếu tố thường bị bỏ sót khi đánh giá làm kết quả đánh giá không được khách quan và chính xác. Tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu lợi nhuận cho biết hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả hay không tuy nhiên hiệu quả đến mức độ nào thì không phản ánh được. Để phản ánh mức độ hiêu quả thực tế của hợp đồng người ta dùng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Chỉ tiêu này có thể tính bằng những cách sau đây: * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận và chi phí P' = Trong đó: P': là tỷ suất lợi nhuận Chỉ tiêu này nói lên tỷ lệ phần trăm lãi so với tổng chi phí của doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng. Chỉ tiêu này thường được so sánh với lãi suất ngân hàng hoặc một số chỉ tiêu khác. * Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và doanh thu: P' = Tỷ suất lợi nhuận ở đây được sử dụng để đánh giá hiệu quả của doanh thu hay trong 100 đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận. * Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và tổng vốn Dùng để đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh. Hay còn gọi là khả năng sinh lời. P' = * Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu: là tỷ lệ giữa chi phí bằng đồng bản tệ trên doanh thu tính bằng đồng ngoại tệ. Thông thường chỉ tiêu này được tính trước khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, để biết được hợp đồng có hiệu quả hay không. Nhưng sau khi kết thúc hợp đồng thì người ta chỉ tính lại để biết được hiệu quả thực tế của hợp đồng. Chỉ tiêu này còn được dùng để lựa chọn hợp đồng tối ưu khi có nhiều hợp đồng bằng cách so sánh cùng chỉ tiêu giữa các hợp đồng. 3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu Để đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu của mình, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sử dụng các chỉ tiêu sau đây: * Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Chỉ tiêu lợi nhuận là sự so sánh giữa tổng doanh thu mà doanh nghiệp thu được với tổng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra. Đây là chỉ tiêu quan trọng, dựa vào chỉ tiêu này doanh nghiệp biết hoạt động kinh doanh của mình có lãi hay không. * Chỉ tiêu tỉ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu Knk = Knk là tỉ suất ngoại tệ đối với hàng hoá nhập khẩu, là tổng số đồng nội tệ có thể thu được khi bỏ ra một đồng ngoại tệ. P là giá cả hàng hoá ở trong nước tính bằng nội tệ. Q là khối lượng lô hàng nhập khẩu Tn là số ngoại tệ phải chi ra để nhập khẩu lô hàng Nếu tỷ suất này mà cao hơn tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ thì việc nhập khẩu của doanh nghiệp là có lãi và ngược lại. Hay nói cách khác hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi P/Knk < R . R là tỉ giá hối đoái giữa đồng ngoại tệ với đồng nội._. tệ. * Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp: H = Xxk Fxk + Nnk C H là hiệu quả tổng hợp của một doanh nghiệp kinh doanh XNK Xxk là chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu Fxk là chi phí đầy đủ trong nước đối với xuất khẩu (qui ra ngoại tệ) Nnk là chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu. C là chi phí bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá Một doanh nghiệp kinh doanh XNK hai chiều có thể không có lãi ở nhập khẩu hoặc ngược lại, miễn sao H > 0 thì kết quả hoạt động kinh doanh XNK có lãi. * Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của nhập khẩu Hn = Hn là hiệu quả nhập khẩu Cs là chi phí sản xuất sản phẩm nhập khẩu hoặc sản xuất sản phẩm để thay thế nhập khẩu (theo giá nội địa). Cn là tổng chi phí ngoại tệ cho việc nhập khẩu (theo giá quốc tế) 3.3. Các chỉ tiêu định tính Việc thực hiện một hợp đồng xuất nhập khẩu không phải chỉ là để thu lợi nhuận mà còn nhằm thực hiện nhiều mục tiêu khác nữa như: mở rộng thị trường, định vị sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh… Có nhiều lúc ta cần phải biết chấp nhận thua lỗ để đạt được mục tiêu khác mà trong thời điểm đó đang là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu. Có khá nhiều mục tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp như: - Uy tín của doanh nghiệp: điều này thể hiện sự yêu thích sản phẩm doanh nghiệp của khách hàng hay sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm. - Khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường: điều này nói lên rằng trong thị trường hiện tại doanh nghiệp có tỷ phần bao nhiêu, có khả năng mở rộng thị trường hay không, khả năng khai thác thị trường đến đâu… Tóm lại, đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp là một công việc quan trọng đối với doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Qua đó cho ta thấy được những mặt làm được và những mặt chưa làm được để rồi rút ra những yếu điểm của mình và tìm cách khắc phục đồng thời phát huy thế mạnh của mình. Việc này đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện, và chính xác. III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU A. Các nhân tố vĩ mô ngoài doanh nghiệp 1. Ảnh hưởng từ nền kinh tế - xã hội trong nước Đối với bất kỳ một doanh nghiệp tổ chức nào hoạt động sản xuất kinh doanh trên phạm vi một vùng, lãnh thổ một quốc gia đều chịu sự tác động vĩ mô từ nền kinh tế quốc gia đó. Sự tác động đó có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Nó có thể tích cực hay tiêu cực đến doanh nghiệp tuỳ thuộc vào nền kinh tế phát triển trình độ cao hay nền kinh tế lạc hậu kém phát triển. Đối với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì tác động trực tiếp đến hoạt động của nó sẽ bao gồm một số yếu tố cơ bản sau: 1.1. Thuế quan xuất nhập khẩu Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên thị trường quốc tế chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập khẩu. Thuế xuất khẩu sẽ làm tăng nguồn thu cho đất nước nhưng lại làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế cao hơn mức giá trong nước. Tuy nhiên, đối với nước ta hiện nay, thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu ra thị trường thế giới cho nên hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều chịu mức thuế rất thấp mà đặc biệt là các mặt hàng nông sản không phải chịu thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có xu thế làm giảm lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường trong nước, và do đó nó làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay ở nước ta, có rất nhiều những mặt hàng nhập khẩu phải chịu thuế rất cao. Có những mặt hàng chịu 100% cho đến 300% thuế nhập khẩu, với mục đích để bảo vệ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn non trẻ trong nước. Tuy nhiên với việc tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, Việt Nam phải chấp nhận thực hiện chủ trương hội nhập thực sự và tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và một số hình thức bảo hộ khác. Như vậy các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ có một môi trường hoạt động vô cùng thuận lợi, sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ. 1.2. Hạn ngạch xuất nhập khẩu (quota) Hạn ngạch là hình thức hạn chế về số lượng xuất nhập khẩu có tác dụng một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội thuân lợi cho người xin được quota xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong nước thành doanh nghiệp độc quyền có thể đặt mức giá cao để thu lợi nhuận tối đa. 1.3. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỷ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Việc duy trì tỷ giá hối đoái phù hợp để cho các nhà sản xuất kinh doanh thương mại trong nước khi xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ ra thị trường thế giới là vô cùng quan trọng. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trong hoạt động thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng, nó tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái tăng hay giảm sẽ làm thay đổi mới tới giá trị hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu bởi sản phẩm xuất nhập khẩu với thị trường quốc tế thường có số lượng rất lớn cho nên nó ảnh hưởng rất nhiều tới khả năng sinh lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì các nhà sản xuất sản phẩm sơ chế khi xuất khẩu theo mức giá cả quốc tế sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của họ và sẽ bị thiệt hại. Họ phải chịu mức chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Các nhà xuất khẩu sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả hàng xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nhưng khả năng chiếm lĩnh trên thị trường sẽ giảm đi đáng kể. Và nếu tình trạng tỷ giá hối đoái thực tế giảm so với tỷ giá hối đoái chính thức thì khi đó sẽ có lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu nhưng ngược lại làm cho các nhà nhập khẩu bị thiệt. Nếu chính phủ muốn các doanh nghiệp hướng ra thị trường thế giới phát triển thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản xuất cho thị trường nội địa. Muốn hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả thì cần phải có những chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và duy trì được tỷ giá hối đoái tương đối của các yếu tố sản xuất trong nước. 1.4. Ảnh hưởng từ cơ chế chính sách - chủ trương khác của nhà nước Để quản lý một cách chặt chẽ tất cả các hoạt động trong và ngoài nước, mỗi quốc gia đều thiết lập một hệ thống chính sách pháp luật riêng đối với từng lĩnh vực như kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng,… hệ thống pháp luật trong mỗi lĩnh vực đều thể hiện ý chí quyền lực của quốc gia đó cũng như để bảo vệ quyền lợi của người công dân nước mình. Ở đây chúng ta đề cập đến hệ thống những chính sách pháp luật về kinh tế, và đó là những chính sách pháp luật chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế trong nước và hoạt động ngoại thương. Xuất nhập khẩu là một lĩnh vực lưu thông hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia. Đối tượng của hoạt động xuất nhập khẩu vốn rất đa dạng và phong phú, thường xuyên phải chịu sự chi phối của chính sách luật pháp của mỗi quốc gia. Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các công cụ như: chính sách thuế, hạn ngạch, các văn bản pháp luật,… Những quy định này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình từng thời kỳ. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, các qui định, nghị định, để quản lý thống nhất mọi hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật và các chính sách có liên quan, tạo mọi điều kiện cho tổ chức, các cá nhân doanh nghiệp kinh doanh hoạt động đúng theo định hướng và đạt hiệu quả cao. Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư nhập khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất nhập khẩu,… cũng góp phần to lớn tác động tới tình hình xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp cũng như toàn quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực xuất nhập khẩu như thế nào. Những thay đổi trong cơ chế quản lý cũng ảnh hưởng lớn tới quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu. Đặc biệt kể từ khi ra đời nghị định 57/1998 NĐ-CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ thì quyền tự do kinh doanh đã được mở rộng và tạo ra những bước tiến mới, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin đăng kí kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về tiêu chuẩn, vốn, nghiệp vụ… đối với các doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Tuy nhiên, thực trạng ở nước ta hiện nay là hệ thống pháp luật, chính sách thúc đẩy phát triển lại luôn đi sau thực tế rất nhiều. Chỉ khi gặp khó khăn nhà nước mới bắt tay vào xây dựng và sửa đổi, vì vậy mà nó luôn gây ra nhiều cản trở tổn thất cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như cho toàn bộ nền kinh tế. Hệ thống chính sách pháp luật của Việt Nam rất cần được cải thiện, hoàn chỉnh phù hợp với thế giới để tránh khỏi những thủ tục chồng chéo và tốn kém. 1.5. Ảnh hưởng từ hệ thống ngân hàng tài chính Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc thanh toán hầu hết đều thông qua ngân hàng, cho nên hệ thống ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực này. Nếu hệ thống ngân hàng yếu kém, các bạn hàng quốc tế sẽ không có thiện cảm khi hợp tác vì việc thanh toán sẽ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho đói tác là rất lớn. Hơn nữa nó còn ảnh hưởng đến chính các doanh nghiệp trong nước khi thời gian thanh toán sẽ không được đảm bảo, rất dễ làm mất uy tín của doanh nghiệp với bạn hàng, nghiêm trọng hơn là việc vi phạm hợp đồng do thanh toán không đúng thời hạn. 1.6. Ảnh hưởng từ nền khoa học kỹ thuật và công nghệ trong nước Bên cạnh những hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thông thường, thì hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá còn có những hàng hoá công nghệ cao. Đặc biệt là hoạt động nhập khẩu trang thiết bị chịu sự chi phối tác động của khoa học kỹ thuật từ các quốc gia có trình độ phát triển khoa học kỹ thuật cao sang các quốc gia chậm phát triển còn yếu kém về trình độ khoa học và cơ sở hạ tầng để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển đất nước. Đó là một nhu cầu thiết yếu để phục vụ cho các ngành sản xuất trong nước còn đang yếu kém về khoa học kỹ thuật có điều kiện để phát triển. Nếu trình độ khoa học công nghiệp trong nước ở mức thấp thì không thể nhập khẩu những mặt hàng có độ tinh xảo và hiện đại quá cao mà phải nhập khẩu những loại mặt hàng phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất trong nước, và ngược lại càng không thể nhập khẩu loại hàng hoá quá thấp, lạc hậu về công nghệ vì như vậy chúng ta sẽ trở thành nơi tiêu thụ loại hàng phế thải cho thế giới. Nói chung trình độ khoa học công nghệ cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi doanh nghiệp. Và mỗi doanh nghiệp phải xác định và có chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá sao cho phù hợp với tình hình chung của đất nước. 1.7. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải - thông tin liên lạc Việc thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá - thường xuyên là với khối lượng rất lớn không thể tách rời với việc vận chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại mà các đối tác có thể trực tiếp liên lạc trao đổi thoả thuận để tiến hành đàm phán ký kết hay thay đổi huỷ bỏ các kế hoạch kịp thời. Mặt khác khi đã thực hiện mua bán, trao đổi thì không thể thiếu được bước vận chuyển hàng hoá thông qua hệ thống giao thông vận tải. Nếu hệ thống giao thông vận tải quá kém sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và tạo cho các doanh nghiệp một khoản mất mát đáng kể về phí vận chuyển. Hiện nay ở nước ta hệ thống giao thông vận tải cũng như thông tin liên lạc đang phát triển với một tốc độ khá cao nên quá trình giao nhận hàng hoá đã tiết kiệm đáng kể về thời gian cũng như tiền bạc cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Do đó để thức đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển hơn nữa nhà nước cần có những biện pháp nghiên cứu áp dụng công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải. 2. Ảnh hưởng từ tình hình kinh tế - xã hội thế giới 2.1. Ảnh hưởng từ nền kinh tế thế giới Trong xu thế hiện nay, đó là toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Vì vậy mỗi biến động của tình hình kinh tế ở mỗi nước, mỗi khu vực sẽ đều ảnh hưởng đến mọi quốc gia. Hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là lĩnh vực liên quan trực tiếp, lĩnh vực này thường xuyên phải trực tiếp quan hệ với các chủ thể kinh doanh quốc tế nó chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố nước ngoài nên nó lại càng trở nên nhạy cảm và dễ dàng bị cuốn theo xu thế chung của thế giới. Thực tế trên thế giới đã cho thấy, khi một mắt xích quan trọng gặp khủng hoảng nó sẽ kéo theo hàng loạt những quốc gia khác chịu ảnh hưởng xấu: tiêu biểu là cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước châu Á và một số nước trên thế giới năm 1998. Khi các quốc gia phát triển như Nhật, Singapo, Thái Lan… gặp khủng hoảng đã kéo theo hàng loạt các nước khác gặp biến động. Trong đó có cả Việt Nam, mặc dù chưa thật nghiêm trọng nhưng nó gây ra rất nhiều khó khăn. 2.2. Ảnh hưởng từ tình hình xã hội - chính trị thế giới Việc kinh doanh xuất nhập khẩu thì khâu lựa chọn đối tác là vô cùng quan trọng. Vì thế mà các doanh nghiệp cần phải biết lựa chọn những đối tác tại quốc gia có tình hình xã hội, chính trị ổn định để gặp không phải gặp những rủi ro không mong muốn. Và tránh lựa chọn những đối tác tại các quốc gia đang chịu những án trừng phạt cấm vận kinh tế trên thế giới bởi như vậy nó sẽ còn ảnh hưởng đến cả quốc gia. Đối với các nhà đầu tư, bạn hàng thì Việt Nam luôn là điểm đầu tư buôn bán hấp dẫn. Bởi nước ta luôn giữ được tình hình chính trị ổn định được đánh giá là cao nhất trên thế giới. Và đó cũng chính là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dễ dàng hoạt động và phát triển. B. Các yếu tố từ chính doanh nghiệp 1. Từ bộ máy của doanh nghiệp 1.1. Từ bộ máy quản lý - tổ chức hành chính Một doanh nghiệp muốn đạt mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt tới một trình độ quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp phải dựa trên quan điểm tổng hợp bao quát tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể để tạo nên sức mạnh cho các doanh nghiệp. Bộ máy quản lý là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo, cấp trên xuống cán bộ công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện hoạt động. Để quản lý tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp quản lý hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, cách điều hành khoa học, bộ máy gọn nhẹ sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 1.2. Ảnh hưởng từ nhân tố con người - tiềm năng về nguồn nhân lực trong doanh nghiệp Con người luôn là yếu tố trung tâm của mọi hoạt động, là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Con người và năng lực của họ là yếu tố tạo nên thành công trong công việc kinh doanh, khai thác cơ hội kinh doanh một cách có hiệu quả. Tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng vậy, nó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên có sức khoẻ, trình độ chuyên môn cao, có năng lực sự nhiệt tình nhạy bén. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người bởi nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất: Đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác nghiệp vụ vững chắc. Để nâng cao vai trò nhân tố con người, các doanh nghiệp phải thường xuyên chú trọng công tác đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ công tác. Đồng thời phải quan tâm đến lợi ích vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viên sao cho thoả đáng. 2. Khả năng cơ sở vật chất của doanh nghiệp Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh như: máy móc, thiết bị chế biến, hệ thống kho hàng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng, các đại lý - chi nhánh và trang thiết bị của nó cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này sẽ quy định quy mô, tính chất của lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp sẽ có chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để tận dụng tối đa và có ích cho sự phát triển. 3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh như tạo nguồn hàng, vận chuyển làm đại lý xuất nhập khẩu… một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh quá yếu kém, hoặc bố trí không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm giảm sự năng động khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh trên thị trường của doanh nghiệp. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ HÀNG HẢI GIAI ĐOẠN VỪA QUA I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH 1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải được thành lập theo quyết định số 584/2000/QĐ/BGTVT ngày 13/03/2000 của Bộ Giao thông vận tải dựa trên sự mở rộng và đa dạng hoá các hoạt động của trung tâm dịch vụ và tư vấn đường biển phía Nam được Cục Hàng hải Việt Nam thành lập theo quyết định số 153/TCCB-LD ngày 15/03/1994. Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải - chi nhánh Hà Nội Địa chỉ: Phòng 603, tầng 6, toà nhà CFM, 23 Láng Hạ, Hà Nội Điện thoại: 04 5143185/6 Fax: 045143184 Là một doanh nghiệp nhằm trong khối các doanh nghiệp thuộc Cục Hàng hải Việt Nam, Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải có chức năng hoạt động được quy định: + Tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hàng hoá xuất nhập khẩu. + Tổ chức kinh doanh dịch vụ hàng hải. Ngoài ra công ty còn một số đặc điểm hoạt động như: 1.1. Các dịch vụ khác của Công ty Tại Việt Nam, công ty là thành viên của tổ chức quốc tế có uy tín là FIATA và VIFFAS. Công ty cung cấp các sản phẩm dịch vụ về giao nhận vận tải quốc tế với các loại hình dịch vụ sau: - Là đại lý cho các hãng tàu quốc tế tại Việt Nam - Dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế về cả đường hàng không và đường biển - Dịch vụ kho bãi hàng hoá - Dịch vụ giao nhận tận nơi ở cả trong nước và ngoài nước. - Dịch vụ giao nhận hàng hoá đặc biệt (với những hàng nặng, hàng quá khổ, hàng giá trị…) - Thủ tục về chứng từ xuất nhập khẩu (bao gồm: thủ tục hải quan, hạn ngạch xuất nhập khẩu, chứng nhận xuất xứ hàng hoá…) - Dịch vụ vận tải quốc tế trong nước đến tận nơi. - Dịch vụ tư vấn về hàng hải. 1.2. Hệ thống các hãng tàu Hiện tại công ty là đại lý chính hợp tác với các hãng tàu nổi tiếng trên thế giới - STX Pan Ocean là hãng tàu của Hàn Quốc. - Star Cruises, Malaysia - Hàng tàu hàng đầu tại Châu Á Thái Bình Dương. - Dry Cargo Ships Với các chuyến tàu thường xuyên đi tới các cảng biển trên toàn thế giới, các hãng tàu lớn cung cấp các dịch vụ chuyên chở hàng hoá quốc tế bằng đường biển phục vụ cho nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng phát triển của Việt Nam với các nước trên thế giới. 1.3. Hệ thống các công ty giao nhận quốc tế Các công ty giao nhận quốc tế là những người trung gian cung cấp các dịch vụ về giao nhận trên thế giới. Công ty đã hợp tác với các công ty giao nhận trên toàn thế giới. Với hệ thống đại lý rộng khắp toàn thế giới, công ty đã mở rộng được phạm vi hoạt động của mình tới các nước trên thế giới và bao quát được tất cả các cảng biển quốc tế. Như vậy công ty có thể phát triển dịch vụ giao nhận hàng hoá tận nơi cho tất cả các khách hàng. Hệ thống các công ty giao nhận quốc tế mà công ty là đại lý: - Danzas AEI - Keyline cargo consolidator/Union transport - Hansa Mayer - Worldwide Logistics - Woosung - Và các công ty giao nhận quốc tế khác trên mọi miền thế giới. 1.4. Tổ chức quản lý của công ty Để đáp ứng được hoạt động dịch vụ đa dạng và ngày càng mở rộng, công ty đã và đang đò tạo những nhân viên trở thành những người có kỹ năng và kinh nghiệm tốt trong lĩnh vực giao nhận quốc tế và cả kinh nghiệm thương mại quốc tế. Hiện tại công ty có sáu phòng ban: 1. Phòng quản lý đại lý các hãng tàu 2. Phòng quản lý đại lý giao nhận vận tải quốc tế 3. Phòng dự án 4. Phòng dịch vụ hậu cần xuất nhập khẩu 5. Phòng kế toán 6. Phòng quản lý hành chính 2. Tình hình hoạt động tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty năm 2003 - 2006 Là một doanh nghiệp cổ phần hoá nên bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, công ty đã phát huy được tính sáng tạo, tự chủ trong hoạt động của mình và hợp tác quốc tế để gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ của từng thành viên tỏng công ty và thúc đẩy họ đóng góp và cống hiến nhiều hơn cho công ty. Dưới đây là báo cáo kết quả kinh doanh của công ty từ năm 2003 - 2006 Đơn vị: triệu đồng TT Khoản mục 2003 2004 2005 2006 Tỷ lệ % so với doanh thu thuần 2003 2004 2005 2006 1 Tổng giá trị tài sản 65.856 67.856 69.487 70.149 2 Nợ phải trả 15.2245 17.486 18.289 18.789 3 Nguồn vốn chủ sở hữu 49.989 50.370 51.198 51.360 4 Doanh thu thuần 15.002 17.456 20.289 25.762 100 100 100 100 5 Giá vốn hàng hoá 8.785 11.482 13.871 15.741 58,55 65,77 68,36 61,10 6 Lợi nhuận gộp 6.217 1.5.974 6.418 10.021 41,44 34,22 31,63 38,89 7 Lợi nhuận từ HĐKD 1.856 1.948 2.124 2.586 12,37 11,15 10,46 10,04 8 Lợi nhuận trước thuế 1.860 1.940 1.987 2.003 12,39 11,11 9,79 9,87 9 Lợi nhuận sau thuế 595 620 635 560 3,96 3,55 3,12 2,17 10 Tỷ lệ cổ tức (Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty năm 2003-2006) Tổng doanh thu của công ty năm 2004 đạt 17.456 triệu đồng tăng 16,35% so với năm 2003 (đạt 15.002 triệu đồng). Năm 2005 đạt 20.289 triệu đồng, tăng 16,23% so với năm 2004. Năm 2006 đạt 25.762 triệu đồng tăng 26,5%. Nhìn chung tổng doanh thu của công ty đều tăng dần qua từng năm cả về mức tuyệt đối và tương đối. Trong môi trường ngày càng phải cạnh tranh nhiều hơn với thị trường, công ty đã không ngừng cải tiến chất lượng dịch vụ và mở rộng thêm nhiều loại dịch vụ mới đáp ứng được nhu cầu về dịch vụ giao nhận vận tải và xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng gia tăng của thị trường. Có được kết quả như vậy là nỗ lực phấn đấu của toàn bộ nhân viên trong công ty và đặc biệt là bộ máy lãnh đạo đã nắm vững tình hình thị trường và dự đoán nhu cầu trong tương lai. Công ty đã đưa ra những kế hạch phát triển thị trường phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng của các khách hàng song song với việc củng cố và hoàn thiện tốt hơn dịch vụ của mình. 3. Công tác tài chính của Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải 3.1. Công tác phân cấp quản lý tài chính ở Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải là một doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, việc kinh doanh độc lập, tự tổ chức hạch toán tài chính nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong khuôn khổ pháp luật. Công ty được phân cấp quản lý theo mô hình tập trung với tổ chức bộ máy quản lý kinh tế tài chính gọn nhẹ mà năng động nhằm đảm bảo phân cấp quản lý tài chính có hiệu quả đưa Công ty ngày càng phát triển đi lên. 3.2. Tình hình vốn và nguồn vốn của Công ty Vốn của công ty được huy động từ nhiều nguồn khác nhau gồm có vốn ngân sách nhà nước cấp, vốn của các cổ đông và vốn bổ sung. Bảng phản ánh cơ cấu nguồn vốn và sự biến động của vốn Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm2005 Năm 2006 So sánh năm 2006/2005 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền tăng Tỷ trọng 1. Nợ phải trả 18.289 26,32% 18.789 26,78% 500 +0,46 2. Nguồn vốn chủ sở hữu 51.198 73,68% 51.360 73,22% 162 -0,46 Tổng nguồn vốn 69.487 100 70.149 100 662 0 (Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty năm 2005-2006) Qua bảng phản ánh cơ cấu nguồn vốn của Công ty ta thấy: - Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty năm 2006 so với năm 2005 giảm 0,46% với số tiền giảm tương ứng là 162 triệu đồng. - Các khoản nợ phải trả năm 2006 so với năm 2005 tăng 0,46% tương ứng với số tiền tăng là 500 triệu đồng. Theo bảng trên ta thấy các khoản nợ của công ty đang tăng lên về giá trị và cả về tỷ trọng chứng tỏ công ty đã khai thác được nguồn vốn trong quan hệ thanh toán với các bên có liên quan. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng về giá trị nhưng lại giảm về tỷ trọng điều này chứng tỏ khả năng trang trải vốn kinh doanh của công ty là tốt. 3.3. Tình hình tài chính của công ty Khảo sát đánh giá tình hình tài chính của Công ty qua các chi tiết: a. Các chỉ tiêu về hiệu quả vốn kinh doanh * = = = = 69.587 trđ = = 69.587 trđ = = 0,29 (lần) = = 0,37 (lần) * = = = 0,29 (lần) = = 0,37 (lần) * = = = 0,0305 = = 0,0369 b. Các chỉ tiêu về hiệu quả chi phí sản xuất kinh doanh * = = = 0,199 = = 0,225 * = = = 5,040 = = 4,441 * = = = 0,153 = = 0,164 Qua phân tích các chỉ tiêu đã tính toán ở trên ta thấy tình hình tài chính của Công ty năm 2006 so với năm 2005 là rất tốt thể hiện qua các chỉ tiêu: - Số vòng quay của vốn kinh doanh tăng 0,08 lần - Hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh cũng tăng lên đáng kể 0,0064 lần - Tỷ suất chi phí giá thành tăng lên 0,026 lần - Hệ số lợi nhuận của chi phí giá thành tăng đáng kể 0,011 lần Doanh nghiệp cần phát huy hơn nữa việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hơn và sử dụng chi phí giá thành một cách hợp lý. Công ty sẽ thu được lợi nhuận cao. c. Tình hình nộp ngân sách nhà nước của Công ty Công tác thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước là trách nhiệm và nghĩa vụ của Công ty, được giám đốc quan tâm chỉ đạo phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thuế với ngành liên quan, công ty luôn luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước đúng số lượng và thời gian qui định. Các loại thuế bao gồm: - Thuế thu nhập doanh nghiệp - Thuế GTGT, thuế suất 10% và 5% - Thuế lợi tức d. Các chỉ tiêu về công tác bảo toàn vốn và phát triển vón kinh doanh của công ty * = = = 1,003 > 1 = - x = 51.360 - (51.198 x 1,1) = -4.957 trđ = x = = - 0,088 3.4. Công tác kiểm tra kiểm soát Định kỳ các cơ quan quản lý cấp trên là cục quản lý doanh nghiệp, quản lý vốn, cụ thuế Hà Nội tiến hành kiểm tra, kiểm soát tài chính của công ty để xác định tính chính xác của các thông tin trên báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bảng kê khai, bảng cân đối kế toán. Trong đợt cuối quý, cuối năm thông qua việc kiểm tra, kiểm soát thì các thông tin đó được phản ánh đầy đủ, đúng và chính xác, hạn chế được sai sót có thể phát sinh và tránh được sự gian lận trong công tác tài chính. Đồng thời cung cấp thông tin đắc lực phục vụ cho việc hoàn thành điều hành tài chính của Công ty. 4. Tình hình thực hiện công tác phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp 4.1. Tình hình tổ chức công tác phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Doanh nghiệp rất chú trọng về công tác phân tích hoạt động kinh tế. Hệ thống báo cáo tài chính sau khi được lập và được kiểm tra các số liệu chặt chẽ sẽ cung cấp những thông tin hữu ích cho Ban giám đốc để xem xét, phân tích tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh trên nhiều khía cạnh khác nhau. Qua hoạt động phân tích kinh tế của doanh nghiệp, các nhà quản lý có thể biết được các thông tin về: - Mức thu nhập hiện tại của doanh nghiệp - Tính cân đối của các nguồn vốn và việc huy động các nguồn vốn sử dụng trong kỳ có hiệu quả không. - Tình hình huy động, sử dụng và quản lý tài sản của doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng tài sản. - Khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp, làm thế nào để doanh nghiệp luôn luôn có khả năng trang trải các khoản nợ đến hạn. Trong bảng kết quả kinh doanh như đã thấy ở phần trên có thể khẳng định được sự góp phần của các báo cáo tài chính vào việc phát triển các chiến lược của công ty. Sau hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty cổ phần dịch vụ Hàng hải đã không ngừng lớn mạnh và phát triển. 4.2. Phân tích tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Đơn vị: triệu đồng Các chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2006/2005 Số tiền Tỷ lệ 1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ 20.289 25.762 5.473 26,97 2. Các khoản giảm trừ 0 0 0 0 3. Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ 20.289 25.762 5.473 26,97 4. Giá vốn hàng bán 13.871 15.741 1.870 13,48 5. Lợi nhuận gộp 6.481 10.021 3.540 54,62 6. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 2.124 2.586 462 21,75 7. Chi phí bán hàng 2.614 4.832 2218 84,85 8. Chi phí quản lý 1.743 2.603 860 49,39 9. Tổng lợi nhuận trước thuế 1.987 2.003 16 0,80 10. Tổng lợi nhuận sau thuế 635 560 -75 -11,81 (Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty năm 2005-2006) * Nhận xét: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2006 so với năm 2005 tăng lên cụ thể là: - Tổng lợi nhuận trước thuế tăng so với năm trước là 16 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 0,80%. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. Từ số liệu trong bảng trên ta thấy: Lợi nhuận tăng lên chủ yếu do lợi nhuận gộp tăng 3.540 triệu đồng với tỷ lệ tăng 54,62% lợi nhuận gộp tăng, là do doanh thu bán hàng tăng. - Trị giá vốn hàng bán ra tăng nhưng tỷ lệ tăng thấp hơn tỷ lệ tăng của doanh thu bán hàng. Điều này chứng tỏ công ty tổ chức và quản lý tốt khâu kinh doanh. - Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tăng, đặc biệt là chi phí bán hàng có tỷ lệ tăng cao (84,85%) điều đó chứng tỏ trong năm công ty chưa quản lý tốt chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp dẫn đến giảm lợi nhuận bán hàng. Doanh thu tăng nhiều nhưng do chi phí cũng tăng cao nên lợi nhuận tăng rất ít. Phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn Đơn vị: triệu đồng Nợ phải trả Năm 2005 Năm 2006 Nguồn trả nợ Năm 2005 Năm 2006 1. Nợ ngắn hạn 8.148 8.478 1. Tiền 4.489 4.189 Trong đó: 2. Khoản phải thu 1.589 2.843 Nợ đến hạn trả 5.415 4.589 Trong đó: 2. Nợ dài hạn 10.141 10.311 3. Hàng tồn kho 1.025 1.512 Tổng cộng 18.289 18.789 Tổng cộng 9.286 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5445.doc
Tài liệu liên quan