Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Tam Trinh Hà Nội

Lời Nói đầu Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được. Nhưng để đạt được mục tiêu quan trọng đó đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách, chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước mình, đồng thời phải kế thừa và phát triển những tinh hoa của thế giới . Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng, s

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Tam Trinh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia và cuả cả thế giới. Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là Ngân hàng, nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không ổn định thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến làm suy giảm nền kinh tế . Là một trong bốn trụ cột của hệ thống Ngân hàng Thương mại quốc doanh, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đem lại sự thay đổi lớn lao cho sự phát triển nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Cùng với đóng góp của hệ thống, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tam Trinh cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Dư nợ cùng với cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều đó chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng là tốt. Nằm trên địa bàn có nhiều triển vọng phát triển trong những năm sắp tới (Quận Hoàng Mai), ban lãnh đạo ngân hàng luôn trăn trở một điều là làm sao hoạt động của ngân hàng luôn đáp ứng được sự phát triển đó. Do đó vấn đề được đặt ra là: để mở rộng hoạt động kinh doanh, thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng và mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng thì ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác huy động vốn - cơ sở làm ra tăng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, em xin được chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHN0 & PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội” là luận văn tốt nghệp. Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn NHTM trong nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh NHN0&PTNT Tam Trinh Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị. Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài thực hiện gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát về vốn kinh doanh và hiệu quả huy động vốn của NHTM. Chương 2: Thực trạng huy động vốn và hiệu quả huy động vốn tại NHN0&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHN0 & PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội. Nhưng với vốn kiến thức hạn chế, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn. Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo, GS.TS Vũ Văn Hoá Chủ nhiệm khoa Tài chính ngân hàng trường Đại học Kinh Doanh & Công Nghệ Hà Nội đã hết sức tận tình giúp đỡ em trong quá trình chọn và hoàn thiện đề tài này. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh chị trong phòng kế hoạch kinh doanh nói riêng và toàn thể cán bộ trong chi nhánh NHN0&PTNT Tam Trinh nói chung đã hết sức giúp đỡ em trong quá trính thực tập tại đơn vị. Em xin chân thánh cảm ơn ! Sinh viên Chử Thu Nga Chương 1: Khái quát về vốn kinh doanh và hiệu quả huy động vốn của NHTM 1.1 Khái quát vốn kinh doanh của NHTM 1.1.1 Khái niệm về vốn kinh doanh Vốn của các NHTM là toàn bộ các giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động và tạo lập để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực chất nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Nói cách khác khách hàng chuyển quyền sử dụng tiền tệ cho ngân hàng và Ngân hàng trả cho khách hàng một khoản lãi và Ngân hàng đã thưc hiện vai trò tập trung và phân phối vốn làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.1.2 Cấu thành vốn kinh doanh Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt, vì vị trí và vai trò của nó cho nên nhu cầu về vốn của Ngân hàng thương mại là rất lớn, do vậy nguồn vốn kinh doanh của NHTM bao gồm : 1.1.2.1 Vốn tự có Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do tích chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tái tài sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị ...) phục vụ cho bản thân Ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp nhiều thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng vốn huy động của Ngân hàng. Như vậy, quy mô và sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và ưu thế phát triển của NH. Về bản chất, vốn tự có là một bộ phận của tài sản nợ, mà mỗi thành phần của nó gắn liền với một loại nghiệp vụ nhất định. Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung. Vốn tự có cơ bản: Là vốn được hình thành ban đầu của NHTM, thường được gọi là vốn điều lệ hay vốn tự có ban đầu. Trong đó mức vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ lại là mức vốn được quy định trong điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Vốn tự có bổ sung: Vốn của các NHTM không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung.Vốn tự có bổ sung bao gồm: + Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu để mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. + Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. + Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các quỹ nghiệp vụ khác như: Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ Ngân hàng, quỹ phúc lợi, khen thưởng, khấu hao... 1.1.2.2 Vốn huy động Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM. Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở rộng tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Theo bản chất kinh tế thì nguồn vốn huy động được chia thành: - Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế. - Vốn huy động từ các tầng lớp dân cư. Để đảm bảo hoạt động có hiệu quả cao, ngân hàng phải huy động đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn làm sao để huy động được nguồn vốn phù hợp với chi phí thấp nhất, tỷ trọng các nguồn vốn phải hợp lý từ đó nâng cao được sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. 1.1.2.3 Vốn đi vay Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng Thương mại với các NHTM khác, hoặc với các TCTD. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ hoạt động vốn, hay nói cách khác Ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng. Trong trường hợp vốn vay trên mà không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của NHTM thì NHTM sẽ đi vay của NHNN. Vay của NHTMTƯ - là hình thức xin điều chuyển về, nếu NHTM thừa vốn. NHTƯ là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được NHTƯ cho phép thành lập và hoạt động đều được hưởng quyền vay tiền tại NHTƯ trong một số trường hợp như thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của ngân hàng thương mại xin vay được chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTƯ là quan hệ trực tiếp giữa NHTM với NHTƯ nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy, không phải lúc nào việc đi vay vốn vủa NHTƯ cũng diễn ra “suôn sẻ”. Vay các TCTD Trong trường hợp đó, NHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của các tổ chức tín dụng khác bằng việc mời họ tham gia hình thức cho vay đồng tài trợ cho các dự án phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống. Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có thể huy động: là phát hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác ( đối với NHTMTƯ). Nếu những hình thức huy động trên là hình thức huy động mang tính bị động thì hình thức này là hình thức chủ động. Cụ thể: Khi ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành một giấy nhận nợ đối với khách hàng của mình, nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn rõ ràng. Giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác nhau ở chỗ: kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng. 1.1.2.4 Vốn khác Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn số dư từ tài khoản tìên gửi, nguồn thanh toán và các nguồn khác. Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện tốt các dịch vụ của khách hàng đặc biệt là dịch vụ cho vay và dịch vụ thanh toán. - Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp - Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy tín của khách hàng. Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lương chưa trả vv. Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời được trích khỏi tài khoản này để nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được gọi là tiền nhàn rỗi. Qua nghiệp vụ đại lý, các NHTM thu hút được một lương vốn trong quá trình thu - chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư… 1.1.3 Vai trò của vốn kinh doanh 1.1.3.1 Đối với toàn bộ nền kinh tế Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các ngân hàng thương mại. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế. Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân hàng trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ thanh toán đồng thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay vòng. Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng. Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước...nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất. 1.1.3.2 Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Vốn là cơ sở dể ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHTM vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM không thể thực hiện các hoạt động kinh doanh. Vì thế những ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong kinh doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn quyết định quy mô của hoạt dộng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh, vốn còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng ngoài việc sử dụng để mua sắm TSCĐ, trang thiết bị, góp vốn liên doanh...Vốn tự có của ngân hàng là căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTƯ thể hiện vai trò quản lý, điều tiết thị trường của nhà nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Những quy định về mức cho vay, mức huy động trên Vốn tự có như: - Mức cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có. - Mức vốn huy động không được vượt quá 20 lần vốn tự có. - Mua cổ phần hoặc góp vốn liên doanh không được vượt quá 50% vốn tự có. Qua những quy định của NHTƯ đối với NHTM ta thấy vốn tự có quyết định đến khả năng cấp tín dụng, huy động vốn của NHTM vì thế những NHTM có vốn tự có lớn thì quy mô tín dụng càng lớn và ngược lại. Không những vốn tự có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà vốn huy động cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng và hoạt động khác.Vốn tự có rất quan trọng nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh do đó ngân hàng nào có nguồn vốn huy động càng lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế và các hoạt động khác càng được mở rộng. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị trường Một NHTM có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi ngân hàng đó có uy tín trên thị trường. Uy tín của ngân hàng trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng thông thường tỷ lệ thuận với khối lượng vốn mà ngân hàng đó có. Nếu có lớn vốn năng lực thanh toán của ngân hàng được nâng cao, do đó uy tín của ngân hàng được nâng cao từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng và nâng cao được vị thế của ngân hàng trên thị trường. Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Với mỗi ngân hàng quy mô, trình độ công nghệ hiện đại là tiền đề để thu hút vốn. Đồng thời khả năng về vốn lớn là cơ sở để ngân hàng mở rộng khối lượng tín dụng và có thể quyết định cả mức lãi suất cho vay. Do đó có tiềm lực về vốn lớn ngân hàng có thể giảm mức lãi suất cho vay từ đó tạo cho ngân hàng ưu thế trong cạnh tranh, và giúp ngân hàng có tiềm lực trong việc mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, cho thuê, mua bán nợ, kinh doanh chứng khoán... Bên cạnh vai trò quan trọng của nguồn vốn trong kinh doanh ngân hàng thì chức năng hoạt động của ngân hàng là “đi vay để cho vay” đã đặt ra cho các Ngân hàng Thương mại một vấn đề là: phải không ngừng chăm lo tới sự phát triển của nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình. Do đó, hiện nay cùng với công tác sử dụng vốn thì các ngân hàng cũng rất quan tâm đến công tác huy động vốn. Cho nên công tác huy động vốn có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi Ngân hàng Thương mại. 1.2 Hiệu quả huy động vốn của NHTM 1.2.1 Khái niệm về hiệu quả huy động vốn Hiệu quả huy động vốn của NHTM là tập hợp những tiêu chí chỉ rõ sự tương quan giữa chi phí huy động vốn, vốn cho vay, đầu tư và những rủi ro tổn thất về vốn…với tổng số vốn kinh doanh của NHTM trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm). 1.2.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại với các doanh nghiệp phi tài chính là: Ngân hàng Thương mại kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh nghiệp khác hoạt động dựa trên vốn tự có là chính. Vì vậy đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn là công tác không thể thiếu trong nghiên cứu nguồn vốn của các ngân hàng. Khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào một số tiêu chí sau đây: Tỷ trọng vốn sử dụng trên tổng số vốn huy động Vốn huy động phải có sự tăng trưởng về số lượng, phải có sự ổn định về mặt thời gian. Nếu Ngân hàng đó huy động được khối lượng vốn rất lớn nhưng không ổn định, thì thường xuyên có khả năng một dòng tiền lớn bị rút ra. Ngân hàng phải luôn đối đầu với vấn đề thanh toán thì lượng vốn lớn đầu tư và cho vay sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy động vốn sẽ không cao vì hiệu quả huy động vốn còn lệ thuộc vào số vốn sử dụng của ngân hàng: nếu tỷ lệ vốn sử dụng của ngân hàng cao thì điều đó chứng tỏ hiệu quả huy động vốn của ngân hàng càng cao và ngược lại. Vsd = VCV + VDT VKD Í 100 Trong đó: Vsd : Tỷ trọng vốn cho vay, đầu tư, dịch vụ. ( Vốn được sử dụng) VCV : Vốn cho vay. VDT : Vốn đầu tư. VKD : Vốn kinh doanh. Khả năng điều hành lãi suất và chi phí huy động vốn Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của tất cả các chủ thể kinh tế. Người gửi tiền lại muốn một lãi suất thấp để tiết kiệm chi phí phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên. Ngân hàng phải tìm cách dung hoà tất cả các lợi ích của tất cả các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.Vì vậy trong huy động vốn, các ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động là nhỏ nhất và sử dụng vốn đó để cho vay với một lãi suất chấp nhận trên thị trường. Chi phí huy động vốn được đánh giá chủ yếu bởi mức lãi suất huy động từng nguồn: lãi suất huy động bình quân, tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn: chênh lệch đầu vào đầu ra. Chi phí huy động thường được tính theo công thức: Cf = CHĐV VHĐ Í100 Trong đó: Cf : Tỷ lệ chi phí của một đơn vị vốn huy động. CHĐV: Tổng chi phí huy động vốn gồm: lãi trả cho người gửi tiền, chi phí quản lý, quảng cáo, Maketing… VHĐ : Vốn huy động của ngân hàng thương mại trong kỳ. Rủi ro trong huy động vốn Nếu tỷ lệ vốn sử dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả huy động vốn thì tỷ lệ rủi ro trong huy động vốn lại ngược lại. Nếu tỷ trọng vốn bị rủi ro, tổn thất càng cao, thì hiệu quả huy động vốn của ngân hàng càng thấp. Và tỷ lệ này càng thấp thì ngân hàng đó đã có hiệu quả trong công tác huy động vốn. VRR = VRR VKD Í 100 Trong đó: VRR: Rủi ro trong huy động vốn. VKD : Vốn kinh doanh. Vốn bị rủi ro có thể là do thất thoát, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vốn bị rủi ro này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM. Một số tiêu chí khác Ngoài các tiêu chí trên, hiệu quả công tác huy động vốn còn được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau: - Mức độ đa dạng hoá các hình thức huy động. - Mức độ thuận tiện khách hàng. - Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định. - Một số chỉ tiêu khác như số lượng vốn bị rút trước hạn, kỳ hạn thực tế của nguồn vốn. Các chỉ tiêu này sẽ tạo điều kiện để NHTM tăng số lượng vốn huy động trong nền kinh tế. Trên đây là một số chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn. Tuy nhiên dùng một số chỉ tiêu thì không thể phản ánh đầy đủ được, mà cần phải kết hợp nhiều chỉ tiêu thì mới đánh giá đúng và thực chất hiệu quả công tác huy động vốn tại một NHTM. 1.3 ý nghĩa của nâng cao hiệu quả huy động vốn 1.3.1 Đối với NHTM: Trong môi trường kinh doanh ngày nay sự cạnh tranh diễn ra gay gắt thì vốn là một yếu tố giúp các ngân hàng thắng thế trong cạnh tranh. Ngân hàng nào trường vốn sẽ có khả năng thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, có khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng thêm thu nhập và củng cố vị thế trên thị thương trường ... Nhận thức được vai trò to lớn của vốn trong hoạt động kinh doanh, các Ngân hàng Thương mại luôn tìm cách phát triển nguồn vốn của mình, tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh hiệu quả của công tác huy động vốn. HQHĐV đánh giá năng lực của NHTM trong nền kinh tế thị trường. HQHĐV là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM. HQHĐV quyết định thu nhập đến lợi nhuận và thu nhập của ngân hàng. 1.3.2 Đối với khách hàng: Đối với dân cư: Nghiệp vụ huy động vốn đã cung cấp cho mọi người dân các phương thức tiết kiệm tiền hợp lý và an toàn. Nguồn tiền tiết kiệm trong dân cư rất dồi dào, có nhiều điều kiện thuận lợi để ngân hàng sử dụng kinh doanh. Để thu hút được các nguồn vốn này các ngân hàng đã sử dụng nhiều hình thức huy động vốn phong phú và tiện lợi. Điều này giúp người dân dễ dàng lựa chọn một hình thức gửi tiền phù hợp với đặc điểm khoản tiền của mình. Do đó tâm lý người dân luôn mong ngân hàng đưa ra được các hình thức huy động vốn hiệu quả, có lợi cho cả hai bên: vừa ích nước vừa lợi nhà, vừa an toàn tài sản. Đối với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp : Nghiệp vụ huy động vốn đã giúp cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp thuận tiện trong thanh toán giao dịch thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán. Nếu ngân hàng đẩy mạnh công tác huy động vốn thì sẽ giúp các doanh nghiệp rất nhiều trong hoạt động kinh doanh, làm cho hoạt động của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế luôn trôi chảy. Hơn nữa, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế đều có quan hệ tín dụng với ngân hàng và huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp có vốn kịp thời bất cứ lúc nào mà doanh nghiệp cần vốn. Do đó đứng ở góc độ doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn ở mỗi ngân hàng là cần thiết. 1.3.3 Đối với nền kinh tế : Nghiệp vụ huy động vốn giúp cho các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập trung về một mối, thuận tiện cho việc phân phối lại chúng. Tránh được tình trạng lãng phí nguồn vốn, một số người tổ chức “hụi”, “họ” gây mất ổn định trong xã hội.Với nền kinh tế thì hoạt động huy động vốn là không thể thiếu nhất là khi nền kinh tế có lạm phát, lúc đó huy động vốn là một trong những công cụ để kìm chế lạm phát. Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy động vốn giúp cho nó phát triển nhịp nhàng, hiệu quả hơn. Vì thế đẩy mạnh công tác huy động vốn ở mỗi Ngân hàng Thương mại có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Tóm lại, qua cơ sở lý luận chung về công tác huy động vốn ở các Ngân hàng Thương mại được trình bày ở trên đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng, vị trí và sự cần thiết phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác huy động vốn không chỉ với bản thân ngân hàng mà còn với các tổ chức kinh tế, dân cư và toàn xã hội. Những hiểu biết này là cơ sở để chúng ta hiểu sâu sắc hơn khi nghiên cứu tình hình huy động vốn của riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Tam Trinh Hà Nội ở chương 2 dưới đây. Chương 2: Thực trạng huy động vốn và hiệu quả huy động vốn tại NHN0&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội 2.1 Khái quát về NHN0&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội 2.1.1 Giới thiệu chung về NHN0&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội Một số nét chính về NHN0&PTNT Việt Nam . Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo quyết định số 56 và 59 tháng 8 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự ra đời của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam theo yêu cầu cấp bách của nền kinh tế với mục đích chủ yếu là góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế làm phát, ổn định tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nâng cao đời sống của nông dân. NHN0&PTNT Việt Nam có vai trò là Ngân hàng quản lý Trung Ương, có hệ thống chi nhánh rộng khắp trong cả nước từ tỉnh đến huyện, xã. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, theo quyết định số 90/TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ Tướng Chính phủ, thời gian hoạt động là 99 năm, trụ sở tại Hà Nội, Ngân hàng có con dấu riêng và có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam còn mở tài khoản tại các Ngân hàng khác cả trong nước và ngoài nước để phục vụ thêm cho việc giao dịch và kinh doanh. Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và có quyền tự chủ về mặt tài chính. Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam theo quyết định số 280/QĐ-NH5 do Thống đốc Ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cao Sỹ Khiêm ký. Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Tên giao dịch quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural Development. Tên viết tắt: VBARD Trụ sở chính : Số 2 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội. Sự hình thành, phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT Tam TrinhHà Nội Trước những nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn và các dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp và dân cư ngày càng tăng. Đồng thời nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, NHN0 và PTNT không ngừng thành lập và nâng cấp các chi nhánh. Ngày 28/03/2008 ban lãnh đạo NHN0vàPTNT thành phố Hà Nội đã quyết định nâng cấp chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội lên thành chi nhánh cấp I trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam có trụ sở tại số 409 đường Nguyễn Tam Trinh, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội NHNo&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội là một đơn vị hoạch toán độc lập nhưng vẫn có phần phụ thuộc vào NHNo&PTNT Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( NHNN ) cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả nước. Kể từ ngày thành lập đến nay, NHNo&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội đã và đang hoạt động kinh doanh trên cở sở tự kinh doanh, tự bù đắp và có lãi. Chức năng nhiệm vụ của NHNo&PTNTchi nhánh Tam TrinhHà Nội NHNo&PTNT chi nhánh Tam Trinh Hà Nội đi vào hoạt động với chức năng và nhiệm vụ sau: Huy động vốn: Khai thác, nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán. Phát hành những chứng chỉ nhận tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngânh hàng. Cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng VNĐ, ngoại tệ. Cho vay xuất nhập khẩu, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ cho vay theo các chương trình dự án kinh tế. Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng: Thanh toán quốc tế, bảo lãnh. Kinh doanh tiền tệ, dịch vụ Ngân hàng…nhằm mục tiêu lợi nhuận. Thực hiện đầu tư dưới hình thức: hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần… Tổ chức kiểm tra kiểm soát, báo cáo thống kê theo quy định Thực hiện chức năng nhiệm vụ khác được giao của Tổng giám đốc NHN0& PTNT Việt Nam 2.1.2 Cơ cấu tổ chức Tổ chức nhân sự - Cơ cấu lao động. Bảng 1: Cơ cấu lao động Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 S.Lượng Tỷ trọng (%) S.Lượng Tỷ trọng (%) Tổng số lao động 42 100 54 100 LĐ trực tiếp 27 64,29 37 68,52 LĐ gián tiếp 15 35,71 17 31,48 LĐ nam 12 28,57 17 31,48 LĐ nữ 30 71,43 37 68,52 Qua bảng cơ cấu lao động cho thấy: số lao động của Ngân hàng năm 2007 so với năm 2008 đã tăng lên. Cụ thể là năm 2008 tăng 12 người tương ứng với mức tăng 28,57%. Điều này chứng tỏ sau khi được nâng cấp thành chi nhánh loại một, Chi nhánh đã tăng thêm nhân lực để đáp ứng yêu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh. - Trình độ lao dộng Bảng 2: Trình độ lao động của Ngân hàng. Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 S.Lượng Tỷ trọng (%) S.Lượng Tỷ trọng (%) Tổng số lao động 42 100 54 100 LĐ trực tiếp 27 64,29 37 68,52 LĐ gián tiếp 15 35,71 17 31,48 LĐ nam 12 28,57 17 31,48 LĐ nữ 30 71,43 37 68,52 Năm 2007 số người có trình độ đại học là 31 người tương ứng với tỷ lệ 73,81% trong tổng số lao động, năm 2008 là 39 người tương ứng với tỷ lệ 72,22%. Người lao động có trình độ đại học chiếm đa số trong tổng số lao động, chứng tỏ chất lượng lao động của Chi nhánh khá cao. Chức năng nhiệm vụ của giám đốc và các phòng ban Sơ đồ hệ thống tổ chức của NH NHNo&PTNT Việt Nam NHNo&PTNT Tam trinh Hà Nội Giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng tài chính – kế toán Phó Giám đốc Phó giám đốc (Nguồn : Phòng tổ chức hành chính) Ban Giám đốc: Gồm 3 thành viên: 01 giám đốc và 02 phó giám đốc. Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lý, điều hành và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Giám đốc có thể uỷ quyền cho phó giám đốc thực hiện những công việc trong phạm vi quyền hạn của họ, đồng thời trực tiếp chỉ đạo các phòng ban trực thuộc Ngân hàng. Các phó giám đốc có nhiệm vụ hỗ trợ giúp đỡ cho giám đốc, và chỉ đạo về mặt nghiệp vụ cho các phòng chức năng của Ngân hàng. Các phòng ban: Đứng đầu các phòng ban là trưởng phòng và phó phòng, chịu sự quản lí trực tiếp của giám đốc, tổ chức thực hiện, xây dựng các chương trình kế hoạch công tác của phòng, kiểm soát và trực tiếp thực hiện hoạt động chuyên môn và chịu trách nhiệm trước giám đốc về nhiệm vụ của phòng. - Phòng tài chính kế toán: Gồm 20 người, trong đó 01 trưởng phòng, 01 phó phòng. Có chức năng quản lý và thực hiện công tác hạch toán kế toán, tổ chức, lưu chuyển và bảo quản các chứng từ kế toán. Ngoài ra còn thực hiện kinh doanh các dịch vụ ngân hàng, chuyển tiền, thanh toán trong nước. - Phòng tổ chức - hành chính: Gồm 20 người, trong đó 01 trưởng phòng, 01 phó phòng. Thực hiện các công tác tổ chức cán bộ tại chi nhánh, các công tác hành ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22347.doc
Tài liệu liên quan