Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Chương trình 134

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ DANH MỤC CÁC BẢNG Số bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1 Vốn đầu tư thực hiện mục tiêu hỗ trợ nhà ở với các vùng trên cả nước 36 Bảng 2.2 Vốn đầu tư thực hiện mục tiêu hỗ trợ đất sản xuất với các vùng trên cả nước 37 Bảng 2.3 Vốn đầu tư thực hiện mục tiêu hỗ trợ nước sinh hoạt với các vùng trên cả nước 38 Bảng 2.4 Vốn đầu tư thực hiện mục tiêu hỗ trợ đất ở với các vùng trên cả nước 39 Bảng 2.5 Tổng hợp tìn

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Chương trình 134, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hình thực hiện mục tiêu hỗ trợ nhà ở trong 2 năm 2004 - 2006 42 Bảng 2.6 Tổng hợp tình hình thực hiện mục tiêu hỗ trợ công trình nước sinh hoạt phân tán trong 2 năm 2004 – 2006 44 Bảng 2.7 Tổng hợp tình hình thực hiện mục tiêu hỗ trợ công trình nước sinh hoạt tập trung trong 2 năm 2004 – 2006 46 Bảng 2.8 Tổng hợp tình hình thực hiện mục tiêu hỗ trợ đất ở trong 2 năm 2004 – 2006 47 Bảng 2.9 Kết quả thực hiện mục tiêu hỗ trợ đất sản xuất của các vùng trên cả nước sau 2 năm thực hiện Quyết định 134 49 Bảng 2.10 Tổng hợp kết quả mô hình thí điểm giao rừng cho đồng bào dân tộc thuộc đối tượng 134 tại Tây Nguyên đến hết năm 2006 51 Bảng 2.11 Đánh giá hiệu quả các công trình nước sinh hoạt 56 Bảng 2.12 Tổng hợp mức độ hoàn thành các mục tiêu của Chương trình 134 59 Bảng 2.13 Tổng hợp các mục tiêu cần hỗ trợ sau khi đã rà soát lại các đề án 61 Bảng 3.1 Kế hoạch phân bổ dự kiến nguồn vốn hỗ trợ của trung ương trong Chương trình 134 cho các địa phương 73 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số biểu Tên biểu Trang Biểu 2.1 Cơ cấu nguồn vốn Chương trình 134 giai đoạn 2005 - 2006 34 Biểu 2.2 Tình hình phân bổ vốn theo các mục tiêu so với kế hoạch 40 Biểu 2.3 Tỷ lệ hộ nghèo đói trung bình trên các địa phương được hỗ trợ từ Chương trình 134 54 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Số hình Tên hình Trang Hình 1.1 Trình tự lập, phê duyệt đề án và kế hoạch vốn Chương trình 134 14 Hình 1.2 Quy trình phân bổ nguồn vốn hỗ trợ tới các hộ gia đình 15 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống con người luôn là mục tiêu được các quốc gia trên thế giới theo đuổi. Ở Việt Nam cũng vậy, đã từ lâu vấn đề này luôn nhận được sự quan tâm, ưu tiên của Đảng và Nhà nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã có những thành tựu phát triển đáng kể, chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày một nâng cao. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận lớn đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực miền núi phải sống cuộc sống khá khó khăn, thiếu thốn ngay cả những nhu cầu thiết yếu nhất. Để xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào, ngày 20/7/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào thiểu số nghèo, đời sống khó khăn – đánh dấu sự ra đời của Chương trình 134. Qua hơn 2 năm thực hiện, Chương trình đã gặt hái được những thành quả quan trọng. Chương trình đã đầu tư hỗ trợ cho hàng vạn đồng bào vùng dân tộc thiểu số, giúp đồng bào có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế làm giảm hiệu quả chương trình. Do đó rất cần phải có những nghiên cứu đánh giá kết quả, hiệu quả chương trình trong thời gian qua nhằm rút kinh nghiệm để từ đó có những giải pháp thiết thực cho hoạt động của Chương trình trong giai đoạn sắp tới. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài: Nghiên cứu và hệ thống các kiến thức cơ bản về chương trình dự án quốc gia; tổng hợp kết quả, phân tích đánh giá hiệu quả của Chương trình 134 trong thời gian qua từ đó rút kinh nghiệm và đưa ra những để xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Chương trình trong thời gian tới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng đầu tư: Nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng dân tộc miền núi. Phạm vi đầu tư: Các địa bàn có đối tượng thuộc Chương trình 134 Cơ cấu bài viết: Bài viết gồm 3 chương Chương 1 - Chương trình 134 – Những vấn đề chung Chương 2 - Kết quả và hiệu quả Chương trình 134 Chương 3 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Chương trình 134 trong giai đoạn tiếp theo (2007 – 2008) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG TRÌNH 134 – NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA CHƯƠNG TRÌNH 134 Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế xã hội vùng dân tộc và miền núi có bước phát triển rõ rệt, kinh tế tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đặt ra. Tốc độ tăng trưởng GDP của các tỉnh miền núi, vùng dân tộc đạt từ 8% đến 10%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp và tăng tỉ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ.Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đang phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa; đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế hộ gia đình, sản xuất giỏi, kinh tế trang trại, chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thủy sản, cây ăn quả, cây công nghiệp với quy mô ngày càng lớn…Thông qua các chương trình, dự án, đặc biệt là chương trình xóa đói giảm nghèo và sự cố gắng vươn lên của chính mình nên đời sống của đại đa số đồng bào các dân tộc từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, với điểm xuất phát thấp và tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng dân tộc và miền núi còn chậm, quy mô nên kinh tế nhỏ, thị trường tiêu thụ khó khăn, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn; cơ cấu cây trồng vật nuôi vẫn chưa hợp lý, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu thì khó có thể thu hẹp khoảng cách với các tỉnh có kinh tế phát triển. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho phát triển sản xuất và dân sinh nhìn chung vẫn còn thấp kèm và lạc hâu. Tính đến cuối năm 2005, vùng dân tộc, miền núi cả nước còn 72 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã 2 mùa; trong số các xã đặc biệt khó khăn còn 356 xã chưa có điện lưới quốc gia…Tỷ lệ đói nghèo vùng dân tộc, miền núi còn cao; đa số các hộ đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn là hộ nghèo do thiếu đất sản xuất, đời sống khó khăn, nhà ở tạm bợ, dột nát, không đủ nước sinh hoạt như ở Đắc Lắc tỷ lệ đói nghèo trong vùng đồng bào dân tộc là 50,27%, Quảng Nam trên 58%; Sơn La 35%, Sóc Trăng 34,69%... Nhìn chung, hệ thống chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc và miền núi đã được ban hành tương đối đầy đủ và toàn diện trong mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, không ngừng chăm lo cải thiện đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, hệ thống chính sách vẫn bộc lộ những bất cập, vừa thừa vừa thiếu, có những chính sách khó thực hiện hoặc kém hiệu quả. Thực hiện Quyết định 154, một số tỉnh đã sản xuất thí điểm khung nhà bê tông nhưng đồng bào chưa chấp nhận vì hình thức không đáp ứng yêu cầu sử dụng, không phù hợp phong tục, tập quán, giá thành cao, không tận dụng được nguyên vật liệu địa phương, thủ tục phiền hà, trong khi dân muốn vay vốn để tự xây nhà. Những yếu tố bất cập nảy sinh do ảnh hưởng của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tình trạng di cư tự do ồ ạt gần đây… đã dẫn đến hiện tượng mua bán, lấn chiếm tranh chấp đất đai trái phép, hậu quả là một bộ phận người dân tộc thiểu số tại chỗ bán đất, bán nhà lao vào cuộc sống du canh du cư, tạm bợ nghèo đói. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, chỉ tính trong phạm vi các xã thuộc Chương trình 135 còn trên 321.000 (17%) hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất. Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng núi cao xa nguồn nước, sống nhờ nước trời, hết mưa là hết nước, vốn đã nghèo không có điều kiện về kinh phí để đào giếng, xây bể chứa, muốn có nước phải đi xa hàng chục cây số, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vô cùng khó khăn, dẫn đến mất vệ sinh, phát sinh dịch bệnh, ốm đau và càng nghèo đói hơn. Nhà nước đã quan tâm đầu tư kinh phí cho cấp nước sinh hoạt nông thôn qua các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quốc tế, chương trình 135, các quyết định phát triển vùng, kết quả đạt được rất khả quan, cải thiện đáng kể tình trạng thiếu nước sinh hoạt nông thôn miền núi. Tuy nhiên, do đồng bào các dân tộc sống phân tán trên địa bàn rất rộng, địa hình phức tạp, chia cắt, có nơi không có hoặc rất hiếm nguồn nước. Nhu cầu về kinh phí đầu tư rất lớn, trong khi ngân sách hạn hẹp vì vậy đến nay một bộ phận rất lớn trên 40% hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ trước đều nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi vùng, ngành, lĩnh vực, địa phương cụ thể (tỉnh, huyện, xã), nhưng chưa có một chính sách mang tính bền vững về giải quyết khó khăn, phát triển kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống cho hộ gia đình dân tộc thiểu số, một số chính sách đối với hộ gia đình (hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, khám chữa bệnh cho người nghèo, miễn giảm thuế, cấp không thu tiền: vải, sách vở, tấm lợp…) mới chỉ trong phạm vi cứu trợ tình thế, nhất thời chưa giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo vươn lên thậm chí còn làm cho đồng bào có tư tưởng ỷ lại trông chờ nhà nước không phấn đấu, mãi mãi nghèo đói. Trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ vể phát triển các vùng đã đề cập đến khai hoang đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt cho hộ gia đình, sử dụng vốn vào các mục đầu tư khác. Trong thời gian qua, chương trình 135 mới dành 0,5% cho hạng mục khai hoang, 5,8% cho nước sinh hoạt trong tổng số trên 7000 tỷ đồng. Hỗ trợ nhà ở mới chỉ dừng ở mức hỗ trợ tấm lợp, trừ khu vực Tây Nguyên thực hiện Quyết định 168 (quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên) thì chưa có chính sách cụ thể nào về giải quyết đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số. Một số vùng lân cận có điều kiện tương tự như các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc chưa được hưởng các chính sách về đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt như các địa phương ở địa bàn các Quyết định 168, Quyết định 186 ( quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Phát triển kinh tế - xã hội ở sáu tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu) thời kỳ 2001 – 2005) Từ thực tế đó, phải có một chính sách phát triển bền vững phát triển kinh tế và ổn định đời sống đến hộ đồng bào các dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước mà nội dung cụ thể trong giai đoạn trước mắt là giải quyết đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào các dân tộc thiểu số. Theo đề nghị của Ủy ban Dân tộc , các Bộ, ngành liên quan, ngày 20/7/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 134/2004/QĐ – TTg về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. 1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH 134 1.2.1. Mục đích của Chương trình 134 Chương trình 134 thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất cải thiện đời sống, sớm thoát nghèo. Không như các chương trình kinh tế - xã hội khác, Chương trình 134 có đối tượng trực tiếp là hộ đồng bào dân tộc, hỗ trợ đến tận từng hộ gia đình. 1.2.2. Đối tượng của Chương trình 134: Đối tượng hỗ trợ của Chương trình 134 là hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, định cư thường trú tại địa phương; là hộ nghèo sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất, đất ở và có khó khăn về nhà ở, nước sinh hoạt. Chính sách được áp dụng trong phạm vi cả nước (riêng việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào dân tộc Khmer nghèo ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhà nước sẽ có chính sách riêng) 1.2.2.1. Đối với hộ gia đình: Chính sách hỗ trợ sẽ được thực hiện đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đáp ứng các điều kiện sau: Là hộ nghèo quy định tại Quyết định số 1143/2000/QĐ - LĐTBXH ngày 1/11/2000 của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội về việc điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2001 – 2005; sinh sống bằng nghề nông lâm nghiệp, nhưng chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất, đất ở, có khó khăn về nhà ở, nước sinh hoạt. Là những hộ dân tộc thiểu số (kể cả hộ chỉ có vợ hoặc chồng là người dân tộc thiểu số) đã định cư ở địa phương; hộ di dân tự do nay trở về quê cũ trước thời điểm Quyết định 134 có hiệu lực thi hành, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận. Trường hợp những hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã được hỗ trợ về đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt theo các quy định trước đây, nhưng đến nay vẫn là hộ nghèo chưa đủ đất sản xuất, đất ở và có khó khăn về nhà ở, nước sinh hoạt thì vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ. 1.2.2.2. Đối với cộng đồng thôn bản Thôn, bản là tổ chức được quy định theo Quyết định số Quyết định 132/2002/QD – BNV ngày 6/1/2/2002 của Bộ Nội vụ ban hành quy chế hoạt động của thôn, tổ dân phố và có từ 20% hộ dân tộc thiểu số trở lên đang sinh sống và có khó khăn về nước sinh hoạt. 1.2.3. Nguyên tắc thực hiện Chương trình 134 : a) Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở và nhà ở, nước sinh hoạt trực tiếp đến hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; b) Bảo đảm công khai, công bằng đến từng hộ, buôn, làng trên cơ sở pháp luật và chính sách của Nhà nước; c) Phù hợp với phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, vùng, miền, bảo tồn bản sắc văn hóa của từng dân tộc; phù hợp với điều kiện thực tiễn và gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; d) Các hộ được hỗ trợ đất sản xuất, đất ở và nhà ở, nước sinh hoạt phải trực tiếp quản lý và sử dụng để phát triển sản xuất cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo. Trường hợp đặc biệt, khi hộ được hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở có nhu cầu di chuyển đến nơi khác thì phải ưu tiên chuyển nhượng quyền sử dụng đất sản xuất và đất ở cho chính quyền địa phương để giao lại cho hộ đồng bào dân tộc nghèo khác. Người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không theo quy định của Chương trình 134, Nhà nước sẽ thu hồi không bồi hoàn để giao cho hộ đồng bào dân tộc chưa có đất hoặc thiếu đất. 1.2.4. Các chính sách thực hiện Chương trình : a) Đối với đất sản xuất: Các hộ gia đình được hỗ trợ là hộ gia đình chưa có đất sản xuất hoặc đã có đất sản xuất nhưng chưa đủ mức quy định (dưới 0,15 ha đất ruộng lúa nước 2 vụ hoặc dưới 0,25 ha đất ruộng lúa 1 vụ hoặc dưới 0,5 ha ruộng nương, rẫy) hoặc mức quy định cao hơn ở các địa phương mà thủ tướng Chính phủ đã có văn bản quy định trước đây. Mức giao đất sản xuất tối thiểu một hộ là 0,5 ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước hai vụ. Căn cứ quỹ đất cụ thể của từng địa phương, khả năng lao động và số nhân khẩu của từng hộ và khả năng của ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét quyết định giao đất sản xuất cho hộ đồng bào với mức cao hơn. b) Đối với đất ở: Với các hộ gia đình chưa có đất ở, mức giao diện tích đất ở tối thiểu 200 m2 cho mỗi hộ đồng bào sống ở nông thôn. Căn cứ quỹ đất ở và khả năng ngân sách của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xem xét quyết định giao đất ở cho hộ đồng bào với mức cao hơn. Việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào dân tộc Khơme nghèo do đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ riêng. c) Đối với nhà ở: Với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ (kể cả đồng bào dân tộc Khơme) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã hư hỏng, dột nát thì thực hiện phương châm: nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ. Ngân sách trung ương hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/hộ để làm nhà ở. Ngân sách địa phương hỗ trợ không dưới 1 triệu đồng/hộ và kinh phí hỗ trợ từ đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội, cộng đồng và cá nhân. Nếu nhu cầu làm nhà của hộ lớn hơn mức hỗ trợ thì gia đình sẽ tự đảm bảo phần chênh lệch. Đối với các địa phương có rừng, có quy hoạch, kế hoạch khai thác gỗ hàng năm được duyệt, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ khai thác gỗ theo quy định để hỗ trợ đồng bào làm nhà ở. Mức gỗ hỗ trợ cụ thể cho mỗi hộ làm nhà ở do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nghiêm cấm việc lợi dụng khai thác gỗ hỗ trợ làm nhà ở để chặt phá rừng. Các chi phí khai thác và vận chuyển gỗ đến thôn, bản (nếu có) do ngân sách địa phương đảm bảo. Việc xây dựng nhà ở được hỗ trợ từ chính sách cần phù hợp với quy hoạch dân cư của địa phương. Trường hợp hộ gia đình được hỗ trợ nhưng nằm trong khu vực cấm xây dựng, khu vực có nguy cơ lở đất, lũ quét, hành lang bảo vệ công trình giao thông, thủy lợi, đê điều, năng lượng, khu di tích lịch sử - văn hóa và khu vực bảo về các công trình khác theo quy định của pháp luật thì việc hỗ trợ nhà ở được thực hiện đồng thời với việc di chuyển sang khu vực khác. Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cơ quan có chức năng giới thiệu, hướng dẫn cho dân về mẫu, kiểu dáng nhà ở phù hợp với phong tục tập quán của từng dân tộc, phù hợp với khả năng kinh phí và đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường từ đó để người dân lựa chọn quyết định. Việc xây dựng nhà ở sẽ đảm bảo nguyên tắc: hộ tự làm, nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ. Những hộ thuộc diện được hưởng chính sách theo quy định tại Quyết định 134 ở đồng bằng Sông Cửu Long và Tây Nguyên đã vay để mua nhà trả chậm theo quyết định số105/2002/QD-TTg này 02/08/2002 về chính sách cho các hộ dân vùng ngập lũ mua nhà trả chậm nền nhà và nhà ở trong các cụm, tuyến dân cư ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Quyết định số 154/2002/QD-TTg ngày 12/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và hộ dân thuộc diện chính sách ở Tây Nguyên mua nhà trả chậm vẫn được hỗ trợ theo quy định tại Quyết định 134. d) Đối với hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt: Các hộ nằm trong khu vực đã có hệ thống cấp nước sinh hoạt nhưng nguồn nước không ổn định, không có khả năng xây dựng các bể chứa nước dự phòng hoặc nằm trong khu vực không có nguồn nước tự chảy phải khai thác nguồn nước ngầm, nước mưa nhưng không có khả năng làm bể chứa, đào giếng. Các hộ này sẽ được ngân sách trung ương hỗ trợ 0,5 tấn xi măng/ hộ (xi măng đảm bảo mác tối thiểu 300kg/cm2)tại thôn, bản để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng/hộ để đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt. Đối với các hộ không tự làm được bể chứa hoặc lu chứa nước, căn cứ khả năng nguồn vốn, địa phương tổ chức cấp lu, téc chứa nước bằng nhựa, thép hoặc bằng xi măng cấp cho đồng bào tại thôn, bản. Đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: ngân sách trung ương hỗ trợ 100% cho các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên; hỗ trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Các địa phương khi xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào phải bảo đảm tính bền vững và hiệu quả. Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện đối với xây dựng công trình hạ tầng của Chương trình 135, vốn hỗ trợ theo quy định tại Quyết định 134 và lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác. 1.2.5. Quỹ đất để giao cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất, đất ở, bao gồm: Đất công Nhà nước thu hồi theo quy hoạch. Đất điều chỉnh giao khoán trong các nông trường, lâm trường; Đất thu hồi từ các nông trường, lâm trường hiện đang quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả; đất cho thuê, mướn hoặc cho mượn; Khai hoang đất trống đồi núi trọc, đất chưa sử dụng; Đất thu hồi từ các doanh nghiệp sản xuất không hiệu quả, sử dụng sai mục đích hoặc giải thể; đất thu hồi từ các cá nhân chiếm dụng hoặc cấp đất trái phép. Đất do nông trường, lâm trường đang quản lý và sử dụng mà trước đây đất này do đồng bào dân tộc tại chỗ sử dụng thì nay sẽ được điều chỉnh giao khoán lại (kể cả diện tích đất có vườn cây công nghiệp, rừng trồng) cho hộ đồng bào chưa được giao đất sản xuất hoặc chưa đủ đất sản xuất để tiếp tục quản lý, sử dụng theo quy định chung. Mức giao khoán cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Đất điều chỉnh từ các hộ gia đình tặng, cho hoặc tự nguyện chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trường hợp không có đất sản xuất nông nghiệp thì giao đất sản xuất lâm nghiệp 1.2.6. Hỗ trợ để tạo quỹ đất sản xuất và đất ở Ngân sách trung ương hỗ trợ để tạo quỹ đất sản xuất và đất ở, bao gồm: khai hoang, đền bù khi thu hồi đất, nhận chuyển nhượng lại của hộ có nhiều đất với mức bình quân 5 triệu đồng/ha. Các tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mình mà có thể hỗ trợ mức cao hơn. Các nông trường, lâm trường được giao nhiệm vụ tổ chức cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số sản xuất thì cũng được ngân sách trung ương hỗ trợ khai hoang bình quân 5 triệu đồng/ha; đồng thời hỗ trợ vốn làm đường giao thông, đầu tư lưới điện và xây dựng công trình thủy lợi nhỏ. 1.3. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI CHƯƠNG TRÌNH 134 1.3.1. Nguồn vốn – Cơ chế phân bổ và thanh toán nguồn vốn 1.3.1.1. Nguồn vốn Nguồn vốn ngân sách trung ương sẽ bảo đảm các khoản chi theo đúng định mức và đối tượng được hỗ trợ quy định tại Quyết định 134. Phần còn lại sẽ do ngân sách địa phương bố trí, và phần vốn này phải không dưới 20% so với số vốn ngân sách trung ương bảo đảm. Bên cạnh đó, các địa phương huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện mục tiêu, chính sách của Quyết định 134 . Các địa phương sẽ chủ động bố trí kinh phí để thực hiện việc đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ đồng bào được hưởng hỗ trợ. 1.3.1.2. Lập đề án và kế hoạch vốn Để có thể xác định được các hộ đồng bào là đối tượng thuộc diện hỗ trợ của Chương trình 134, đồng thời xác định nhu cầu vốn và các nguồn lực hỗ trợ, các địa phương sẽ công bố công khai các tiêu chuẩn và tiến hành bình xét công khai, dân chủ, thông qua các tổ chức đoàn thể và dưới sự giám sát của toàn thể nhân dân. Việc bình xét được tiến hành tuần tự từ cấp thôn, bản, được ủy ban nhân dân xã xem xét, trình ủy ban nhân dân huyện kiểm tra, tổng hợp trình ủy ban nhân dân tỉnh quyết định. Dựa trên số hộ dân tộc thiểu số nghèo thuộc đối tượng hỗ trợ đã được bình xét, số thôn bản thuộc đối tượng được hỗ trợ và dự án đầu tư các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung đã được cấp có thẩm quyền quyết định, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng dự toán kinh phí thực hiện ở địa phương và dự toán ngân sách đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ theo từng chính sách. Trong đó sẽ xác định rõ các nguồn vốn thực hiện: nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương, nguồn vốn ngân sách địa phương (đảm bảo tối thiểu bằng 20% mức hỗ trợ của ngân sách địa phươn) và các nguồn huy động khác. Dự toán kinh phí này được phân kỳ thực hiện theo kế hoạch tổ chức của địa phương, đảm bảo tính khả thi và trình Ủy ban nhân dân tỉnh. Căn cứ kết quả bình xét các hộ của các huyện và dự toán kinh phí do Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư báo cáo,Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ tổng hợp, phê duyệt đề án và dự toán nhu cầu kinh phí thực hiện chương trình gửi Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Tài chính và Ủy ban Dân tộc để tổng hợp trình Chính phủ, trình Quốc hội quyết định bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương để thực hiện các chính sách quy định tại Quyết định 134. Hình 1.1: Trình tự lập, phê duyệt đề án và kế hoạch vốn Chương trình 134 1.3.1.3 Phân bổ dự toán vốn Sau khi xem xét dự toán do Ủy ban Dân tộc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trình, Quốc hội và Chính phủ phê duyệt lượng vốn hỗ trợ cho Chương trình 134. Trên cơ sở số vốn được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ hàng năm và nguồn ngân sách địa phương và các nguồn huy động khác, Sở Tài chính và các đơn vị liên quan lập phương án phân bổ dự toán ngân sách địa phương chi tiết theo từng huyện trình Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân quyết định. Căn cứ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh giao dự toán cho các huyện chi tiết theo từng chính sách, Ủy ban nhân dân huyện sẽ quyết định phân bổ và thông báo cho từng xã chi tiết cho từng chính sách và từng hộ dân được hưởng theo danh sách đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Ủy ban nhân dân xã thông báo đến từng hộ dân về chính sách được hưởng, mức hỗ trợ… theo danh sách đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hình 1.2: Quy trình phân bổ nguồn vốn hỗ trợ tới các hộ gia đình 1.3.1.4. Cấp phát, thanh toán kinh phí hỗ trợ Căn cứ vào dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao cho từng tỉnh, hàng quý Bộ Tài chính sẽ thực hiện bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương theo tiến độ thực hiện chương trình. Đối với tỉnh, trên cơ sở dự toán đã được Ủy ban nhân dân tỉnh giao cho các huyện, Sở tài chính làm thủ tục bổ sung có mục tiêu cho ngân sách huyện. Phòng Tài chính huyện phối hợp với Kho bạc nhà nước thực hiện quản lý và cấp phát theo các mục tiêu cho các đối tượng thụ hưởng theo tiến độ thực hiện. Việc cấp phát, thanh toán kinh phí để thực hiện các chính sách theo quy định cho các đơn vị và cho từng hộ dân yêu cầu chặt chẽ, đảm bảo đúng mục tiêu, đúng đối tượng nhất là đối với những khoản thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt (hoặc hiện vật) cho các hộ dân, Ủy ban nhân dân xã lập danh sách cho từng hộ dân ký nhận và thực hiện đầy đủ thủ tục, chứng từ. Cụ thể về các chế độ hỗ trợ như sau: a) Chế độ hỗ trợ nhà ở: Các hộ dân tự làm nhà nhưng có nhu cầu tạm ứng kinh phí để mua vật liệu sẽ được tạm ứng với mức tối đa bằng 60% ngân sách nhà nước hỗ trợ cho hộ dân. Ủy ban nhân dân xã sẽ tổng hợp danh sách các hộ đề nghị tạm ứng gửi phòng Tài chính huyện, phòng Tài chính huyện làm thủ tục tạm ứng cho Ủy ban nhân dân xã qua kho bạc nhà nước để tạm ứng cho các hộ dân. Sau khi công trình hoàn thành, dựa trên kết quả nghiệm thu đối với từng hộ của Ủy ban nhân dân xã, phòng Tài chính huyện sẽ cấp phát qua kho bạc nhà nước để Ủy ban nhân dân xã thanh toán cho các hộ dân. Mức thanh toán tối đa cho các hộ dân không quá mức quy định hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đã được phê duyệt trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ 5 triệu đồng/hộ và ngân sách địa phương hỗ trợ không dưới 1 triệu đồng/hộ. Bên cạnh việc nhận tiền hỗ trợ, các hộ dân có thể yêu cầu hỗ trợ bằng nguyên vật liệu phục vụ cho việc xây dựng nhà. Chính quyền địa phương sẽ tổng hợp nhu cầu nguyên vật liệu của các hộ dân và ký hợp đồng với các đơn vị cung ứng để các đơn vị này cung ứng nguyên vật liệu cho nhân dân. Kinh phí thanh toán nguyên vật liệu sẽ được chính quyền địa phương chuyển trực tiếp cho đơn vị cung ứng và kinh phí này sẽ không quá mức quy định hỗ trợ. Với các địa phương có rừng và được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền về việc thực hiện hỗ trợ bằng gỗ cho các hộ dân làm nhà, chính quyền địa phương sẽ cung cấp cho các hộ dân và giá trị khối lượng gỗ này được xác định là phần ngân sách địa phương hỗ trợ cho các hộ dân. Các chi phí khai thác, vận chuyển gỗ (nếu có) sẽ do ngân sách địa phương đảm bảo. b) Chế độ hỗ trợ nước sinh hoạt Căn cứ danh sách hộ dân được hỗ trợ nước sinh hoạt và đăng ký của các hộ dân về phương thức thực hiện, Ủy ban nhân dân xã tổng hợp nhu cầu và phân loại theo từng phương thức thực hiện (các hộ có thể nhận lu, téc chứa nước, tự làm bể chứa nước, tự đào giếng hoặc tự tạo các nguồn khác) gửi phòng Tài chính huyện làm căn cứ kiểm tra, kiểm soát, cấp phát kinh phí để thực hiện. Mức cấp phát thanh toán không vượt quá mức quy định hỗ trợ của nhà nước cho từng hộ dân. Việc cấp phát, thanh toán cho các đối tượng theo các phương thức thực hiện như sau Đối với các hộ được cấp lu, téc chứa nước: Với chế độ hỗ trợ nước sinh hoạt, các hộ dân có thể đăng ký để được hỗ trợ bằng hình thức cấp lu, téc chứa nước. Căn cứ danh sách đăng ký của các hộ dân, chính quyền địa phương ký hợp đồng với các đơn vị cung ứng để cung cấp lu, téc cho nhân dân. Kinh phí mua lu, téc sẽ được phòng Tài chính huyện thanh toán trực tiếp cho các đơn vị cung ứng. Đối với các hộ dân tự làm bể chứa nước Bên cạnh việc cấp lu, téc, các hộ dân thuộc đối tượng hỗ trợ của Chương trình còn có thể tự làm bể chứa nước cho riêng mình. Trong trường hợp này, nhà nước sẽ hỗ trợ bằng hình thức cung ứng xi măng cho từng hộ dân. Giá trị của lượng xi măng cung ứng không vượt quá mức quy định hỗ trợ. Đối với các hộ dân tự đào giếng hoặc tự tạo nguồn nước khác Với các hộ dân tự tạo nguồn nước cho mình bằng cách tự đào giếng hoặc từ các nguồn khác, Ủy ban nhân dân xã chỉ đạo các hội, đoàn thể tại địa phương phối hợp với cộng đồng dân cư hướng dẫn thực hiện. Phòng tài chính huyện căn cứ kết quả nghiệm thu của xã, thẩm định và thực hiện cấp phát kinh phí hỗ trợ cho nhân dân bằng lệnh chi tiền qua Kho bạc nhà nước cho Ủy ban nhân dân xã để thanh toán cho nhân dân. c) Chế độ hỗ trợ đất sản xuất và đất ở Căn cứ phương án giải quyết về đất ở và đất sản xuất cho các hộ dân tộc thiểu số nghèo thiếu đất ở, đất sản xuất; tủy theo phương thức thực hiện để có cơ chế cấp phát thanh toán cho phù hợp. Mức thanh toán tương ứng với diện tích thực tế đã khai hoang (hoặc giao, hoặc chuyển nhượng) và tối đa không vượt quá mức quy định hỗ trợ của nhà nước cho từng hộ dân được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc thanh toán sẽ theo nguyên tắc: Đối với đất dân tự khai hoang Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã phối hợp với cơ quan chuyên môn của huyện được giao nhiệm vụ hướng dẫn các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tổ chức khai hoang theo đúng quy hoạch sử dụng đất của từng xã và phù hợp với tập quán canh tác của đồng bào. Dựa trên kết quả khai hoang của các hộ dân, Ủy ban nhân dân xã và cơ quan chuyên môn được Ủy ban nhân dân giao nhiệm vụ thực hiện nghiệm thu khối lượng, lập biên bản nghiệm thu. Trên cơ sở đó, phòng Tài chính huyện kiểm tra và cấp phát bằng lệnh chi tiền qua kho bạc nhà nước cho Ủy ban nhân dân để thanh toán cho các hộ dân. Đối với các nông, lâm trường được giao nhiệm vụ tổ chức cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số sản xuất Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã phối hợp với các nông, lâm trường tổ chức khai hoang hoặc tổ chức cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số sản xuất phù hợp với tập quán canh tác của đồng bào. Căn cứ kết quả tổ chức cho các hộ dân sản xuất của nông, lâm trường, Ủy ban nhân dân xã thực hiện nghiệm thu khối lượng, lập biên bản nghiệm thu và danh sách các hộ dân được các nông, lâm trường tổ chức sản xuất gửi phòng Tài chính huyện làm căn cứ thanh toán. Trên cơ sở đó, phòng Tài chính huyện kiểm tra, lập lệnh chi tiền gửi kho bạc nhà nước thanh toán trực tiếp cho các nông, lâm trường. Đối với đất nhận chuyển nhượng Ủy ban nhân dân huyện giao một đơn vị chuyên môn phối hợp với Ủy ban nhân dân xã, cùng với các hộ dân xác định đất chuyển nhượng của các h._.ộ, lập biên bản bàn giao. Căn cứ chế độ, định mức chi, danh sách và diện tích đất chuyển nhượng của hộ dân, biên bản bàn giao; phòng tài chính huyện kiểm tra và cấp phát bằng lệnh chi tiền qua kho bạc nhà nước cho Ủy ban nhân dân xã để thanh toán, chi trả cho các hộ dân có đất chuyển nhượng. 1.3.1.5. Hạch toán kế toán và quyết toán Số kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ để thực hiện các chính sách hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn theo quy định tại Quyết định 134 được hạch toán, quyết toán thu, chi ngân sách địa phương theo quy định hiện hành. Ủy ban nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân xã, Phòng Tài chính huyện có trách nhiệm phối hợp với Kho bạc Nhà nước và các cơ quan liên quan tổ chức theo dõi tình hình thực hiện việc cấp phát thực hiện chính sách quy định tại Quyết định 134 ; hàng tháng Ủy ban nhân dân xã, phòng Tài chính huyện báo cáo Ủy ban nhân dân huyện và Sở Tài Chính về kết quả thực hiện chương trình, tiến độ thanh toán vốn, Sở Tài Chính tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh. Hàng quý, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố báo cáo tình hình tiến độ thực hiện và kết thúc năm báo cáo quyết toán riêng ngân sách và các nguồn tài chính huy động khác theo chế độ quy định thực hiện Quyết định 134 của Thủ tướng Chính phủ gửi Ủy ban Dân tộc , Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo cáo Chính phủ và Quốc hội. 1.3.2. Tổ chức quản lý đầu tư: a) Đối với các địa phương Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho các hộ đồng bào dân tộc nghèo. Trong đó cụ thể như sau: Công bố công khai các tiêu chuẩn, đối tượng và điều tra lập danh sách các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất, đất ở và có khó khăn về nhà ở, nước sinh hoạt trên địa bàn. Lập và phê duyệt đề án giải quyết đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo trên địa bàn tỉnh mình (kể cả việc ra quyết định điều chỉnh khoán và thu hồi đất của các nông, lâm trường do các Bộ và các cơ quan, đơn vị quản lý trên địa bàn), gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định kế hoạch hàng năm. Trong đề án phải thể hiện rõ được các nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, vốn huy động và thời gian hoàn thành. Trường hợp có khó khăn, vướng mắc cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan để xem xét, giải quyết. Căn cứ các điều kiện cụ thể, Ủy ban nhân dân tỉnh củng cố, tăng cường ban chỉ đạo các cấp để thực hiện Quyết định 134 hoặc thành lập mới ban chỉ đạo thực hiện Quyết định 134 nếu thấy cấn thiết. Cơ quan thường trực ban chỉ đạo là cơ quan làm công tác dân tộc của tỉnh, thành phố. Chỉ đạo các cơ quan có liên quan, các cấp chính quyền địa phương và phối hợp với các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, đẩy nhanh việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, đảm bảo các chính sách đến được từng hộ đồng bào dân tộc; không được để xảy ra thất thoát, tiêu cực. b) Đối với các bộ ngành liên quan Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo, hướng dẫn và giúp đỡ các địa phương trong việc xây dựng, cải tạo các công trình thủy lợi nhỏ, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, giải quyết nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn theo hướng phát triển sản xuất xóa đói giảm nghèo. Bộ Xây dựng hướng dẫn, đôn đốc các địa phương thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Căn cứ đề án giải quyết đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thống nhất với Bộ Tài chính tổng hợp kế hoạch và bố trí vốn bổ sung có mục tiêu cho các địa phương trong kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước năm 2005 và năm 2006, trình Thủ tướng Chính phủ. Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chính sách cụ thể việc thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường (kể cả vườn cây lâu năm, rừng trồng) để giao khoán cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo. Ủy ban Dân tộc chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Quyết định này; định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Các Bộ, ngành có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm kiểm tra, hỗ trợ các địa phương thực hiện có hiệu quả các chính sách theo quy định 1.4. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH 134 Chương trình 134 là chương trình kinh tế - xã hội của quốc gia hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn nhằm mục đích giúp đồng bào có điều kiện phát triển sản xuất cải thiện đời sống, sớm thoát nghèo. Chương trình cũng chính là công cụ của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng ổn định vĩ mô, phân bổ có hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế. Do đó hiệu quả của Chương trình chủ yếu là trên khía cạnh xã hội. 1.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả Chương trình 134 1.4.1.1. Vốn đầu tư thực hiện Chỉ tiêu vốn đầu thực hiện của Chương trình gồm có vốn đầu tư thực hiện của cả Chương trình và vốn đầu tư thực hiện đối với mỗi mục tiêu riêng biệt. Tiêu chuẩn để xác định vốn đầu tư thực hiện: Lượng vốn hỗ trợ đã đến tay người dân bao của cả Chương trình và với mỗi mục tiêu riêng. 1.4.1.2. Số hộ được hỗ trợ về nhà ở Các hộ đồng bào trong diện được hỗ trợ nhà ở sẽ được hỗ trợ bằng các hình thức là tiền hoặc gỗ xây dựng nhà (phần hỗ trợ gỗ được tính vào phần hỗ trợ của địa phương). Sau khi nhận được hỗ trợ, đồng bào có thể đứng ra tự xây mới, sửa chữa lại nhà của mình hoặc yêu cầu chính quyền địa phương đứng ra xây dựng (nếu hộ không có khả năng tự thực hiện). Do đó tiêu chuẩn để xác định số hộ được hỗ trợ về nhà ở là: Hộ đồng bào đã nhận được hỗ trợ đầy đủ theo quy định của Quyết định 134 (tối thiểu 5 triệu đồng/hộ) Đối với hộ đồng bào được chính quyền đứng ra xây dựng, sửa chữa nhà, tiêu chuẩn xác định là: nhà ở đã được xây dựng hoặc sửa chữa xong và được bàn giao lại cho hộ gia đình. 1.4.1.3. Số hộ được hỗ trợ đất sản xuất Các đối tượng được hỗ trợ đất sản xuất sẽ được hỗ trợ đất nương, rẫy hoặc đất ruộng lúa nước. Đối với các địa phương không còn quỹ đất để hỗ trợ hoặc hỗ trợ không đủ theo quy định có thể thực hiện việc giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho các hộ. Do đó tiêu chuẩn xác định số hộ được hỗ trợ đất sản xuất là: Số hộ được giao đất sản xuất theo quy định: tối thiểu 1 hộ là 0,5ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước hai vụ Số hộ được giao rừng, khoán bảo vệ rừng. 1.4.1.4. Số hộ được hỗ trợ đất ở Theo Quyết định 134, các hộ gia đình chưa có đất ở sẽ được hỗ trợ giao đất với diện tích tối thiểu 200m2. Theo đó tiêu chuẩn xác định số hộ được hỗ trợ đất ở là những hộ gia đình đã nhận được hỗ trợ theo tiêu chuẩn nói trên. 1.4.1.5. Số công trình nước sinh hoạt phân tán Tiêu chuẩn xác định số hộ được hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán: Các hộ đã được hỗ trợ 0,5 tấn xi măng hoặc 300.000 đ/hộ để đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt; Số hộ được cấp lu, téc chứa nước. 1.4.1.6. Số công trình nước sinh hoạt tập trung Với các thôn bản có từ 50% hộ đồng bào dân tộc thiểu số trở lên: Các thôn bản này được Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng công trình nước tập trung. Do đó tiêu chuẩn xác định số công trình nước sinh hoạt tập trung là: Công trình đã hoàn thành toàn bộ các khối lượng công tác xây lắp theo thiết kế quy định Đảm bảo chất lượng thiết kế quy định và sẵn sàng sử dụng được ngay Đã bàn giao và làm xong thủ tục nghiệm thu Với các thôn bản có từ 20% đến dưới 50% hộ đồng bào dân tộc thiểu số:Các thôn bản này được hỗ trợ 50% kinh phí xây dựng công trình nước tập trung, 50% do nhân dân tự đóng góp. Tiêu chuẩn xác định số công trình nước sinh hoạt tập trung là: Thôn, bản đã nhận được hỗ trợ 50% kinh phí theo thiết kế của công trình nước sinh hoạt. 1.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả Chương trình 134 Xóa đói giảm nghèo. Ngay từ khi Chương trình ra đời, xoá đói giảm nghèo đã được xác định là mục đích đầu tiên và quan trọng. Chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo được thể hiện ở số lượng hộ thoát nghèo, giảm tỉ lệ hộ nghèo ở các địa phương nhận được hỗ trợ từ Chương trình. Cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ tiêu này thể hiện ở số lượng hộ gia đình có được nhà ở, được sử dụng nước sạch lúc trước và sau khi có Chương trình. Củng cố an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chỉ tiêu này thể hiện ở số vụ quấy rối gây mất trật tự xã hội, các tệ nạn xã hội trên địa bàn so với khi chưa có Chương trình Tăng cường tình đoàn kết dân tộc. Chỉ tiêu này thể hiện ở việc giảm số vụ tranh chấp đất đai, ruộng nương lúc trước và sau khi có Chương trình Tăng niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Chỉ tiêu này thể hiện ở việc các chính sách của Nhà nước được người dân hiểu rõ hơn và thực hiện tốt hơn, nhanh hơn so với trước khi Chương trình được thực hiện. 1.5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH 134 1.5.1. Phạm vi, đối tượng thụ hưởng của Chương trình 134 Địa bàn thực hiện của Chương trình 134 là rất lớn và trải trên khắp tất cả các địa phương trong cả nước nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tổ chức thực hiện Chương trình, đặc biệt là vấn đề bình xét đối tượng thụ hưởng, vấn đề hỗ trợ nhà ở và nước sinh hoạt. Đồng bào trong diện được hỗ trợ nằm rải rác ở khắp các tỉnh nên việc bình xét đối tượng nếu không thống nhất, không chính xác và công khai sẽ dẫn đến mất công bằng giữa các địa phương, sẽ có những hộ gia đình nghèo nếu ở địa phương này thì được hỗ trợ nhưng ở địa phương khác lại sẽ không được hỗ trợ do tiêu chuẩn khắt khe hơn. Mặt khác, đồng bào dân tộc thường sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa hình hiểm trở nên quá trình cung cấp vật liệu hỗ trợ xây nhà và công trình nước sẽ gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi những nỗ lực rất lớn. Chính vì vậy, để có thể thực hiện Chương trình một cách hiệu quả, cần có sự nỗ lực cố gắng của chính quyền các cấp, của cộng đồng và của chính những người được thụ hưởng. Bên cạnh việc địa bàn dàn trải thì vấn đề phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt và canh tác của đồng bào cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện Chương trình. Chính sách hỗ trợ là chung trên cả nước, nhưng đối với mỗi địa phương, mỗi dân tộc phải có sự điều chỉnh hợp lý, phù hợp với đồng bào ở các vùng khác nhau, không thể đem nhà chống lũ của Đồng bằng Sông Cửu Long lên thay thế cho nhà sàn, nhà rông của đồng bào Tây Nguyên được. 1.5.2. Công tác tổ chức thực hiện Chương trình 134 từ Trung ương đến địa phương Do đặc trưng của Chương trình 134 là phạm vi rộng và số lượng đối tượng thụ hưởng là rất lớn nên công tác tổ chức thực hiện có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự thành công và hiệu quả của Chương trình. Có tổ chức thực hiện được tốt thì chủ trương của Nhà nước mới đến được người dân, mới giải quyết được những khó khăn, bức xúc của các hộ đồng bào. Còn ngược lại, khi việc tổ chức thực hiện không tốt sẽ dẫn đến những kết quả xấu, làm giảm hiệu quả chương trình, gây lãng phí đồng vốn của nhà nước và nguồn lực của xã hội. Không những thế, công tác tổ chức thực hiện còn ảnh hưởng đến kênh thông tin từ dưới lên, từ chính những ý kiến của đối tượng thụ hưởng đối với những chủ trương của Nhà nước. Điều này là vô cùng quan trọng bởi lẽ mục đích của Chương trình là giải quyết những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào mà chỉ có chính đồng bào mới biết được mình cần gì nhất, mong muốn gì nhất. Chính đồng bào phải là người được lựa chọn hình thức hỗ trợ, có như vậy mới giải quyết được những bức xúc của đồng bào và giúp đồng bào thắng được cái nghèo. Mặt khác, những phản hồi, ý kiến từ đồng bào cũng giúp cho những người làm chính sách và những người thực thi chính sách có những điều chỉnh hợp lý hơn, phù hợp với nguyện vọng của đồng bào hơn. 1.5.3. Năng lực của địa phương nơi có đối tượng thuộc Chương trình 134 Các chủ trương, chính sách của Nhà nước nói chung và Chương trình 134 nói riêng, việc hoạch định là do các bộ, ngành, cơ quan trung ương nhưng việc thực hiện, cụ thể hóa lại do cơ sở. Do đó năng lực của địa phương có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của Chương trình, nếu địa phương tổ chức thực hiện tốt, chủ động, linh hoạt, sáng tạo Chương trình sẽ hỗ trợ đúng đối tượng, đảm bảo hoàn thành đúng thời hạn và đạt được hiệu quả cao. Còn ngược lại, khi năng lực của địa phương hạn chế, thụ động, kém linh hoạt, chỉ trông chờ vào cấp trên thì mặc dù mục tiêu Chương trình là rất tốt, chủ trương là hết sức đúng đắn nhưng vẫn không làm thoả mãn được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đối với Chương trình 134, là Chương trình mà nhà nước hỗ trợ trực tiếp đến từng hộ dân, thì năng lực của chính quyền địa phương lại càng quan trọng. Bởi lẽ chính quyền địa phương là người chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ của Chương trình, từ việc công bố các tiêu chuẩn, lập và phê duyệt đề án trình lên cấp trên cho đến vi ê thành lập ban chỉ đạo Chương trình của địa phương mình. 1.5.4. Sự ủng hộ của nhân dân đối với Chương trình 134 Bất cứ một chủ trương, chính sách nào nếu được lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ thì đều dễ dàng đạt được kết quả tốt: “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn như là kim chỉ nam cho mọi hành động, mọi chủ trương, chính sách của nhà nước. Chương trình 134 cũng vậy, khi nhân dân đồng lòng, nhất trí, hiểu được ý nghĩa của Chương trình, mỗi người sẽ tự nguyện đóng góp một phần công sức, của cải của mình, giúp đỡ lẫn nhau, phát huy tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá rách, cùng nhau đánh đuổi cái nghèo. Còn không, khi người dân chưa thông tỏ thì dù cán bộ có giỏi đến đâu cũng không giải quyết được.Và để người dân ủng hộ, không có cách nào khác là phải tuyên truyền, vận động để bà con hiểu mục tiêu và chủ trương của Nhà nước, đồng thời chính quyền địa phương và cán bộ phải là người đi tiên phong trong nỗ lực thực hiện chương trình. 1.5.5. Kinh phí thực hiện Chương trình Trong tất cả các công cuộc đầu tư, một trong những vấn đề quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự thành, bại của Chương trình đó là kinh phí, nó được thể hiện ở nguồn huy động, số lượng, tính kịp thời và cơ cấu phân bổ cho các mục tiêu. Chỉ khi kinh phí được huy động số lượng đầy đủ, từ những nguồn thật vững chắc thì Chương trình mới có thể thực hiện được. Không những thế, kinh phí còn phải được rót đều đặn và phân bổ hợp lý, có như thế mới đảm bảo được tiến độ thời gian của Chương trình, đảm bảo được hiệu quả đầu tư, tránh được dàn trải gây lãng phí, thất thoát.. Trong Chương trình 134, nguồn kinh phí huy động chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước (ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương), phạm vi đầu tư rộng, số lượng đối tượng đầu tư lớn do đó cần một lượng kinh phí đáng kể và liên tục, gánh nặng đè lên vai ngân sách là rất lớn. Để có thêm kinh phí hỗ trợ cho Chương trình, cần lắm sự đóng góp từ phía các tổ chức, các nhà tài trợ và từ cộng đồng xã hội để giúp cho đồng bào nghèo vùng dân tộc miền núi có cuộc sống no đủ hơn, hạnh phúc hơn. 1.5.6. Các chương trình kinh tế - xã hội khác Trước Chương trình 134 đã có những chương trình kinh tế - xã hội khác của cả Trung ương và địa phương để hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số như Chương trình 135 (chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn), Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường…Các chương trình này cũng có những ảnh hưởng đến việc thực hiện Chương trình 134, nếu biết lồng ghép các mục tiêu, biết phối hợp thực hiện thì các chúng có thể hỗ trợ cho nhau làm tăng hiệu quả đầu tư, tiết kiệm kinh phí để chuyển sang tập trung cho các mục tiêu riêng. CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CỦACHƯƠNG TRÌNH 134 GIAI ĐOẠN 2004 - 2006 2.1.TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH 134 GIAI ĐOẠN 2004 - 2006 2.1.1. Tình hình tổ chức thực hiện 2.1.1.1. Tình hình chỉ đạo thực hiện của trung ương a) Việc ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Quyết định 134 Sau hội nghị quán triệt triển khai Quyết định 134/2004/QĐ TTg ngày 20 – 21/9/2004 tại thành phố Hồ Chí Minh, các Bộ, ngành Trung ương đã gấp rút triển khai theo công việc, theo chức năng, nhiệm vụ được phân công của Quyết định 134 và tại văn bản số 1401/CP – NN ngày 28/9/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Liên bộ: Ủy ban Dân tộc, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch số 819/2004/TTLT/UBDT-KHĐT-XD-NNPTNT ngày 10/11/2004 hướng dẫn thực hiện Quyết định 134 . Bộ Tài chính đã ban hành thông tư số 121/2004/TT – BTC ngày 16/12/2004 về việc hướng dẫn công tác lập dự toán, quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán nguồn vốn ngân sách nhà nước thực hiện Quyết định 134 ;Quyêt định sô 146/2005/QĐ – TTg ngày 15/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường để giao khoán cho hộ đồng bào dân tộc thiểu sô nghèo; Thông tư số 111/2004/TT – BTC ngày 19/11/2005 hướng dẫn một số điểm về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2005; Thông tư số 100/2005/TT – BTC ngày 17/11/2005 hướng dẫn một số điểm về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2006; Văn bản số 4348 TC/NSNN ngày 14/4/2005 về thực hiện chế độ báo cáo ở các địa phương. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành Quyết định số 03/2005/QĐ – BNN ngày 7/1/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành Quy định về khai thác gỗ để hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn theo Quyết định 134; Dự thảo quyết định của Thủ tướng về việc bổ sung chính sách thay thế chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đối với các địa phương không còn quỹ đất sản xuất nông, lâm nghiệp, đã trình Thủ tướng Chính phủ. Với vai trò là cơ quan chủ trì theo dõi tình hình thực hiện Quyết định 134 , Ủy ban Dân tộc đã ban hành công văn số 118/UBDT – CSDT ngày 25/2/2005 về việc báo cáo tình hình thực hiện Quyết định 134 ; Công văn số 438/UBDT – CSDT ngày 9/6/2005 về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện Quyết định 134 ; Công văn số 982/UBDT – CSDT ngày 5/12/2005 đề nghị báo cáo tình hình 1 năm thực hiện Quyết định 134; Công văn số 13/UBDT – CSDT ngày 9/1/2006 về việc rà soát, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện lại nội dung Đề án 134. Trong quá trình xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định 134 đều có sự tham gia, thống nhất với các Bộ, ngành liên quan. Việc triển khai thực hiện chính sách theo Quyết định 134 có nhiều vấn đề phức tạp , đòi hỏi ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo có liên quan và đã được các Bộ, ngành chủ động, quan tâm giải quyết. Riêng về chính sách đất cho đồng bào Khơ me khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long đến nay chưa được ban hành được vì các địa phương chua làm tốt công tác khảo sát, điều tra, thiếu cơ sở thông tin để xây dựng đề án trình Thủ tướng Chính phủ . b) Công tác rà soát tổng hợp và kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Quyết định 134 Do công tác xây dựng đề án của các địa phương chưa đúng theo yêu cầu hướng dân của các nội dung chính sách, tháng 12/2005, Ủy ban Dân tộc đã chủ trì phối hợp với các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đẩu tư, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tài nguyên và Môi trường rà soát các bươc một Đề án thực hiện Quyết định 134 của các địa phương. Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn, tháng 3/2006, Liên bộ đã làm việc với 21 tỉnh trọng điểm về nội dung các đề án rà soát, tổng hợp, nhu cầu đề án 53 tỉnh để báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ . Về công tác kiểm tra tình hình thực hiện ở các địa phương, trong năm 2004 và 2005, Ủy ban Dân tộc đã tổ chức các đoàn kiểm tra, khảo sát tại các tỉnh Yên Bái, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đắc Lắc, Gia Lai, Hà Giang, Quảng Nam và Ninh Thuận. Năm 2006, đã chủ trì đoàn công tác liên Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Văn Phòng chính phủ làm việc tại các tỉnh: khu vực Đông Bắc – Cao Bằng, Lạng Sơn và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long – Đồng Nai, Vĩnh Long, Kiên Giang, Thanh Hóa, Nghệ An và Lai Châu. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội với vai trò là cơ quan giám sát trong quí I và II năm 2006 đã trực tiếp khảo sát nắm tình hình và kết quả thực hiện tại 20 tỉnh, riêng khu vực Tây Nguyên khảo sát ở 5 tỉnh, 11 huyện, 18 xã, 6 đơn vị doanh nghiệp. Ngay sau kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI, tổ chức 5 đoàn khảo sát ở 9 tỉnh, 21 huyện. Đối với các địa phương không trực tiếp giám sát, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực hội đồng nhân dân, các ban Hội đồng nhân dân tiến hành tự giám sát và báo cáo kết quả. 2.1.1.2. Tình hình tổ chức thực hiện ở các địa phương Theo chỉ đạo của Quyết định 134, ở các địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh có đối tượng đồng bào thuộc diện được hưởng hỗ trợ theo Quyết định 134 chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho các hộ đồng bào nghèo. Cụ thể: Ủy ban nhân dân tỉnh công bố công khai tiêu chuẩn, đối tượng và điều tra lập danh sách các hộ đồng bào được hỗ trợ; lập và phê duyệt đề án thực hiện Quyết định 134 ở địa bàn tỉnh mình; chỉ đạo các cơ quan có liên quan, các cấp chính quyền địa phương và phối hợp với các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn tổ chức hiệu quả các chính sách hỗ trợ; kiểm tra việc thực hiện, đảm bảo các chính sách đến được hộ đồng bào dân tộc. Trên cơ sở chỉ đạo của Trung Ương, các tỉnh đã triển khai thực hiện, lập ban chỉ đạo các cấp tỉnh, huyện, xã theo mô hình: ở cấp tỉnh, thành lập ban chỉ đạo 134 do phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm trưởng ban, trưởng ban dân tộc làm phó ban thường trực đồng thời lãnh đạo các sở ban ngành làm thành viên ban chỉ đạo; ở cấp huyện thành lập ban chỉ đạo huyện (một số địa phương lồng ghép cùng với Chương trình 135); ở cấp xã thành lập tổ công tác hoặc lồng ghép vào với chương trình khác như Xoá đói giảm nghèo, Chương trình 135. Việc tổ chức triển khai như trên đã tạo cơ chế chỉ đạo, quản lý thống nhất giữa các cấp chính quyền tỉnh - huyện – xã, đồng thời cho phép phối hợp đồng bộ, linh hoạt giữa các ban ngành liên quan. Để có thể thực hiện chương trình một cách tốt nhất, việc huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể cũng hết sức quan trọng. Các địa phương đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể các cấp tuyên truyền, giải thích rõ về mục đích của Chương trình đến tận người dân và được nhân dân nhiệt tỉnh hưởng ứng. Thông qua Chương trình, đồng bào đã nâng cao trách nhiệm của cộng đồng, tăng cường tình đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và hạn chế tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều hộ đã tự nguyện tham gia đóng góp ngày công hoặc chủ động vận động anh em trong dòng tộc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau khai hoang ruộng nước, làm công trình nước sinh hoạt, xây dựng bể chứa nước, đổi công trong việc làm nhà, lợp nhà…. Về vấn đề xây dựng đề án, do yêu cầu về thời gian và tính phức tạp của nội dung chính sách nên đề án của các địa phương lập giai đoạn đầu nhìn chung chưa thật đầy đủ và chuẩn xác, thời gian chậm, tổng nhu cầu vốn rất cao, một số tỉnh đề án làm lại nhiều lần. Một số tỉnh thực hiện rất sớm và nghiêm túc việc lập đề án như Cao Bằng, Lào Cai, Sơn La, Thanh Hóa, Quảng Nam. Bên cạnh đó cũng có những địa phương mới hoàn thành đề án vào tháng 1/2006 như Tây Ninh, Bạc Liêu, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc… Cá biệt có những tỉnh không chấp hành chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương. Đến tháng 5/2006, cả nước đã có 53 tỉnh xây dựng xong đề án, có cả đề án điều chỉnh. 2.1.2. Tình hình huy động và sử dụng vốn 2.1.2.1. Tình hình huy động vốn a) Nhu cầu vốn cho Chương trình 134 Theo tiêu chuẩn hỗ trợ quy định tại quyết định và thông tư hướng dẫn của các Bộ, Ngành trung ương, Ủy ban nhân dân các địa phương tổng hợp nhu cầu, xây dựng và phê duyệt đề án để có căn cứ bố trí vốn ngân sách hàng năm. Các địa phương đã chỉ đạo và hướng dẫn các huyện, xã tiến hành khảo sát điều tra và xây dựng đề án. Việc bình xét được tiến hành từ cấp xã và tổng hợp lên cấp huyện, cấp tỉnh để đưa vào đề án. Đến nay đã có 54 tỉnh, thành phố xây dựng xong đề án và gửi về Ủy ban Dân tộc để phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng hợp. Theo các đề án được duyệt, nhu cầu thực hiện Quyết định 134 như sau: Tổng số hộ trong diện đối tượng 134 là 475.408 hộ với nhu cầu vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương là 3.948,1 tỷ đồng, trong đó: Số hộ cần hỗ trợ nhà ở là 333.313 hộ, nhu cầu vốn từ ngân sách trung ương là 1.655,9 tỷ đồng Sô hộ cần hỗ trợ đất ở là 83.984 hộ với diện tích 1.884 ha, nhu cầu vốn từ ngân sách trung ương là 11,2 tỷ đồng Số hộ cần hỗ trợ đất sản xuất là 237.616 hộ với diện tích 73.535 ha, nhu cầu vốn từ ngân sách trung ương là 431,8 tỷ đồng Số hộ cẫn hỗ trợ nước sinh hoạt là 280.944 hộ, nhu cầu vốn từ ngân sách trung ương là 107,5 tỷ đồng Số công trình nước tập trung là 7.398 công trình, nhu cầu vốn từ ngân sách trung ương là 1.741,7 tỷ đồng. b) Lượng vốn đã huy động Theo Quyết định 134, nguồn vốn cho chương trình 134 được huy động từ ngân sách trung ương để bảo đảm cho các khoản chi theo định mức hỗ trợ quy định. Đồng thời, các địa phương có trách nhiệm bố trí kinh phí không dưới 20% so với số vốn Ngân sách Trung ương bảo đảm và huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác. Trong 2 năm 2005 – 2006, tổng vốn đầu tư cho Chương trình 134 như sau: Ngân sách Trung ương cho các địa phương để thực hiện quyết định là 1610 tỷ đồng Ngân sách địa phương là 292 tỷ đồng Huy động khác 0,121 triệu đồng Nguồn: Tài liệu hội nghị toàn quốc sơ kết tình hình thực hiện Quyết định 134/2004/QD-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ (giai đoạn 2004 – 2006) – UBDT – Bộ NNPTNT Biểu đồ 2.1 cho thấy nguồn vốn cho Chương trình 134 chủ yếu là vốn ngân sách trung ương, phần còn lại là vốn ngân sách địa phương và một phần rất nhỏ là huy động từ các nguồn khác. Nguồn vốn ngân sách trung ương cấp năm 2005 qua 2 đợt là 780 tỷ đồng cho 44 tỉnh, năm 2006 là 800 tỷ đồng cho 51 tỉnh và bổ sung 30 tỷ đồng từ nguồn vượt chi ngân sách. Tuy vậy, nguồn vốn nói trên so với nhu cầu của các địa phương vẫn còn thấp, trung bình đạt khoảng 41% nhu cầu của các tỉnh. Về nguồn vốn ngân sách địa phương, tính bình quân trên cả nước, nguồn vốn địa phương đã đạt yêu cầu gần 20% vốn ngân sách trung ương. Có những địa phương đã tích cực triển khai, chủ động vận dụng nhiều giải pháp tích cực, phù hợp tình hình cụ thể của địa phương để đảm bảo nguồn vốn đối ứng theo quy định như Thừa Thiên Huế, Ninh Thuận, Bình Dương…Nhiều địa phương đã huy động được nguồn lực cộng đồng, dòng họ để hỗ trợ làm nhà, san nhượng đất ở, đất sản xuất. Bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiểu tỉnh nguồn vốn đối ứng không đáp ứng đủ 20% vốn ngân sách. 2.1.2.1. Sử dụng vốn a) Phân bổ vốn ngân sách cho các địa phương Sau 2 năm thực hiện, lượng vốn từ Ngân sách Trung ương cấp là 1610 tỷ đồng cho 51 tỉnh thành trong cả nước. Việc phân bổ vốn không được chia đều mà có sự khác nhau giữa các địa phương. Khu vực Tây Nguyên, các tỉnh trọng điểm ở Tây Bắc, Tây Nam Bộ được ưu tiên bố trí nguồn vốn lớn.Khu vực Tây Nguyên: Đắc Lắc 84 tỷ đồng, Gia Lai 88 tỷ đồng, Kon Tum 72 tỷ đồng, Đắc Nông 70 tỷ đồng. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Trà Vinh 65 tỷ đồng, Sóc Trăng 70 tỷ đồng. Các khu vưc khác: Lai Châu 52 tỷ đồng, Thanh Hóa 57 tỷ đồng, Ninh Thuận 48 tỷ đồng… các tỉnh còn lại được phân bổ ít hơn và chỉ đạt 20 – 35% kế hoạch. b) Sử dụng vốn theo các mục tiêu của chương trình b1) Hỗ trợ nhà ở: Nhà ở là mục tiêu được ưu tiên của nhiều địa phương để giải quyết nhu cầu thiết yếu và cấp bách cho đồng bào, do đó lượng vốn phân bổ cho mục tiêu hỗ trợ nhà ở đạt cao nhất là 691 tỷ đồng, đạt 42 % kế hoạch. Trong đó các tỉnh Tây Nguyên và Tây Bắc chiếm trên 50 % lượng vốn đầu tư vì đây là vùng có miền núi có nhiều hộ đồng bào thuộc đối tượng hỗ trợ của Chương trình. Tính riêng trong các tỉnh miền núi phía Bắc được đầu tư hỗ trợ thì Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai là những tỉnh được đầu tư nhiều nhất, chiếm 72% vốn đầu tư cho vùng này, còn các tỉnh như Vĩnh Phúc, Quảng Ninh do kinh tế xã hội phát triển hơn nên mức đầu tư thấp hơn. Miền Đông Nam Bộ do có trình độ phát triển cao hơn lại là vùng đồng bằng do đó được đầu tư ít vốn hơn. Bảng 2.1: Vốn đầu tư thực hiện mục tiêu hỗ trợ nhà ở với các vùng trên cả nước Vùng Kinh phí đã thực hiện(tỷ đồng) Tỷ lệ hoàn thành(%) Tổng số 691.642 42 Đông Bắc 108.252 37 Tây Bắc 68.353 24 Đồng bằng sông Hồng - - Bắc trung bộ 95.906 39 Duyên hải miền Trung 108.023 58 Tây Nguyên 169.245 67 Đông Nam Bộ 4.256 12 Đồng bằng Sông Cửu Long 137.607 40 Nguồn: Tài liệu hội nghị toàn quốc sơ kết tình hình thực hiện Quyết định 134/2004/QD-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ (giai đoạn 2004 – 2006) – UBDT – Bộ NNPTNT Các hộ đồng bào được hỗ trợ nhà ở, mức thanh toán tối đa không quá mức quy định hỗ trợ của Nhà nước đối với từng hộ dân được cấp có thẩm quyền phê duyệt ( Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 6 triệu đồng trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ 5 triệu đồng, ngân sách địa phương hỗ trợ tối thiểu 1 triệu đồng và nguồn huy động khác). Một số địa phương đã thực hiện rất tốt mục tiêu này, đã đảm bảo và vượt mức tối thiểu 20% vốn đối ứng, tiêu biểu là Thừa Thiên Huế, Ninh Thuận, Quảng Nam, Đắc Nông…Trong đó Thừa Thiên Huế bố trí ngân sách tỉnh hỗ trợ nhà ở với mức 10 triệu đồng /nhà; Ninh Thuận 3 triệu đồng/nhà; Quảng Nam cho phép khai thác hỗ trợ 10m3 gỗ/nhà. b2) Hỗ trợ đất sản xuất Ngược lại với mục tiêu hỗ trợ nhà ở, mục tiêu hỗ trợ đất ở được thực hiện chậm hơn, hiệu quả thấp hơn. Kinh phí hỗ trợ đất sản xuất là 42,8 tỷ đồng, đạt 9% so với kế hoạch. Cụ thể ở các vùng miền như sau: Bảng 2.2 : Vốn đầu tư thực hiện mục tiêu hỗ trợ đất sản xuất với các vùng trên cả nước Vùng Kinh phí đã thực hiện (tỷ đồng) Tỷ lệ hoàn thành(%) Tổng số 42,835 9 Đông Bắc 12,328 22 Tây Bắc 6,412 14 Đồng b._. 134 cho các địa phương Đơn vị: Tỷ đồng Vùng Đề xuất mức vốn trung ương hỗ trợ Tổng vốn đã cấp KH vốn 2007 Tổng vốn 3 năm Đất sx Đất ở Nhà ở Nước PT Nước TT Cộng Tổng số 450,93 9,24 1655,92 107,55 1741,70 3927,10 1610 1310 2920 Đông Bắc 55,756 1,201 294,147 32,424 568,384 951,912 351 379,5 730,5 Tây Bắc 46,468 0,938 285,245 26,052 256,738 615,441 175 215 390 ĐB SHồng 2,01 0,761 9,625 1,794 32,232 46,422 10 34 44 Bắc T Bộ 38,705 0,699 248,863 11,856 200,318 500,441 183 165 348 DHM Trung 87,518 1,224 185,235 5,260 262,340 541,577 215 180 395 Tây Nguyên 50,788 1,899 252,758 13,998 212,596 532,039 358 128 486 ĐNam Bộ 18,682 0,645 36,875 3,074 24,130 83,406 52 20 72 ĐBSCLong 112,75 1,870 343,170 13,093 184,996 655,885 266 188,5 454,5 Nguồn: Tài liệu hội nghị toàn quốc sơ kết tình hình thực hiện Quyết định 134/2004/QD-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ (giai đoạn 2004 – 2006) – UBDT – Bộ NNPTNT 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH 134 TRONG GIAI ĐOẠN 2007 – 2008 3.2.1.Tổ chức thực hiện chương trình. 3.2.1.1. Giải pháp đối với các Bộ, ngành Trung ương và Chính phủ Các bộ ngành Trung ương cần sớm bổ sung một số cơ chế chính sách hỗ trợ phù hợp với điều kiện miền núi như: Chính sách ưu đãi cho các cán bộ tăng cường về cơ sở ở những vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc ít người. Một trong những trở ngại trong quá trình thực hiện Chương trình 134 đó là hạn chế năng lực cán bộ, đặc biệt là cán bộ tại các địa phương. Để khắc phục tình trạng này, một trong những giải pháp đó là tăng cường cán bộ có năng lực về hỗ trợ cho các cơ sở vùng sâu, vùng xa triển khai chương trình đồng thời nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ ở địa phương. Các cán bộ tăng cường này cần được hỗ trợ xứng đáng như phụ cấp hay những tiêu chuẩn đãi ngộ tốt hơn khi họ làm việc ở vùng sâu, vùng xa. Chính sách thay thế chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo thuộc đối tượng 134 đối với các địa phương không còn quỹ đất sản xuất nông, lâm nghiệp. Các Bộ ngành Trung ương cần rà soát lại các chính sách hướng dẫn Quyết định 134 để đảm bảo phù hợp với giai đoạn tiếp theo của chương trình. Đồng thời cần xây dựng các văn bản hướng dẫn phù hợp, đặc biệt về giải pháp hỗ trợ thay thế đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân tộc bởi đây là hai vấn đề mà các địa phương còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai. Cụ thể: Chính phủ cần cho phép mở rộng phạm vi áp dụng Quyết định 231/2005/QD-TTg ngày 22/9/2005 đối với các tỉnh Tây Nguyên được thực hiện trên địa bàn cả nước. Quyết định 231 của Thủ tướng Chính phủ quy định 4 chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số vào làm việc. Qua thời gian thực hiện ở 5 tỉnh Tây Nguyên đã nhanh chóng được các doanh nghiệp đóng nhận và thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tháo gỡ được nhiều khó khăn cho các địa phương do không còn quỹ đất để giao cho đồng bào. Mặt khác, cuộc sống của các hộ có lao động làm việc tại các doanh nghiệp đã được cải thiện đáng kể, nhất là lao động vào làm việc tại các công ty cao su nhờ thu nhập cao. Các công ty cao su, cà phê hoan nghênh chủ trương trên vì vườn cây tiếp tục được quản lý và phát huy hiệu quả kinh tế. Khuyến khích các doanh nghiệp cao su, cà phê, lâm nghiệp thực hiện việc giao khoán vườn cây cho lao động là đồng bào dân tộc thiểu số quản lý để tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho các hộ đồng bào, trong dó ưu tiên các đôi tượng thuộc Quyết định 134 . Mở rộng thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên theo Quyết định 304/2005/QD-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện trong cả nước. Mức khoán bảo vệ rừng đã được nâng lên từ 50.000 đồng/ha lên 100.000 đồng/ha. Đề nghị Chính phủ xem xét cho phép một số địa phương không còn quỹ đất sản xuất được tạm ứng vốn để đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi vừa và nhỏ thật sự cấp bách phục vụ đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa (giống như các tỉnh Tây Nguyên thực hiện theo Quyết định 1143/QD-TTg ngày 31/8/2006). Đây là một biện pháp quan trọng để hỗ trợ cho đồng bào tăng vụ, tăng năng suất cây trồng trên diện tích đã có mà không phải nhận thêm phần đất bị thiếu, đây là một giải pháp quan trọng đối với các địa phương không còn quỹ đất hiện nay. Hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chú trọng phát triển chăn nuôi và sản xuất cây có giá trị hàng hóa gằn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Theo đó, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo không có hoặc thiếu đất sản xuất tự nguyện không nhận thêm đất sản xuất mà chuyển sang sản xuất chăn nuôi hoặc chuyển sang thâm canh sản xuất cây có giá trị hàng hóa gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo các đề án sản xuất được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì được nhận tiền hỗ trợ khai hoang bình quân 5 triệu đồng/ha phần đất thiếu so với mức giao đất tối thiểu quy định tại Quyết định 134 để hỗ trợ con giống hoặc cây giống, phân bón, vật tư nông nghiệp, chế biến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và vẫn được hưởng các hỗ trợ khác trừ đất sản xuất theo Quyết định 134 Hỗ trợ cho các lao động là đồng bào dân tộc thiểu số để tham gia thị trường xuất khẩu lao động. Để tạo thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo không có hoặc thiếu đất sản xuất, có lao động đủ sức khỏe và trình độ, tự nguyện tham gia xuất khẩu lao động. Để thực hiện được điều này phần vốn thay vì hỗ trợ đất sản xuất sẽ được sử dụng để đào tạo cho người lao động nhằm đáp ứng đủ điều kiện xuất khẩu lao động. Chính quyền địa phương sẽ đứng ra tổ chức cho người lao động đăng ký và phối hợp với Sở Lao động, thương binh và xã hội để tổ chức các lớp học cho người lao động. Các chính sách hỗ trợ để khuyến khích các hộ thiếu đất sản xuất không nhận đất mà chuyển sang làm nghề khác phi nông nghiệp. Theo đó Nhà nước sẽ hỗ trợ đào tạo nghề cho các lao động là đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển các khu đô thị trong nông thôn, đào tạo nghề gắn với tạo điều kiện giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số. Việc đào tạo nghề này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng:sẽ đào tạo ngành gì? đào tạo trong thời gian bao lâu? hình thức tổ chức?... Các ngành nghề đào tạo phải phù hợp với đặc thù của địa phương ( nên hướng tới các ngành nghề truyền thống sẵn có ở địa phương mà trong tương lai có tiềm năng phát triển ) đồng thời phù hợp với nhu cầu thị trường, tránh tình trạng sau khi đào tạo người dân vẫn không có việc làm gây lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư. Biểu dương, khen thưởng đối với các địa phương thực hiện tốt các mục tiêu của chương trình, đặc biệt các địa phương có cách làm linh hoạt, sáng tạo. Trong quá trình thực hiện một số địa phương đã thực hiện rất tốt từ khâu tuyên truyền vận động làm bà con hiểu rõ những mục tiêu và lợi ích của chương trình đến huy động tốt các nguồn lực địa phương để hoàn thành các mục tiêu theo kế hoạch, và báo cáo kịp thời, đúng thời hạn lên các cơ quan trung ương. Các địa phương này cần được biểu dương, khen thưởng để khuyến khích làm tốt hơn nữa và là tấm gương cho địa phương khác noi theo. Bên cạnh đó các cách làm năng động, sáng tạo như liên kết với các doanh nghiệp trong địa bàn để giải quyết việc làm cho đồng bào, vận động cộng đồng san sẻ đất ở… cũng là những cách làm tốt cần được khuyến khích và nhân rộng. 3.2.1.2. Giải pháp đối với Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương Việc triển khai thực hiện tốt ở địa phương là khâu then chốt để nâng cao hiệu quả chương trình. Các địa phương cần có ý thức và chủ động, sáng tạo hơn nữa trong quá trình thực hiện.Cụ thể: Nâng cao ý thức trách nhiệm thực hiện Quyết định 134 của các cấp, các ngành, các địa phương và cơ sở đến hết năm 2008 cơ bản thực hiện xong việc giải quyết đất sản xuất cho các hộ dân tộc thiểu số thuộc đối tượng Quyết định 134 thực sự có nhu cầu về đất sản xuất. Đề nghị địa phương tiếp tục rà soát, phúc tra lại các đối tượng thiếu đất sản xuất theo Quyết định 134 và công khai trước buôn làng để giải quyết công bằng. Các tỉnh chỉ đạo các sở có phương án cụ thể giải quyết đồng bộ về đất đai cho Chương trình 134 , tổ chức lồng ghép các chương trình trên địa bàn như: chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình 135 giai đoạn 2, chương trình thủy lợi vừa và nhỏ, chương trình giống cây trồng vật nuôi, chương trình khuyến nông, khuyến lâm…nhằm giúp đồng bào phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao thu nhập. Tích cực rà soát nhu cầu thực sự về đất để có giải pháp thích hợp: Đối với những tỉnh việc khai thác đất hoang giao cho đồng bào dân tộc không hiệu quả, có nhu cầu giải quyết theo các hướng khác (đền bù vườn cây, giải quyết theo hướng không cần đất như chăn nuôi, giao khoán rừng, thu hút lao động vào làm việc trong các nông lâm trường và các ngành nghề khác) cần phải lập phương án cụ thể, lập báo cáo trình chính phủ. Những địa bàn hoàn thành tốt, đúng kế hoạch các mục tiêu của chương trình cần phổ biến kinh nghiệm, cách làm của mình để các địa phương khác học tập. Các địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trong việc tham gia cùng Nhà nước thực hiện chính sách có hiệu quả; chủ động, sáng tạo tìm ra các giải pháp huy động nguồn lực trong cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và các nhà tài trợ để giúp đỡ và ủng hộ đồng bào nghèo. Tăng cường biện pháp vận động giáo dục, thuyết phục có lý, có tình, có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước bằng biện pháp và chính sách cụ thể. Giải quyết dứt điểm những vụ việc nổi cộm về khiếu kiện, tranh chấp đất đai giữa đồng bào dân tộc thiểu số với nhân dân trong vùng và các doanh nghiệp, tổ chức Nhà nước Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh cần rà soát lại các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trước đây đã bao chiếm đất của nông, lâm trường, hoặc đã có đất xâm canh ở nơi khác nhưng họ không thông báo để được hưởng hỗ trợ từ Quyết định 134 ; tùy từng trường hợp và điều kiện cụ thể mà xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ, nhằm giảm áp lực về đất đai cho địa phương, tạo điều kiện cho địa phương thực hiện tốt công tác quản lý đất đai trên địa bàn. Nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận tổ quốc trong việc vận động bà con, nêu cao tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó phối hợp chặt chẽ giữa cuộc vân động “ Ngày vì người nghèo” và các mục tiêu của Chương trình 134 , tránh sự phân bổ bất hợp lý trên địa bàn với cùng một mục tiêu chăm lo xây dựng nhà ở, xóa nhà dột nát cho hộ nghèo. 3.2.2. Huy động và phân bổ nguồn vốn đầu tư 3.2.2.1. Giải pháp tăng cường huy động vốn đầu tư Sau hơn 2 năm thực hiện, nguồn vốn đầu tư cho Chương trình 134 chủ yếu là từ ngân sách trung ương, các nguồn vốn khác chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Điều này không chỉ tạo gánh nặng cho ngân sách trung ương, tạo thói quen ỷ lại vào Nhà nước mà còn khiến cho hoạt động đầu tư bị dàn trải, thiếu tập trung vì nhu cầu vốn đầu tư rất lớn trong khi khả năng hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách thì hạn chế. Để đảm bào số vốn đầu tư cho Chương trình trong thời gian tới cần có các giải pháp huy động nhiều hơn các nguồn lực ngoài ngân sách. Huy động các nguồn lực tại chỗ Cùng với nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương, việc huy động các nguồn lực tại địa phương là hết sức cần thiết. Để huy động được các nguồn lực này, các địa phương có thể xây dựng chính sách, cơ chế động viên sự tham gia, đóng góp của người dân tại làng, bản và cả những con em của địa phương đã thoát ly công tác ở nơi khác để hình thành quỹ hỗ trợ của địa phương. Quỹ này sẽ được sử dụng tài trợ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội phục vụ cộng đồng tại địa phương như hỗ trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt tập trung trong Chương trình 134. Nguyên tắc quản lý và chi tiêu của quỹ sẽ do người dân quyết định. Đồng thời, các địa phương cũng cần tuyên truyền, vận động, khơi dậy ý chí tự lực tự cường trong nhân dân và cộng đồng tham gia tích cực vào Chương trình. Người dân có thể đóng góp bằng tiền, hiện vật hay công lao động. Việc tăng cường hình thức để người dân tự làm các công trình ở cấp xã, thôn, bản sẽ là hình thức tốt nhất để huy động nguồn lực trong cộng đồng dân cư. Để huy động được các nguồn lực từ cộng đồng, từ nhân dân địa phương, các cấp chính quyền cần hết sức chú ý việc thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai trong việc sử dụng vốn và thực hiện đầu tư. Cụ thể là cần công khai mức vốn đầu tư cho nhân dân được biết, tạo điều kiện cho nhân dân được bàn bạc, góp ý kiến về việc quản lý và xây dựng các công trình. Có như thế mới phát huy được quyền làm chủ của người dân, tạo điều kiện cho nhân dân theo dõi giám sát để từ đó tin tưởng và tích cực tham gia đóng góp vào xây dựng và quản lý các công trình. Huy động các nguồn vốn viện trợ từ các tổ chức Quốc tế Để có thêm vốn hỗ trợ cho Chương trình 134 các cấp chính quyền cần khai thác, kêu gọi các nguồn vốn từ quốc tế. Chương trình 134 là chương trình kinh tế xã hội của quốc gia, với mục tiêu cơ bản là nâng cao đời sống, phát triển sản xuất, thực hiện xóa đói giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc miền núi nên sẽ được các tổ chức quốc tế ủng hộ và sẵn sàng giúp đỡ. Để kêu gọi được các nguồn vốn này, một mặt chúng ta tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về mục đích, về đối tượng hưởng lợi của Chương trình 134; mặt khác chúng ta cũng cần sử dụng vốn có hiệu quả để tạo niềm tin cho các nhà tài trợ. Khi đã có được tài trợ, việc quản lý vốn là hết sức quan trọng và cần đặc biệt chú ý trong công khai minh bạch chi tiêu và đảm bảo chất lượng công trình. 3.2.2.2. Cơ cấu lại hợp lý cách phân bổ nguồn lực đối với các địa phương Trong 2 năm thực hiện, một số lượng lớn các địa phương không đảm bảo được số lượng vốn đối ứng theo quy định do điều kiện kinh tế của địa phương còn khó khăn. Chính vì thế, trong cơ chế hỗ trợ các địa phương, chính phủ nên xem xét bổ sung quy định về mức ngân sách địa phương đảm bảo (hiện nay theo quy định là 20% mức ngân sách trung ương hỗ trợ) theo hướng hợp lý hơn. Có thể hợp lý hóa cách phân bổ như sau: Những địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sáchTtrung ương trên 70% chi cân đối ngân sách địa phương thì ngân sách địa phương không phải bố trí vốn đối ứng Những địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương từ 50% đến 70% chi cân đối ngân sách địa phương thì ngân sách địa phương phải bố trí vốn đối ứng khoảng 5% mức vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ. Những địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương dưới 50% chi cân đối ngân sách địa phương thì ngân sách địa phương phải bố trí vốn đối ứng khoảng 10% mức vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ. Các địa phương có tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương phải bố trí đối ứng bằng 20% mức ngân sách Trung ương hỗ trợ. Hàng năm bố trí kinh phí quản lý chương trình 134 để hỗ trợ các địa phương có nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương theo mức 0,5% mức vốn ngân sách trung ương hỗ trợ địa phương để thực hiện Chương trình 134. 3.2.3. Quản lý hoạt động đầu tư 3.2.3.1. Đối với Trung ương Các Bộ, Ngành và Chính phủ cần tổ chức nhiều hơn các đoàn kiểm tra việc thực hiện Chương trình ở các địa phương, đặc biệt chú trọng đến vấn đề thất thoát lãng phí, thanh quyết toán các mục tiêu hỗ trợ. Các Bộ, ngành chức năng cần có các quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với các công trình xây dựng để đảm bảo phục vụ nhân dân một cách tốt nhất đồng thời làm cơ sở để giám sát chất lượng công trình. Các công trình hỗ trợ cho cá thể, cho từng hộ gia đình do số vốn nhỏ vì vậy không nên quy định mức tạm ứng mà nên cấp 1 lần để có điều kiện mua đủ vật liệu, còn công tác quản lý kinh phí do chủ tịch Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm Chính phủ nên tăng mức chi phí quản lý để các địa phương hoạt động được tốt hơn. 3.2.3.2. Đối với các địa phương Việc quản lý hoạt động đầu tư tại địa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả Chương trình. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư Ủy ban nhân dân tỉnh cần sát sao hơn nữa trong việc chỉ đạo thực hiện Chương trình từ vấn đề xác định đối tượng, thực hiện hỗ trợ các mục tiêu, xây dựng các công trình cho nhân dân cho tới chế độ thông tin báo cáo. Để thực hiện được điều này lãnh đạo tỉnh cần có những quy định nghiêm khắc kiểm điểm, kỷ luật đối với những huyện xã không chấp hành chỉ đạo của cấp trên. Trong quá trình thực hiện tại cơ sở, cần đẩy mạnh hơn nữa vấn đề công khai dân chủ trong các mục tiêu hỗ trợ, cần công khai vốn và các tiêu chuẩn chất lượng để nhân dân giám sát và kiểm tra. Đặc biệt là các công trình xây dựng, công trình thường xảy ra thất thoát lãng phí và kém chất lượng, thì việc kiểm tra giam, giám sát lại càng quan trọng. Cụ thể như với mục tiêu hỗ trợ nước sinh hoạt, mỗi làng, bản có thể cử ra người giám sát những công trình xây dựng tại địa phương mình, kiểm tra xem công trình có đạt tiêu chuẩn chất lượng, có đúng với chính sách hay không. Đối với cấp huyện, ban chỉ đạo Chương trình phải đẩy mạnh hơn nữa tinh thần trách nhiệm, lắng nghe ý kiến và kiến nghị từ xã đưa lên đồng thời thực hiện thông tin báo cáo định kỳ hai tháng một lần lên Ủy ban nhân dân tỉnh. Đối với cấp xã, mỗi xã có đối tượng thuộc diện được hỗ trợ cần cử một cán bộ thường trực trong ban lãnh đạo xã (có thể là Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã) phụ trách chương trình. Cán bộ này có trách nhiệm theo dõi và nắm bắt chính xác các hộ đói nghèo ở từng bản, trực tiếp chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ, đồng thời thực hiện thông tin báo cáo định kỳ hàng tháng lên Ủy ban nhân dân huyện để có hướng kịp thời xử lý khi xuất hiện các vướng mắc. 3.2.3. Thực hiện chương trình 3.2.3.1. Mục tiêu hỗ trợ đất sản xuất a) Tích cực tạo quỹ đất để giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo thực sự có nhu cầu về đất sản xuất Cần phân loại các hộ không có đất và thiếu đất sản xuất để có giải pháp phù hợp: Hộ thực sự có nhu cầu về đất để sản xuất; hộ có nhu cầu về giao rừng, khoán bảo vệ rừng; hộ có nhu cầu về phát triển chăn nuôi, dịch vụ, ngành nghề; hộ có nhu cầu làm công nhân trong các doanh nghiệp nông nghiệp Tiếp tục rà soát đất đai các nông, lâm trường quốc doanh, chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp của những khu rừng nghèo kiệt sang đất nông nghiệp (nếu có điều kiện) để tạo quỹ đất giao cho các đối tượng thuộc Quyết định 134 Tiếp tục công tác khai hoang phục hóa các diện tích đất có thể khai thác sử dụng được, kết hợp với đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình thủy lợi vừa và nhỏ để bà con có thể canh tác được hiệu quả trên diện tích khai hoang đó. Mặt khác, Chính phủ cũng nên cho phép nâng mức hỗ trợ khai hoang từ 5 triệu/ha lên 8 triệu/ha vì mức 5 triệu là quá thấp. b) Tăng cường đầu tư cho khoa học công nghệ để thúc đẩy sản xuất phát triển nông – lâm nghiệp ở các vùng miền núi khó khăn Tăng cường năng lực các cơ sở nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp ở các vùng miền núi để đủ năng lực tạo ra những tiến bộ khoa học kỹ thuật đáp ứng sát yêu cầu và phù hợp với điều kiện đặc thù của từng vùng sinh thái. Chú trọng đầu tư nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ chuyên biệt cho vùng miền núi. Trước hết cần tiếp tục triển khai các chương trình giống cây trồng, vật nuôi; ứng dụng công nghệ sinh học; phát triển mạnh công nghệ bảo quản và chế biến nông lâm sản. Tăng cường hệ thống khuyến nông , khuyến lâm cơ sở để chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo đến cuối năm 2007 mỗi xã có ít nhất 1 cán bộ khuyến nông chuyên trách, các thôn bản ở những xã đặc biệt khó khăn có cộng tác viên về khuyến nông Triển khai nhân rộng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi ở các vùng đặc thù như vùng đất dốc, đất cát… để tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số có thể sử dụng hiệu quả một số diện tích đất đặc thù tránh lãng phí, bỏ hoang. c) Phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, đổi mới và nâng cao năng lực của hệ thống thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ nông nghiệp. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho vùng miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số theo đó ưu tiên đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp việc nâng cao giá trị, hiệu quả của nông lâm sản và doanh nghiệp kinh doanh nông sản, trước hết về giao thông, thủy lợi, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ nông nghiệp. Quan tâm hơn phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại, nhất là xuất khẩu theo đường biển như : chợ nông thôn, kho lạnh, kho ngoại quan, hệ thống thông tin liên lạc… Tăng cường phát triển thủy lợi vừa và nhỏ đa dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp, làm thủy điện cũng như cung cấp nước sinh hoạt cho người dân miền núi ở Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Nam Trung Bộ. Đối với các tỉnh Tây Nguyên, ưu tiên xây dựng các hồ chứa đập dâng giữ nước tưới cho cây công nghiệp cà phê, mía, hồ tiêu, cũng như nước sinh hoạt và công nghiệp. Đối với các xã đặc biệt khó khăn chưa có công trình thủy lợi hoặc có nhưng đã bị xuống cấp, Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng và cải tạo nâng cấp. Đối với địa bàn vùng cao không có ruộng nước, Nhà nước hỗ trợ kinh phí để làm ruộng bậc thang, nhằm giúp người nghèo có điều kiện sản xuất lương thực tại chỗ. Chú trọng phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, trước hết đối với thú y, bảo vệ thực vật, chế biến , thu mua nông lâm sản. d) Các giải pháp khác Thực hiện các chính sách thay thế cấp đất sản xuất đặc biệt với các địa phương không còn quỹ đất như: nhân rộng mô hình giao rừng, khoán bảo vệ rừng như đã thực hiện ở các tỉnh Tây Nguyên; cấp vật nuôi cây trồng theo yêu cầu của đồng bào. Các chính sách thay thế này cũng cần được quy định cụ thể về số lượng, tiêu chuẩn. Cần nâng mức hỗ trợ đối với việc chuyển nhượng đất sản xuất từ lâm trường hoặc từ các hộ gia đình khác từ 5 triệu đồng/ha lên cao hơn tùy theo thực tế ở các địa phương bởi trên thực tế giá đất 1ha tại các địa phương là khác nhau và đều trên 5 triệu đồng. 3.2.3.2. Mục tiêu hỗ trợ nhà ở Các địa phương điều tra, khảo sát, phân loại cụ thể đối tượng thuộc diện hỗ trợ về nhà ở. Tổ chức bình xét, phân loại đối tượng ưu tiên. Trước hết cần tập trung hỗ trợ cho các hộ nghèo là gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng có khó khăn về nhà ở. Nâng mức hỗ trợ xây dựng nhà từ 5 triệu đồng/hộ lên 8 triệu đồng/hộ. Do thời gian thực hiện ngắn, khối lượng lại rất lớn và triển khai trên địa bàn rộng, vì vậy các địa phương cần lập kế hoạch, tiến độ thực hiện thật cụ thể, chi tiết. Để đảm bảo tiến độ thì đối với những hộ đã sẵn sàng cho việc xây dựng nhà ở như đã có đất ở, đã chọn được mẫu nhà ở, đủ khả năng tài chính… thì tập trung làm trước Mỗi huyện, xã cần xây dựng mô hình làm thí điểm để đồng bào tham khảo, rút kinh nghiệm. Định kỳ nên có sơ kết, đánh giá việc thực hiện, kịp thời giải quyết những tồn tại và phát sinh. Hàng tháng các địa phương cần có báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện. Ở mỗi địa phương cần phát động thành phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp để mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân tích cực thực hiện. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm hỗ trợ đến tận tay người dân. Đảm bảo công khai, công bằng, minh bạch trong việc xét duyệt các đối tượng hỗ trợ. Sở xây dựng các tỉnh cần tập trung nghiên cứu, thiết kế mẫu nhà ở, hướng dẫn chi tiế để nhân dân biết và áp dụng. Mẫu nhà ở phải phù hợp với phong tục tập quán của từng dân tộc, điều kiện tự nhiên của từng vùng và khả năng tham gia đóng góp của các hộ dân. Cố gắng khai thác, sử dụng các loại vật liệu truyền thống của địa phương và đặt hàng sản xuất các cấu kiện nhà ở theo thiết kế mẫu được duyệt tại các cơ sở sản xuất trên địa bàn. Việc triển khai hỗ trợ về nhà ở cần lồng ghép các chương trình, đặc biệt là chương trình nước sạch, vệ sinh môi trường để đảm bảo điều kiện sống tối thiểu và từng bước nâng cao điều kiện sống của nhân dân, góp phần phát triển bền vững Để các khu vực dân cư phát triển phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các địa phương cần quan tâm đặc biệt đến công tác quy hoạch các điểm dân cư nông thôn, đảm bảo đồng bộ việc xây dựng nhà ở với xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong quá trình xây dựng nhà cần để cho nhân dân chủ động xây dựng, Nhà nước chỉ đứng ra xây dựng khi hộ gia đình không có khả năng. 3.2.3.3. Mục tiêu hỗ trợ nước sinh hoạt Công trình nước sinh hoạt tập trung Trong các mục tiêu hỗ trợ, nước sinh hoạt tập trung là mục tiêu chiếm lượng vốn lớn nhất, trên 40% tổng nhu cầu kinh phí thực hiện, do đó quản lý và sử dụng hiệu quả đồng vốn đối với các công trình này là rất quan trọng. Theo quy định tại Quyết định 134 và các văn bản hướng dẫn, ngân sách trung ương hỗ trợ cho các công trình nước tập trung cho làng, bản có tỷ lệ đồng bào dân tộc từ 25% dân số trở lên và không quy định rõ suất đầu tư, mức vốn và bình quân số người được hưởng. Do đó các địa phương khi xây dựng để án đã xác định nhu cầu kinh phí cho công trình nước sinh hoạt tập trung là quá cao. Để cải thiện tình trạng này, trong thời gian tới, các cơ quan trung ương cần lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra, rà soát lại nhu cầu thực tế của các địa phương đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn rõ ràng cụ thể hơn. Bên cạnh đó, để tăng cường hiệu quả đầu tư, Ủy ban Dân tộc cũng nên đề xuất ban hành các chính sách hướng dẫn cụ thể để thực hiện nội dung này theo hướng chỉ tập trung đầu tư cho các vùng thật sự khó khăn và đối tượng đầu tư là các công trình quy mô nhỏ, vốn đầu tư thấp nhằm đáp ứng được nhiều đối tượng hưởng lợi. Đồng thời các các địa phương cũng nên chủ động lồng ghép hỗ trợ mục tiêu này với các chương trình khác trên địa bàn như Chương trình nước sạch và Vệ sinh môi trương, Chương trình 135… Công trình nước sinh hoạt phân tán Các công trình nước phân tán mặc dù số vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với công trình nước tập trung, tuy nhiên chỉ phục vụ được cho riêng lẻ một hộ đồng bào. Do đó, trong quá trình bình xét để xác định đối tượng được hỗ trợ cần hết sức chú ý để đảm bảo đúng đối tượng, công bằng giữa các hộ, đồng thời nâng cao hiệu quả đồng vốn đầu tư. Những hộ thực sự thiếu và gặp nhiều khó khăn sẽ được ưu tiên hỗ trợ trước. Một vấn đề nữa của mục tiêu hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán đó là chất lượng các vật dụng như lu, téc …mà đồng bào nhận được. Do người dân không trực tiếp đứng ra mua lu, téc mà việc này được thực hiện thông qua chính quyền xã, vì thế khâu chọn lựa ban đầu, cũng như đảm bảo chất lượng, bảo dưỡng, bảo trì sẽ có nhiều thiếu xót. Để khắc phục, trong thời gian tới chính quyền địa phương cần có những ràng buộc hơn nữa trong hợp đồng đối với các nhà cung ứng để đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. Tránh tình trạng mới dùng đã hỏng và khi hỏng không có ai đứng ra chịu trách nhiệm. 3.2.3.4. Mục tiêu hỗ trợ đất ở Như kết quả của hơn 2 năm vừa qua, mục tiêu hỗ trợ đất ở được giao cho các địa phương tự giải quyết là rất hợp lý. Theo đó, trong thời gian tới, cách làm này nên tiếp tục được áp dụng ở tất cả các địa phương có đối tượng được hỗ trợ của Chương trình 134. KẾT LUẬN Sau hơn 2 năm thực hiện, Chương trình 134 đã đạt được những thành tựu hết sức đáng kể. Hàng vạn hộ dân đã nhận được hỗ trợ, đời sống của đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt, diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi đã có những bước thay đổi to lớn. Do đó, có thể nói Chương trình 134 là một chính sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng và mong ước của người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những đóng góp kể trên, Chương trình 134 cũng vẫn còn những tồn tại nhất định đòi hỏi phải có sự cố gắng, cộng tác của nhiều bên, từ chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể cho đến chính người dân – những người trực tiếp được hưởng lợi ích do chương trình mang lại. Sau một thời gian ngắn tìm hiểu về Chương trình 134, tôi đã mạnh dạn viết đề tài: “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Chương trình 134”, nhằm mục đích nghiên cứu về chương trình dự án của Chính phủ nói chung và Chương trình 134 nói riêng, từ đó có những đề xuất, kiến nghị để Chương trình hoạt động tốt hơn trong thời gian tới. Tuy còn nhiều hạn chế, song tôi hi vọng những ý kiến của mình có thể đóng góp phần nào cho việc nâng cao hiệu quả Chương trình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ủy ban Dân tộc, Viện Dân tộc - Hội đồng khoa học (2006). 60 năm công tác dân tộc - Thực tiễn và bài học. Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Ủy ban Dân tộc (2006). Báo cáo kết quả dự án: Điều tra, khảo sát hiệu quả đầu tư của chương trình 135 và đề xuất chính sách hỗ trợ đâu tư phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn giai đoạn 2006 –2010. Ủy ban Dân tộc - Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (10/2006). Tài liệu hội nghị toàn quốc sơ kết 2 năm thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ – TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ (2004 – 2006). Ủy ban Dân tộc (2005). Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 –2010. Ủy ban Dân tộc (2005). Các văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ – TTg ngày 20/7/2004 của thủ tướng chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào thiểu số nghèo đời sống khó khăn. Ủy ban Dân tộc, Vụ Pháp chế.(2005). Một số văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc (1999 – 2005). Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc. Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. (2003). Nghị định số 51/2003/NĐ-CP ngày 16/5/2003 của Chính phủ Quy định Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc. Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. (2003). Quyết định 134/2004/QĐ – TTg ngày 20/7/2004 của thủ tướng chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào thiểu số nghèo đời sống khó khăn. Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam.(1998).Quyết định số 135/1998/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa. Uỷ ban Dân tộc.(2003). Quyết định số 247/2004/QĐ – UBDT ngày 11/11/2003 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của Vụ Chính sách Dân tộc. Website của Uỷ ban Dân tộc. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0230.doc
Tài liệu liên quan