Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa

Phần mở đầu 1. Lý do lựa chọn đề tài Hoà trong xu thế hội nhập toàn cầu trong lĩnh vực Tài chính nói chung và lĩnh vực Ngân hàng nói riêng, thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau, nhiều Ngân hàng và tổ chức tín dụng ra đời đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các Ngân hàng muốn tồn tại, phát triển, đạt được lợi nhuận cao và khẳng định vị thế của mình trên thị trường thì phải mở rộng qui mô hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ của mình, nâng cao năng lực điều hành nhằm đáp ứng nhu cầu

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng cao của nền kinh tế. Chi nhánh NHCT Đống Đa với lợi thế là Ngân hàng thuộc một trong năm NHTM Nhà nước lớn nhất với bề dày truyền thống và có một hệ thống mạng lưới hoạt động rộng lớn cũng đang vươn lên bắt kịp với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế. Hoạt động cho vay là hoạt động chính của Ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây hoạt động cho vay chưa đạt được kết quả như mong muốn, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của NHCT Đống Đa với mạng lưới gồm 1 trụ sở chính, 2 phòng giao dịch, 2 điểm giao dịch và 15 quỹ tiết kiệm. Một mặt là do những nguyên nhân khách quan của tình hình kinh tế xã hội nhưng mặt khác là do bản thân Ngân hàng. Để tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, cần phải có những biện pháp thiết thực làm tăng lợi nhuận từ hoạt động cho vay. Xuất phát từ nhận thức trên, em đã chọn đề tài ''Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHCT Đống Đa'' làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu về mặt lý luận những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay cũng như hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay và hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHCT Đống Đa. - Đề xuất một số giải pháp và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHCT Đống Đa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động cho vay đối với các khách hàng là doanh nghiệp trong giai đoạn 2005-2007 để phân tích và đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHCT Đống Đa. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp giữa phân tích và tổng hợp. - Phương pháp kế thừa các nghiên cứu đã có cũng như khảo sát thực tế, thu thập thông tin tài liệu phục vụ cho chuyên đề 5. Kết cấu của chuyên đề Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, bảng biểu, các chữ viết tắt, chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHCT Đống Đa Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại NHCT Đống Đa Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM 1.1 Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.1 Khái quát về NHTM 1.1.1.1 Khái niệm về NHTM Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, nghề Ngân hàng đã bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền, đúc tiền của các thợ vàng. Sau đó là sự xuất hiện của những người cho vay nặng lãi. Trải qua thời gian cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và của nền kinh tế xã hội, Ngân hàng trở thành một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Hiện nay có nhiều định nghĩa về Ngân hàng phụ thuộc vào từng quan điểm, khía cạnh được quan tâm. Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Xem xét Ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì: ''Ngân hàng là các tổ chức tín dụng cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế''(Trích trang 7,Giáo trình Ngân hàng thương mại, Đại học Kinh tế quốc dân) Theo luật tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua ngày 12/12/1997 thì định nghĩa:''Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán''. 1.1.1.2 Những hoạt động cơ bản của NHTM Với chức năng là trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và là trung gian thanh toán, Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Chương III của Luật các tổ chức tín dụng đã nêu ra các hoạt động của tổ chức tín dụng trong đó chủ yếu là NHTM bao gồm: - Hoạt động vốn, nhận tiền gửi: Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm) để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Ngân hàng trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng vì đã nhường cho Ngân hàng sử dụng tạm thời số tiền đó để kinh doanh. - Hoạt động tín dụng: Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm. NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Trong các hoạt động cấp tín dụng thì cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất. + Cho vay là hình thức cấp tín dụng theo đó TCTD giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. + Chiết khấu là hình thức cấp tín dụng theo đó Ngân hàng nhận các giấy tờ có giá (như thương phiếu, trái phiếu) và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của giấy tờ có giá nhận chiết khấu trừ đi một phần lợi nhuận và chi phí mà Ngân hàng được hưởng. + Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. + Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn theo đó Ngân hàng sẽ mua tài sản cho khách hàng thuê. Trong thời hạn thuê, khách hàng phải trả phí thuê. Phí này được tính phải đảm bảo cho Ngân hàng thu gần đủ hoặc thu đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lại. Hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó với giá ưu đãi. - Hoạt động thanh toán, ngân quỹ Khi thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, NHTM tiến hành mở tài khoản cho khách hàng gửi tiền. Qua nghiệp vụ này, một mặt Ngân hàng huy động được vốn từ khách hàng, mặt khác Ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ như thực hiện các dịch vụ thu hộ chi hộ, cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thu phát tiền mặt cho khách hàng, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia thanh toán liên ngân hàng trong nước và quốc tế. - Ngoài các hoạt động chính là huy động tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán, NHTM còn có thể thực hiện một số hoạt động khác như góp vốn mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại tệ, uỷ thác và nhận uỷ thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản vật có giá, môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ đại lý... 1.1.2 Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.2.1 Khái niệm Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là hoạt động tín dụng cơ bản của NHTM. Hình thức tín dụng truyền thống của NHTM là cho vay ngắn hạn có tài sản đảm bảo giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu. Sau đó mở rộng thành các hình thức khác như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để Ngân hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cấp tín dụng liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của khách hàng nên phải tuân thủ nguyên tắc an toàn. Điều này thể hiện ở khía cạnh sau: + Mục đích sử dụng vốn vay do hai bên Ngân hàng và khách hàng thoả thuận và ghi vào trong Hợp đồng tín dụng đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích thoả thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do vậy, trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách hàng đồng thời kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã cam kết hay không. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi nợ vay sau này. + Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà Ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà Ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền. Do đó sau khi cho vay trong khoảng thời gian nhất định khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho Ngân hàng để Ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền. Hơn nữa, bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả, cả gốc và lãi. 1.1.2.2 Đặc điểm - Cho vay chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi cho vay lớn nhất. Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Do đó hoạt động cho vay trở thành hoạt động đặc trưng của bất kì Ngân hàng nào. Lợi nhuận mà Ngân hàng thu được chính là chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay sau khi đã trừ đi một số chi phí duy trì hoạt động. Hoạt động cho vay chiếm đến 80% tổng tài sản của Ngân hàng. Thêm vào đó, hoạt động cho vay có mức độ rủi ro cao nên lãi suất áp dụng cho các khoản vay cũng khá cao. Như vậy lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng là từ lãi hoạt động cho vay và hiệu quả hoạt động cho vay có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. - Hoạt động cho vay mang lại rủi ro cao nhất. Rủi ro tín dụng là những tổn thất ngoài dự kiến mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Hoạt động cho vay có liên quan đến nhiều yếu tố, cả Ngân hàng, khách hàng và thị trường. Do đó khi xảy ra rủi ro thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cũng như uy tín của Ngân hàng. Về phía khách hàng, làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, cố tình chây ỳ, lừa đảo,... dẫn đến không trả được nợ Ngân hàng. Ngoài ra, bản thân Ngân hàng cũng tiềm ẩn rủi ro, do quản lý kém hoặc tham ô của nhân viên như không có khả năng đánh giá đúng chất lượng của các khoản vay hoặc cố tình làm sai quy định để mưu lợi để cho vay các dự án, phương án sản xuất kinh doanh không có tính khả thi, làm ăn thua lỗ và như vậy Ngân hàng không thu được khoản cho vay.Những thay đổi trên thị trường như tỉ giá, lãi suất, khủng hoảng nợ dây truyền hay những quy định của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến Ngân hàng. Nếu nhưng ảnh hưởng trên vượt quá khả năng phán đoán của Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Rủi ro cho vay là không thể tránh khỏi. 1.1.2.3 Phân loại Hoạt động cho vay được phân thành nhiều loại khác nhau. Sau đây là một vài cách phân loại. - Theo phương thức cho vay thì hoạt động cho vay được phân thành: + Thấu chi: là một hình thức cho vay theo đó Ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức thấu chi. Khách hàng được phép chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến hạn mức thấu chi và trong khoảng thời gian xác định. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi thì Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ séc...vượt qua số dư tiền gửi để chi trả song nằm trong giới hạn thấu chi. Nếu khoản chi vượt quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Do vậy, hình thức này giúp cho khách hàng thanh toán nhanh chóng, kịp thời và chủ động. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có tài sản đảm bảo nên chỉ áp dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. + Cho vay trực tiếp từng lần: Hình thức này áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu vay mượn thường xuyên hoặc không đủ diều kiện để được chấp nhận hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình Ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Dựa vào hồ sơ vay vốn, Ngân hàng sử dụng các nghiệp vụ phân tích kĩ thuật để ra quyết định cho vay. Nếu khoản vay được chấp thuận, Ngân hàng và khách hàng sẽ kí hợp đồng, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu tài sản đảm bảo nếu cần. Nghiệp vụ cho vay từng lần khá đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát được từng món vay tách biệt. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, Ngân hàng có thể sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. + Cho vay theo hạn mức Đây là hình thức cấp tín dụng theo đó Ngân hàng sẽ cho khách hàng vay tới một hạn mức tín dụng nhất định. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Trong kì, khách hàng có thể vay trả nhiều lần nhưng vẫn nằm trong hạn mức tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, Ngân hàng sẽ thu nợ. Tuy nhiên, do không xác định kì hạn nợ, thời hạn tín dụng nên Ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả sử dụng từng lần vay. + Cho vay luân chuyển Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả tiền vay trước khi được trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Chỉ cần một lần làm hợp đồng nhưng khách hàng có thể vay nhiều lần, đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng. + Cho vay trả góp: Hình thức này thường áp dụng đối với khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hoá lâu bền. Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp có mức độ rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp do vậy lãi suất cho vay trả góp cao nhất trong khung lãi suất cho vay của Ngân hàng. + Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian có uy tín như Hội Phụ nữ, Đội sản xuất, Hội cựu chiến binh...Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo mục đích riêng nhưng chủ yếu là đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc này sẽ hạn chế người vay tiền sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp sẽ giúp Ngân hàng giảm bớt rủi ro và tiết kiệm chi phí phân tích, giám sát, thu nợ,...Cho vay gián tiếp thường áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ hoặc người vay phân tán, cách xa Ngân hàng. Nhưng hình thức này cũng bộc lộ một số hạn chế. Nhiều trung gian lợi dụng vị thế của mình đã cho vay lại với lãi suất cao hơn hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ cũng có thể bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. - Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động cho vay được phân thành: + Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm, thường tài trợ cho đầu tư vào tài sản lưu động + Cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm, nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định + Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, thường tài trợ cho các dự án đầu tư - Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động cho vay được phân thành: + Cho vay không có đảm bảo: Đây là hình thức cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. Hình thức cho vay này chỉ áp dụng đối với những khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn hoặc những khoản vay trong thời gian ngắn mà Ngân hàng có thể kiểm soát được cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. + Cho vay có đảm bảo là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo cho tiền vay như cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Khi vay vốn, Ngân hàng và khách hàng phải có thoả thuận về cam kết đảm bảo. Đây là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản của mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho Ngân hàng. Cho vay theo hình thức này mang lại cho Ngân hàng ít rủi ro hơn so với hình thức cho vay không có đảm bảo. - Dựa vào mục đích sử dụng vốn, cho vay bao gồm: + Cho vay tiêu dùng cá nhân: là hoạt động cho vay đối với các cá nhân để mua sắm các hàng hoá lâu bền như xe máy + Cho vay bất động sản: là hoạt động cho vay để mua bất động sản phục vụ trong lĩnh vực công thương nghiệp + Cho vay nông nghiệp: là hoạt động cho vay đối với các hộ nông dân nhằm tài trợ cho việc đầu tư sản xuất nông nghiệp như phân bón, giống cây trồng vật nuôi,... + Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu: là khoản vay được cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phục vụ cho hoạt động mua bán và thanh toán hàng xuất nhập khẩu. - Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay, hoạt động cho vay có: + Cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn + Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ + Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn trả nợ cụ thể mà tuỳ khả năng tài chính của người đi vay. 1.1.2.4 Quy trình cho vay Quy trình cho vay là tập hợp các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn đến khi Ngân hàng thu được cả vốn lẫn lãi từ khách hàng. Hầu hết mỗi Ngân hàng đều tự thiết kế cho mình một quy trình cho vay cụ thể phù hợp với bản thân Ngân hàng, phù hợp với quy định của Pháp luật và phù hợp với đối tượng khách hàng mà ngân hàng phục vụ. Thông thường quy trình cho vay gồm có các bước căn bản sau: - Lập hồ sơ đề nghị cho vay Đây là khâu căn bản đầu tiên của quy trình cho vay, được thực hiện ngay sau khi CBTD tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Tuỳ theo quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, loại và quy mô cho vay, CBTD hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải lập và nộp các loại giấy tờ như: giấy đề nghị vay vốn, giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng như giấy phép thành lập doanh nghiệp, điều lệ hoạt động, báo cáo tài chính của thời kì gần nhất, phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh... - Phân tích tín dụng Là việc thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định nội dung của hợp đồng tín dụng như xác định vị trí thị trường của doanh nghiệp nhận khoản vay, sức mạnh cạnh tranh, rủi ro, mức độ thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, xác định khả năng kiểm soát rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa, hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác, phân tích tài chính còn quan tâm đến tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về thái độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay. - Quyết định và kí hợp đồng tín dụng Sau khi phân tích tín dụng, ngân hàng sẽ ra quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng. Đây là khâu quan trọng vì nó ảnh hưởng đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín cũng như hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng. Có hai loại sai lầm cơ bản thường xuyên xảy ra trong khâu này là quyết định cho vay đối với một khách hàng tồi và từ chối cho vay một khách hàng tốt. Để hạn chế sai lầm trên, các ngân hàng cần phải thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ sở để ra quyết định. Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần phân rõ quyền hạn, trách nhiệm đối với CBTD, trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc những người có năng lực phân tích và phán quyết. - Giải ngân Đây là khâu phát tiền cho khách hàng trên cơ sở múc tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Nếu ngân hàng phát hiện khách hàng có những sai sót, không tuân thủ đúng hợp đồng thì ngân hàng được phép ngừng giải ngân hoặc có thể huỷ hợp đồng. Nhờ vậy, giả ngân có thể góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót ở các khâu trước, góp phần kiểm tra, kiểm soát xem vốn có được sử dụng đúng mục đích cam kết hay không. Nguyên tắc giải ngân là luôn gắn liền vận động của tiền tệ với vận động của hàng hoá hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này nhưng cũng phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. - Giám sát tín dụng Đây là khâu quan trọng ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay sau này thông qua việc xem xét khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích hay không, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm. CBTD có thể thực hiện giám sát tín dụng thông qua giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ, giám sát việc trả lãi định kỳ, viếng thăm địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi ngụ cư của khách hàng, kiểm tra hình thức đảm bảo tiền vay hoặc thông qua mối quan hệ với khách hàng khác... -Thanh lý hợp đồng tín dụng Đây là khâu kết thúc của quá trình cho vay. Khi kết thúc thời hạn tín dụng, ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng theo đúng những điều khoản đã ký kết trong hợp đồng. Nếu khách hàng đã hoàn tất các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi thì ngân hàng và khách hàng tiến hành làm thủ tục thanh lý hợp đồng. Nếu đến hạn nợ mà khách hàng không có khả năng trả nợ, lúc đó ngân hàng có thể xem xét cho gia hạn nợ, giảm lãi suất hoặc cho vay thêm đối với những khách hàng có khó khăn về tài chính nhưng vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng cũng có thể bán tài sản đảm bảo, chuyển sang nợ xấu để theo dõi nếu khách hàng cố tình không trả nợ hoặc làm ăn thua lỗ không còn phương cách cứu vãn. 1.2 Hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM đối với Doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm về hiệu quả hoạt động cho vay Để đánh giá những gì đã làm được người ta thường sử dụng chỉ tiêu ''hiệu quả''. Hiệu quả chính là mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được. Hiệu quả có thể xem xét, đánh giá trên nhiều góc độ khác nhau: góc độ kinh tế, góc độ xã hội hoặc góc độ vừa kinh tế vừa xã hội. Do vậy hiệu quả cho vay là sự thống nhất lợi ích giữa khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế quốc dân trong việc sử dụng vốn từ NHTM. Hay có thể nói hiệu quả hoạt động cho vay là chỉ tiêu đo lường khả năng đáp ứng vốn của NHTM cho khách hàng với nguyên tắc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích tạo ra lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh đồng thời phù hợp với mục tiêu phát triển của ngân hàng về hoạt động cho vay đảm bảo an toàn, lợi nhuận cho ngân hàng và gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, đúng trên góc độ của ngân hàng thì hiệu quả của hoạt động cho vay biểu hiện qua: - Khả năng thu được cả gốc và lãi đúng hạn. Phần lớn nguồn vốn ngân hàng huy động được đều cho vay nên việc các doanh nghiệp trả đủ lãi và gốc đúng hạn giúp cho ngân hàng thực hiện đúng chức năng của nó là trung gian tài chính và đảm bảo cho ngân hàng hoạt động bình thường theo đúng kế hoạch đề ra. Ngân hàng có liên quan đến nhiều đối tượng nên đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng không bị xáo trộn sẽ góp phần bình ổn hoạt động kinh tế. - Khả năng đáp ứng vốn cho doanh nghiệp. Hiệu quả cho vay thể hiện ở việc ngân hàng có thể đáp ứng nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ nguồn vốn cho doanh nghiệp vay để phục vụ sản xuất kinh doanh, thủ tục cho vay linh hoạt. DN đánh giá chất lượng tín dụng là cao khi thời gian và chi phí vay vốn thấp, thủ tục nhanh gọn và hiệu quả sử dụng vốn cao. Khi xem xét một hợp đồng tín dụng, ngân hàng luôn phải thẩm định tính khả thi của dự án, với dự án có rủi ro cao, ngân hàng phải tìm cách từ chối. Đây là việc làm xuất phát từ lợi ích của ngân hàng nhưng cũng là lợi ích của doanh nghiệp vì khi bỏ chi phí ra mà dự án không thực hiện được, không mang lại lợi nhuận, cả doanh nghiệp và ngân hàng đều tổn thất. - Hạn chế tối thiểu rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có thể được coi là khách quan, không thể tránh khỏi. Những ngân hàng tốt là những ngân hàng có biện pháp hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Trong hoạt động cho vay, hiệu quả cho vay thể hiện ở việc ngân hàng tiến hành các hành động thích hợp để tối thiểu hoá nợ xấu, nợ quá hạn. Lúc đó, tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu là thấp nhất. Hoạt động cho vay là hoạt động tạo ra phần lớn thu nhập cho ngân hàng và lợi nhuận thu được càng lớn hơn nếu chi phí hay tổn thất là thấp nhất. Tuy vậy, luôn có sự đánh đổi giữa lợi tức kì vọng và rủi ro do vậy ngân hàng cần đưa ra những chiến lược hoạt động cho vay cụ thể để đảm bảo khả năng sinh lời và an toàn cho ngân hàng. Doanh nghiệp là các tế bào tạo ra phần lớn của cải cho xã hội. Trong khi nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp vẫn đang trong tình trạng thiếu vốn thì một số ngành lại được đầu tư quá mức; không tính đến cung cầu thị trường nên sản phẩm làm ra ứ đọng, sản xuất đình trệ, chủ dự án không thể thu hồi vốn đầu tư trả cho ngân hàng, dẫn tới khan hiếm vốn và hiệu quả sử dụng vốn thấp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phân bổ nguồn lực hợp lý, khoa học và giải quyết vấn đề này chính là nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trên góc độ nền kinh tế. Ngoài ra, những khoản vốn của ngân hàng, nếu được sử dụng hiệu quả sẽ giúp cho DN hoạt động kinh doanh cũng gián tiếp tạo ra những sản phẩm dịch vụ đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tạo cảnh quan kiến trúc cho khu vực. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay Đối với các NHTM, cho vay là nghiệp vụ truyền thống có vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng đã luôn chú trọng vấn đề hiệu quả hoạt động cho vay. Thông thường để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay của một ngân hàng, người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau nhưng về mặt cơ bản, chất lượng cho vay DNNQD được đánh giá qua các chỉ tiêu sau: - Nhóm chỉ tiêu dư nợ cho vay + Doanh số cho vay và tốc độ tăng doanh số cho vay Doanh số cho vay là số tiền mà NHTM cho các DN vay. Doanh số cho vay là con số tuyệt đối phán ánh quy mô hoạt động cho vay của ngân hàng. Còn tốc độ tăng doanh số cho vay phản ánh mức tăng trưởng của doanh số cho vay thông qua số tương đối. Tốc độ tăng doanh số cho vay được tính theo công thức: Doanh số cho vay kì này - Doanh số cho vay kì trước Tốc độ tăng doanh số cho vay = Doanh số cho vay kì trước Doanh số cho vay và tốc độ cho vay phản ánh khả năng mở rộng tín dụng nhưng chưa đủ để khẳng định hiệu quả cho vay của NHTM. + Doanh số thu nợ và tốc độ tăng doanh số thu nợ Doanh số thu nợ phản ánh số nợ mà ngân hàng thu lại được từ khách hàng trong từng thời kỳ. Chỉ tiêu doanh số thu nợ cho biết ngân hàng làm ăn có hiệu quả hay không, các khoản vay có an toàn hay không, các doanh nghiệp có sử dụng đúng mục đích khoản vay hay không. Doanh số thu nợ phản ánh hai khả năng: Một là, khách hàng hoàn trả vốn vay ngân hàng đúng hạn tăng do đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Hai là, ngân hàng tăng thu nợ quá hạn, thu hồi nợ sớm do có dấu hiệu không lành mạnh trong tình hình tài chính của khách hàng. Tốc độ tăng doanh số thu nợ phán ánh số tương đối về tăng trưởng doanh số thu nợ và được tính theo công thức sau: Doanh số thu nợ kì này - Doanh số thu nợ kì trước Tốc độ tăng doanh số thu nợ = Doanh số thu nợ kì trước + Dư nợ cho vay và tốc độ tăng dư nợ cho vay Dư nợ cho vay là tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Tốc độ tăng dư nợ qua các năm được tình theo công thức: Dư nợ cho vay kì này - Dư nợ cho vay kì trước Tốc độ tăng dư nợ cho vay = Doanh số thu nợ kì trước Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, cho vay trung, dài hạn… Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tài sản của ngân hàng chưa cao, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế…Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao. - Chỉ tiêu về nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được (có thể là toàn bộ gốc và lãi hoặc một phần nợ gốc và lãi) khi đã đến thời hạn ghi trên hợp đồng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức: Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ cho vay Chỉ tiêu này phản ánh tình hình nợ quá hạn trong quá trình cho vay của NHTM. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ > 7% được xem là ngân hàng yếu kém. Nếu chỉ số này ở mức dưới 5% ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao. Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở ngân hàng tin tưởng người đi vay có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vào một thời điểm nhất định trong tương lai, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn hoặc không trả đủ như đã cam kết mà không có lí do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất phạt cao hơn rất nhiều lãi suất cho vay trước đó. Trên thực tế, phần lớn các khoản NQH càng cao thì ngân hàng càng gặp khó khăn trong kinh doanh và sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và lợi nhuận cũng sẽ giảm. Điều này có nghĩa là tỷ lệ này càng thấp thì hiệu quả hoạt động cho vay càng cao. - Chỉ tiêu về thu nhập từ hoạt động cho vay + Thu nhập từ hoạt động cho vay và tốc độ tăng thu nhập từ hoạt động cho vay đều phản ánh quy mô thu nhập và mức tăng trưởng thu nhập từ hoạt động cho vay của NHTM qua số tuyệt đối và tương đối. Tốc độ tăng thu nhập từ hoạt động cho vay được tính theo công thức: TN từ cho vay kì này - TN từ cho vay kì trước Tốc độ tăng thu nhập từ cho vay = TN từ cho vay kì trước + Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay trên tổng thu nhập của ngân hàng. Chỉ số này giúp chúng ta so sánh được thu nhập từ hoạt động cho vay của NHTM đối với DN._. trong tổng thu nhập của NHTM. Thu nhập từ hoạt động cho vay Tỷ trọng thu nhập từ cho vay = * 100 % Tổng doanh thu của ngân hàng Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của vấn đề nên để có đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động cho vay cần phải phân tích tổng hợp các chỉ tiêu trên. Ngoài những chỉ tiêu chính như trên, người ta còn sử dụng kết hợp với một vài chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay như: - Khả năng của ngân hàng trong việc cấp tín dụng đối với DN thể hiện ở việc ngân hàng có thể đáp ứng đầy đủ những nhu cầu về vốn (ngắn hạn và dài hạn) cho DN với thời gian nhanh nhất, chi phí thấp nhất và thuận lợi nhất cho DN. - Hiệu quả sử dụng vốn của DN. Hoạt động cho vay của ngân hàng được đánh giá là hiệu quả khi việc sử dụng vốn vay của DN vào quá trình sản xuất kinh doanh đạt được mục tiêu đạt ra, góp phần phát triển kinh tế địa phương và cả nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Sự tuân thủ các qui định về hoạt động cho vay của NHNN - Hệ thống trang thiết bị phục vụ hoạt động cho vay có hiệu quả - Trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng - Quy trình nghiệp vụ cho vay của ngân hàng 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay Hoạt động cho vay là hoạt động chính của ngân hàng nên việc xem xét các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay là rất cần thiết. Sau đây là một vài nhân tố chính tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay. 1.2.3.1 Các nhân tố bên trong Một là chính sách tín dụng Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho CBTD và các nhân viên trong ngân hàng tăng cường chuyên môn hoá trong nghiệp vụ cho vay và tạo sự thống nhất chung nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Đặc biệt hoạt động cho vay tiền ẩn nhiều rủi ro nên việc xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn và hợp lý là việc rất cần thiết. Có như vậy, CBTD có cơ sở làm việc rõ ràng, có định hướng trong công việc do đó hiệu quả công việc cao hơn. Chính sách tín dụng bao quát toàn bộ hoạt động tín dụng nên khi CBTD tuân thủ đúng các quy định sẽ góp phần làm giảm bớt rủi ro. Hai là công tác tổ chức thực hiện chính sách tín dụng cũng như quản lý quy trình cho vay. Xây dựng được chính sách tín dụng hoàn hảo nhưng công tác tổ chức thực hiện lại không được chú trọng, thực hiện như ''lấy lệ'' sẽ không phát huy tác dụng của chính sách này. Quy trình cho vay làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng. Nếu tổ chức thực hiện và kiểm soát tốt thì CBTD sẽ có trách nhiệm hơn đối với quyết định cho vay của mình. Nhờ vậy, các khoản vay được xem xét cẩn thận, đánh giá chính xác, giảm rủi ro nợ quá hạn, nợ xấu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Tổ chức và quản lý quy trình cho vay hợp lý sẽ không làm cho các giai đoạn bị chồng chéo lên nhau, rút ngắn thời gian của ngân hàng quyết định cho vay cũng như thời gian chờ đợi của khách hàng, tạo điều kiện đáp ứng khoản vay nhanh chóng và thuận tiện cho khách hàng. Ba là khả năng phân tích thẩm định tín dụng của CBTD. Phân tích tín dụng sẽ đưa ra những chứng cứ và lý lẽ khoa học dựa trên cơ sở xử lý thông tin giúp cho ngân hàng có quyết định cho vay sáng suốt. Vấn đề thiết yếu đầu tiên của quá trình phân tích tín dụng là việc thu thập thông tin có chất lượng. Nếu thông tin có chất lượng tốt, đầy đủ, chính xác, kịp thời thì kết quả sau quá trình xử lý thông tin sẽ đáng tin cậy hơn và hữu ích cho quá trình phân tích và ra quyết định sau này. Việc thẩm định tín dụng giúp cho CBTD có thể mạnh dạn và tránh sai lầm trong quyết định cho vay. Thẩm định tín dụng phải đánh giá đúng thực chất của dự án vì nhiều khi do khách hàng mong muốn được vay vốn nên đã thổi phồng về triển vọng của dự án. Tuy nhiên, nếu ước lượng, đánh giá dự án quá bị quan sẽ khiến cho hiệu quả của dự án giảm sút làm giảm hiệu quả cho vay do ngân hàng từ chối cho vay một khách hàng tốt. Làm tốt công tác phân tích, thẩm định tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá được mức độ rủi ro, tránh được việc cho vay đối với những dự án không khả thi, góp phần làm giảm nợ xấu, tăng hiệu quả hoạt động cho vay. Như vậy, CBTD là nhân tố quyết định góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động cho vay. Nếu CBTD có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm làm việc cũng như có vốn hiểu biết rộng về thị trường, giá cả, ngành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì sẽ có khả năng phân tích, thẩm định tín dụng chính xác và đưa ra quyết định sáng suốt, tăng hiệu quả hoạt động cho vay. Bốn là cơ sở vật chất, trình độ công nghệ của ngân hàng Dù có những con người tài giỏi nhưng không có đủ phương tiện cần thiết để thực hiện nghiệp vụ thì cũng sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu ngân hàng có nền tảng công nghệ thông tin hiện đại thì việc thu thập thông tin sẽ nhanh chóng, chính xác và ít tốn kém. Ngoài ra, việc quản lý rủi ro cũng dựa vào công nghệ thông tin rất nhiều. Hiện nay, phần mền quản lý rủi ro được sử dụng rộng rãi và mang lại nhiều hiệu quả giúp ngân hàng có thể kiểm soát được rủi ro, nâng cao năng lực hoạt động nói chung và hiệu quả cho vay nói riêng. Năm là uy tín của ngân hàng Ngân hàng với uy tín lớn và mạng lưới hoạt động rộng sẽ thu hút được nhiều nguồn tiền gửi hơn. Đây là nguồn vốn dồi dào cho hoạt động cho vay phát triển mạnh. Nếu vốn ít, ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp từ đó làm giảm uy tín của ngân hàng, mất khách hàng và doanh số cho vay giảm. 1.2.3.2 Các nhân tố bên ngoài Nhân tố kinh tế vĩ mô Ngân hàng tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Do vậy, nếu thị trường phát triển, tình hình kinh tế khả quan, nhiều doanh nghiệp mong muốn đầu tư thêm máy móc, thiết bị nhà xưởng, mua thêm nguyên nhiên vật liệu để sản xuất nhiều hơn. Do đó nhu cầu vay vốn nhiều hơn góp phần làm tăng doanh số cho vay. Ngoài ra, chu kì kinh doanh cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng cũng như hiệu quả hoạt động cho vay. Nếu chu kì kinh doanh đang ở giai đoạn suy thoái thì các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ gây nên tình trạng nợ quá hạn, nợ phải thu khó đòi cao làm giảm hiệu quả hoạt động cho vay. Hơn nữa trong thời kì này, các doanh nghiệp cũng không thể vay tiền ngân hàng nên doanh số cho vay cũng sẽ giảm. Nhân tố xã hội Nhân tố xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Khả năng huy động vốn lại ảnh hưởng phần nào đến hoạt động cho vay nên cũng gián tiếp tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay. Nguồn vốn dồi dào sẽ giúp ngân hàng có thể đáp ứng nhanh chóng và đầy đủ nhu cầu vốn của doanh nghiệp góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, do thói quen sử dụng tiền mặt trong các giao dịch mua bán và thu nhập của người dân chưa cao nên cá nhân chưa sử dụng nhiều dịch vụ tiện ích của ngân hàng. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập, hàng loạt ngân hàng mới ra đời đặc biệt là các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và quản lý đã gây sức ép cạnh tranh lớn đối với các ngân hàng nội. Nếu có nguồn vốn đủ mạnh, ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay, tăng doanh số cho vay đồng thời có khả năng đầu tư thêm công nghệ, nhân lực để có thể kiểm soát tốt rủi ro, giảm nợ xấu, góp phần tăng hiệu quả hoạt động cho vay. Nhân tố pháp lý Môi trường pháp lý bao gồm các cơ chế, chính sách, luật, qui định…của Nhà nước nhằm điều chỉnh các hoạt động cho vay của NHTM đối với DN. Doanh nghiệp và hệ thống NHTM là hai bộ phận không thể thiếu góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, Chính phủ đóng vai trò là chất xúc tác tạo điều kiện cho ngân hàng và khách hàng đến được với nhau một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất. Nếu như trước đây, chế độ cho vay đối với DNNQD được qui định trong Quyết định số 18/NH-QĐ ngày 27/04/1998 của Thống đốc NHNN Việt Nam thì nay đã không có sự khác biệt giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, qui định việc cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không phân biệt khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc Nhà nước hay không thuộc Nhà nước. Điều này thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng: Mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường đều có quyền tự do kinh doanh nhưng phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật. Chính sách của Chính phủ tạo khung pháp lý quan trọng, hướng dẫn hành động của cả ngân hàng và doanh nghiệp. Nếu Chính phủ thường xuyên lắng nghe, gặp gỡ các ngân hàng, doanh nghiệp để tháo gỡ những vướng mắc sẽ giúp cho ngân hàng và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nhau hơn. Ngoài việc xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật đúng đắn, phù hợp, đồng bộ thì cũng cần phải có các văn bản hướng dẫn kèm theo một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Điều này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng và doanh nghiệp nắm bắt thông tin để điều chỉnh hành vi của mình một cách thích hợp. Bản thân doanh nghiệp DN là đối tượng trực tiếp của hoạt động tín dụng ngân hàng nên các yếu tố thuộc về DN cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM. Các yếu tố đó là: Phương án sản xuất kinh doanh: Thông qua quá trình thẩm định phương án sản xuất kinh doanh và hồ sơ vay vốn của DN, ngân hàng sẽ quyết định cho vay. Phương án sản xuất kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận cho DN, làm cho khả năng hoàn trả vốn vay tăng dẫn đến hiệu quả cho vay cao. Vì vậy nếu phương án sản xuất kinh doanh được xây dựng một cách cẩn thận, dự phòng mọi rủi ro thì đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội. Khả năng tài chính của DN: Khả năng tài chính của DN thể hiện ở tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn, ở tính lỏng của tài sản, ở khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Khả năng tài chính càng vững mạnh thì rủi ro đối với ngân hàng càng thấp, do đó hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng càng cao. Hoạt động sản xuất kinh doanh của DN: Hoạt động sản xuất kinh doanh của DN thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường, được đánh giá trên các khía cạnh như khả năng tài chính, chất lượng sản phẩm, khối lượng sản phẩm tiêu thụ,… Nếu DN có hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, lợi nhuận cao, sản phẩm được ưa chuộng thì ngân hàng nên cho vay vì khả năng trả nợ của các DN này cao hơn các DN có hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả. Trình độ quản lý, uy tín, đạo đức của DN: Nhân tố này thể hiện trình độ, khả năng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong vai trò quản lý doanh nghiệp. Trình độ quản lý của DN tốt sẽ dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiệu quả, doanh nghiệp làm ăn có lãi, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp không chỉ trên thị trường mà còn cả với NHTM. Uy tín, đạo đức của người đi vay cũng là một nhân tố quan trọng vì nó ảnh hưởng đến tính chính xác, trung thực trong thông tin mà họ cung cấp cho cán bộ tín dụng của ngân hàng. Đây là một nhân tố tác động đến cả quá trình cho vay của ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng các khoản vay. Ngoài ra, nếu DN có hiểu biết về thủ tục vay vốn ngân hàng, các điều kiện cũng như những giấy tờ cần có cho việc vay vốn ngân hàng thì sẽ có thể rút ngắn thời gian làm thủ tục cho cả hai phía ngân hàng và khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHCT Đống Đa 2.1 Khái quát về chi nhánh NHCT Đống Đa 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHCT Đống Đa Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa là đơn vị thành viên trực thuộc NHCT Việt Nam, là chi nhánh cấp I có doanh số hoạt động lớn trong hệ thống NHCT Việt Nam và trên địa bàn thành phố Hà Nội. +Tên giao dịch: Chi nhánh ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa (Industrial and Commercial Bank of Vietnam – Dong Da Branch) +Địa chỉ: 187 Nguyễn Lương Bằng - Đống Đa - Hà Nội Chi nhánh NHCT Đống Đa được thành lập vào năm 1955 với tiền thân là Phòng Thương nghiệp thuộc khu vực Đống Đa. Đến năm 1957 được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước khu vực Đống Đa, sau đó được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước Đống Đa. Đến 1/7/1988, thực hiện Nghị quyết số 3 khoá VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ thống Ngân hàng 2 cấp, NHCT Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động. Căn cứ quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính Phủ, quyết định: giải thể chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội, chuyển 6 chi nhánh NHCT khu vực trực thuộc NHCT Việt Nam trong đó có chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa. Như vậy, từ ngày 1/4/1993, NHCT Đống Đa chính thức được quyền hạch toán độc lập và trở thành chi nhánh cấp một của NHCT Việt Nam. Nguồn vốn hoạt động của NHCT Đống Đa lấy từ nguồn vốn huy động và nguồn vốn do NHCT Việt Nam điều chuyển đến. NHCT Đống Đa là đơn vị hạch toán độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của NHCT Việt Nam. Trải qua chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành, mặc dù chịu sự cạnh tranh khốc liệt của hơn 70 NHTM và các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước cùng hoạt động trên địa bàn Hà Nội, nhưng bằng ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của tập thể cán bộ, NHCT Đống Đa không ngừng phát triển và trở thành một trong 4 chi nhánh ngân hàng lớn nhất thuộc NHCT Việt Nam. Ngân hàng đã vinh dự được đón nhận Huân chương lao động hạng 3 và hạng 2. Đặc biệt đầu năm 1999, NHCT Đống Đa đã trở thành chi nhánh đầu tiên thuộc NHCT Việt Nam được Nhà nước công nhận là doanh nghiệp loại 1. 2.1.2 Sản phẩm dịch vụ và mạng lưới hoạt động của NHCT Đống Đa NHCT Đống Đa đã và đang cung cấp ra thị trường các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phong phú và đa dạng, bao gồm: nhận tiền gửi, cho vay và bảo lãnh, tài trợ thương mại, dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thẻ và ngân hàng điện tử. Khách hàng truyền thống của NHCT Đống Đa là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu. Ngoài ra, các hộ sản xuất kinh doanh tiểu thủ công nghiệp cũng là những khách hàng mục tiêu của ngân hàng. Địa bàn hoạt động chính của NHCT Đống Đa là quận Đống Đa. Với diện tích 14 km2, bao gồm 26 phường với dân số vào khoảng hơn 40 vạn dân, tập trung nhiều khu trung cư của cán bộ công nhân viên thuộc các ngành, các đơn vị kinh tế trên địa bàn Hà Nội, quận Đống Đa được coi là một trong những trung tâm kinh tế lớn của thành phố Hà Nội với nhiều nhà máy, doanh nghiệp Nhà nước, Tổng công ty lớn với đầy đủ các thành phần kinh tế, bao gồm cả quốc doanh, liên doanh, tư nhân, tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực với nhiều ngành nghề. Đây là môi trường thuận lợi cho Chi nhánh huy động nguồn vốn với số lượng lớn tạo điều kiện cho việc triển khai các nghiệp vụ kinh doanh và cung cấp các dịch vụ ngân hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện và đa dạng. 2.1.3 Cơ cấu tổ chức NHCT Đống Đa thực hiện theo mô hình tổ chức là chi nhánh cấp I của NHCT Việt Nam, gồm: Ban Giám đốc chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về kết quả hoạt động kinh doanh và tổ chức cán bộ tại chi nhánh.Chi nhánh NHCT Đống Đa được tổ chức thành các phòng ban thực hiện từng nghiệp vụ cụ thể, bao gồm: Phòng kế toán tài chính: thực hiện công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ đồng thời tham gia tư vấn cho ban giám đốc ra các quyết định có liên quan đến lĩnh vực tài chính kế toán. Phòng tài trợ thương mại: thực hiện nghiệp vụ về tài trợ thương mại tại chi nhánh theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Phòng khách hàng số 1( DNL): có nhiệm vụ giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp lớn, chịu trách nhiệm khai thác vốn và cho vay theo quy định của NHCT Việt Nam Phòng khách hàng số 2 ( DN V&N ): thực hiện quản lý việc khai thác vốn và cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chế độ, thể lệ hiện hành của Ngân hàng nhà nước và hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Phòng khách hàng cá nhân: giao dịch với khách hàng là cá nhân, giải quyết các vấn đề liên quan đến việc huy động, cho vay đối với cá nhân theo chế độ thể lệ hiện hành của Ngân hàng Nhà nuớc và hướng dẫn của NHCT, quản lý hoạt động của các quĩ tiết kiệm, điểm giao dịch. Phòng thông tin kiểm toán: duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh, đảm bảo hệ thống mạng, máy tính hoạt động thông suốt Phòng tổ chức hành chính: thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam, thực hiện công tác quản trị, văn phòng và an ninh phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh. Phòng tiền tệ kho quỹ: quản lý an toàn kho quỹ, quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và NHCT Việt Nam, ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn. Phòng kiểm tra nội bộ Phòng kiểm tra nội bộ là phòng nghiệp vụ có chức năng giúp giám đốc giám sát, kiểm tra, kiểm toán các mặt hoạt động kinh doanh của chi nhánh nhằm đảm bảo việc thực hiện theo đúng pháp luật của Nhà nớc và cơ chế quản lý của ngành. Phòng tổng hợp tiếp thị: tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh. Phòng giao dịch (bao gồm phòng giao dịch Kim Liên và Cát Linh) Tổ kế toán: Gồm giao dịch ngoài quầy và giao dịch trong quầy Tổ quản lý khách hàng công ty, khách hàng cá nhân. Quỹ tiết kiệm Phòng khách hàng lớn SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA QTK 45 QTK 44 QTK 42 QTK 36 QTK 43 QTK 41 QTK 35 QTK 34 QTK 32 QTK 33 QTK 37 QTK 40 QTK 38 QTK 31 QTK 39 QTK 30 Cho vay cá nhân Phòng tổ chức- hành chính Huy động vốn P.Tài trợ thương mại P.Tổng hợp-Tiếp thị Phòng khách hàng 2 Phòng kho quỹ P.GD Cát Linh P.GD Kim Liên Phòng KHCN Phòng TT-ĐT Phòng kế toán Giám đốc Phó giám đốc 4 Phó giám đốc 3 Phó giám đốc 2 Phó giám đốc 1 2.1.4 Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa 2.1.4.1 Tình hình huy động vốn Bảng 2.1.Tình hình huy động vốn tại NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 So sánh 2006/2005 +/-(%) 2007 So sánh 2007/2006 +/-(%) Theo nguồn huy động Tiền gửi dân cư ( tỷ trọng %) 1950 57.86 2070 57.98 120 6.15% 1870 47.70 -200 -9.66% Tiền gửi của tổ chức kinh tế ( tỷ trọng %) 1420 42.14 1500 42.02 80 5.63% 2050 52.30 550 36.67% Theo loại tiền VNĐ ( tỷ trọng %) 2840 84.27 2990 83.75 150 5.28% 3380 86.22 390 13.04% Ngoại tệ ( tỷ trọng %) 530 15.73 580 16.25 50 9.43% 540 13.78 -40 -6.89% Theo kỳ hạn Không kỳ hạn ( tỷ trọng %) 790 23.44 901 25.24 111 14.05% 851 21.71 -50 -5.55% Có kỳ hạn ( tỷ trọng %) 2580 76.56 2669 74.76 89 3.45% 3069 78.29 400 14.99% Tổng nguồn huy động 3370 3570 5.93% 3920 9.80% Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHCT Đống Đa giai đoạn 2005 – 2007 Như vậy, nhìn vào bảng 4.1 ta thấy, nguồn vốn huy động của NHCT Đống Đa liên tục tăng trong giai đoạn 2005-2007. Cụ thể, nguồn tiền huy động tăng từ 3370 tỷ VNĐ vào năm 2005 đã lên đến 3920 tỷ VNĐ vào năm 2007, tức tăng 550 tỷ VNĐ tương ứng với 16.32%. Xét theo nguồn huy động. Tiền gửi của dân cư luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn huy động được nhưng có xu hướng giảm dần cả về tỷ trọng lẫn khối lượng. Đặc biệt năm 2007, nguồn huy động từ dân cư giảm 9.66% từ 2070 tỷ VNĐ năm 2006 xuống còn 1870 tỷ VNĐ năm 2007. Trong khi đó nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế có xu hướng tăng về tỷ trọng và khối lượng. Năm 2006, lượng tiền huy động từ các tổ chức kinh tế tăng 5.63% so với năm 2005 và đạt đến 2050 tỷ VNĐ vào năm 2007, tức là tăng 36.67% so với năm 2006. Xét theo loại tiền. Tiền VNĐ chiếm tỷ trọng lớn và tăng đều qua các năm từ 2840 tỷ VNĐ (ứng với 84,27%) năm 2005 lên đến 3380 tỷ VNĐ (ứng với 86,22%), tương đương với tỷ lệ tăng là 18.32%. Trong khi đó ngoại tệ chỉ chiếm khoảng 1/6 trong tổng nguồn. Xét theo kỳ hạn. Nguồn huy động có kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn và tăng đều theo các năm: năm 2006 tăng 3.45% tương ứng con số tuyệt đối là 89 tỷ VNĐ; năm 2007 tăng 14.99% tương ứng con số tuyệt đối là 400 tỷ VNĐ. Nguồn tiền không kì hạn tăng không nhiều, khoảng 8.5% trong giai đoạn 2005-2007 Như vậy có thể thấy, mặc dù sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong hệ thống các Ngân hàng, lãi suất huy động liên tục tăng, giá vàng, giá bất động sản biến động mạnh và tăng cao nên một phần vốn đã chảy qua kênh đầu tư này, gây nhiều khó khăn trong việc huy động vốn nhưng chi nhánh NHCT Đống Đa đã làm tốt chính sách phục vụ khách hàng, cải tiến phong cách phục vụ tạo thuận lợi, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu gửi tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế, đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất bậc thang. Ngoài ra, Chi nhánh còn tích cực thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi và thu hút nguồn tiền gửi của các tổ chức. Chi nhánh vẫn duy trì tổ chức thu tiền tại các đơn vị như: Thu tiền tại trên 50 điểm bán lẻ của Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu, thu tại Chi nhánh Điện lực Đống Đa, đã tổ chức tận thu cả những ngày nghỉ thứ Bẩy và Chủ Nhật. Chính vì vậy nguồn vốn huy động đã liên tục tăng trưởng, cơ cấu tiền gửi thay đổi theo hướng tiếp cận và thích nghi nhiều hơn với điều kiện thị trường. 2.1.4.2 Tình hình sử dụng vốn Hoạt động cho vay Bảng 2.2: Tình hình hoạt động cho vay tại NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 So sánh 06/05 Năm 2007 So sánh 07/06 Tuyệt đối Tương đối(%) Tuyệt đối Tương đối(%) Doanh số cho vay 2.280 1.900 -380 -16.67 1.780 -120 -6.32 Doanh số thu nợ 2.230 2.600 370 16.59 2.180 -420 -16.15 Dư nợ 2.200 1.600 -600 -27.27 1.200 -400 -25 Nợ quá hạn 16 25 9 56.25 60 35 140 Tỷ lệ nợ quá hạn 0.73% 1.56% 0.83% 5% 3.44% Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh NHCT Đống Đa giai đoạn 2005-2007 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tình hình hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Đống Đa giai đoạn 2005-2007 chưa đạt được nhiều thành tích đáng kể. Doanh số cho vay giảm mạnh. Năm 2006, doanh số cho vay giảm 16.67% so với năm 2005 và giảm 6.32% vào năm 2007. Doanh số thu nợ năm 2006 tăng 16.59% nhưng đến năm 2007 lại giảm 16.15%. Dư nợ cũng giảm mạnh, năm 2006 giảm 600 tỷ VNĐ (27.27%) so với năm 2005 và năm 2007 giảm 400 tỷ VNĐ (25%) so với năm 2006. Ngoài ra tỷ lệ NQH cũng tăng nhanh chóng đặc biệt năm 2007 tỷ lệ NQH tăng 140% so với năm 2006. Tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn vẫn nằm trong ngưỡng cho phép (<5%). Nguyên nhân của tình trạng trên là do NHCT Đống Đa thực hiện chính sách tín dụng thắt chặt, cho vay có trọng điểm trọng tâm, chỉ cho vay những khách hàng có khả năng trả nợ cao. Ngoài ra, do sự gia tăng của các tổ chức tín dụng dẫn đến sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt thêm vào đó tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tăng vốn bằng nguồn phát hành cổ phiếu nên dư nợ vay ngân hàng giảm. Bên cạnh đó ngân hàng chưa có bước đột phá về cải tiến quy trình tín dụng, công tác giám sát và thu nợ vẫn còn nhiều bất cập do đó dẫn đến tình trạng NQH tăng nhanh trong thời gian 2005-2007. Hoạt động thanh toán ngoại tệ và tài trợ thương mại Bảng 2.3: Hoạt động tài trợ thương mại Đơn vị: tỷ VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 So sánh 06/05 2007 So sánh 07/06 Ngoại tệ Mua vào 48980 46933 -4.18% 45300 -3.48% Bán ra 49640 47641 -4.03% 46100 -3.23% Thanh toán quốc tế L/C nhập 42000 42258 0.61% 43190 2.21% L/C xuất 1400 1420 1.43% 1500 5.63%  Chi kiều hối 1750 1745 -0.29% 1810 3.72% Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHCT Đống Đa giai đoạn 2005 – 2007 Ta thấy việc mua bán ngoại tệ của NHCT Đống Đa trong giai đoạn 2005-2007 giảm nhưng vẫn đảm bảo có lãi. Trong giai đoạn này, ngoại tệ mua vào giảm 3680 tỷ VNĐ (7.15%), ngoại tệ bán ra cũng giảm 3540 tỷ VNĐ (7.13%). Hoạt động thanh toán quốc tế tăng dần qua các năm. L/C nhập tăng 1190 tỷ VNĐ (2.83%), L/C xuất tăng 100 tỷ VNĐ (7.14%), chi kiều hối tăng 60 tỷ VNĐ (3.43%). Trong những năm qua, NHCT Việt Nam chú trọng phát triển dịch vụ thanh toán như chi trả kiều hối, thanh toán séc du lịch... và cũng đã ký hợp đồng chuyển tiền kiều hối với một số ngân hàng như US Bank...do đó doanh số chi trả kiều hối ngày càng tăng. Ngoài ra, NHCT Đống Đa cũng triển khai một số dịch vụ khác như: Dịch vụ bảo lãnh, thu hộ chi hộ, ngân quỹ, thanh toán qua thẻ, Internet-banking. Các dịch vụ trên đều tăng trưởng nhưng mức độ và tốc độ tăng trưởng còn chậm. Nhiều dịch vụ ngân hàng đã sẵn sàng triển khai nhưng khách hàng vẫn không biết đến. Bên cạnh đó dịch vụ Internet-banking vẫn chưa làm hài lòng khách hàng do kỹ thuật đường truyền chậm, còn xảy ra sai sót trong giao dịch và công bố thông tin. 2.1.4.3 Kết quả hoạt động kinh doanh Bảng 2.4: Kết quả kinh doanh Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 So sánh 2006/2005 2007 So sánh 2007/2006 Tổng doanh thu 270 295 9.26% 408 38.31% Lãi tiền gửi (Tỷ trọng %) 60 22.22 85 28.81 41.67% 227 55.64 167.1% Lãi tiền vay (Tỷ trọng %) 200 74.07 195 66.10 -2.5% 170 41.67 -12.82% Lãi khác (Tỷ trọng %) 10 3.71 15 5.09 50% 11 2.69 -26.67% Tổng chi phí 200 259 29.5% 298 15.06% Lãi tiền gửi (Tỷ trọng %) 50 25 60 23.17 10% 221 74.16 268.3% Lãi tiền vay (Tỷ trọng %) 100 50 129 49.81 29% 0 0 -100% Chi khác (Tỷ trọng %) 50 25 70 27.02 40% 77 25.84 10% Lợi nhuận 70 36 -48.57% 110 205.6% Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHCT Đống Đa giai đoạn 2005 – 2007 Khắc phục những khó khăn trong hoạt động kinh doanh, chi nhánh NHCT Đống Đa hoạt động có hiệu quả liên tục trong các năm 2005 – 2007. Tuy nhiên năm 2006, lợi nhuận giảm 34 tỷ VNĐ (48.57%) là do tốc độ tăng của chi phí lớn hơn nhiều tốc độ tăng của doanh thu. Sang năm 2007, lợi nhuận của ngân hàng tăng đột biến 74 tỷ VNĐ (205.6%) so với năm 2006. Có được kết quả này là do doanh thu đã tăng lên nhanh chóng. Trong đó thu nhập từ lãi tiền gửi tăng nhiều nhất 142 tỷ VNĐ (167.1%) so với năm 2006. Về mặt chi phí, chi phí trả lãi tiền gửi tăng nhiều nhất 161 tỷ VNĐ (268.3%) so với năm 2006 nhưng chi phí trả lãi tiền vay giảm 100% do ngân hàng không vay thêm tiền. Nhìn chung, từ năm 2005-2007, lợi nhuận của NHCT Đống Đa tăng 4 tỷ VNĐ tương ứng với 5.71%. Con số trên thể hiện sự nỗ lực cố gắng hết mình của tập thể cán bộ công nhân viên toàn ngân hàng phấn đấu đạt chỉ tiêu lợi nhuận đã đề ra. 2.2 Thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHCT Đống Đa Để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động cho vay của NHCT Đống Đa, ta cần nghiên cứu và phân tích, tổng hợp các chỉ tiêu về dư nợ, nợ quá hạn cũng như chỉ tiêu về doanh thu từ hoạt động cho vay. Những chỉ tiêu trên là những bằng chứng khoa học giúp ta có cái nhìn toàn cảnh về hiệu quả hoạt động cho vay tại NHCT Đống Đa. Sau đây, ta sẽ phân tích từng chỉ tiêu: 2.2.1 Xét các chỉ tiêu về dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp Để có cái nhìn tổng quan về quy mô hoạt động cho vay của NHCT Đống Đa đối với khách hàng là DN. Ta sẽ xem xét chỉ tiêu về doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ cho vay qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.5: Chỉ tiêu doanh số cho vay, dư nợ cho vay và doanh số thu nợ của NHCT Đống Đa giai đoạn 2005-2007 Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, các chỉ tiêu doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ cho vay đều giảm. Có hiện tượng trên là do một vài nguyên nhân. Thứ nhất, NHCT Đống Đa thực hiện chính sách thắt chặt cho vay để hạn chế NQH, nợ khó đòi. Ngân hàng chỉ cho vay các dự án có tính khả thi, có khả năng thu đủ cả gốc và lãi đúng hạn nên có nhiều điều kiện khắt khe hơn, nhiều DN không đủ điều kiện để vay vốn. Thứ hai, do sự gia tăng của các tổ chức tín dụng dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt, thêm vào đó là tiến trình cổ phần hoá DNNN tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu phục vụ sản xuất kinh doanh nên vay vốn ngân hàng giảm. Ngoài ra, trong thời gian trước các DN thuộc lĩnh vực giao thông và xây dựng là khách hàng chủ yếu của ngân hàng nhưng lại có tỷ lệ nợ xấu cao nên ngân hàng giảm cho vay với đối tượng này làm doanh số cho vay cũng giảm. Mỗi chỉ tiêu trên phản ánh một mặt của hoạt động cho vay nên ta sẽ phân tích từng chỉ tiêu Chỉ tiêu về doanh số cho vay đối với doanh nghiệp Bảng 2.6: Doanh số cho vay đối với DN Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 So sánh 06/05 +/- (%) Năm 2007 So sánh 07/06 +/- (%) Theo hình thức sở hữu DNQD (Tỷ trọng) 1100 48.25% 1150 60.53% 50 4.55 810 45.51% -340 -29.57 DNNQD (Tỷ trọng) 1180 54.75% 750 39.47% -430 36.44 970 54.49% 220 29.33 Theo thời gian Ngắn hạn (Tỷ trọng) 2080 91.23% 1780 93.68% -300 -14.42 1680 94.38% -100 -5.62 Dài hạn (Tỷ trọng) 200 8.77% 120 6.32% -80 -40 100 5.62% -20 -16.67 Tổng số 2280 1900 -380 -16.67 1780 -120 -6.32 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHCT Đống Đa giai đoạn 2005 – 2007 Qua bảng trên ta thấy, doanh số cho vay của NHCT Đống Đa đối với khách hàng là DN có xu hướng giảm trong giai đoạn 2005-2007. Xét theo hình thức sở hữu, doanh số cho vay DNQD và DNNQD đều giảm. Năm 2006, doanh số cho vay DNQD tăng 50 tỷ đồng tương ứng với 4,55% nhưng năm 2007, doanh số cho vay lại giảm mạnh là 340 tỷ đồng tương ứng với 29,57%. Còn đối với DNNQD thì tình hình ngược lại. Năm 2006, doanh số cho vay giảm 430 tỷ đồng (36,44%) nhưng sang năm 2007 lại tăng 220 tỷ đồng (29,33%). Nhìn chung, tỷ trọng cho vay đối với DNQD và DNNQD tương đối ngang bằng nhau nhưng cho vay DNNQD có xu hướng nhiều hơn. Năm 2006, tỷ trọng doanh số cho vay DNQD chiếm đến 60,53%, còn DNNQD chiếm 39,47%. Sang năm 2007, doanh số cho vay DNQD chiếm 45,51% trong khi đó cho vay DNNQD chiếm 54,49%. Cho vay DNNQD tăng như vậy là do trong thời gian qua hoạt động cổ phần hoá diễn ra mạnh mẽ do đó nhiều DNQD đã chuyển đổi hình thức sở hữu thành các DNNQD. DNNQD là khách hàng tiềm năng mà NHCT Đống Đa cần hướng tới. Cùng với nhiều chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước, nhanh nhạy với thị trường, các DNNQD đang cần một lượng vốn rất lớn để đầu tư phát ._.quan tâm không chỉ của ngân hàng mà các DN cũng đặc biệt chú ý. Hiện nay ngân hàng đã thực hiện mức lãi suất linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng nhưng vẫn còn sự phân biệt đối với khu vực kinh tế QD và NQD. Điều này làm nhu cầu về vốn của khách hàng thuộc thành phần kinh tế NQD không được đáp ứng vốn một cách đầy đủ. Ngân hàng nên mở rộng cho vay kinh tế NQD thông qua việc sử dụng mức lãi suất linh hoạt hơn tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này có thể vay vốn và kinh doanh có lãi. Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất linh hoạt theo mức vốn vay. Về cơ chế bảo đảm tiền vay: Ngân hàng nên áp dụng nhiều hình thức đảm bảo tiền vay như cầm cố, bảo lãnh, ký quỹ tiền gửi ngoài hình thức truyền thống là thế chấp tài sản đảm bảo. Hiện nay ngân hàng chủ yếu áp dụng hình thức bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Trong khi đó các khách hàng thuộc khu vực kinh tế NQD hầu như tài sản có giá trị rất thấp, thậm chí họ không có tài sản đáng kể để đem đi thế chấp, do đó họ không có điều kiện để vay vốn nhất là các nguồn vốn lớn. Vì vậy ngân hàng nên kết hợp nhiều hình thức bảo đảm khác nhau để giải quyết cho vay vốn. - Đối với DN được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp phần còn lại thì yêu cầu đơn vị thực hiện bảo đảm đủ nợ theo yêu cầu. - Đối với những DN được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ để đảm bảo phần còn lại thì yêu cầu đơn vị dùng tài sản hình thành từ vốn vay tiếp tục bảo đảm cho phần còn lại. - Đối với những DN không đủ điều kiện để thực hiện như hai dạng trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn và phải thông qua hội đồng tín dụng, ban giám đốc ngân hàng để quyết định xem có cho vay hay không và hạn mức cho vay là bao nhiêu. Hiện nay, ngân hàng thường quan tâm nhiều đến tài sản thế chấp. Nhưng bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro như quyền sở hữu tài sản mang thế chấp, sự biến động giá cả và những tác động khác gây hư hại cho tài sản thế chấp. Mặt khác việc thanh - xử lý tài sản thế chấp cũng không phải dễ dàng và không có ngân hàng nào cho vay mà lại mong muốn phải dùng đến biện pháp cuối cùng là xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên nếu ngân hàng quá chú trọng đến tài sản thế chấp mà bỏ qua những dự án khả thi thì ngân hàng có thể sẽ mất nguồn thu lớn từ việc cho vay dự án đó. Ngoài hình thức thế chấp tài sản ngân hàng nên phát triển các hình thức bảo đảm khác theo hướng sau: Phát triển bảo đảm bằng các chứng từ có giá như trái phiếu chính phủ có độ rủi ro tương đối thấp. Đây cũng là một loại tài sản cầm cố đặc biệt. Ưu điểm của loại tài sản này là gọn nhẹ, không bị tác động của yếu tố môi trường, tác động lý hoá nên dễ bảo quản, và ưu điểm lớn nhất của loại tài sản này là có khả năng sinh lời, tất nhiên, vẫn còn những yếu tố rủi ro do những tác động kinh tế. Cho vay bằng bảo lãnh của bên thứ ba cũng là hình thức có nhiều ưu điểm giúp cho các DN mới thành lập có điều kiện vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên ở nước ta hoạt động bảo lãnh vẫn còn hạn hẹp và quy chế bảo lãnh chưa đầy đủ. Do vậy cần có những chính sách, quy chế cụ thể để phát huy tốt nhất những ưu thế của hình thức bảo lãnh. Ngoài ra còn có những hình thức bảo đảm bằng các khoản phải thu, hàng tồn kho, hoặc cho vay dựa vào thế chấp các hàng hoá, thiết bị được hình thành từ vốn vay. Các hình thức này đòi hỏi thủ tục hành chính và sự giám sát thường xuyên của CBTD. Mỗi hình thức bảo đảm tiền vay đều có những ưu và nhược điểm riêng, tuy nhiên việc sử dụng chúng một cách linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng DN thì sẽ tạo điều kiện cho các DN ở các thành phần kinh tế đều có thể tiếp cận được với nguồn vốn mà vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Về phương thức cho vay: NHCT Đống Đa cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay. Hiện nay mới chỉ cho vay DN theo hạn mức tín dụng, cho vay từng lần, còn cho vay theo dự án đầu tư chiếm tỷ lệ nhỏ. Mỗi phương thức cho vay đều có những ưu, nhược điểm nhất định, ngân hàng có thể xem xét, áp dụng từng phương thức cho vay đối với từng loại hình DN, tạo điều kiện cho DN vay vốn sử dụng tốt vốn vay. Ngân hàng có thể cho những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh vay theo hạn mức tín dụng hoặc buộc họ có tài sản thế chấp để đảm bảo. Nếu sau một thời gian khách hàng không trả nợ vay hay có dấu hiệu chiếm dụng vốn vay thì khi đó ngân hàng có thể tạm ngừng cung cấp tiếp vốn vay, yêu cầu khách hàng thực hiện đúng các khoản trong hợp đồng tín dụng và chuyển cho vay từng món đối với số tiền vay đã phát hành. Ngoài ra, ngân hàng có thể áp dụng nghiệp vụ thấu chi. Ưu điểm của nghiệp vụ này là khách hàng được sử dụng vốn và tiền vay một cách linh hoạt và chủ động. Nghiệp vụ này chỉ nên áp dụng đối với những khách hàng truyền thống, có năng lực tài chính lành mạnh, tài khoản tiền gửi phát sinh không thường xuyên, đồng thời phát sinh nợ chỉ trong thời gian ngắn và không có tiền sử về việc chây ỳ không trả nợ. 3.2.3 Nâng cao chất lượng phân tích thẩm định Đây là một khâu quan trọng trong hoạt động cho vay, quyết định hiệu quả của các khoản cho vay, hạn chế NQH và rủi ro mất vốn của ngân hàng. CBTD cần linh hoạt trong quá trình thực hiện quy trình thẩm định nhằm phù hợp với điều kiện cụ thể của địa bàn, cũng như đặc điểm đặc thù của từng ngành, lĩnh vực hay của từng khách hàng. Trước khi tiến hành phân tích, thẩm định một phương án sản xuất kinh doanh thì việc quan trọng đầu tiên là thu thập thông tin chính xác, nhanh chóng và đầy đủ phục vụ cho việc tính toán các chỉ số. CBTD không chỉ lấy thông tin từ hồ sơ mà khách hàng nộp mà cần phải đến tận địa điểm sản xuất kinh doanh, gặp gỡ khách hàng, lấy thông tin từ đối tác của khách hàng, từ cơ quan thuế hoặc các cơ quan quản lý trực tiếp. Sau khi có thông tin, CBTD cần tuân thủ nghiêm các bước trong quy trình thẩm định đề ra. Quy trình thẩm định gồm các bước: Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục đích vay. CBTD kiểm tra tính đầy đủ, xác thực hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ vay vốn thông qua cơ quan phát hành ra chúng và qua các kênh thông tin. Đối với hồ sơ khách hàng, CBTD cần kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các giấy tờ văn bản trong danh mục hồ sơ khách hàng. Đối với hồ sơ khoản vay và hồ sơ đảm bảo tiền vay, cần kiểm tra: tính hợp pháp của các hồ sơ này; kiểm tra báo cáo tài chính dự tính cho ba năm tới, và phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư, khả năng vay trả, nguồn trả; kiểm tra sự phù hợp về ngành nghề ghi trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và phù hợp với phương án dự kiến đầu tư, xu hướng phát triển tương lai của ngành. Kiểm tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư. Về khách hàng vay vốn, cần tìm hiểu thông tin về ban lãnh đạo của khách hàng vay vốn, tình trạng nhà xưởng, máy móc thiết bị, kỹ thuật, quy trình công nghệ hiên có của khách hàng; tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng; đánh giá lại tài sản bảo đảm nợ vay. Về phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư, CBTD tìm hiểu giá cả, tình hình cung cầu trên thị trường đối với các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản phẩm mà phương án sản suất kinh doanh/ dự án đầu tư tạo ra; kinh nghiệm, năng lực triển khai phương án/ dự án; khả năng quản lý và thực hiện của chủ dự án,… Kiểm tra xác minh thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh. Phân tích ngành Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn: Thẩm định tư cách năng lực pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính. Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư. Thẩm định tài sản bảo đảm. Trong quá trình phân tích, thẩm định khách hàng thì một trong số những biện pháp thường được áp dụng là xây dựng hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng cho các DN. Đây là một quy trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của DN đối với ngân hàng như trả lãi, gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng. Công cụ chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng gồm bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí để chấm điểm tín dụng và bảng các chỉ số tài chính chuẩn. Bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí để chấm điểm tín dụng của mỗi khách hàng dựa trên các tiêu chuẩn định tính như năng lực của ban lãnh đạo, vị trí của DN trên thị trường, quan hệ với khách hàng, với ngân hàng… Bảng các chỉ số tài chính chuẩn là công cụ để chấm điểm tín dụng dựa trên một số chỉ số tài chính cơ bản như: chỉ tiêu thanh khoản, khả năng cân đối vốn…Các DN được phân theo các ngành nghề kinh doanh sau đó được tính toán theo các tiêu chuẩn. Mỗi DN sẽ có mức điểm khác nhau sau đó ngân hàng có thể so sánh giữa các DN và ra quyết định cho vay dựa vào bảng điểm này. 3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động cho vay của CBTD và các hoạt động sử dụng vốn của khách hàng Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động cho vay của CBTD có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hiệu quả của hoạt động cho vay. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát giúp ngân hàng phát hiện những sai xót, yếu kém tồn tại, phát sinh trong hoạt động cho vay, nâng cao hiệu quả cho vay, hạn chế NQH và tránh được rủi ro mất vốn. NHCT Đống Đa cần kiểm tra việc chấp hành chính sách, quy định trong công tác cho vay như: chấp hành chỉ tiêu tín dụng, chấp hành chế độ, thể lệ, quy trình cho vay, quy định về tài sản bảo đảm, các biện pháp xử lý NQH, phân cấp phán quyết tín dụng, các chế độ báo cáo tín dụng theo quy định của NHNN và của NHCT Việt Nam. Ngoài ra, cũng cần kiểm tra việc triển khai và thực hiện các chỉ đạo, nhiệm vụ của ngân hàng cấp trên giao cho chi nhánh: như chính sách về cán bộ, định hướng cơ cấu tín dụng theo kỳ hạn, theo thành phần kinh tế…Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên và nghiêm túc tránh bao che sai phạm của nhau. Đối với việc sử dụng vốn vay, ngân hàng cần phải kiểm tra cả trước trong và sau khi cho vay. Kiểm tra trước khi cho vay bao gồm: kiểm tra các điều kiện vay vốn, tính pháp lý của hồ sơ vay vốn và các nội dung khác, đảm bảo phù hợp với quy định hướng dẫn của NHCT Việt Nam và NHNN. Kiểm tra trong khi cho vay (kiểm tra trong giai đoạn giải ngân) gồm: kiểm tra các chứng từ, tài liệu gửi kèm giấy nhận nợ khi khách hàng rút vốn, đảm bảo mục đích vay phù hợp với hợp đồng tín dụng, giải ngân phù hợp với tiến độ sử dụng vốn thực tế và hình thức thanh toán của khách hàng. Kiểm tra sau khi cho vay: kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tình hình sản xuất, kinh doanh, tình trạng tài sản bảo đảm tiền vay, những khó khăn thuận lợi trong việc thu nợ, phát hiện các vi phạm hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay để có biện pháp xử lý…CBTD phải kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ để có thể phát hiện kịp thời những sai phạm và đưa ra quyết định xử lý nhanh chóng, hợp lý theo quyền hạn và nghĩa vụ của mình. 3.2.5 Tăng cường các biện pháp xử lý nợ quá hạn, nợ gia hạn. NHCT Đống Đa cần tập trung thực hiện ngay một số nội dung như: Rà soát lại chỉ tiêu nợ quá hạn năm 2007. Đánh giá phân loại nợ quá hạn, nợ gia hạn theo nguyên nhân của từng khoản nợ. Đề ra kế hoạch và biện pháp xử lý cụ thể, tập trung cán bộ thu nợ, không để tình trạng nợ nần kéo dài. Đối với những khoản nợ đọng do khách hàng cố tình chây ỳ thì chi nhánh tiến hành các thủ tục khởi kiện và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức cưỡng chế, phát mại tài sản thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. Đối với một số khách hàng tạm thời gặp khó khăn dẫn đến chưa trả được nợ ngân hàng, chi nhánh phải xem xét cụ thể từng trường hợp để quyết định giãn nợ, giảm lãi suất, hoặc cho vay tiếp, nếu cho vay tiếp phải đảm bảo khách hàng khắc phục được khó khăn trả được nợ ngân hàng với số tiền thu hồi nợ lớn hơn số tiền cho vay thêm, đồng thời yêu cầu khách hàng thực hiện biện pháp bổ sung tài sản thế chấp đảm bảo số nợ vay tại chi nhánh. NHCT Đống Đa nên gắn kết quả thực hiện với xếp lương kinh doanh, xếp loại thi đua, đánh giá cán bộ. Định kỳ hàng tuần, tháng tổ chức họp phân tích, đánh giá chi tiết thực trạng từng khoản nợ, tiến độ thu nợ, những khó khăn vướng mắc và giải pháp tháo gỡ. Chỉ đạo thực hiện mọi biện pháp để tận thu nợ quá hạn cũ và thu hồi triệt để nợ quá hạn, nợ gia hạn mới phát sinh. Thành lập tổ thu hồi nợ quá hạn: gồm trưởng phòng và các CBTD , đồng thời cũng bầu một người có kinh nghiệm làm tổ trưởng tổ thu hồi nợ (thường là trưởng phòng). Tổ thu hồi nợ có trách nhiệm đề ra các biện pháp thích hợp thu hồi nợ cụ thể đối với từng khách hàng và báo cáo tiến độ thu hồi nợ với Ban giám đốc. Hiện nay ở NHCT Đống Đa thì một cán bộ tín dụng phải chịu rất nhiều trách nhiệm, và phải thực hiện nhiều công việc một lúc: có thể vừa phải đi thu hồi món cũ về, vừa phải thẩm định cho vay món mới. Trong khi đó việc thu hồi nợ thường gây mất nhiều thời gian. Như vậy rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của CBTD. Vì thế việc thành lập một tổ thu hồi nợ là cần thiết, vừa để giải quyết triệt để những món vay quá hạn vừa không ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của CBTD. Nợ quá hạn là không tránh khỏi trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, việc giảm NQH không chỉ thực khi nó đã xảy ra mà phải tiến hành các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế NQH mới phát sinh ngay từ đầu, bằng cách: Chấm dứt cho vay mới với bên có nợ nần chồng chất, dây dưa, trây ỳ hoặc cho vay không có tài sản thế chấp, đánh giá tín dụng tốt hơn, nâng cao trình độ thẩm định dự án, giám sát tình trạng của bên đi vay sử dụng vốn vay, nghiên cứu, xét duyệt cho vay một cách chặt chẽ, thận trọng hơn, quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi vật chất trong việc cấp tín dụng, bổ sung, hoàn thiện quy trình thẩm định, thiết lập hệ thống quản lý rủi ro, giám sát chặt chẽ tình hình tài chính đối với bên vay có dư nợ lớn. 3.2.6 Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho vay. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì rủi ro có thể nói là một đặc trưng, một nguy cơ thường trực. Ngân hàng không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro mà phải có biện pháp để hạn chế thấp nhất rủi ro. Khi rủi ro tăng, nợ khó đòi không thể thu hồi được thì lợi nhuận kinh doanh sẽ lập tức sụt giảm, thêm vào đó là uy tín của một ngân hàng cũng sẽ bị giảm. Trong khi đó tại NHCT Đống Đa thì nợ quá hạn cho vay DN đang chiếm một tỷ trọng rất lớn và có xu hướng ngày càng gia tăng. Như vậy thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay DN là hoạt động hết sức cần thiết và quan trọng đối với NHCT Đống Đa để có được hiệu quả kinh doanh tốt. Các biện pháp cụ thể để thực hiện là: - Chủ động phân tán, hạn chế rủi ro: Phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa có tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ, nó được biểu thị dưới hình thức mỗi ngân hàng nên đa dạng hoá ngành nghề cho vay, không nên tập trung quá nhiều vốn cho một người vay, hạn chế cho vay những lĩnh vực có độ rủi ro cao, những lĩnh vực kinh doanh hay sản phẩm mà thị trường đã có dấu hiệu bão hoà, sản phẩm sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh,…Hiện nay, NHCT Đống Đa nên giảm cho vay DN trong lĩnh vực xây dựng, giao thông, tăng cường cho vay đối với các DN công thương nghiệp, các DNNQD - Đánh giá chính xác giá trị của TSĐB: Nếu ngân hàng làm tốt khâu đánh giá chính xác TSBĐ, kiên quyết từ chối cho vay nếu tài sản đảm bảo không đầy đủ, rõ ràng thì chắc chắn sẽ hạn chế được phần lớn những rủi ro, đảm bảo một nguồn thu hồi nợ thứ hai chắc chắn khi khách hàng không thanh toán được món nợ. Việc đánh giá TSĐB phải được nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng bởi những chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm, ngân hàng có thể thuê chuyên gia đánh giá TSĐB trong trường hợp TSĐB đó thuộc lĩnh vực mà CBTD không chuyên sâu. - Xây dựng một hệ thống thông tin tốt: Nắm bắt thông tin tốt về các DN sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có quyết định cho vay đúng hạn chế rủi ro. Dự báo, dự đoán được tính hiệu quả, khả thi của dự án trong tương lai từ đó đưa ra quyết định đầu tư hay không đối với các dự án lớn, dự án trung dài hạn. Theo đó cần phải xây dựng và tổ chức tốt hệ thống thông tin: bao gồm thông tin tín dụng; thông tin khách hàng và thông tin về nền kinh tế, thông tin pháp luật, thông tin thị trường và mức độ ứng dụng công nghệ cao cho phép thu thập và xử lý thông tin nhanh, đảm bảo tính cập nhật và chính xác. Tận dụng nguồn thông tin của trung tâm thông tin tín dụng (CIC), thường xuyên cập nhật và trao đổi thông tin giữa các TCTD, các chi nhánh NHCT Việt Nam và NHCT Việt Nam cũng như với NHNN. Ngoài ra, NHCT Đống Đa xây dựng mạng lưới thông tin nội bộ, xây dựng Website để có thể nắm bắt kịp thời các thông tin về tình hình kinh tế, thị trường, chính trị xã hội phục vụ cho hoạt động cho vay, cần quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng định kỳ phải gửi báo cáo tài chính đầy đủ, kịp thời và chính xác. Để có được hệ thống thông tin thông suốt, đầy đủ và nhanh chóng thì NHCT Đống Đa cần cải thiện hệ thống nền tảng công nghệ thông tin tốt hơn nữa. Ngoài các biện pháp trên thì NHCT Đống Đa cũng cần phải có một kế hoạch với những con số và từng bước đi cụ thể. Có như vậy mới đánh giá chính xác những gì đã làm được, những gì còn yếu để khắc phục. Công tác Marketing cũng cần phải được chú trọng: phân đoạn thị trường các DN theo ngành nghề kinh doanh, theo khu vực để thiết kế các dịch vụ cho vay phù hợp đồng thời tăng cường tuyên truyền quảng bá sản phẩm dịch vụ cho vay để các DN biết nhiều hơn đến ngân hàng, góp phần năng cao doanh số cho vay, mở rộng mạng lưới hoạt động và uy tín của ngân hàng. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan Các cơ quan chức năng của Nhà nước cần có các hành động cụ thể hơn nữa trong việc hỗ trợ thông tin về cơ chế, chính sách chế độ, thông tin về thị trường giá cả, về công nghệ, kỹ thuật cho các DN . Luật doanh nghiệp chung là một dấu hiệu cho quyết tâm của Chính phủ trong việc tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các DNQD và DNNQD nhưng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để luật có thể phát huy vai trò của nó. Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc độc quyền của các DNQD, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. Các cơ quan hữu quan Nhà nước tăng cường kiểm tra hoạt động của các DN, đảm bảo các DN này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê song cũng tránh tình trạng kiểm tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,… gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng để không gây khó khăn cho sự phát triển DN, đặc biệt trong quá trình làm thủ tục thành lập DN, không có sự phân biệt đối xử giữa DNQD và DNNQD, giữa DN lớn và DN nhỏ. Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá ngay các doanh nghiệp của Nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả, mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng. Việc này góp phần tạo sân chơi bình đẳng cho các DN, thúc đẩy các DN cùng phát triển. Xây dựng dự án, đàm phán thu hút tài trợ của nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: Đào tạo nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp Việt Nam; xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các DNNQD; giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập. Về phía cơ quan Nhà nước ở các chính quyền địa phương cũng phải có chính sách rất cụ thể và thiết thực để hỗ trợ mặt bằng sản xuất ổn định, lâu dài cho các DN. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong hoạt động cung cấp thông tin, marketing làm cầu nối cho doanh nghiệp với thị trường trong và ngoài nước. 3.3.2 Kiến nghị đối với NHNN Việt Nam Triển khai có hiệu quả trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro (CIC): bằng cách tích cực thu thập, khai thác, cập nhật từ nhiều nguồn thông tin về khách hàng, đồng thời có những cảnh báo về khách hàng có vấn đề cho các ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng, đảm bảo các ngân hàng hoạt động tuân theo quy định của pháp luật, ngăn chặn những sai phạm và ngăn ngừa rủi ro. Mặt khác NHNN phải làm tốt chức năng ''ngân hàng của các ngân hàng'' giúp đỡ, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn vướng mắc mà các NHTM gặp phải. Không ngừng bổ sung và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật, các văn bản dưới luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Hệ thống pháp luật chặt chẽ, hoàn thiện sẽ tạo cơ sở, hành lang pháp lý cho hoạt động cho vay tại các NHTM được thực hiện tốt. NHNN cần thực hiện nhanh có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngành Ngân hàng Việt Nam. Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác trong khu vực và trên thế giới, hỗ trợ ngành Ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng theo trình độ quốc tế; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng; trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại. Sửa đổi cơ chế, chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, tăng thu nhập, tăng lương cho chủ ngân hàng và cán bộ ngân hàng. Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động ngân hàng với nước ngoài theo cam kết với hiệp định thương mại Việt Mĩ, AFTA, WTO đồng thời có những biện pháp thích hợp trợ giúp một phần cho các ngân hàng trong nước trong thời gian đầu hội nhập nhưng vẫn tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển. 3.3.3 Kiến nghị đối với NHCT Việt Nam Nâng cao hiệu quả của trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHCT Việt Nam, thường xuyên cung cấp thông tin cho chi nhánh về những khách hàng có quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng, phân tích đánh giá khách hàng từ các thông tin thu thập được. Triển khai nhanh chóng và đồng bộ chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng kết hợp với hệ thống bảo mật hiệu quả. NHCT Việt Nam cần đẩy mạnh việc sử dụng thành thạo hệ thống INCAS trong toàn hệ thống tạo điều kiện cho việc thu thập thông tin khách hàng được thực hiện nhanh chóng. Nên thành lập phòng thẩm định riêng, tách ra khỏi phòng tín dụng, tăng tính chuyên môn hoá trong hoạt động tín dụng, nâng cao hiệu quả thẩm định. Bởi, hiện tại công tác thẩm định và tín dụng của các chi nhánh được cùng thực hiện bởi phòng tín dụng khách hàng. CBTD đồng thời thực hiện thẩm định khách hàng, phương án, dự án sản xuất kinh doanh đồng thời thực hiện nghiệp vụ cho vay. Việc tách biệt cán bộ thẩm định với cán bộ cho vay sẽ đảm bảo tính khách quan. NHCT cần đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chi nhánh, cải tiến thủ tục cho vay đối với các DN theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay hiện nay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của các DNNQD, DN V&N. Thu thập các thông tin về các DN hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội, các tổ chức tín dụng cạnh tranh với chi nhánh, cũng như đánh giá xu thế phát triển của thị trường. Từ đó đưa ra lãi suất chỉ đạo hợp lý giúp chi nhánh điều chỉnh khung lãi suất cho vay của mình cho phù hợp, tăng khả năng cạnh tranh của chi nhánh và giúp chi nhánh thu hút thêm khách hàng. Tổ chức thanh tra, kiểm soát nội bộ định kỳ và bất thường, hướng dẫn chi nhánh thực hiện tự kiểm tra để phát hiện những sai sót, kịp thời sửa chữa, tránh những hậu quả nghiêm trọng và thực hiện theo đúng đường lối, chính sách đã đề ra. NHCT Việt Nam cũng phải có kịp thời các văn bản và hướng dẫn nghiệp vụ khi có các văn bản của Nhà nước, của các ngành liên quan được phát hành. Tổ chức các khoá học đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng trẻ. Bên cạnh đó cũng phải thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận chuyên ngành ngân hàng để các cán bộ tín dụng trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau. Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh, xứng đáng cho các chi nhánh nhằm khuyến khích, thúc đẩy các chi nhánh hoạt động có hiệu quả hơn và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống NHCT. 3.3.4 Kiến nghị đối với các DN đặc biệt là các DNNQD, DN V&N. Nâng cao năng lực tài chính. DN V&N, DNNQD thường chủ yếu hoạt động bằng vốn đi vay, nguồn vốn tự có tham gia vào quá trình sản xuất nhỏ. Chính những điều này khiến ngân hàng e ngại khi cho vay, sợ gặp phải rủi ro mất vốn. Do vậy các doanh nghiệp cần cố gắng nâng cao quy mô vốn chủ của mình. Bên cạnh đó các DN cần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, linh hoạt trong kinh doanh thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường. Việc hoạt động có hiệu quả một mặt sẽ giúp DN dễ dàng vay vốn ngân hàng hơn; mặt khác lợi nhuận để lại sẽ góp phần làm quy mô vốn chủ của DN tăng lên và lại tạo thêm thuận lợi hơn khi vay vốn ngân hàng. Nâng cao khả năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư. Dự án, phương án sản xuất kinh doanh đầy đủ, chính xác, rõ ràng, lý lẽ chứng cớ cụ thể sẽ tăng tính khoa học, tính thuyết phục và giúp DN dễ dàng xin vay vốn của ngân hàng hơn. Như vậy thời gian, thủ tục vay vốn cũng được giảm nhẹ, doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận được với vốn vay tránh việc chậm trễ lỡ mất cơ hội đầu tư, chậm kế hoạch kinh doanh. Hoàn thiện công tác hạch toán kế toán, minh bạch các báo cáo tài chính. Doanh nghiệp cần nghiêm túc chấp hành và nâng cao hiểu biết về chế độ tài chính, sổ sách kế toán đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của chuẩn mực kế toán chung. Các thông tin cung cấp cần xác thực, cần tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính đảm bảo tính công khai và minh bạch. Nâng cao hiểu biết về các hoạt động, các dịch vụ cung cấp của ngân hàng. Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, trước hết các DN cần phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng. Có như vậy DN mới có những nhân viên có khả năng thuyết phục tốt, tự tin khi tiếp xúc với CBTD. Từ đó DN tăng mức độ tin cậy và thiện cảm đối với CBTD, hợp đồng cho vay sẽ được thực hiện nhanh chóng hơn. Kết luận Như vậy, trong quá trình hoạt động kinh doanh, DN có nhu cầu tài trợ ngắn hạn, trung và dài hạn. Chính nhu cầu này là cơ sở cho để ngân hàng thực hiện cho vay đối với DN. Về phía DN, việc vay ngân hàng giúp DN bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo cho DN có thể duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh. Về phía ngân hàng, ngân hàng cần hiểu rằng cho vay là một loại sản phẩm của mình có thể cung cấp cho khách hàng và việc cho vay đối với DN giúp ngân hàng tiêu thụ được sản phẩm của mình, góp phần nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần xác định rõ: bên cạnh việc vay ngân hàng, DN còn có nhiều nguồn khác để tài trợ cho sự thiếu hụt vốn đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động như phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc đi vay các ngân hàng khác. Từ đó, ngân hàng thấy được trách nhiệm của mình và nỗ lực phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. NHCT Đống Đa nhận thức rõ điều này và đang có những bước đi thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, góp phần tăng lợi nhuận và uy tín của ngân hàng. Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu thực tế tại NHCT Đống Đa, chuyên đề đã thực hiện được các nội dung sau: Thứ nhất, chuyên đề đã làm rõ lý luận cơ bản về NHTM, về hoạt động cho vay của NHTM cũng như hiệu quả hoạt động cho vay thông qua các khái niệm, đặc điểm, phân loại. Trong phần này, chuyên đề cũng đã nêu ra những nhân tố có thể tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay. Đây là cơ sở khoa học cho việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động cho vay và hiệu quả hoạt động cho vay của NHCT Đống Đa trong giai đoạn 2005-2007, chỉ rõ những kết quả đạt được, những hạn chế cần khắc phục cũng đồng thời chỉ ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế trên. Thứ ba, trên cơ sở lý luận, thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay và định hướng phát triển của NHCT Việt Nam và NHCT Đống Đa, chuyên đề đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cho vay của NHCT Đống Đa. Chuyên đề cũng đưa ra những kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước, NHNN Việt Nam, NHCT Việt Nam và các DN để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về kinh nghiệm thực tế và thông tin hạn hẹp nên chuyên đề không thể tránh khỏi những sai xót. Vì vậy, em rất mong sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn độc giả để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Trần Thanh Tú và các cô chú, anh chị phòng Khách hàng 2 – NHCT Đống Đa đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại - PGS. TS Phan Thị Thu Hà - Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân NXB Thống Kê 2002 Giáo trình Tài Chính Doanh nghiệp - PGS. TS Lưu Thị Hương - Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân NXB Thống Kê 2005 Quản trị ngân hàng thương mại - Peter Rose - NXB Tài Chính năm 2001 Luật các tổ chức tín dụng 1997 (đã được sửa đổi bổ sung 2004)-NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005 Sổ tay tín dụng NHCT Việt Nam 2005 Báo cáo kết quả kinh doanh của NHCT Đống Đa (2005-2007) Chuyên đề tín dụng đặc thù (tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tín dụng)-Trung tâm đào tạo NHCT Việt Nam Tạp trí Ngân hàng, Tài Chính, Nghiên cứu kinh tế, phát triển kinh tế… Một số bài báo điện tử trên các trang web: mof.org.vn; vnexpess; vietinbank.com.vn… DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHCT : Ngân hàng Công Thương DN V&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNQD : Doanh nghiệp quốc doanh DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh DN : Doanh nghiệp TCTD : Tổ chức tín dụng TSĐB : Tài sản đảm bảo NQH : Nợ quá hạn CBTD : Cán bộ tín dụng MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7573.doc
Tài liệu liên quan