Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) VN chi nhánh tỉnh Bắc Giang

Danh mục các chữ viết tắt NHĐT&PTVN Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại VNĐ Việt Nam đồng TPKT Thành phần kinh tế DN Doanh nghiệp Lời nói đầu Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt, đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội cũng như những thách thức mới ph

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) VN chi nhánh tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế quốc gia, thậm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm 2001, theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp tục đổi mới hơn nữa. Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát triển vững chắc. Xuất phát từ tình hình phát triển của nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng của NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang với để tài “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3 phần: ChươngI: Tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. ChươngIII: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn TS Nguyễn Kim Anh chủ nhiệm khoa Tín dụng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã tạo mọi điều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em thực tập và hoàn thành bài viết này. Chương I: tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTm trong nền kinh tế thị trường. 1.1. Khái niệm và phân loại tín dụng. 1.1.1 Khái niệm tín dụng Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau: - Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc. - Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó. Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung: Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái hay còn ngọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị bất động sản. Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá hoặc tiền tệ và lãi suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ nguyên tắc: Lãi suất cho vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro và chi phí cơ hội. Người cho vay phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền. Như vậy: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu . Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh “credittum” có nghĩa là sự tín nhiệm. Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh. Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín dụng đã hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm chí còn tồn tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng đã phát triển toàn diện. Trong thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ: Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc. Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng thương mại thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá. Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình thức các công ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp. Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua... Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các nước thể hiện dưới hình thức vay nợ. Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến hoạt động cho vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là đi vay. Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình thành nên các ngân hàng thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng. Sự phù hợp về nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư bản sản xuất kinh doanh hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng này. Do chuyên môn hoá trong kinh doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng phát triển và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ngân hàng đã khắc phục được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự trở thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy: Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội. Trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. 1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng 1.1.2.1. Căn cứ vào mục đích Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau: Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đơì sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Thuê mua và các loại khác. 1.1.2.2 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng. Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng cao nhất. Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các ngân hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.Tín dụng dài hạn là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài . 1.1.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại: Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết. 1.1.2.4 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng. Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại: Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp... Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thuê mua (công ty con của ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi. 1.1.2.5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng. Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại: Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp.. Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên đây, mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm các loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.... 1.2. Tín dụng ngắn hạn và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 1.2.1. Khái niệm. Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một năm. NHTM là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Các khoản vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như về lãi suất so với vay trung và dài hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản xuất. 1.2.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn. Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp. Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây: 1.2.2.1. Tín dụng ứng trước. Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi của chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản, thấu chi, tín dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển)... Nhìn chung, các khoản tín dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động, nghĩa là không thực hiện một tài sản xác định nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng. Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây: 1.2.2.2. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản. Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định. Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho họ một tín dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác. Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân hàng đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình thức sau: Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng. Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh giá khách hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý. Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo lãnh của một hay nhiều người khác. 1.2.2.3. Thấu chi. Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đồng tín dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất định. Thấu chi là kỹ thuật cho vay đặc biệt mà trong đó xí nghiệp được sử dụng vốn một cách linh hoạt, các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể thực hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo chứng. Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu cầu về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín dụng thấu chi ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất chính xác về sự phát sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp. 1.2.2.4. Tín dụng vãng lai. Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam. Có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc quy tụ những thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng lai, để hiểu thêm những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó rút ra những thích ứng với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và phát triển đa dạng các loại tín dụng của NHTM. Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình: bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử dụng với số lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng . 1.2.2.5. Tín dụng thời vụ. Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm nào đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm khác hoặc ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí đột biến và dàn đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành trong một thời gian rất ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ vốn lưu động và nó được thoả mãn bằng tín dụng thời vụ. Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các thời vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài trợ thời vụ cụ thể của trong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì chắc chắn là một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc không tận dụng số tư bản thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của vốn này do đó cũng phải gánh chịu những hậu quả. 1.2.2.6. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền. a. Chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại. Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan trong trong kinh doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng được thực hiện thông qua việc chiết khấu thương phiếu: - Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các thương phiếu đó được chiết khấu tại ngân hàng của họ. - Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách hàng. Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể giữ các phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng chiết khấu thương các phiếu. - Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất sớm và mãi đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và lệnh phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua. Đây chính là tiền đề để người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Lại nữa nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHTW khi ngân hàng ngặp khó khăn về thanh khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỷ các hối phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu. Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các loại: Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua uỷ nhiệm thu... 1.2.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền kinh tế, các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn có vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là một nước trong giai đoạn đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện: 1.2.3.1. Đối với nền kinh tế. Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính.. Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những ngồn vốn và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một nguồn một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn hạn ngày càng phát triển mạnh mẽ. 1.2.3.2. Đối với các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động kinh doanh được liên tục Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi của một doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có những thời điểm trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời và cần bổ sung ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây lắp..hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất. Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng. Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển doanh nghiệp. 1.2.3.3. Đối với Ngân hàng. Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các vấn đề: Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí (chi phí huy động vốn, chi phí trả lương, chi phí quản lý... Mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị giải quyết vấn đề này. 1.3. Chất lượng tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM. 1.3.1.Khái niệm về chất lượng tín dụng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái của nền kinh tế. Bởi vì ngân hàng giống như một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó là một lĩnh vực rất nhạy cảm và rủi ro rất cao. Trong các nghiệp vụ của ngân hàng thì có lẽ tín dụng là một nghiệp mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Ngay cả khi khoản vay có tài sản thế chấp, cầm cố thì rủi ro vẫn xảy ra với tỷ lệ cao khoảng 50%(theo uỷ ban Bale quốc tế). Sẽ là sai lầm nếu quan niệm cho vay có tài cầm cố thế chấp, nhưng không quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất, trong khi đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng mới là quan trọng nhất đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Chất lượng tín dụng được nhìn nhận từ các giác độ: Chất lượng tín dụng được xét dưới giác độ doanh nghiệp: Do nhu cầu vốn vay được đáp ứng để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh bù đắp được chi phí sản xuất, trả nợ ngân hàng và có lãi nên chất lượng tín dụng ngân hàng đứng trên góc độ doanh nghiệp chỉ đơn giản là thoả mãn nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và làm cho đồng vốn sử dụng có hiệu quả. Xét dưới giác độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi cho vay ngân hàng phải thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng và các văn bản chế độ hiện hành của nghành. Xác định đối tượng cho vay và them định kỹ khách hàng trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và hiểu được tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và mục đích sử dụng vốn vay, cơ sở hoàn trả vốn vay để đảm bảo món vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là nguyên tắc cơ bản nhất đối với ngân hàng. Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế -xã hội: Tín dụng ngân hàng trong những năm gần đây phản ánh rỏ rệt sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng phải huy động mức tối đa vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội để cung ứng cho các doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tạo thêm việc làm cho người cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác mọi khả năng tiềm tàng, tích tụ vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho kinh tế phát triển. Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng. Tín dụng ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng thanh toán chi trả cao, tránh được rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hệ thống ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển hoà nhập với thế giới. Qua đó ta có thể rút ra rằng: Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được), vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế..). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..) và khách quan (sự thay đổi của môi trường kinh tế, do chủ quan của khách hàng..) Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức cạnh tranh của một ngân hàng trong môi trường hoạt động. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Thu hút được nhiều khách hàng tốt, cho vay được nhiều, thủ tục đơn giản, mức độ an toàn của vốn tín dụng... Chất lượng tín dụng không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa các con người trong một tổ chức; giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung: An toàn, hiệu quả và khả năng cạnh tranh với các khoản tín dụng. Như vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng và yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong hoạt động tín dụng, không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Xu hướng cho vay cho thấy rằng cơ hội cho vay của các ngân hàng đối với các khách hàng có rủi ro thấp đã giảm. Các giấy tờ thương mại, chứng khoán và cạnh tranh phi ngân hàng đã đẩy ngân hàng sang các loại khách hàng có độ rủi ro cao hơn thay thế những khách hàng truyền thống. Ví dụ: những người vay là doanh nghiệp lớn và ổn định đã từng có quan hệ trong danh mục cho vay của ngân hàng đã chuyển sang các nguồn thị trường mở như thị trường như thị giấy tờ thương mại và trái phiếu nhằm giảm chi phí giao dịch của họ. Các ngân hàng đã tìm cách thay thế đối tượng khách hàng này bằng những khách hàng vay nhỏ và kém ổn định hơn. Như vậy, do các khoản mục cho vay ngày càng ngày càng có đ._.ộ rủi ro cao hơn và không ổn định do tính chất cạnh cao và không ổn định của nền kinh tế. Do vậy việc đánh giá chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng là hết sức quan trọng. Bởi chất lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân hàng tốt hay xấu, làm cơ sở để để đánh giá ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng tín dụng cũng giúp cho ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt động để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không những làm cho ngân hàng tăng thu nhập mà còn giúp ngân hàng được an toàn. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng mang tính khoa học, nó vừa cụ thể vừa trừu tượng nên để đánh giá chất lượng tín dụng người ta dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu: Chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. 1.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng - Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số tiền đó và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này (cao hơn lãi suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro cao và ngân hàng có khả mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ đầu tư rủi ro: Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn X 100% Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn Tỷ lệ đầu tư rủi ro = Tổng dư nợ món vay có phát sinh nợ quá hạn Tổng dư nợ cho vay Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao. Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng là tất nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh ngân hàng phải cố gắng giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu trên rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn. Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét món vay mà phát sinh nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân hàng, một ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng rủi ro đủ mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi, để tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện xoá nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này sẽ ở mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn. Thông thường khi lập bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường phân nợ quá hạn theo thời gian: 30, 60, 90, 120 ngày. Sự phân loại phân loại này có ý nghĩa đối với việc quản lý chất lượng tín dụng và đánh giá để thiết lập dự phòng mất vốn. Tỷ lệ mất vốn = Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ Dư nợ bình bình quân Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt. Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ thì ngân hàng thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi món nợ được xoá thì các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế. Xoá nợ đơn giản là một phương pháp quản lý tài chính của ngân hàng chứ không phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ ngân hàng nữa. Dự phòng mất vốn Tỷ lệ dự phòng = Tổng dư nợ Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ chỉ ra % dư nợ được dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ dự phòng mất vốn liên quan đến tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định và tỷ lệ mất vốn. Tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định đại diện cho khoản trích lập mất vốn được xoá nợ một thời kỳ. Tỷ lệ mất vốn tính trên tổng giá trị các khoản nợ quá hạn được xoá trong một thời kỳ. - Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua lợi nhuận thu được từ cho vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng ngắn hạn. Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn Tỷ lệ sinh lời ngắn hạn = Dư nợ tín dụng ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay ngắn hạn. Tỷ lệ sinh lời cao chứng tỏ khoản cho vay đó có hiệu quả, có chất lượng cao. Để đạt tỷ lệ sinh lời cao thì việc thu nợ và giải quyết nợ quá hạn tốt. Tỷ lệ này cao một phần nói lên kết quả kinh doanh tốt của ngân hàng, điều này rất quan trọng vì doanh thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng. - Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn. Vòng quay vốn tín dụng: Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng nhanh, điều này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn do đó tỷ lệ này cao cũng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế nhanh, ngân hàng đã tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp trong phát triển kinh doanh. Chi phí cho vay ngắn hạn: Chi phí cho một đồng vốn cho vay ngắn hạn = Chi phí cho vay ngắn hạn Tổng doanh số cho vay ngắn hạn Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này phản ánh hiệu quả của việc giải ngân vốn. Chi phí cho vay ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm chi phí đầu vào như chi phí trả lãi huy động vốn, chi phí bảo hiểm.. Chi đầu ra bao gồm chi phí để trả lương công nhân, chi phí quản lý.. Tuy nhiên trong một số trường hợp chỉ số này không phản ánh đúng thực tế: nếu chi phí cho vay tăng trong khi đó danh mục đầu tư không tăng thì tỷ lệ này sẽ lớn, ngược lại nếu có nhiều món vay ngắn hạn được thực hiện trong một thời kỳ (dẫn đến doanh thu cho vay và doanh số cho vay tăng một kỳ) thì chi phí cho một đồng vốn sẽ giảm. Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn: Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn = Dư nợ ngắn hạn Nguồn vốn ngắn hạn Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, liệu ngân hàng đã sử dụng hết khả năng của mình trong cho vay ngắn hạn hay chưa? - Chỉ tiêu dư nợ, doanh số cho vay: Tỷ lệ dư nợ tín dụng ngắn hạn = Dư nợ ngắn hạn (%) Tổng dư nợ Tỷ lệ doanh số cho vay ngắn hạn = Doanh số cho vay (%) Tổng doanh số cho vay Hai chỉ tiêu này cho biết cơ cấu dư nợ và cơ cấu doanh số cho vay của tín dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ và tổng doanh số cho vay. Từ đó có thể so sánh hiệu quả hoạt động tín dụng ngắn hạn với các loại tín dụng trung và dài hạn - Chỉ tiêu xử lý nợ: Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của KH = Số tiền thu nợ do bán tài sản của KH Tổng doanh số thu nợ Để thu hồi nguồn vốn của mình ngân hàng có hai nguồn để thu đó là, từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng nếu khách hàng làm ăn thua lỗ thì ngân hàng có nguồn thu thứ hai đó là tài sản thế chấp, cầm cố và bảo hiểm. Khi đến hạn nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có thể phát mãi tài sản. Như vậy nếu tỷ lệ này lớn thì không thể đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng cao được, kể cả trường hợp số tiền bán tài sản thu được nợ. 1.3.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính. Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Các chỉ tiêu định tính được qua quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, qua độ thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. 1.3.2.3. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Trên thế giới có nhiều cách đánh giá khác nhau về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nhưng tại Việt Nam hiện việc quy định tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày rất khó, do đó chỉ mang tính tương đối. Các phương pháp được sử dụng: Phương pháp định lượng: Đây là phương pháp sử dụng các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày ở mục 3.2.1 như tỷ lệ nợ quá hạn, cơ cấu vốn đầu tư, tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay, chỉ tiêu quay vòng vốn tín dụng... Nghiên cứu cụ thể và đem ra được một tiêu chuẩn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một điều cần thiết. Hiện tại sử dụng các chỉ tiêu này mới chỉ phần nào đánh giá chất lượng tín dụng trên những con số. Do đó ta cần đánh giá chất lượng tín dụng trên phương pháp khác. Phương pháp chuyên gia: Đây là phương pháp nhằm đánh giá những yếu tố trừu tượng như: trình độ cán bộ tín dụng, nghiệp vụ tín dụng, việc đánh giá này phải được căn cứ trên tiêu chuẩn nhất định để có được tính đồng nhất trong toàn hệ thống, thuận lợi khi so sánh chất lượng tín dụng các kỳ. Thông thường để đánh giá đúng đắn chất lượng tín dụng của một ngân hàng người ta sử dụng thang điểm cho từng chỉ tiêu đánh giá. Nếu sử dụng thang điểm 100 căn cứ vào mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu. cuối cùng ta tính tổng điểm cho chất lượng tín dụng như sau: CLTD = Dct1 + Dct2 + Dct3 + .. ..Dctn Trong đó Dct1,2,3.. điểm cho chỉ tiêu 1,2,3... Nếu tổng điểm CLTD <= 35 điểm đạt loại C. Nếu tổng điểm CLTD từ 36 đến 65 điểm đạt loại B. Nếu tổng điểm CLTD từ 66 điểm trở lên đạt loại A. Rõ ràng dùng hai phương pháp trên vẫn chưa đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó cần nghiên cứu ra những phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng hiệu quả hơn để đảm bảo đảm an toàn, hiệu quả cho ngân hàng cũng như nền kinh tế. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM. NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế và có quan hệ mật thiết với sự phát triển của nền kinh tế. NHTM có quan hệ rất rộng với nền kinh tế, do đó để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thì chúng ta phải hiểu biết về những nhân tố tác động đến nó. Những nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng bao gồm những nhân tố chủ quan và những nhân tố khách quan. Các nhân tố này được chia thành 3 nhóm: 1.3.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng. Khả năng thẩm định cho vay: Thẩm định cho vay là khâu quan trong hoạt động tín dụng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. Thẩm định đó là khâu đánh giá, dự đoán, thẩm tra về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Mặt dù không chính xác tuyệt đối nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn và lãi đầy đủ khi khoản vay đến hạn thanh toán. trong quá trình them định yêu cầu phải có trình độ chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt, tuy nhiên phải tuân thủ nghiêm ngặt về hồ sơ và an toàn thông tin. Đặc biệt đối với những khoản vay ngắn hạn, do tính đặc thù của hoạt động này là cho vay thường xuyên nhằm đáp ứng kịp thời vốn lưu động cho các doanh nghiệp do đó them định phải nhanh chóng kịp thời nhưng phải chính xác bảo đảm an toàn cho đồng vốn bỏ ra. Chất lượng cán bộ tín dụng: Để đảm bảo chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó con người là nhân tố trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động của ngân hàng cũng càng ngày càng tinh vi và phức tạp đòi hỏi cán bộ ngân hàng có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn để lĩnh hội và ứng dụng khoa học tiên tiến. Trình độ cán bộ quản lý điều hành và cán bộ tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Khách hàng của ngân hàng rất đa dạng do đó trình độ cán bộ tín dụng phải cao và hiểu biết phong phú để đánh giá được một khoản cho vay. Vấn đề thông tin tín dụng: Trong nền kinh tế mở thì thông tin là một yếu tố rất quan trọng, là một kho tàng quý báu cho những ai biết cập nhật và sử dụng hiệu quả thông tin. NHTM hoạt động trong một lĩnh vực rất nhạy cảm đối với nền kinh tế và đầy tính rủi ro do đó thông tin càng cực kỳ quan trọng. Đối với nghiệp vụ tín dụng, ngân hang thường không đủ về thông tin về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án mà người vay định tiến hành. Việc thiếu thông tin tạo ra sự lựa chọn đối nghịch, đó là hiện tượng người vay tạo ra một kết cục không mong muốn – rủi ro không trả được nợ. Do vậy nắm bắt không đầy đủ chính xác về thông tin sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Kiểm soát nội bộ: Các quy chế, thể lệ cho vay và các nguyên tắc cho vay nếu cán bộ ngân hàng không nắm vững sẽ gây nên tổn thất, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Do đó, công tác kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, đúng pháp luật, mặt khác nắm được sai sót lệch lạc trong hoạt động tín dụng có biện pháp khắc phục kịp thời. 1.3.3.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng. Khách hàng người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc có nhiều khách hàng đủ điều kiện vay, sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả, thanh toán nợ và lãi đúng hạn sẽ làm cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Những yếu tố từ ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là : Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp: Trong sản xuất kinh doanh phải có mọi phương án và tính đến mọi yếu tố có liên quan như vật liệu được cung cấp từ đâu, điều kiện giao thông vận tải có thuận lợi không, cơ sở hạ tầng như thế nào, hàng làm ra có tiêu thụ và cạnh tranh được không ... Những điều đó cán bộ kinh doanh không hiểu biết sẽ dẫn tới làm ăn thua lỗ. Như vậy khi năng lực quản lý kinh doanh bị hạn chế thì các phương án sản xuất kinh doanh là không phù hợp với thực tế do đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp kém ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín dụng. Khả năng điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp: Hiện nay hầu hết các khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực hiện các nguyên tắc và quy định cho vay thế chấp của ngân hàng. Theo pháp lệnh thì khi khách hàng vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và thực hiện đúng chế độ hạch toán kinh tế. Trên thực tế 80% các pháp nhân và thể nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và 100% tài sản của doanh nghiệp nhà nước không có chứng nhận sở hữu. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước vốn tự có rất bé. Trong khi đó chức năng nhiệm vụ trong giấy phép kinh doanh là rất lớn, yêu cầu vay vốn gấp 20-50 lần vốn tự có. Thực tế nhiều bộ phận khách hàng khi vay không thực hiện đúng pháp lệnh về cho vay. Điều đó làm cho không có một ràng buộc pháp lý nào giữa ngân hàng và khách hàng và làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Tuy nhiên xem xét từ khía cạnh trả nợ của khách hàng thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới là quan trọng. Khả năng trả nợ của ngân hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn, bởi vì đặc trưng của tín dụng ngắn hạn là thời gian khoản vay ngắn, do đó việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng là rất quan trọng. Do đó để đảm bảo chất lượng tín dụng, ngân hàng chỉ bỏ vốn vào những dự án khả thi, phù hợp với tình hình tài chính, điều kiện thực tế của doanh nghiệp để có thể thu được lợi nhuận. Đạo đức của người vay: Các ngân hàng sẽ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thậnyếu tố liên quan đến tính chân thật của người vay trong việc trả nợ. Tuy nhiên tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi mon cho vay đã được thực hiện. Rủi ro đạo đức xảy ra khi khách hàng sử dụng món vay vào mục đích khác nhiều rủi ro hơn. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. 1.3.3.3. Các nhân tố thuộc về môi trường. Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động ngân hàng. Lạm phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thuế... đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và đạt được nhiều kết quả khích lệ. Tuy nhiên còn một số những khó khăn doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp hoặc không phù hợp với sự thay đổi của chính sách, cơ chế vĩ mô. Do vậy doanh nghiệp gặp những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng hoá tồn đọng, thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán làm phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi điều này ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng. Cùng với sự thay đổi của môi trường kinh tế thì môi trường pháp lý thay đổi cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang . Khái quát về NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang Sơ lược về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bắc Giang. Tiền thân của ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Giang là Ngân hàng kiến thiết tỉnh hà Bắc, được thành lập từ năm 1958. Lúc đầu chỉ là một phòng cấp phát trực thuộc ty tàI chính. Đến năm 1963 được thành lập là chi háng kiến thiết, với nhiệm vụ cấp phát vốn cho các công trình xây dựng thuộc vốn ngân sách trung ương và vốn ngân sách địa phương. Đến năm 1981 được đổi tên là ngân hàng Đầu tư và xây dung, vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ cấp phát. Đến năm 1988 toàn hệ thống ngân hàng 2 cấp. Đến năm 1990 hệ thống ngân hàng Đầu tư và Xây dựng được đổi tên là Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam. Lúc này Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Bắc có tên gọi là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Bắc. Đầu năm 1995 toàn hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận được quyết định chuyển toàn bộ nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp, vốn tín dụng ưu đãi sang Cục đầu tư, lúc này Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thực sự trở thành một ngân hàng thương mại. Đến năm 1997, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10 quốc hội khoá 9 về việc phân lại địa giới hành chính, tỉnh hà Bắc được chia tách thành 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang được tía lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997. Trụ sở chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang đặt tịa đường Nguyễn Gia Thiều – Thị xã Bắc Giang – Tỉnh Bắc Giang với 80 cán bộ công nhân viên. Để phục vụ quá trình hoạt động kinh doanh, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang có cơ cấu mô hình tổ chức: Ban giám đốc điều hành (gồm có : một Giám đốc và 2 Phó giám đốc) và các phòng, ban nghiệp vụ ( gồm có: Phong tín dụng, Phòng kế toán tài chính, Phòng kế hoạch nguồn vốn kho quỹ, Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ và Phòng tổ chức hành chính). 2.1.2. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư Bắc Giang 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn a. Hoạt động huy động vốn. Vốn có vai trò quan trọng trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại bởi vì vốn quyết định đến qui mô tổ chức hoạt động kinh doanh, quyết định đến khả năng thanh toán và chi trả, quyết định đến năng lực trong cạnh tranh của cá ngân hàng thương mại. Vốn huy động là nguồn vốn chính chiếm 70% vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại . Thực hiện phương châm “ đi vay để cho vay”, trong những năm qua, ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang đã bằng nhiều biện pháp tích cực để tập trung huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội và tầng lớp dân cư để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế trên địa phương. Nằm trên địa bàn của một tỉnh miền núi mà sản xuất nông nghiệp thuần tuý là chủ yếu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vẫn còn ở mức thấp, khả năng huy động vốn tích luỹ vào sản xuất kinh doanh còn ở mức hạn hẹp thì công tác huy động vốn của Ngân hàng để đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên với sự cố gắng lỗ lực của mình, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang đã mở rộng và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau nên đã thu hút được một lượng vốn đáng kể. Ngoài loại hình huy động truyền thống như tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi các tổ chức kinh tế, Ngân hàng còn mở các đợt huy động tiền gửi kỳ phiếu và phát hành trái phiếu. Đồng thời để hấp dẫn người gửi tiền và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Ngân hàng luôn điều chỉnh lãi suất các loại tiền gửi phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Qua các năm hoạt động, sự tăng trưởng của nguồn vốn này ngày càng lớn mạnh, đã đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của ngành và cung ứng vốn cho phát triển kinh tế của tỉnh. Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu năm 2002 năm 2003 năm 2004 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng nguồn vốn : 420.750 100 580.870 100 690.560 100 1.Vốn tự huy động 230.000 54,6 320.000 55,1 410.000 59,37 Tiền gửi TCKT 43.000 10,2 72.000 12,4 92.000 13,3 Tiền gửi tk, kp, tp 187.000 44,4 248.000 42,7 318.000 46,05 Trong đó: Dài hạn 111.970 156.670 205.540 2. Vay NHĐT&PTVN 185.000 44 260.870 44,9 280.560 40,7 Vay ngắn hạn 52.175 12,4 63.320 10,9 75.120 10,9 Vay dài hạn 132.820 31,6 197.550 34 205.440 29,8 Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2002,2003,2004 của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang. Từ biểu 01 ta thấy: Nguồn vốn huy động hàng năm tăng trưởng với tốc độ khá, năm 2003 đạt: 320.000 triệu đồng tăng 90.000 triệu đồng so với năm 2002, năm 2004 đạt :410000 triệu đồng tăng 90.000 triệu đồng so với năm 2003.Vốn huy động bằng hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu( vốn huy động từ tiền gửi dân cư) là chủ yếu, góp phần gia tăng tính ổn định về nguồn vốn cho huy động tại chỗ cho chi nhánh. Tuy nhiên nguồn vốn này tăng làm cho chi phí đầu vào bình quân cao( do lãi suất tiền gửi vốn dân cư đa phần là có kỳ hạn nên cao hơn lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế). b.Công tác sử dụng vốn. Trong những năm qua, với quá trình nền kinh tế chuyển tà bao cấp hành chính sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh lâm vào tình thế khó khăn, nhất là các xí nghiệp quốc doanh địa phương, kinh tế tập thể hầu như tan rã, ngừng hoạt động. Từ khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thì hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng thay đổi theo để kịp thời đầu tư vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.Khách hàng chính của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển tỉnh Bắc Giang là các doanh nghiệp quốc doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Biểu 02 : Tổng hợp kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế. Chỉ tiêu năm 2002 năm 2003 năm 2004 2003/2002 2004/2003 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % I Cho vay ngắn hạn 119.358 52,3 149.293 49,1 171.866 53,4 29.755 24,9 22.573 15,1 1, ngành nông lân nghiệp 30.357 13,3 54.620 17,9 67.232 20,9 24.263 79,9 12.612 23,1 2. Ngành công nghiệp 35.188 15,4 62.987 20,7 11.698 3,635 27.799 79 -51.289 -81,4 3. Ngành xây dựng 17.980 7,86 11.302 3,71 72.731 22,6 -6.687 -37,1 61.429 544 4. Ngành dịch vụ 35.833 15,7 20.384 6,7 20.205 6,279 -15.449 -43,1 0 -0,88 và các ngành khác II Cho vay trung và dàI hạn 35.776 15,6 82.230 27 105.884 32,9 46.454 130 23.654 28,8 1. Ngành nông lâm nghiệp 23.069 10,1 35.234 11,6 52.180 16,2 12.165 52,7 16.946 48,1 2. Ngành công nghiệp 5.230 30.021 19.823 15,3 24.791 474 -10198 -34 3. Ngành xây dựng 1.042 2.316 10.540 1.274 122 8224 355 4. Ngành dịch vụ và 7.477 14.659 22.711 7.182 96,1 8052 54,9 các ngành khác III Nợ cho vay chỉ định 73.509 32,2 72.790 23,9 44.050 13,7 -719 -0,98 -28740 -39,5 Cộng 228.643 304.313 321.800 Nợ quá hạn 8.010 3,5 10.690 3,51 21.931 6,8 Nguồn : Báo cáo dư nợ tín dụng năm 2002,2003,2004 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang đã đầu tư kịp thời cho các nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế trên địa bàn.Qua biểu 02 ta thấy: Tổng dư nợ cho vay cuối năm 2002 là 228.643 triệu đồng; đến cuối năm 2004 là 321.800 triệu đồng ( tăng 1,41 lần so với 31/12/2002). Trong đó: - Cho vay ngắn hạn là: 171.866 triệu đồng chiếm tỷ trọng 53,41% so với tổng dư nợ. - Cho vay trung dài hạn là: 105.884 triệu đồng chiếm tỷ trọng 32,9% so với tổng dư nợ. - Cho vay theo chỉ định là: 44.050 triệu đồng chiếm tỷ trọng: 13,69% so với tổng dư nợ. Tốc độ tăng trưởng như trên là cao hơn so với bình quân trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng như toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên qui mô còn nhỏ mới chiếm: 21,5% thị phần trên địa bàn, chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của địa phương. Dư nợ bình quân một cán bộ đạt: 5.7 tỷ đồng/ người. Thấp hơn mức bình quân trong toàn hệ thống. Nợ quá hạn trên cân đối ở mức 4,6%/ tổng dư nợ. Bằng mức bình quân trong hệ thống nên tiềm ẩn rủi ro còn rất lớn. Trong mấy năm qua theo định hướng phát triển kinh tế của tỉnh, hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế đã có những thay đổi căn bản. Nếu như trước đây trong nông nghiệp chủ yếu là ngành trồng trọt và độc canh lúa thì nay với sự hướng dẫn của các ngành về chuyển giao kỹ thuật trong nông nghiệp và sự chỉ đạo thay đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Nhiều cây trồng vật nuôicó hiệu quả kinh tế cao đã được bà con nông dân đón nhận đưa vào sản xuất chăn nuôi đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá xã hội. Nhiều vùng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao được nhân rộng. Bên cạnh đó các ngành nghề truyền thống trước đây một thời gian bị mai một thì nay đã được khôi phục và phát triển trở lại. Những sản phẩm của các làng nghề truyền thống đã chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước tạo ra nguồn thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân trong vùng. Để thực hiện việc chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp và xây dựng những nhà xưởng lắp đặt máy mọc thiết bị cho sản xuất của các làng nghề truyền thống đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó. Từ thực tế trên đây, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang đã tìm mọi biện pháp nhằm thay đổi cơ cấu đầu tư, đa dạng hoá các hình thức đối tượng đầu tư để kịp thời phục vụ cho các hoạt động kinh tế trong tỉnh. Trong quá trình đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế, chi nhánh đã mở rộng các điểm giao dịch ( cho vay, thu nợ, thu lãI trực tiếp tại địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm), cải tiến các qui trình thủ tục hồ sơ vay vốn, phương pháp quản lý theo dõi hồ sơ, sâu sát khách hàng và tạo mọi điều kiện cho khách hàng vay vốn kịp thời và thuận tiện. Tăng trưởng tín dụng không những tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo hướng sản xuất hàng hoá mà còn đảm bảo điều kiện để cạnh tranh tồn tại và phát triển của chi nhánh. 2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn. Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc, sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong hoạt động kinh doanh,ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang thu được nhiều kết quả đáng khích lệ: Tính đến 31/12/2004: Tổng tài sản đạt 420 tỷ đồng tăng gấp 4,5 lần so tháng 1/1997 ( thời điểm chi nhánh được thành lập). Nguồn vốn huy động đạt 230 tỷ đồng tăng gấp 4,4 lần so với năm 1997. Tổng dư nợ đạt 321,8 tỷ đồng tăng 4 lần so 01/01/1997. Thu dịch vụ ngân hàng đạt 780 triệu đồng tăng gấp 7,8 lần so năm 1997. Thị phần tín dụng trên địa bàn năm 1997 chiếm 17%, đến năm 2004 chiếm 24.5%. - Thị phần huy động vốn trên địa bàn năm 1997 chiếm 16%, năm 2004 chiếm 24%. Chi nhánh đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nghành Ngân hàng tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quí như : Huân chương lao động hạng III cùng nhiều bằng khen, giấy khen cho các tập thể và cá nhân. 2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang. 2.1.31. Thuận lợi : Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang có những thuận lợi sau : + Hoạt động của chi nhánh thường xuyên được quan tâm, chỉ đạo của hội đồng quản trị, Ban tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các cơ quan ban ngành trong tỉnh Bắc Giang. + giữ được tín nhiệm với các doanh nghiệp bạn hàng. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp xác lập quan hệ tín dụng, thanh toán tăng dần qua các năm. Đến 31/12/2004 số doanh nghiệp có quan hệ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang chiếm trên 80% tổng số doanh nghiệp trong toàn tỉnh. + Chi nhánh giữ được vị thế là ngân hàng chủ lực cho vay đầu tư phát triển trên địa bàn. Đến 31/12/2004 dư nợ cho vay đầu tư phát triển chiếm gần 60% tổng dư nợ cho vay của chi nhánh và chiếm khoảng 50% tổng dư nợ cho vay Đầu tư phát triển trên địa bàn. + Tác phong, thái độ làm việc của cán bộ trong chi nhánh được khách hàng tin yêu và tín nhiệm. 2.1.3.2 Khó khăn : + Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang đang trong thời kỳ phát triển mở rộng nên cơ sở vật chất còn đang được hoàn thiện dần. Trình độ chuyên môn của lực lượng cán bộ còn rất nhiều bất cập do được đào tạo ở nhiều nguồn khác nhau. Số lượng cán bộ hiện nay còn thiếu, nhu cấu cấn tuyển nhân viên có trình độ năng lực đang là mối quan tâm của chi nhánh. + Hoạt động của chi nhánh nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng có sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn và cả các ngân hàng thương mại khác địa bàn. + Trong bối cảnh nền kinh tế nước nước ta còn có nhiếu khó khăn như: thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tỷ giá ngoại hối thay đổi liên tục, dòng vốn đầu tư nước ngoài và trong nước có nhiều biến động… đã làm cho nhiều doanh nghiệp trong nước kinh doanh kém hiệu quả them chí đổ vỡ, phá sản. Các doanh nghiệp đang trong giai đoạn sắp xếp lại có nhu cầu đầu tư rất lớn, song hiệu quả của dự án cũng như thủ tục pháp lý còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. + Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có qui mô còn nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao nên tiềm năng tăng trưởng hoạt động tín dụng của ngân hàng còn bị hạn chế. + Các chính sách cụ thể của địa phương để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp vay vốn còn chậm, chưa đồng bộ. 2.2 Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng tại NHĐT&PT chi nhánh tỉnh Bắc Giang. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước ta, trong hơn 10 năm qua NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã vượt qua những khó khăn trở ngại bằng ý chí vươn lên, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo sát sao của NHĐT&PT Việt Nam, NHNN tỉnh Bắc Giang. Phương châm phát triển của Ngân hàng Đầu tư Bắc Giang là an toàn- hi._. xây dựng cho mình những nguồn cung cấp thông tin thường xuyên, chính xác và với chi phí thấp nhất. * Lập quỹ thẩm định và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác này: Việc thu thập thông tin phải bỏ ra những chi phí nhất định như: Chi phí gặp gỡ, phỏng vấn khách hàng, chi phí cho cán bộ tín dụng đi xuống tận cơ sở để trực tiếp điều tra, chi phí để mua thông tin từ các trung tâm cung cấp thông tin. Ngoài ra chi nhánh cần phải đưa các chỉ tiêu tài chính vào phần mềm máy tính. Đưa toàn bộ thông tin tổng hợp về khách hàng vào máy tính để khi cần cán bộ tín dụng có thể truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, vấn đề thu thập thông tin là một vấn đề hết sức khó khãn do phạm vi thu thập thông tin rộng, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn về thời gian. Do vậy người thẩm định phải thường xuyên chú ý vấn đề thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học những nghành nghề do mình phụ trách. Chi nhánh thành lập, bộ phận chuyên trách công tác thu thập thông tin. Trong công tác thu thập thông tin cần chú ý tới những thông tin cần thiết để phục vụ cho công tác thẩm định ở phương diện thị trường sản phẩm của dự án, bao gồm các thông tin sau: Thông tin về số lượng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường, kể cả các doanh nghiệp sắp được thành lập. Thông tin về mức cầu đối với sản phẩm cung loại trong những năm qua, để thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo trong tương lai. Mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường hiện tại, thị phần và mức độ cạnh tranh. Thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Quy hoạch, kế hoach đầu tư, định hướng phát triển của các bộ nghành. 3.2.1.2. Nâng cao chất lượng công tác xử lý thông tin. Thông tin đầy đủ, chính xác mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để việc thẩm định được chính xác. Nếu việc xử lý thông tin không được chính xác thì mọi thông tin thu được cũng chỉ là vô nghĩa. Do đó việc thu thập thông tin phải đi liền với xử lý thông tin. Khi có được số liệu chính xác từ quá trình thu thập thông tin thì cần phải xem xét tính sát thực và mức độ tin cậy của thông tin, phải xem xét các số liệu này cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc lẫn chiều ngang. Theo chiều ngang cho thấy sự biến động theo thời gian, thấy được sự tăng trưởng của các doanh nghiệp. Còn theo chiều dọc cho thấy sự hợp lý trong cơ cấu các khoản mục để từ đó xem xét khả năng, năng lực của doanh nghiệp để thấy được điểm mạnh yếu của doanh nghiệp. Trong khi phân tích cần xem xét đến sự thay đổi của các tỷ lệ và đặt nó trong môi trường hoàn cảnh cụ thể, có sự so sánh với các chỉ tiêu của nghành để đánh giá một cách chính xác. Khi phân tích không nên tính toán toàn bộ các chỉ tiêu vì điều này là không cần thiết bởi có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá và những chỉ tiêu này có tính chất chung cho mọi doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà ngân hàng chọn ra một số chỉ tiêu cơ bản, phản ánh được rỏ nét tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Khi thậm định dự án xin vay phải đoán được những rủi ro có thể xảy ra, xem xét tính khả thi của dự án không chỉ dưới góc độ tài chính, mà còn cả những ảnh hưởng tới môi trường, xã hội. Bên cạnh việc phân tích các chỉ tiêu định lượng, việc phân tích các chỉ tiêu định tính cũng hết sức quan trọng. Đó là việc đánh giá tư cách của người vay, khả năng quản lý, đồng thời phân tích sự biến động của lĩnh vực kinh tế khách quan hoạt động. Ngày nay trong kinh doanh, năng lực, kinh nghiệm và tầm nhìn của người lãnh đạo có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp do đó cần chú trọng tới vấn đề này khi thẩm định cho vay. 3.2.2 Đa dạng hoá phương thức cho vay ngắn hạn đặc biệt mở rộng chiết khấu chứng từ có giá trên thị trường tiền tệ: Nền kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng. Xu hướng cho vay chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tài chính – tiền tệ cung ứng. Với hình thức cho vay ngắn hạn hiện nay người ta gọi là “ tín dụng ứng trước” nghĩa là vốn vay đưa ra lưu thông không tương xứng với một lượng hàng hoá nào, việc luân chuyển vốn tách rời việc luân chuyển vật tư hàng hoá. Tuy nhiên phương pháp này đã gặp phải một số hạn chế sau: Rủi ro tập trung vào một khách hàng, hàng hoá luân chuyển chưa tương xứng với sự luân chuyển vốn tín dụng. Để khắc phục tình trạng này NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang nên mở rộng hình thức cung ứng vốn bằng hình thức chiết khấu thương phiếu. Hình thức này cho phép mở rộng việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau, sự tham gia của ngân hàng thúc đẩy lưu chuyển hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Không những thế nó còn được coi là một nghiệp vụ ít rủi ro, vì chiết khấu là một hợp đồng được phép truy đòi, vì vậy khi ngân hàng không thu được nợ của người phát hành chứng từ đó thì có thể đòi ở những người liên đới trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần thiết, các tổ chức tín dụng có thể tái chiết khấu tại NHNN khi chứng từ có giá đến hạn thanh toán. Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng: do thời hạn ngắn lại có thể chiết khấu trong trường hợp cần thiết nên khoản vốn của ngân hàng nhanh chóng được giải phóng, nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác trong ngắn hạn cũng giúp cho ngân hàng dự đoán được sự phát triển của nền kinh tế khi quyết định có chiết khấu hay không. Tạm ứng vốn trong nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo ra tiền gửi- nguồn vốncủa ngân hàng: khi thực hiện chiết khấu, số tiền cấp cho khách hàng được chuyển sang tài khoản tiền gửi. Số tiền này có thể chưa được sử dụng toàn bộ, như vậy đã tạo ra nguồn vốn trong ngân hàng, đồng thời ngân hàng cũng được hưởng toàn bộ tiền lãi thu trên số tiền ứng cho khách hàng. Hiện nay hoạt động này rất nhỏ bé tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. Với những ưu điểm đã nói trên, rõ ràng chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng có lợi cho NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. Mở rộng và nâng cao hiệu quả làm việc của phương pháp này sẽ nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. 3.2.3 Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý: Hiện nay NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã triển khai tốt công tác tiếp cận khách hàng, có được một chính sách khách hàng hợp lý, tuy nhiên NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cũng nên cũng cố hơn nữa công tác này để có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến với ngân hàng mình. Đối với các khách hàng truyền thống: NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cần thành lập và duy trì quan hệ tín dụng ổn định và lâu dài và đặc biệt là các ngành thương nghiệp, công nghiệp, giao thông... trong đó chú trọng hơn nữa đối với ngành công nghiệp chế biến vì đây là ngành chiếm dư nợ tín dụng ngắn hạn lớn nhất trong tất cả các ngành. Bên cạnh đó, NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cần từng bước mở rộng cho vay đối với ngành công nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất công nghiệp được thị trường chấp nhận. Những công ty này có triển vọng lớn trong tương lai khi nền kinh tế phát triển mạnh. Với mối quan hệ tốt đẹp và được duy trì thường xuyên với các doanh nghiệp đó, trong tương lai NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang sẽ có những khách hàng lớn mạnh, nhiều tiềm năng, đồng thời đó cũng là điều kiện để NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang khẳng định uy tín và khả năng của mình không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Đối với khách hàng có khó khăn về tài chính, NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cần đáp ứng dần những nhu cầu dịch vụ từ thấp đến cao, trên cơ sở vẫn đảm bảo an toàn tín dụng, không để xảy ra rủi ro. Như vậy NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang vừa giúp đỡ được doanh nghiệp vừa tạo ra khách hàng tiềm năng tốt và lâu dài. Chi phí để giữ một khách hàng không nhỏ nhưng chi phí để có một khách hàng mới lớn hơn nhiều. Do vậy việc xây dựng một chính sách khách hàng tốt, cũng cố và duy trì mối quan hệ bền vững với khách hàng cũ là một yếu tố hết sức quan trọng bên cạnh việc xây dựng chính sách khách hàng để mở rộng và thu hút thêm các đối tượng khách hàng mới. Đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân: NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cần có những chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng đối tượng khách hàng này. Trên thực tế, số lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ nhỏ trong số lượng khách hàng của chi nhánh. Mặc dù các doanh nghiệp này tiềm ẩn những rủi ro rất cao cả từ phía nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều làm ăn như vậy. Có rất nhiệu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi và hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản vay ngân hàng. Trong thời kỳ nền kinh tế đang có nhiều chuyển đổi hiện nay, số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập tăng lên đáng kể. Nếu cứ giữ nguyên tình trạng như hiên nay, chi nhánh sẽ bỏ qua một nguồn lực lớn, giảm khả năng cạnh tranh trong khu vực... Nhiệm vụ trước mắt đặt ra cho NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang là mở rộng hình thức cho vay ngắn hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đồng thời thực hiện các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tại ngân hàng. Hiện nay trên thế giới các ngân hàng tiến hành cho vay tiêu dùng, nhưng tại Việt Nam hầu như hình thức cho vay này chỉ tồn tại ở ngân hàng thương mại cổ phần, tại các NHTM quốc doanh hầu như doanh số cho vay tiêu dùng là rất nhỏ bé, có những ngân hàng còn không thực hiện việc cho vay này. Đây là một hạn chế lớn, vì đây là một nguồn tạo thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các khoản vay này thường rất nhỏ bé so với các khoản vay của doanh nghiệp, vì vậy khả năng quản lý tiền vay dễ dàng, hơn nữa với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nhu câu mua sắm tiêu dùng của nhân dân tăng lên đáng kể, đáp ứng tốt lực lượng này, các ngân hàng có thể tăng thêm đáng kể thu nhập. NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang nằm tại khu vực khá đông dân cư do đó nhu cầu vay vốn tiêu dùng của dân cư là khá cao, nhưng hiện nay ngân hàng chưa triển khai tốt loại hình cho vay này. Hy vọng trong tương lai NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang sẽ triển khai tốt hơn nữa cho vay tiêu dùng, nhằm tăng tối đa lợi nhuận thu được, đa dạng hoá các loại hình cho vay. 3.2.4 Tăng cường quản lý món vay. Đối với NHTM, hoàn tất việc cho vay mới chỉ là bước đầu của quy trình tín dụng. Một quy trình cho vay chỉ hoàn chỉnh khi khách hàng trả nợ và ngân hàng tất toàn hồ sơ. Để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, hạn chế mức thấp nhất các rủi ro phát sinh và đề ra các biện pháp hữu hiệu xử lý món vay có vân đề. Giám sát món vay: Sau khi giải ngân cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Việc này hết sức cần thiết vì nó giúp cho cán bộ tín dụng phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra các biện pháp xử lý thích ứng với tình hình. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta, các ngân hàng không được cung cấp đầy đủ và thường xuyên thông tin từ phía khách hàng , nhất là thông tin về kế toán tài chính. Để khắc phục tình trạng này, cán bộ tín dụng luôn tận dụng triệt để những lần gặp gỡ chủ doanh nghiệp khi họ đên ngân hàng trả lãi, khi đến thăm trực tiếp và cũng có thể thu thập thông tin từ những người biết doanh nghiệp, trong đó đến thăm trực tiếp nơi sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp hoàn tất việc thực thi dự án vay vốn, điều này hết sức quan trọng nó giúp cho cán bộ tín dụng biết được: Biết được tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay ngân hàng qua việc họ có lãng tránh gặp gỡ, có nhiệt tình trao đổi với cán bộ tín dụng những vấn đề có liên quan đến món vay, có sao nhãng việc trả nợ hay không? So sánh mức độ khác biệt giữa phương án xin vay với thực tế, chiều hướng tốt hay xấu? Doanh số và quy mô hoạt động, doanh thu, lợi nhuận tăng hay giảm; Sức cạnh tranh của hàng hoá như thế nào? Có phải hạ giá bán một cách không bình thường không? Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp như khả năng luân chuyển tiền mặt có đáp ứng được cho hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ đến hạn không? Nợ phải thu nhiều hay ít, dễ thu hay khó thu, có quá phụ thuộc vào một con nợ không? Xem xét biến động tài sản dùng vào sản xuất kinh doanh ra sao. Có loại tài sản nào nhàn rỗi, giá trị có bị giảm xuống không? Đánh giá lại giá trị thực tế của tài sản đảm bảo nợ vay, xem giá trị đó có đủ để thu hồi nợ hay không nếu xảy ra trường hợp khách hàng vay mất khả năng thanh toán. Từ đó có những điều chỉnh kịp thời trong việc cung ứng vốn vay cho tương ứng tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm giảm xuống, thoả thuận với khách hàng giảm mức dư nợ xuống đúng với quy định cho phép. Đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp không tách bạch giữa ngân sách dùng cho sản xuất kinh doanh với ngân sách chi tiêu gia đình. Do đó cán bộ tín dụng phải khéo léo tìm hiểu xem chủ doanh nghiệp có biết cách điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý chi tiêu hợp lý, nhằm hạn chế sự phụ thuộc. Các thông tin trên đây phải được cán bộ thường xuyên cập nhật dưới dạng báo cáo và biên bản làm việc kèm trong hồ sơ vay vốn. Nắm tình hình một cách chắc chắn với một ý thức trách nhiệm cao là chìa khoá tốt nhất giúp cán bộ tín dụng quản lý chặt chẽ món vay cũng như phát hiện kịp thời và xử lý những món vay có vấn đề đạt hiệu quả mong muốn. Hạn chế được rủi ro đạo đức từ phía khách hàng vay vốn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Các biện pháp xử lý món vay có vấn đề: Món vay có vấn đề ở đây được hiểu bao gồm món vay đã quá hạn và món vay tuy chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ hoặc do doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật. Xử lý món vay có vấn đề chính là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Việc xử lý này được dựa trên nguyên tắc cơ bản là tận dụng hết lượng tiền mặt sẳn có, buộc doanh nghiệp bán sản phẩm hay cung ứng dịch vụ ở mức giá hợp lý tạo ra nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt; cần tận dụng hết tài sản có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá nhanh tất cả các loại tài sản đó thành tiền mặt tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng. Xem xét các yếu tố liên quan đến tiền mặt để đưa ra hướng xử lý thoả đáng. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh chính bị thất bại và chủ doanh nghiệp không còn nguồn thu nhập nào khác thì trước hết ngân hàng tiến ngay các biên pháp cần thiết: Nếu doanh nghiệp vẫn duy trì hoạt động trong một thời gian có thể dự đoán thì doanh nghiệp phải trả nợ theo lịch trình dựa trên nguồn thu nhập do hoạt động này tạo ra, tam thời chưa xử lý tài sản bảo đảm nhằm tránh quy trình thu nợ mất nhiều thời gian, tốn kém. Trong trường hợp doanh nghiệp bị lỗ lớn không thể tiếp tục huy trì hoạt động và cam kết xử lý tài sản để trả nợ thì ngân hàng có thể cho phép doanh nghiệp sử dụng số tiền sau khi bán tài sản để trả nợ trong một thời gian chấp nhận được. Việc này nhằm hạn chế sự thiệt hại cho doanh nghiệp do phải bán ngay tài sản ở mức giá quá thấp và không thể trả nợ ngân hàng. Các biện pháp mang tính thương lượng trên đây chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp thực sự có tiền nhưng thiếu biện pháp trả nợ. Ngược lại với bất kỳ lý do không chính đáng nào cho thấy doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết của mình, vi phạm nghiêm trọng hợp đồng tín dụng thì ngân hàng áp dụng biện pháp kiên quyết thu hồi nợ, kể cả đưa hồ sơ ra cơ quan pháp luật cơ quan có thẩm quyền xử lý. 3.2.5 Đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, năng nỗ, nhiệt tình trung thực: Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt bởi hàng hoá là tiền tệ, có tính nhảy cảm cao. Vì vậy, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là rất lớn và hết sức đa dạng. Ngoài những rủi ro khách quan, do vô tình hay do sự yếu kém của ngân hàng và đối tác, còn có trường hợp do trình độ hạn chế và hành vi gian lận của cán bộ tín dụng. Khi cán bộ tín dụng cố ý làm sai thì hậu quả thật khó lường, bởi hàng ngày, hàng giờ những con người đều tiếp xúc với tiền. Do vậy ngăn ngừa các hành vi vi phạm cũng như xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi yêu nghề cần phải có những giải pháp đồng bộ: * Cần tuyển chọn cán bộ một cách cẩn trọng, tránh tuyển những người có tư cách không tốt. Tuyển chọn phải trên cơ sở yêu cầu của từng loại công việc và có tiêu chuẫn rõ ràng. Những cán bộ ngân hàng, cán bộ quản lý điều hành hoặc trực tiếp tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng cần có tiêu chuẩn chung là: Lập trường tư tưởng vững vàng với mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi, nắm bắt nhanh nhạy đầy đủ các chính sách, chủ trương của đảng, pháp luật của Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng vị trí công tác được giao. Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với ban lãnh đạo ra các quyết định xử lý thì ngoài yêu cầu chung còn đòi hỏi họ là những người thực sự khách quan, có hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm bắt chắc pháp luật, am hiểu thực tế. * Việc phân công cần cụ thể, khoa học, trong đó phải phân định trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng cho từng người với từng vị trí. Các nhiệm vụ chức năng tách biệt, chẳng hạn trong hoạt động tín dụng, các nhân viên chuẩn bị hồ sơ tín dụng phải biệt lập với nhân viên thẩm định giá trị tài sản thế chấp và cả hai phải biệt lập với cán bộ kiểm soát và cho vay. * Công tác đào tạo phải được quan tâm đúng mức. Đối với nhân viên mới được tuyển chọn cần phải được đào tạo chuyên sâu thêm về công việc sẽ giao. Bên cạnh đó, phải hướng dẫn cho nhân viên mới nắm rõ những mục tiêu, những quy định của ngân hàng. Đối với những nhân viên đang làm cũng phải thường xuyên nghiên cứu, học tập để cập nhật kiến thức về chuyên môn cũng như các kiến thức về xã hội khác, gắn lý luân với thực tiễn để có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo có hiệu quả khi cho vay. 3.2.6 Thiết lập bộ phận nghiên cứu thị trường. Cũng như các doanh nghiệp khác, để phát triển hoạt động kinh doanh của mình, mở rộng thị phần, thu được nhiều lợi nhuận và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng phải hiểu rõ thị trường mình đang hoạt động, khác với các doanh nghiệp thông thường, ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực, đó là lĩnh vực tiền tề đầy nhạy cảm và rủi ro. Nếu như với doanh nghiệp nghiên cứu thị trường chỉ quan tâm đến thị trường sản phẩm của mình. Còn đối với ngân hàng việc nghiên cứu cả thị trường sản phẩm của khách hàng. Trong tình hình hiện nay, sự cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động tín dụng ngân hàng càng gay gắt. NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang cần thiết phảI lập ra bộ phận chuyên trách để nghiên cứu thị trường đưa ra các giải pháp để chi nhánh có thể điều chỉnh hướng hoạt động của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Bộ phận nghiên cứu thị trường có hai nhiệm vụ: Nghiên cứu thị trường sản phẩm của ngân hàng: Bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ xem xét những vấn đề như nhu cầu vốn vay trên thị trường của các doanh nghiệp, khả năng cung ứng vốn vay và thị phần hiện có về sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Hình thức cho vay ngắn hạn nào được các doanh nghiệp ưa chuộng. Chất lượng của những món vay của ngân hàng hiện nay ra sao, phương thức cho vay nào là an toàn, hiệu quả. Với những thông tin thu được về thị trường sản phẩm của mình, chi nhánh sẽ có những giải pháp phù hợp, kịp thời để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Kịp thời loại bỏ những món vay không hợp lý, những lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro. Tất cả nhằm đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao, đó là các khoản cho vay lành mạnh. Nghiên cứu thị trường sản phẩm của khách hàng: NHĐT&PT Việt Nam cũng như NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang phải luôn luôn quán triệt tư tưởng “ thành công của khách hàng là thành công của ngân hàng”. Khách hàng làm ăn có hiệu quả, hoạt động sản xuất kinh doanh tiến triển thì các khoản nợ của ngân hàng được thanh toán đầy đủ. Như vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào kết quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hiện nay, phần lớn khách hàng của chi nhánh có khả năng tự chủ về tài chính cao. Khi đánh giá về tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng khó có thể dự đoán chính xác về triển vọng của doanh nghiệp. Hơn nữa, do ít thông tin về thị trường sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp nên ngân hàng chưa thể dự đoán sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng có được chấp nhận hay không. Nếu có thì ở mức giá cả, chất lượng hàng hoá như thế nào... một loại sản phẩm, chỉ có thể được thị trường chấp nhận ở mức số lượng và chất lượng nhất định. Vượt ra khỏi mức cho phép của thị trường thì nhất định doanh nghiệp sẽ thất bại. Vì vậy, bộ phận nghiên cứu thị trường của khách hàng cần tìm hiểu rõ về thị trường sản phẩm của khách hàng như: Số lượng doanh nghiệp cung ứng sản phẩm này, chất lượng sản phẩm trên thị trường, xu thế của nhu cầu sản phẩm đó, những thế mạnh mà sản phẩm khách hàng có, sức cạnh tranh... để từ đó dự đoán xem sản phẩm của khách hàng có thể xâm nhập thị trường không, mức độ rủi ro là bao nhiêu... Đây là nguồn cung cấp thông tin về thị trường giúp cho đánh giá rủi ro thị trường khách hàng của ngân hàng, so sánh, kiểm soát, đối chiếu thông tin do khách hàng cung cấp, trong đó đặc biệt là phương án sản xuất kinh doanh. Tóm lại, trong tình hình nước ta hiện nay, có rất ít tổ chức nghiên cứu về thị trường để có thể cung cấp thông tin cho khách hàng. Do vậy việc thiết lập một bộ phận nghiên cứu thị trường tại chi nhánh NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang là cần thiết để dự đoán và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với vốn vay của ngân hàng. 3.2.7 Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ. Để nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng, ngân hàng không chỉ quan tâm đến mở rộng hoạt động tín dụng mà còn phải quan tâm đúng mức tới công tác kiểm tra kiểm soát nhằm giảm nợ quá hạn và nợ khó đòi. Công tác kiểm tra, kiểm soát được đề cập không chỉ đơn thuần nhằm kiểm tra khách hàng, mà quan trọng hơn là phải kiểm tra, giám sát việc làm của cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo nhằm giúp cho họ tuân thủ đầy đủ theo đúng quy trình, quy chế nghiệp vụ, đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả và theo đúng pháp luật. 3.3 Một số kiến nghị. 3.3.1. Về phía NHĐT&PTVN. 3.3.1.1 Ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa. NHĐT&PT VN đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc thực hiện quy trình tín dụng. Tuy nhiên một số quy định cụ thể về từng loại hình tín dụng ngắn hạn nhìn chung còn chưa đầy đủ. Để việc cho vay được thực hiện đúng quy trình mà NHNN đặt ra, phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN nên có những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa đối với các loại tín dụng ngắn hạn... Để giúp cán bộ tín dụng, nhất là những cán bộ tín dụng mới nắm bắt công việc được nhanh chóng, công việc cho vay được suôn sẽ và hiệu quả. 3.3.1.2 Có chính sách tuyển chọn, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ và có chính sách khen thưởng rõ ràng. Một trong những thế mạnh của NHĐT&PT hơn các ngân hàng thương mại quốc doanh khác là có một đội ngủ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt huyết và có trình độ chuyên môn cao. Để phát huy hơn nữa thế mạnh này, NHĐT&PTVN cần có chính sách đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, đồng thời chú trọng đến việc gửi cán bộ đi đào tạo chuyên sâu, nghiên cứu tìm cách ứng dụng những nghiệp vụ mới mà các ngân hàng trên thế giới đã áp dụng. Trong điều kiện máy tín được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động ngân hàng hiện nay, tiến tới là thực hiện tất cả các nghiệp vụ tín dụng qua mạng máy tính trong tương lai thì việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ về máy tính là rất cần thiết, thậm chí còn mang tính chất quyết định đối với hoạt động của ngân hàng. Do vậy có chính sách tuyển chọn, đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ hợp lý, ngân hàng sẽ đảm bảo được vị thế của mình trên thị trường, vươn lên thành một trong những ngân hàng dẫn đầu trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. 3.3.1.3 Phát triển chiều sâu hợp tác quốc tế. Theo xu hướng toàn cầu hoá, NHĐT&PT Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa những quan hệ hợp tác quốc tế để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài, học tập công nghệ, tiến tới hội nhập từng việc, từng phần rồi tiến tới cả hệ thống. 3.3.1.4 Đổi mới mạnh mẽ quản trị điều hành. Việc đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản trị điều hành phải theo hướng rõ người rõ việc, kỷ cương kỷ luật trách nhiệm đầy đủ theo nguyên tắc cả ngân hàng là một hệ thống thống nhất, theo chuẩn mực pháp luật quy định và phù hợp với thông lệ quốc tế 3.3.2 Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước. 3.3.2.1 Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các văn bản pháp quy. Các văn bản này bao gồm: Nghị định củ Chính phủ, Quyết định và Thông tư củ Thống đốc NHNN để hướng dẫn thi hành về hai luật ngân hàng: Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng. Việc xây dựng và hoàn chỉnh này phải được xây dựng với tinh thần khẩn trương, chất lượng vừa phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, vừa đảm bảo yêu cầu đặt ra của đời sống xã hội, tháo gỡ các vướng mắc, giảm bớt các thủ tục phiền hà, không cần thiết nhưng phải bảo đảm an toàn hoạt động, nâng cao quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng, của các doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng và hoạt động khác của ngân hàng nói chung. 3.3.2.2 Hoàn thiện quy chế cầm cố, thế chấp tài sản và bảo lãnh vay vốn của ngân hàng: Cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh là những điều kiện đảm bảo cho các khoản và là một nguyên tắc của tín dụng khi khách hàng vay vốn ngân hàng. Quan hệ này được đề cập trong luật dân sự Việt Nam bên cạnh đó là thông tư hướng dẫn số 06/TT-CP của chính phủ và Nghị định 178/199/NĐ-CP ban hành ngày 23/12/1999 của chính phủ. Mặc dù được củ thể hoá trong thông tin và quyết định trên những quy chế còn quá chung. Bên cạnh đó là Luật đất đai chưa rõ ràng. Hơn nữa thủ tục thế chấp qua phòng công chứng cũng phức tạp và rắc rối. Trong nghiệp vụ cầm cố tài sản: Một nguyên tắc đặt ra là khi khách hàng trả vốn thì thực hiện theo nguyên tắc là khi khách hàng nộp tiền đến đâu, lấy hàng đến đó theo tỷ lệ tương ứng. Như vậy sau mỗi lần nộp tiền, lấy hàng thì phải thay đổi hợp đồng ban đầu. Sự thay đổi này phải qua thủ tục công chứng và phức tạp nếu khách hàng trả vốn nhiều lần. Một mặt khác, vấn đề phát mại tài sản thế chấp rất phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan, qua nhiều thủ tục. Trường hợp xử lý tài sản thế chấp kéo dài ít nhất 6 tháng. Vì vậy để ban hành quy chế cụ thể, cần có sự phối hợp nhiều cơ quan, ban ngành để giải quyết vấn đề này. 3.3.2.3 Kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các NHTM: Có biện pháp mạnh mẽ hơn để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng, bao gồm: Về cơ chế chính sách: Ban hành hệ thống cơ chế, quy chế, tạo hành lang pháp lý đáp ứng được yêu cầu, một mặt vừa nâng cao quyền hạn và trách nhiệm tự chủ của các tổ chức tín dụng đối với dự án cho vay, hạn chế và đi đến xoá bỏ sự can thiệp trái phép đối với quyền quyết định các khoản vay của các tổ chức tín dụng, mặt khác các tổ chức tín dụng phải chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật, xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Tiếp tục có biện pháp kiên quyết giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ tồn đọng xuống dưới hoặc bằng 5% theo chỉ đạo của Bộ chính trị. Phối hợp với cơ quan chức năng tăng cường thu hồi nợ quá hạn, xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. 3.3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Có đề án ứng dụng công nghệ vào tất cả các khâu trong hoạt động của ngân hàng và triển khai mạnh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng trong cả nước. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước theo kịp trình độ của các ngân hàng trên thế giới. Và từ đó khẳng định được uy tín của mình trên thế giới. Kết luận Chúng ta đang tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực để phát triển nền kinh tế. Nước ta là một nước đang phát triển thì tín dụng là một nhân tố rất quan trọng để chúng ta có thể thực hiện quá trình này. Tín dụng giúp chúng ta xây dựng cơ sở vật chất, tạo thế và lực mới... Do đó nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của ngân hàng, và xu thế phát triển của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng tín dụng là quá trình lâu dài và rất khó khăn, đòi hỏi phải có sự đổi mới toàn bộ trong hoạt động và quản lý của hệ thống tài chính, tiền tệ và các ngành kinh tế, luật pháp... Trong tín dụng nói chung, thì tín dụng ngắn hạn lại rất quan trong nhất là trong bối cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, cũng như NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang. Qua phân tích tín dụng ngắn hạn ở đây em nhận thấy cho vay ngắn hạn có vai trò quan trọng cho ngân hàng và đây cũng tạo nguồn thu chính cho ngân hàng. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn là rất cần thiết đối với chi nhánh. Và với chút kiến thức ít ỏi em đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. Cuối cùng em xin chân thành cảm Thầy giáo Nguyễn Kim Anh, Ban lãnh đạo, cán bộ NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã tận tình giúp em hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric Minskin. 2. Giáo trình lý thuyết tiền tệ và Ngân Hàng – Học viện Ngân Hàng 3. Ngân hàng thương mại – GS-TS Lê Văn Tư. 4. Tổng quan về tín dụng – Ngân hàng Hồng Kông. 5. Ngân hàng thương mại- Edwrd K. Gill. 6. Tài liệu tập huấn nghiệp vụ tín dụng của NH ĐT&PTVN. 7. Quản trị tài chính doanh nghiệp- TS Vũ Duy Hào- Đàm Văn Huệ- Thạc sỹ Nguyễn Minh Quang. 8. Các văn bản pháp quy của NHNN Việt Nam và NHĐT&PTVN. 9. Các báo cáo tài chính tổng hợp lưu tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang. 10.Lãi suất tín dụng ngân hàng hướng điều chỉnh - Vũ Long. 11. Tạp chí ngân hàng năm 2000-2002. 12. Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng 13. Thời báo Ngân Hàng. 14. Giáo trình tín dụng Ngân hàng, họcviện Ngân hàng. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34129.doc
Tài liệu liên quan