Danh mục các chữ viết tắt
NHĐT&PTVN
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
NHĐT&PTBG
Ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Giang
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
VNĐ
Việt Nam đồng
NH
Ngân hàng
HMTD
Hạn mức tín dụng
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngay gắt, đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội cũng như những thách thức mới phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế quốc gia, thậm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm 2001, theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp tục đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, NHĐT&PTBG cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTBG là điều hết sức cần thiết.
Xuất phát từ tình hình phát triển của nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng của NHĐT&PTBG, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTBG với để tài “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTBG”. Bài viết tập trung nghiên cứu về chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTBG trong thời gian qua và đưa ra một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng tín dụng tại NHĐT&PTBG trong thời gian tới. Kết cấu bài viết gồm 3 chương:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn của các NHTM.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTBG ChươngIII: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHĐT&PTBG.
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Nguyễn Kim Anh và các cán bộ phòng tín dụng NHĐT&PTBG đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Chương I
Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn của các NHTM
1.1. Lý luận chung về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Tín dụng là gì?
“Tín dụng” là thuật ngữ đã có từ rất lâu, tuy nhiên cho đến tận bây giờ thì vẫn chưa có một khái niệm chung nhất cho thuật ngữ “Tín dụng” mà tuỳ từng góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định được nội dung của thuật ngữ này.
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là Credo (tin tưởng, tín nhiệm). Nếu đứng từ góc độ quan hệ tài chính,tín dụng có thể được hiểu theo những nghĩa sau:
Xét theo góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hay thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận trong hợp đồng bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn nữa là giao dịch giữa NH và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là NH cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán tiền gốc và lãi.
Tín dụng còn có nghĩa là số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Trong một số ngữ cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Chẳng hạn như tín dụng ngắn hạn đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn chứ không bao gồm cả huy động ngắn hạn.
Trong đề tài này, em nghiên cứu tín dụng như một chức năng cơ bản của NH, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng được hiểu như sau: “tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (NH và các định chế tài chính) và bên đi vay (doanh nghiệp, cá nhân và các chủ thể kinh tế khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc là lãi cho bên cho vay đến khi đến hạn thanh toán"
Theo cách hiểu như trên thì tín dụng có ba đặc trưng là:
Thứ nhất, sự tin tưởng. Tín dụng chỉ được cấp cho người đi vay trên cơ sở người cho vay tin tưởng vào việc trả nợ đầy đủ và đúng hạn của khách hàng. Sự tin tưởng này dựa trên sự phân tích, xếp hạng mức độ tín nhiệm tín dụng của khách hàng, ngoài ra có thể dựa vào các đảm bảo tín dụng (tài sản đảm bảo). Tuy nhiên, cần phải đánh giá đúng vai trò của tài sản đảm bảo trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, không nên tuyệt đối hoá vai trò của tài sản đảm bảo hoặc không nên quá xem thường nó.
Thứ hai, sự chuyển giao tạm thời. Tính thời hạn trong quan hệ tín dụng phụ thuộc vào hai yếu tố đó là người có tiền nhàn rỗi dư thừa trong bao lâu và người thiếu hụt tiền cần tiền để bổ sung sự thiếu hụt đó trong bao lâu. Để đảm bảo hoạt động kinh doanh an toàn và hiệu quả các NH và các định chế tài chính cần phải quan tâm đến hai yếu tố này để xác định thời hạn của các nguồn vốn mình có thể sử dụng và thời hạn của khách hàng vay để có sự điều chỉnh, cân đối cho phù hợp, tránh rủi ro gây tổn thất thiệt hại cho mình.
Thứ ba, tính hoàn trả. khi đến hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng, người đi vay có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ cả phần vốn gốc và phần lãi vay cho người cho vay. Phần lãi vay này được tính bằng cách lấy giá trị vốn gốc vay nhân với lãi suất cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng. Lãi suất đó thực ra chỉ là lãi suất danh nghĩa. Để đảm bảo NH có lãi cần phải quan tâm đến tỉ lệ lạm phát để đảm bảo LS thực mà NH nhận được là dương (LS thực = LS danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát).Tuy nhiên, vì LS chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể LS danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
1.1.2. Tín dụng ngân hàng
“Tín dụng”tiếp cận dưới góc độ là một chức năng hoạt động của NH được hiểu như trên, vậy “tín dụng NH” cũng tiếp cận từ góc độ đó thì được hiểu như thế nào? Chúng ta có thể hiểu như sau: “tín dụng NH là quan hệ tín dụng giữa NH và các chủ thể kinh tế phi NH”. Quan hệ giữa NH và các chủ thể kinh tế phi NH hàng khách xảy ra theo hai chiều: NH là người đi vay còn các chủ thể kinh tế phi NH là người cho vay và NH là người cho vay và các chủ thể kinh tế phi NH là người đi vay. ở đây, chúng ta chỉ tiếp cận tín dụng theo một chiều trong đó NH sẽ là người cho vay còn các chủ thể kinh tế phi NH là người đi vay.
Quan hệ tín dụng NH được thiết lập dựa trên ba cơ sở sau:
NH tin tưởng vào ý muốn trả nợ và khả năng trả nợ của khách hàng. Đây là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất để NH đưa ra quyết định có đồng ý thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng hay không. Để trả lời được câu hỏi “khách hàng có ý muốn trả nợ và khả năng trả nợ không?” thì trước tiên NH cần có sự phân tích đánh kĩ về tư cách, đạo đức cũng như khả năng tài chính của khách hàng vay. Ngoài ra, để tăng thêm sự tin tưởng vào khách hàng thì NH thường yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo để làm nguồn thu nợ trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Tỉ lệ tài sản đảm bảo so với số tiền mà khách hàng xin vay phụ thuộc vào sự đánh giá của NH về khách hàng: nếu NH đã đánh giá là khách hàng có độ tín nhiệm tín dụng cao thì NH sẽ yêu cầu tỉ lệ tài sản đảm bảo nhỏ, còn nếu mức độ tín nhiệm tín dụng của khách hàng thấp thì tỉ lệ tài sản đảm bảo phải cao hơn.
Nhu cầu vay của khách hàng: Một khách hàng được xếp hạn tín nhiệm cao không phải lúc nào cũng được NH cho vay ngay số tiền trong đơn đề nghị xin vay. Để đưa ra quyết định tín dụng NH còn cần phải xem xét đến nhu cầu vay của khách hàng: định mục đích của khách hàng vay là gì, có phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với những quy định của NH hay không? Số tiền khách hàng xin vay có phù hợp với phương án, dự án sản xuất kinh doanh của họ hay không? Liệu nguồn vốn của NH có thể đáp ứng được nhu cầu đó của khách hàng hay không?
Cơ sở pháp lí: Bất kì doanh nghiệp nào nếu muốn tồn tại được thì đều cần phải tuân thủ pháp luật. NH cũng là một doanh nghiệp, chính vì vậy mọi hoạt động kinh doanh nói chung cũng như trong hoạt động tín dụng nói riêng của NH đều phải phù hợp với quy định của pháp luật.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, phổ biến nhất là phân loại tín dụng ngân hàng theo các cách sau đây:
Theo thời gian cho vay
Nếu phân loại theo tiêu chí này thì tín dụng ngân hàng được chia làm 3 loại:
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng. Mục đích nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân, hộ gia đình hay để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của các DN.
Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Mục đích của loại tín dụng này là nhằm tài trợ cho việc mua sắm tài sản cố định có thời hạn thu hồi vốn nhanh (chủ yếu sử dụng nguồn khấu hao để trả nợ), cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung dài hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cây cà phê, điều…
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung dài hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng. Mục đích của loại tín dụng này là tài trợ cho việc mua sắm tài sản cố định có thời gian thu hồi vốn lâu hay để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.1.3.2. Theo tài sản đảm bảo
Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): Là loại tín dụng trong đó người đi vay không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của bên thứ ba để đảm bảo cho khả năng trả nợ của họ. Loại tín dụng này thường được áp dụng đối với những khách hàng có uy tín cao hay những khách hàng có mối quan hệ tốt lâu dài với ngân hàng.
Tín dụng có đảm bảo: là loại tín dụng trong đó người đi vay phải có tài sản để cầm cố, thế chấp cho ngân hàng hay có sự bảo lãnh của người thứ ba (bên thứ ba có thể bảo lãnh cho bên đi vay bằng việc cầm cố, thế chấp tài sản của mình hay bảo lãnh bằng uy tín của mình).
1.1.3.3. Theo phương thức hoàn trả
Tín dụng trả góp: là loại tín dụng trong đó gốc và lãi vay được trả làm nhiều lần theo kì như thoả thuận trong hợp đồng tín dụng đã kí kết giữa NH và khách hàng. Nó thường được áp dụng đối với các khoản cho vay tiêu dùng hay cho vay trung dài hạn mà nguồn trả nợ được hình thành từ khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận đều đặn trong mỗi kì.
Tín dụng phi trả góp: là loại tín dụng trong đó khách hàng trả nợ gốc và lãi một lần khi đến hạn. Nó thường được áp dụng trong các khoản cho vay tiêu dùng có giá trị nhỏ hay cho vay vốn lưu động.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại hình tín dụng trong đó giữa NH và khách hàng đã có thoả thuận trước trong hợp đồng về việc hoàn trả gốc và lãi của khoản vay, theo đó bất cứ khi nào khách hàng có tiền thì họ đều có quyền yêu cầu NH cho họ thanh toán nợ gốc và lãi của khoản tín dụng đó.
1.1.3.4. Theo mục đích vay
Cho vay kinh doanh: là loại tín dụng nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Nguồn trả nợ cho các khoản vay này được lấy từ khấu hao và lợi nhuận của chủ thể kinh tế đó.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp như mua phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…. Do đặc điểm của nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên nên cho vay nông nghiệp có rủi ro cao hơn cho vay kinh doanh.
Cho vay bất động sản: là loại cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn cho xây dựng và mua sắm bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Loại này thường có rủi ro cao do biến động giá trị bất động sản rất cao.
Cho vay tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng: là loại cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Nguồn trả nợ của khoản vay này được lấy từ thu nhập của những thành viên trong gia đình người vay.
Cho vay các định chế tài chính: là việc cấp tín dụng cho các NH, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
1.1.3.5. Theo xuất xứ tín dụng
Cho vay trực tiếp: là loại cho vaytrong đó NH trực tiếp cho vay và khách hàng trực tiếp trả nợ cho NH.
Cho vay gián tiếp: là loại cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các NHTM thường cho vay gián tiếp theo các loại như: chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng, hay nghiệp vụ thanh tín.
1.2. Tín dụng ngắn hạn và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
Sản phẩm tín dụng NH rất đa dạng và phong phú. Tuỳ theo các tiêu thức phân loại khác nhau mà người ta có thể phân chia các sản phẩm tín dụng NH thành những nhóm có đặc điểm tương tự nhau. Nếu phân chia sản phẩm tín dụng NH theo tiêu thức thời hạn cho vay thì tín dụng NH bao gồm: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn, trong đó tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn chỉ mới phát triển từ đầu những năm 70 trở lại đây còn tín dụng ngắn hạn là nghiệp vụ truyền thống của các NHTM.
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng với mục đích tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình hay tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp.
Tín dụng ngắn hạn có đặc điểm là:
Thời hạn ngắn: dưới 12 tháng.
Quy mô khoản tín dụng nhỏ vì nó tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình hay số vốn lưu động trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp nên so với các khoản tín dụng trung và dài hạn thì quy mô các khoản tín dụng ngắn hạn nhỏ hơn nhiều.
Số lượng các khoản tín dụng nhiều.
Mức độ rủi ro thấp hơn so với tín dụng trung và dài hạn vì thời hạn ngắn và quy mô khoản tín dụng nhỏ.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây:
1.2.2.1. Tín dụng ứng trước
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi của chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản, thấu chi, tín dụng vãng lai (hay còn gọi là cho vay luân chuyển)... Nhìn chung, các khoản tín dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động, nghĩa là không thực hiện một tài sản xác định nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
a. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản
Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định.
Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho họ một tín dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác.
Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân hàng đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình thức sau:
Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.
Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh giá khách hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý.
Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp (do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo lãnh của một hay nhiều người khác.
b. Thấu chi
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đồng tín dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được sử dụng kết số thiếu (dư nợ) trong một giới hạn nhất định. Thấu chi là kỹ thuật cho vay đặc biệt mà trong đó doanh nghiệp được sử dụng vốn một cách linh hoạt, các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể thực hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo chứng.
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu cầu về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín dụng thấu chi ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu nguyên nhân chính xác về sự phát sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
c. Tín dụng vãng lai
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử dụng với số lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng .
d. Tín dụng thời vụ
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm nào đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm khác hoặc ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí đột biến và dàn đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành trong một thời gian rất ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ vốn lưu động và nó được thoả mãn bằng tín dụng thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các thời vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài trợ thời vụ cụ thể của trong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì chắc chắn là một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc không tận dụng số tư bản thường có trong những thời kỳ của năm và mức sinh lợi của vốn này do đó cũng phải gánh chịu những hậu quả.
1.2.2.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ thương mại. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất sớm và đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và lệnh phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua, đây chính là tiền đề để người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Ngoài ra, khi gặp khó khăn về vốn ngân hàng có thể đem thương phiếu đến chiết khấu lại tại NHTW để giải quyết nhanh chóng sự thiếu hụt đó, đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang là một nghiệp vụ được ngân hàng ưa thích sử dụng và có độ an toàn cao nhưng vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kĩ các hối phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các loại: Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua uỷ nhiệm thu...
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn trong nền kinh tế thị trường
Quan hệ tín dụng đầu tiên ra đời ở thời kì nguyên thuỷ với hình thức tín dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này chỉ đem lại lợi ích cho những người chủ nợ còn nó không hề có ý nghĩa với những con nợ, đối với xã hội và nền kinh tế. Sự ra đời của NHTM cùng với tín dụng NH đã làm cho tín dụng nặng lãi dần dần bị loại bỏ. Ngày nay, tín dụng NH đã trở thành một trong những nhân tố có đóng góp tích cực nhất vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đặc biệt, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam tín dụng NH nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng lại có vai trò quan trọng không chỉ đối với bản thân mỗi NH mà còn đối với cả những chủ thể kinh tế phi NH và toàn xã hội.
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế
NHTM là một tế bào của nền kinh tế và là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt bởi đối tượng kinh doanh của nó là một loại hàng hoá đặc biệt đó là tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, NHTM có nhiệm vụ dẫn truyền vốn từ chủ thể thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn qua đó đảm bảo cho nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế luôn ở trạng thái hoạt động hiệu quả. Nhiệm vụ này của các NHTM được thực hiện thông qua nhiều hoạt động nghiệp vụ của NH như thông qua tín dụng trung và dài hạn, thông qua phát hành các giấy tờ có giá, thông qua đầu tư… trong đó vốn tiền tệ được luân chuyển nhanh và nhiều nhất thông qua hoạt động tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, nhầm mục đích tài trợ cho nhu cầu tiêu của cá nhân, hộ gia đình hay tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp. Thông qua các khoản tín dụng ngắn hạn, các cá nhân và hộ gia đình có thể nâng cao chất lượng đời sống nhanh hơn còn các doanh nghiệp có nguồn để bổ sung sự thiếu hụt vốn lưu động một cách kịp thời, đảm bảo hoạt động kinh doanh tiến hành một cách bình thường qua đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá ổn định và phát triển.
1.2.3.2. Đối với các doanh nghiệp
* Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ xung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động kinh doanh được liên tục
Do có sự chênh lệch về thời gian giữa chu kì kinh doanh và chu kì ngân quỹ nên dẫn đến tình trạng lưu chuyển tiền vào và lưu chuyển tiền ra thường không ăn khớp về quy mô và thời gian, điều này đặt doanh nghiệp vào tình trạng thiếu hụt vốn lưu động đòi hỏi phải có nguồn tài trợ về ngân quỹ để đáp ứng mức chênh lệch đó. Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây lắp..hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn còn có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
* Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngố lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng.
Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển doanh nghiệp.
1.2.3.3. Đối với ngân hàng
Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các vấn đề: Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí (chi phí huy động vốn, chi phí trả lương, chi phí quản lý... Mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị giải quyết vấn đề này.
1.3. Chất lượng tín dụng ngắn hạn và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn cuả các Ngân hàng thương mại
Đánh giá chất lượng của một sản phẩm hữu hình là điều không khó còn để đánh giá chất lượng của một sản phẩm vô hình thì lại là một việc không hề dễ. Tín dụng ngắn hạn là một sản phẩm của các NHTM nên nó cũng mang đặc trưng của sản phẩm NH đó là tính vô hình. Vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn là gì? các nhân tố nào ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn? và để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của một NH thì người ta đánh giá như thế nào?
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngắn hạn
Các sản phẩm hữu hình được đánh giá là có chất lượng nếu đảm bảo các tiêu chuẩn của nhà sản xuất, chất lượng sản phẩm tín dụng được đánh giá là có chất lượng hay không không chỉ phụ thuộc vào nhà sản xuất (các NH) mà còn phụ thuộc rất lớn vào người tiêu dùng (khách hàng) và đối với xã hội (những tác động tích cực đối với nền kinh tế và xã hội). Để đánh giá chất lương tín dụng một cách chính xác cần nhìn nhận về chất lượng tín dụng dưới ba giác độ.
Chất lượng tín dụng được xét dưới giác độ doanh nghiệp: Do nhu cầu vốn vay được đáp ứng để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh bù đắp được chi phí sản xuất, trả nợ ngân hàng và có lãi nên chất lượng tín dụng ngân hàng đứng trên góc độ doanh nghiệp chỉ đơn giản là thoả mãn nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và làm cho đồng vốn sử dụng có hiệu quả.
Xét dưới giác độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi cho vay ngân hàng phải thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng và các văn bản chế độ hiện hành của nghành. Xác định đối tượng cho vay và thẩm định kỹ khách hàng trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và hiểu được tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và mục đích sử dụng vốn vay, cơ sở hoàn trả vốn vay để đảm bảo món vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là nguyên tắc cơ bản nhất đối với ngân hàng.
Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế -xã hội: Tín dụng ngân hàng trong những năm gần đây phản ánh rỏ rệt sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng phải huy động mức tối đa vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội để cung ứng cho các doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tạo thêm việc làm cho người cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác mọi khả năng tiềm tàng, tích tụ vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho kinh tế phát triển.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng. Tín dụng ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng thanh toán chi trả cao, tránh được rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hệ thống ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển hoà nhập với thế giới.
Qua đó ta có thể rút ra rằng:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được), vừa trìu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế..). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ…) và khách quan (sự thay đổi của môi trường kinh tế, do chủ quan của khách hàng…).
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài._., nó thể hiện sức cạnh tranh của một ngân hàng trong môi trường hoạt động.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Thu hút được nhiều khách hàng tốt, cho vay được nhiều, thủ tục đơn giản, mức độ an toàn của vốn tín dụng...
Chất lượng tín dụng không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa người với người trong một tổ chức; giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung: an toàn, hiệu quả và khả năng cạnh tranh với các khoản tín dụng.
Như vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng và yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong hoạt động tín dụng, không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Để đánh giá về chất lượng tín dụng ngắn hạn của một NH ta dựa trên hai nhóm chỉ tiêu:
1.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng
* Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không trả được số tiền gốc hay tiền lãi hoặc cả hai và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này (cao hơn lãi suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro cao và ngân hàng có khả năng mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỉ lệ đầu tư rủi ro:
Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn
=
Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn
X 100%
Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn
Tỷ lệ đầu tư rủi ro
=
Tổng dư nợ các món vay có phát sinh nợ quá hạn
Tổng dư nợ cho vay
Hai chỉ tiêu này có giá trị càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét giá trị món vay mà phát sinh nợ quá hạn.
* Tỉ lệ mất vốn
Tỷ lệ mất vốn
=
Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ
Dư nợ bình bình quân
Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt.
Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ thì ngân hàng thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi món nợ được xoá thì các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế. Xoá nợ đơn giản là một phương pháp quản lý tài chính của ngân hàng chứ không phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ ngân hàng nữa.
* Tỉ lệ dự phòng
Dự phòng mất vốn
Tỷ lệ dự phòng =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt.
Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ chỉ ra % dư nợ được dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ dự phòng mất vốn liên quan đến tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định và tỷ lệ mất vốn.
* Tỉ lệ sinh lời ngắn hạn
Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua lợi nhuận thu được từ cho vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng ngắn hạn.
Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn
Tỷ lệ sinh lời ngắn hạn =
Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay ngắn hạn. Tỷ lệ sinh lời cao chứng tỏ khoản cho vay đó có hiệu quả, có chất lượng cao. Để đạt tỷ lệ sinh lời cao thì việc thu nợ và giải quyết nợ quá hạn phải tốt. Tỷ lệ này cao một phần nói lên kết quả kinh doanh tốt của ngân hàng, điều này rất quan trọng vì doanh thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng.
* Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn
Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng nhanh, điều này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn do đó tỷ lệ này cao cũng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế nhanh, ngân hàng đã tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp trong phát triển kinh doanh.
Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn
Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn
=
Dư nợ ngắn hạn
Nguồn vốn ngắn hạn
Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, liệu ngân hàng đã sử dụng hết khả năng của mình trong cho vay ngắn hạn hay chưa?
1.3.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính
Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Các chỉ tiêu định tính được thể hiện qua độ thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng, qua uy tín, vị thế của NH trên thị trường; qua những đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội, số việc làm tạo ra….
Chất lượng tín dụng phản ánh một phần khả năng cạnh tranh của NH. Vì vậy, việc đánh giá chất lượng tín dụng là điều cần thiết để qua đó NH có những sự điều chỉnh phù hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh – một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của mình. Khi đánh giá chất lượng tín dụng, mỗi NH cần phải đánh giá kết hợp theo cả hai nhóm chỉ tiêu trên với các phương pháp thích hợp, tránh trường hợp chỉ căn cứ vào riêng chỉ tiêu định lượng dẫn đến kết quả đánh giá không chính xác.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn
NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế và có quan hệ mật thiết với sự phát triển của nền kinh tế. NHTM có quan hệ rất rộng với nền kinh tế, do đó để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thì chúng ta phải hiểu biết về những nhân tố tác động đến nó. Những nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng bao gồm những nhân tố chủ quan và những nhân tố khách quan. Các nhân tố này được chia thành 3 nhóm:
1.3.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
Khả năng thẩm định tín dụng:Thẩm định tín dụng là khâu quan trọng trong hoạt động tín dụng và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. Thẩm định đó là khâu đánh giá, dự đoán, thẩm tra về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của một phương án sản xuất kinh doanh. Mặt dù không chính xác tuyệt đối nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn và lãi đầy đủ khi khoản vay đến hạn thanh toán. Đặc biệt đối với những khoản vay ngắn hạn, do tính đặc thù của hoạt động này là cho vay thường xuyên nhằm đáp ứng kịp thời vốn lưu động cho các doanh nghiệp do đó thẩm định phải nhanh chóng, kịp thời nhưng phải chính xác để vừa đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng vừa đảm bảo an toàn cho vốn của NH.
Chất lượng cán bộ tín dụng: Để đảm bảo chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó con người là nhân tố trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động của ngân hàng cũng càng ngày càng tinh vi và phức tạp đòi hỏi cán bộ ngân hàng có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn để lĩnh hội và ứng dụng khoa học tiên tiến. Trình độ cán bộ quản lý điều hành và cán bộ tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Khách hàng của ngân hàng rất đa dạng do đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ NH ngoài trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn cần phải có những hiểu biết về các ngành, các lĩnh vực kinh doanh, có như vậy mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn khi lựa chọn khách hàng cho vay cũng như trong quá trình làm việc.
Vấn đề thông tin tín dụng: Trong nền kinh tế mở thì thông tin là một yếu tố rất quan trọng, là một kho tàng quý báu cho những ai biết cập nhật và sử dụng hiệu quả thông tin. NHTM hoạt động trong một lĩnh vực rất nhạy cảm đối với nền kinh tế và đầy tính rủi ro do đó thông tin càng cực kỳ quan trọng. Đối với nghiệp vụ tín dụng, các NHTM thường không đủ về thông tin về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án mà người vay định tiến hành. Việc thiếu thông tin tạo ra sự lựa chọn đối nghịch, đó là hiện tượng người vay tạo ra một kết cục không mong muốn – rủi ro không trả được nợ. Do vậy nắm bắt không đầy đủ, chính xác về thông tin sẽ dẫn đến việc lựa chọn những kkhách hàng không tốt và những khoản vay không tốt, làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng cũng như tín dụng nói chung.
Kiểm soát nội bộ: Các quy chế, thể lệ cho vay và các nguyên tắc cho vay nếu cán bộ ngân hàng không nắm vững sẽ gây nên tổn thất, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Do đó, công tác kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, đúng pháp luật, mặt khác nắm được sai sót lệch lạc trong hoạt động tín dụng có biện pháp khắc phục kịp thời.
1.3.3.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng
Khách hàng là người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng do đó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc có nhiều khách hàng đủ điều kiện vay, sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả, thanh toán nợ và lãi đúng hạn sẽ làm cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Những yếu tố từ khách hàng gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng bao gồm:
Tư cách khách hàng vay: rủi ro đạo đức là một trong những loại rủi ro gây tổn thất, thiệt hại nhiều nhất cho NH. Rủi ro đạo đức là việc khách hàng vay có ý lừa đảo chiếm dụng vốn của NH hay không có ý định trả nợ cho NH. Để ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu những tổn thất thiệt hại do rủi ro đạo đức gây ra thì việc đánh giá tư cách khách hàng vay là điều rất quan trọng, đòi hỏi các cán bộ tín dụng thông qua tiếp xúc với khách hàng hay tìm hiểu từ các nguồn thông tin khác phải xác định được tư cách, đạo đức của khách hàng vay đó thế nào? họ có ý định lừa đảo hay không? họ có thiện chí trả nợ hay không? họ có sẵn sàng hợp tác để giúp mình thu thập những thông tin cần thiết trước, trong và sau khi cho vay hay không?
Năng lực thị trường: Năng lực thị trường là điều mà cán bộ tín dụng khi thẩm định khách hàng vay cũng như phương án sản xuất kinh doanh của họ phải tìm hiểu cặn kẽ, chính xác. Năng lực thị trường là uy tín, vị thế của khách hàng vay trong quan hệ làm ăn với các đối tác; là chất lượng sản phẩm và sự tín nhiệm của người tiêu dùng với sản phẩm của khách hàng vay; là khả năng tiêu thụ các sản phẩm của dự án, là khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Như vậy, năng lực thị trường chính là một trong những yếu tố quyết định tính khả thi, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, quyết định đến nguồn trả nợ cho khoản vay đó.
Năng lực sản xuất: một doanh nghiệp nếu chỉ có năng lực thị trường thì mới chỉ đáp ứng điều kiện cần để tạo ra lợi nhuận, để có được điều kiện đủ thì đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có năng lực sản xuất. Đó là phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao trong khi giá thành ngày càng rẻ, phải tận dụng tối đa những yếu tố sản xuất mình đang có để đáp ứng được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của mình…
Năng lực tài chính: là khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng đầy đủ, kịp thời những yêu cầu về vốn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh để đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra bình thường. Nếu NH đã cho doanh nghiệp vay vốn lưu động để bổ sung nhu cầu còn thiếu hụt mà trong quá trình thực hiện phương án sản xuất kinh doanh đó lại nẩy sinh những khoản chi phí mà bản thân doanh nghiệp không có nguồn để đáp ứng sẽ làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của dự án, do vậy việc trả nợ cho NH cũng bị ảnh hưởng.
Năng lực quản lí, điều hành: Chất lượng một khoản tín dụng được đánh giá một phần thông qua tỉ lệ nợ quá hạn. Một khoản tín dụng phát sinh nợ quá hạn sẽ bị đánh giá là một khoản tín dụng có chất lượng không cao và làm giảm chất lượng tín dụng chung của NH. Vì vậy, khi phân tích khách hàng vay, cán bộ tín dụng cần quan tâm đến năng lực quản lý, điều hành của bộ phận lãnh đạo để đảm bảo phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn đi đúng kế hoạch đã định và đảm bảo việc trả nợ diễn ra như đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
1.3.3.3. Các nhân tố thuộc về môi trường
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động ngân hàng. Lạm phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thuế... đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và đạt được nhiều kết quả khích lệ. Tuy nhiên còn một số những khó khăn doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp hoặc không phù hợp với sự thay đổi của chính sách, cơ chế vĩ mô. Do vậy doanh nghiệp gặp những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng hoá tồn đọng, thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán làm phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi điều này ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng.
Cùng với sự thay đổi của môi trường kinh tế thì môi trường chính trị, pháp luật, tự nhiên…. cũng gây ra những ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng tín dụng cũng như hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đây là những nhân tố khách quan do vậy các NHTM không thể điều chỉnh nó theo hướng có lợi cho mình mà chỉ có thể điều chỉnh hoạt động của mình để tận dụng những yếu tố tích cực do những nhân tố này đem lại. Có như vậy chất lượng tín dụng mới được đảm bảo.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang .
. Khái quát về NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang
2.1.1. Sơ lược về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bắc Giang.
Tiền thân của ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Giang là Ngân hàng kiến thiết tỉnh hà Bắc, được thành lập từ năm 1958. Lúc đầu chỉ là một phòng cấp phát trực thuộc ty tàI chính. Đến năm 1963 được thành lập là chi háng kiến thiết, với nhiệm vụ cấp phát vốn cho các công trình xây dựng thuộc vốn ngân sách trung ương và vốn ngân sách địa phương. Đến năm 1981 được đổi tên là ngân hàng Đầu tư và xây dung, vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ cấp phát. Đến năm 1988 toàn hệ thống ngân hàng 2 cấp. Đến năm 1990 hệ thống ngân hàng Đầu tư và Xây dựng được đổi tên là Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam. Lúc này Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Bắc có tên gọi là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Bắc.
Đầu năm 1995 toàn hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận được quyết định chuyển toàn bộ nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp, vốn tín dụng ưu đãi sang Cục đầu tư, lúc này Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thực sự trở thành một ngân hàng thương mại.
Đến năm 1997, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10 quốc hội khoá 9 về việc phân lại địa giới hành chính, tỉnh hà Bắc được chia tách thành 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang được tía lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997. Trụ sở chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang đặt tịa đường Nguyễn Gia Thiều – Thị xã Bắc Giang – Tỉnh Bắc Giang với 80 cán bộ công nhân viên.
Để phục vụ quá trình hoạt động kinh doanh, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang có cơ cấu mô hình tổ chức: Ban giám đốc điều hành (gồm có : một Giám đốc và 2 Phó giám đốc) và các phòng, ban nghiệp vụ ( gồm có: Phong tín dụng, Phòng kế toán tài chính, Phòng kế hoạch nguồn vốn kho quỹ, Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ và Phòng tổ chức hành chính).
2.1.2. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư Bắc Giang
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
a. Hoạt động huy động vốn.
Vốn có vai trò quan trọng trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại bởi vì vốn quyết định đến qui mô tổ chức hoạt động kinh doanh, quyết định đến khả năng thanh toán và chi trả, quyết định đến năng lực trong cạnh tranh của cá ngân hàng thương mại. Vốn huy động là nguồn vốn chính chiếm 70% vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại .
Thực hiện phương châm “ đi vay để cho vay”, trong những năm qua, ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang đã bằng nhiều biện pháp tích cực để tập trung huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội và tầng lớp dân cư để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế trên địa phương.
Nằm trên địa bàn của một tỉnh miền núi mà sản xuất nông nghiệp thuần tuý là chủ yếu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vẫn còn ở mức thấp, khả năng huy động vốn tích luỹ vào sản xuất kinh doanh còn ở mức hạn hẹp thì công tác huy động vốn của Ngân hàng để đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh gặp không ít khó khăn.
Tuy nhiên với sự cố gắng lỗ lực của mình, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang đã mở rộng và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau nên đã thu hút được một lượng vốn đáng kể. Ngoài loại hình huy động truyền thống như tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi các tổ chức kinh tế, Ngân hàng còn mở các đợt huy động tiền gửi kỳ phiếu và phát hành trái phiếu. Đồng thời để hấp dẫn người gửi tiền và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Ngân hàng luôn điều chỉnh lãi suất các loại tiền gửi phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Qua các năm hoạt động, sự tăng trưởng của nguồn vốn này ngày càng lớn mạnh, đã đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của ngành và cung ứng vốn cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
năm 2002
năm 2003
năm 2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng nguồn vốn :
420.750
100
580.870
100
690.560
100
1.Vốn tự huy động
230.000
54,6
320.000
55,1
410.000
59,37
Tiền gửi TCKT
43.000
10,2
72.000
12,4
92.000
13,3
Tiền gửi tk, kp, tp
187.000
44,4
248.000
42,7
318.000
46,05
Trong đó: Dài hạn
111.970
156.670
205.540
2. Vay NHĐT&PTVN
185.000
44
260.870
44,9
280.560
40,7
Vay ngắn hạn
52.175
12,4
63.320
10,9
75.120
10,9
Vay dài hạn
132.820
31,6
197.550
34
205.440
29,8
Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2002,2003,2004 của ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Bắc Giang.
Từ biểu 01 ta thấy:
Nguồn vốn huy động hàng năm tăng trưởng với tốc độ khá, năm 2003 đạt: 320.000 triệu đồng tăng 90.000 triệu đồng so với năm 2002, năm 2004 đạt :410000 triệu đồng tăng 90.000 triệu đồng so với năm 2003.Vốn huy động bằng hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu( vốn huy động từ tiền gửi dân cư) là chủ yếu, góp phần gia tăng tính ổn định về nguồn vốn cho huy động tại chỗ cho chi nhánh. Tuy nhiên nguồn vốn này tăng làm cho chi phí đầu vào bình quân cao( do lãi suất tiền gửi vốn dân cư đa phần là có kỳ hạn nên cao hơn lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế).
b. Công tác sử dụng vốn.
Trong những năm qua, với quá trình nền kinh tế chuyển tà bao cấp hành chính sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh lâm vào tình thế khó khăn, nhất là các xí nghiệp quốc doanh địa phương, kinh tế tập thể hầu như tan rã, ngừng hoạt động. Từ khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thì hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng thay đổi theo để kịp thời đầu tư vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.Khách hàng chính của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển tỉnh Bắc Giang là các doanh nghiệp quốc doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Biểu 02 : Tổng hợp kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế.
Chỉ tiêu
năm
2002
năm 2003
năm 2004
2003/2002
2004/2003
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
I Cho vay ngắn hạn
119.358
52,3
149.293
49,1
171.866
53,4
29.755
24,9
22.573
15,1
1, ngành nông lân nghiệp
30.357
13,3
54.620
17,9
67.232
20,9
24.263
79,9
12.612
23,1
2. Ngành công nghiệp
35.188
15,4
62.987
20,7
11.698
3,635
27.799
79
-51.289
-81,4
3. Ngành xây dựng
17.980
7,86
11.302
3,71
72.731
22,6
-6.687
-37,1
61.429
544
4. Ngành dịch vụ
35.833
15,7
20.384
6,7
20.205
6,279
-15.449
-43,1
0
-0,88
và các ngành khác
II Cho vay trung và dàI hạn
35.776
15,6
82.230
27
105.884
32,9
46.454
130
23.654
28,8
1. Ngành nông lâm nghiệp
23.069
10,1
35.234
11,6
52.180
16,2
12.165
52,7
16.946
48,1
2. Ngành công nghiệp
5.230
30.021
19.823
15,3
24.791
474
-10198
-34
3. Ngành xây dựng
1.042
2.316
10.540
1.274
122
8224
355
4. Ngành dịch vụ và
7.477
14.659
22.711
7.182
96,1
8052
54,9
các ngành khác
III Nợ cho vay chỉ định
73.509
32,2
72.790
23,9
44.050
13,7
-719
-0,98
-28740
-39,5
Cộng
228.643
304.313
321.800
Nợ quá hạn
8.010
3,5
10.690
3,51
21.931
6,8
Nguồn : Báo cáo dư nợ tín dụng năm 2002,2003,2004 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang đã đầu tư kịp thời cho các nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế trên địa bàn.Qua biểu 02 ta thấy: Tổng dư nợ cho vay cuối năm 2002 là 228.643 triệu đồng; đến cuối năm 2004 là 321.800 triệu đồng ( tăng 1,41 lần so với 31/12/2002). Trong đó:
- Cho vay ngắn hạn là: 171.866 triệu đồng chiếm tỷ trọng 53,41% so với tổng dư nợ.
- Cho vay trung dài hạn là: 105.884 triệu đồng chiếm tỷ trọng 32,9% so với tổng dư nợ.
- Cho vay theo chỉ định là: 44.050 triệu đồng chiếm tỷ trọng: 13,69% so với tổng dư nợ.
Tốc độ tăng trưởng như trên là cao hơn so với bình quân trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng như toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên qui mô còn nhỏ mới chiếm: 21,5% thị phần trên địa bàn, chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của địa phương.
Dư nợ bình quân một cán bộ đạt: 5.7 tỷ đồng/ người. Thấp hơn mức bình quân trong toàn hệ thống.
Nợ quá hạn trên cân đối ở mức 4,6%/ tổng dư nợ. Bằng mức bình quân trong hệ thống nên tiềm ẩn rủi ro còn rất lớn.
Trong mấy năm qua theo định hướng phát triển kinh tế của tỉnh, hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế đã có những thay đổi căn bản. Nếu như trước đây trong nông nghiệp chủ yếu là ngành trồng trọt và độc canh lúa thì nay với sự hướng dẫn của các ngành về chuyển giao kỹ thuật trong nông nghiệp và sự chỉ đạo thay đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Nhiều cây trồng vật nuôicó hiệu quả kinh tế cao đã được bà con nông dân đón nhận đưa vào sản xuất chăn nuôi đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá xã hội. Nhiều vùng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao được nhân rộng.
Bên cạnh đó các ngành nghề truyền thống trước đây một thời gian bị mai một thì nay đã được khôi phục và phát triển trở lại. Những sản phẩm của các làng nghề truyền thống đã chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước tạo ra nguồn thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân trong vùng.
Để thực hiện việc chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp và xây dựng những nhà xưởng lắp đặt máy mọc thiết bị cho sản xuất của các làng nghề truyền thống đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó.
Từ thực tế trên đây, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang đã tìm mọi biện pháp nhằm thay đổi cơ cấu đầu tư, đa dạng hoá các hình thức đối tượng đầu tư để kịp thời phục vụ cho các hoạt động kinh tế trong tỉnh.
Trong quá trình đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế, chi nhánh đã mở rộng các điểm giao dịch ( cho vay, thu nợ, thu lãI trực tiếp tại địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm), cải tiến các qui trình thủ tục hồ sơ vay vốn, phương pháp quản lý theo dõi hồ sơ, sâu sát khách hàng và tạo mọi điều kiện cho khách hàng vay vốn kịp thời và thuận tiện. Tăng trưởng tín dụng không những tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo hướng sản xuất hàng hoá mà còn đảm bảo điều kiện để cạnh tranh tồn tại và phát triển của chi nhánh.
2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc, sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong hoạt động kinh doanh,ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Giang thu được nhiều kết quả đáng khích lệ:
Tính đến 31/12/2004:
Tổng tài sản đạt 420 tỷ đồng tăng gấp 4,5 lần so tháng 1/1997 ( thời điểm chi nhánh được thành lập).
Nguồn vốn huy động đạt 230 tỷ đồng tăng gấp 4,4 lần so với năm 1997.
Tổng dư nợ đạt 321,8 tỷ đồng tăng 4 lần so 01/01/1997.
Thu dịch vụ ngân hàng đạt 780 triệu đồng tăng gấp 7,8 lần so năm 1997.
Thị phần tín dụng trên địa bàn năm 1997 chiếm 17%, đến năm 2004 chiếm 24.5%.
- Thị phần huy động vốn trên địa bàn năm 1997 chiếm 16%, năm 2004 chiếm 24%.
Chi nhánh đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nghành Ngân hàng tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quí như : Huân chương lao động hạng III cùng nhiều bằng khen, giấy khen cho các tập thể và cá nhân.
2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang.
2.1.31. Thuận lợi :
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang có những thuận lợi sau :
+ Hoạt động của chi nhánh thường xuyên được quan tâm, chỉ đạo của hội đồng quản trị, Ban tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các cơ quan ban ngành trong tỉnh Bắc Giang.
+ giữ được tín nhiệm với các doanh nghiệp bạn hàng. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp xác lập quan hệ tín dụng, thanh toán tăng dần qua các năm. Đến 31/12/2004 số doanh nghiệp có quan hệ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang chiếm trên 80% tổng số doanh nghiệp trong toàn tỉnh.
+ Chi nhánh giữ được vị thế là ngân hàng chủ lực cho vay đầu tư phát triển trên địa bàn. Đến 31/12/2004 dư nợ cho vay đầu tư phát triển chiếm gần 60% tổng dư nợ cho vay của chi nhánh và chiếm khoảng 50% tổng dư nợ cho vay Đầu tư phát triển trên địa bàn.
+ Tác phong, thái độ làm việc của cán bộ trong chi nhánh được khách hàng tin yêu và tín nhiệm.
2.1.3.2 Khó khăn :
+ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang đang trong thời kỳ phát triển mở rộng nên cơ sở vật chất còn đang được hoàn thiện dần. Trình độ chuyên môn của lực lượng cán bộ còn rất nhiều bất cập do được đào tạo ở nhiều nguồn khác nhau. Số lượng cán bộ hiện nay còn thiếu, nhu cấu cấn tuyển nhân viên có trình độ năng lực đang là mối quan tâm của chi nhánh.
+ Hoạt động của chi nhánh nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng có sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn và cả các ngân hàng thương mại khác địa bàn.
+ Trong bối cảnh nền kinh tế nước nước ta còn có nhiếu khó khăn như: thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tỷ giá ngoại hối thay đổi liên tục, dòng vốn đầu tư nước ngoài và trong nước có nhiều biến động… đã làm cho nhiều doanh nghiệp trong nước kinh doanh kém hiệu quả them chí đổ vỡ, phá sản. Các doanh nghiệp đang trong giai đoạn sắp xếp lại có nhu cầu đầu tư rất lớn, song hiệu quả của dự án cũng như thủ tục pháp lý còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
+ Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có qui mô còn nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao nên tiềm năng tăng trưởng hoạt động tín dụng của ngân hàng còn bị hạn chế.
+ Các chính sách cụ thể của địa phương để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp vay vốn còn chậm, chưa đồng bộ.
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng tại NHĐT&PT chi nhánh tỉnh Bắc Giang
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước ta, trong hơn 10 năm qua NHĐT&PTVN chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã vượt qua những khó khăn trở ngại bằng ý chí vươn lên, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo sát sao của NHĐT&PT Việt Nam, NHNN tỉnh Bắc Giang. Phương châm phát triển của Ngân hàng Đầu tư Bắc Giang là an toàn- hiệu quả - cạnh tranh. Chi nhánh đã đạt được những thành công nhất định cũng như mở rộng được các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng.
Bảng 3: Tình hình dư nợ của NHĐT&PT Tỉnh Bắc Giang.
Đơn vị: triệu đồng
Năm
2002
2003
2004
Tổng dư nợ
320.554
368.223
412.777
Ngắn hạn
171.866
207.813
243.102
Trung dài hạn
148.688
160.410
169.675
(Nguồn: báo cáo dư nợ NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang 2002-2004)
Theo số liệu trên ta có thể thấy dư nợ tín dụng ngắn hạn liên tục tăng lên qua các năm với tốc độ tăng đều nhau và khá ổn định. Điều này đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân hàng và giúp ngân hàng dự đoán được tốc độ phát triển của tín dụng trong thời gian tới. Nhìn vào bảng số liệu ta có thể tính được tỷ trọng của dư nợ ngắn hạn tăng dần qua các năm: Năm 2002 nợ ngắn hạn chiếm 53,62% trong tổng dư nợ, năm 2003 tỷ trọng này là 56,43%, năm 2004 tỷ trọng này là 58,89%.Điều này chứng tỏ tín dụng ngắn hạn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng Đây là một nét mới của ngân hàng trong quá trình chuyển dịch đầu tư trong nền kinh tế.
Trong bảng cân đối kế toán của NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang thì hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Trong tổng dư nợ tín dụng thì tín dụng ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy tín dụng ngắn hạn có vai trò quan trọng đối với ngân hàng. Với đặc điểm của của tín dụng ngắn hạn đó là vòng quay của tiền nhanh, do đó trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta đang trong giai đoạn phát triển và đang trong giai đoạn đổi mới nên có nhiều vấn đề mâu thuẫn và chưa bắt kịp với thế giới dẫn đến nền kinh tế phát triển chưa ổn định. Mặt khác NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang nằm trong một khu vực đông dân cư, nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp sản xuất, thương mại đặc biệt các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sản xuất mang tính thời vụ. Với những đặc điểm vĩ mô và vi mô như vậy thì tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng Đầu tư Bắc Giang đã đáp ứng đầy đủ những nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trên toàn tỉnh vậy tín dụng ngắn hạn không những đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng mà còn bảo đảm an toàn, khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Đó là cơ sở để tín dụng ngắn hạn tại NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang phát triển.
Cơ cấu tín dụng ngắn hạn của NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang:
Đặc điểm chung trong cơ cấu dư nợ cho vay nói chung và cho vay ngắn hạn nói riêng là doanh nghiệp quốc doanh hay thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. điều có thể giải thích là do lịch sử hình thành và nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng. Từ khi hình thành mục đích chính của NHĐT&PTVN nói chung và NHĐT&PT tỉnh Bắc Giang nói riêng là tài trợ vốn tín dụng để phát triển khu vực công nghiệp và thương nghiệp của nền kinh tế bao cấp từ đó hình thành nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước, mặt khác ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần này vì đảm bảo an toàn hơn vì trong trường hợp làm ăn thua lỗ thì vẫn được nhà nước bù lỗ. Ngoài ra, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn làm ăn hiệu quả vẫn chưa cao, qu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34190.doc