Một số giải pháp Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

lời nói đầu Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến khá phức tạp. Cụ thể như: cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã có những tác động ảnh hưởng trực tiếp đến qúa trình tăng trưởng và phát triển kinh tế thế giới nói chung, kinh tế các nước trong khu vực ASEAN nói riêng, trong đó có Việt Nam. Trong thời gian đó, kể cả trong nhiều năm trước đó và sau này, vai trò của hệ thống ngân hàng là không thể phủ nhận được, các phương tiện thông tin đại chúng đã nhi

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều lần đề cập đến hàng loạt vấn đề nóng bỏng có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng thương mại Việt Nam như: tình trạng ứ đọng vốn, vốn hàng đóng băng, nợ quá hạn tăng cao, rủi ro tín dụng v..v..gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng. Mặc dù những vấn đề này đã được nêu ra nhiều lần, cũng đã có không ít những đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhưng những rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại vẫn xảy ra, vẫn tồn tại và còn có chiều hướng gia tăng. Đối với hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam(NHNTVN), đây là một bài toán cực kì nan giải: Ngân hàng phải làm gì? và làm như thế nào? để có thế mở rộng, nâng cao chất lượng, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động cho vay trung và dài hạnh đang trở thành một hoạt động chính của NHNTVN. Cho vay trung và dài hạn là hình thức cho vay theo các dự án đầu tư. Chất lượng của khoản vay phụ thuộc phần lớn vào chất lương thẩm định tài chính dự án đầu tư, song công tác này của Ngân hàng còn nhiều vấn đề cần phải xem xét. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, em nhận thấy đây là vấn đề mà Ngân hàng đã và đang quan tâm để có thể đưa ra nhiều biện pháp thực hiện. Xuất phát từ thực tế đó cùng với sự khuyến khích ủng hộ của Ban giám đốc, cùng các cô, các chú, anh chị em cán bộ NHNTVN, em đã chọ đề tài này, đề tài: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại NHNTVN. Với mong muốn có thể tìm tòi, phát hiện được một số rủi ro, hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục một số tồn tại, qua đó nâng cao hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đây là đề tài nghiên cứu một nội dung nhỏ trong tổng thể những nội dung cần xem xét với một khoản vay hay một dự án đầu tư. Vì vậy, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết này, chỉ giói hạn và tập chung chủ yếu vào công tác thẩm định tài chính của dự án đầu tư, gắn với hoạt động cho vay của NHNTVN. Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề, những lí luận cơ bản liên quan đến hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư, đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHNTVN để đa ra giải pháp. Bài viết được trình bày trong ba chương: Chương I: NHNTVN với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư. Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại NHNTVN Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại NHNTVN. Do điều kiện hiểu biết, trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập tại Ngân hàng chưa nhiều nên vấn đề nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các cô chú, anh chị em cán bộ công nhân viên NHNTVN, cùng với những đóng góp sửa chữa, bổ xung của các thầy cô giáo và các bạn, đặc biệt là những ý kiến đóng góp bổ xung, sửa chữa của thầy giáo, giáo viên hướng dẫn, TS. Mai Văn Bưu để bài viết sau được hoàn thiện hơn. Chương I Ngân hàng Ngoại thương với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Trong hoạt động sản xuất, tiêu dùng của xã hội luôn luôn xảy ra tình trạng đối nghịch: có những cá nhân, những tổ chức có tiền tiết kiệm, nhàn rỗi không có nhu cầu hoặc chưa có nhu cầu sử dụng đến nó trong khi đó lại có những cá nhân, những tổ chức có nhu cầu về một khoản tiền nhất định để sử dụng cho một mục đích đầu tư hay tiêu dùng cá nhân. Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian trên thị trường tài chính, đóng vai trò cầu nối dẫn vốn từ những nhà gửi tiết kiệm sang các nhà đầu tư, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng giữa những người cần tiền và những người có tiền. Kết quả là tất cả các bên đều có lợi, nền kinh tế luôn vận hành một cách nhịp nhàng, sản xuất phát triển, đời sống được nâng cao. NHTM là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng. Tất cả các hoạt động của Ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối cao, chi phối các mục tiêu khác là tối đa hoá lợi nhuận. Theo đuổi mục tiêu này, NHTM không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến dịch vụ đa dạng hóa các loại hình dịch vụ và được thực hiện qua ba hoạt động chính: -Hoạt động huy động vốn. -Hoạt động cho vay và đầu tư. -Hoạt động trung gian. Đây là ba hoạt động truyền thống của một NHTM. Chúng có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Để có vốn vay Ngân hàng phải huy động những đồng tiền nhàn rỗi từ tay các nhà tiết kiệm. Đồng thời với một lợi thế là một trung gian trên thị trường tài chính, NHTM thực hiện một số dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Các hoạt động dịch vụ này vừa tạo ra thu nhập, vừa hỗ trợ cho các hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư. Thứ nhất, huy động vốn: trước hết mỗi NHTM phải có một số vốn tự có là điều kiện ban đầu của hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn này được tạo lập bằng cách phát hành cổ phiếu hay do ngân sách Nhà nước cấp, hay là từ các quỹ được tạo ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn của NHTM được thể hiện tập trung thông qua việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng, Ngân hàng tập chung được một số vốn lớn từ các khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, từ các công cụ kỳ phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi v..v. Bên cạnh đó khi cần vốn cho nhu cầu thanh toán, cho vay Ngân hàng có thể vay của NHTW hay các tổ chức tín dụng khác. Trên bảng cân đối tài sản, hoạt động huy động vốn được biểu hiện qua các tài sản nợ của Ngân hàng. Thứ hai, hoạt động cho vay, đầu tư: NHTM sử dụng số tiền tiết kiệm, nhàn rỗi huy động được từ công chúng đem cho vay hoặc đầu tư chứng khoán. Trên bảng cân đối tài sản, các hoạt động này được biểu hiện là tài sản có của Ngân hàng. Các hoạt động cho vay và đầu tư mang lại cho NHTM một khoản thu nhập. Đây là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của NHTM. Thứ ba, hoạt động trung gian: các NHTM còn thực hiện nghiệp vụ trung gian theo yêu cầu của khách hàng nh: thanh toán, chuyển tiền, ưuỷ thác, ký gửi, tư vấn, bảo lãnh...Nghiệp vụ này không những mang lại thu nhập cho Ngân hàng mà còn tạo điều kiện mở mang các hoạt động trên. 1.2. Hoạt động cho vay của NHTM. Đây là hoạt động truyền thống mang tính đặc trưng cơ bản của NHTM. Nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng tiến hành cho vay và thu khoản lãi nhất định trên số tiền cho vay theo nguyên tắc vay vốn phải được khoản trả và thu tiền lãi phải đủ trang trải cho các khoản chi và phải có lợi nhuận. NHTM có thể cho vay theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo tiêu thức phân loại: Theo mục đích cho vay: -Cho vay công nghiệp. -Cho vay nông nghiệp. -Cho vay xây dựng cơ bản. -Cho vay xuất nhập khẩu. Theo lãi xuất: -Cho vay theo lãi xuất cố định. -Cho vay theo lãi xuất thả nổi. Theo thành phần kinh tế: -Cho vay quốc doanh. -Cho vay ngoài quốc doanh. Theo tài sản đảm bảo: -Cho vay có tài sản đảm bảo. -Cho vay không có tài sản đảm bảo. Theo thời hạn cho vay: -Cho vay dài hạn. -Cho vay trung, ngắn hạn. Dù cho vay theo bất kỳ hình thức nào thì nghiệp vụ cho vay cũng trải qua ba giai đoạn sau: -Xem xét trước khi cho vay. -Thực hiện cho vay. -Thu gốc và lãi. Ba giai đoạn này là một quá trình gắn bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều có tầm quan trọng nhất định, ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản vay. Tuy nhiên, giai đoạn xem xét trước khi cho vay mang ý nghĩa chiến lược, nó ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản vay và các giai đoạn sau. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại sự bất cân xứng về thông tin giữa Ngân hàng Thương Mại và khách hàng dẫn đến Ngân hàng có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm. Vì vậy Ngân hàng Thương Mại luôn luôn cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng và bằng nhiều phương pháp nghiệp vụ đặc thù, phải xác định đúng khách hàng tốt, khoản cho vay đảm bảo yêu cầu trước khi quyết định cho vay. Đó chính là hoạt động thẩm định các khoản cho vay, một hoạt động mang tính dịch vụ của Ngân hàng Thương Mại nhằm xác định các khoản cho vay an toàn, chất lượng cao. Một hình thức phổ biến cho vay của Ngân hàng Thương Mại là cho vay theo dự án đầu tư ). Đây chính là hình thức cho vay trung và dài hạn với đặc điểm là số vốn cho vay lớn, thời hạn cho vay dài do đó chịu nhiều biến động và rủi ro cao. Tuy nhiên, nếu là một dự án đầu tư tốt thì sẽ đem lại cho Ngân hàng một khoản thu nhập xứng đáng và bảo đảm an toàn vốn. Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng Thương Mại phải làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư từ trước khi đi đến một quyết định tài trợ. 2.. Sự cần thiết thẩm định tài chính Dự áN đầU Tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương Mại. Đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn vào một hoạt động nhất định nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn hay là việc sử dụng tiền vào mục đích sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng. Đầu tư sẽ duy trì được tiềm lực sẵn có đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra bình thường vào tạo một tiềm lực lớn hơn trong tương lai. Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả, nhng ở những mức độ khác nhau, người ta nhìn nhận vấn đề hiệu quả không giống nhau. Doanh nghiệp(DN) quan tâm đến hiệu quả tài chính, tối đa hoá lợi nhuận, nhà nước lại quan tâm đến lợi ích xã hội, đầu tư sẽ mang lại hiệu quả và đóng góp cho sự phát triển xã hội của đất nước. Mặt khác hợp đồng đầu tư là hợp đồng phức tạp, nó liên quan và đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cấp: Chính phủ-Bộ-Ngành-Ngân hàng-Chủ đầu tư... Do đó, để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn của các bên liên quan thì trước khi bỏ vốn chúng ta cần làm tốt thận trong và nghiêm túc trong công tác chuẩn bị đầu tư. Hợp đồng đầu tư được thể hiện qua việc thực hiện các dự án đầu tư. 2.1. Dự án đầu tư . Khái niệm: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục tiêu phương pháp và phương tiện cụ thể để dạt tới trạng thái mong muốn. Các yếu tố cấu thành nên Dự án đầu tư. - Các mục tiêu của dự án: đó là những kết quả và lợi ích mà dự án đem lại cho các nhà đầu tư và cho xã hội - Các hợp đồng (giải pháp về tổ chức, kinh tế xã hội..) để thực hiện mục tiêu dự án. - Đầu vào của dự án đầu tư: Đó là những kết quả cụ thể, mang tính chuẩn mực được tao ra từ những hoạt động khác của dự án. - Thời hạn: Là khoảng thời gian từ khi bắt đầu nghiên cứu cơ hội đầu tư đến khi chấm dứt hợp đồng. Thông thường, thời hạn hợp đồng của dự án được xác địnhtrong luận chứng kinh tế kĩ thuật. - Địa điểm thực hiện dự án đầu tư. - Các nguồn đầu tư để hình thành nên vốn đầu tư của dự án - Các chủ thể; bao gồm các bên liên quan phối hợp với nhau để thực hiện và thụ hưỏng những lợi ích mà dự án đầu tư mang lại. Các giai đoạn hình thành và phát triển của dự án đầu tư Một dự án đầu tư từ khi hình thành đến khi kết thúc thường trải qua ba giai đoạn sau: - Giai đoạn1: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Nghiên cứu, đánh giá cơ hội đầu tư: sản phẩm của bước này là báo cáo cơ hội đầu tư. Nghiên cứu tiền khả thi: sản phẩm của bước này là báo cáo tiền khả thi. Nghiên cứu khả thi: sản phẩm của bước này là luận chứng kinh tế, kỹ thuật. -Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện đầu tư: Đây là giai đoạn cụ thể hoá về nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai thực hiện dự án đầu tư. Trong các dự án đầu tư người ta thường thực hiện một loạt các ký kế hợp đồng như hợp đồng liên doanh, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, thuê nhà xởng, nhận thầu thiết kế về thi công công trình, mua bán máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ, thuê công nhân lao động,...để xây dựng và đa công trình vào hoạt động. -Giai đoạn 3: Giai đoạn vận hành khai thác: Là giai đoạn chính thức đa công trình vào hoạt động và tạo ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn 1 có ý nghĩa và vai trò quan trọng, nó mang ý nghĩa quyết định và là cơ sở cho việc triển khai dự án ở các giai đoạn sau. trong giai đoạn này thẩm định hiệu quả tổ chức, nói cách khác là thẩm định dự án đầu tư, đóng vai trò then chốt để có một quyết định đầu tư đúng đắn. 2.2. Sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. 2.2.1. Thẩm định dự án đầu tư. KN: Thẩm định dự án đầu tư là một tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện cho phép ra quyết định đầu tư. Thẩm định về sự cần thiết phải đầu tư: Với quan điểm mỗi dự án đầu tư là một mắt xích quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế dài hạn, trung hạn của ngành, vùng lãnh thổ nhằm đạt được các mục tiêu của chương trình phát triển kinh tế đó, việc thẩm định sự cần thiết phải đầu tư nhằm trả lời các câu hỏi: Dự án có ưu thế nào trong quy hoạch phát triển chung. Dự án nếu đầu tư sẽ làm gia tăng thu nhập cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế là bao nhiêu? sử dụng các nguồn tài nguyên và cơ sở vật chất sẵn có, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu, giảm chi ngoại tệ ra sao, công nghệ trong dự án nguồn tài nguyên...Nội dung của thẩm định này không phức tạp nhng có ý nghĩa định hướng cho nội dung tiếp theo của thẩm định dự án. Thẩm định dự án là phương diện thị trường: Đây là khía cạnh quan trọng quyết định đến sự thành bại của dự án đầu tư. Nhìn nhận dưới góc độ của của Ngân hàng thương mại thì sản phẩm của dự án chính là đối tượng tín dụng Ngân hàng sẽ tài trợ. Xét dưới góc độ gián tiếp thì rủi ro của Ngân hàng sẽ gắn liền với sản phẩm của dự án. Vì vậy việc phân tích đánh giá vị thế sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp vô cùng quan trọng. Việc thẩm định dự án về phương diện thị trường được tiến hành trên các mặt giá cả, quy cách sản phẩm, mẫu mã, nhu cầu thị trường, chất lượng sản phẩm cạnh tranh, phạm vi hoạt động của sản phẩm, từ đó xây dựng khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Thẩm định về mặt kỹ thuật công nghệ: Phân tích kỹ thuật là tiền đề cho việc phân tích kinh tế tài chính của dự án đầu tư. Việc thẩm định về mặt kỹ thuật phải xem xét việc lựa chọn công nghệ, thiết bị, giải pháp kỹ thuật có phù hợp không, tiết kiệm được chi phí sản xuất, địa điểm có phù hợp không, các giải pháp xử lý tác động đến môi trường. Thẩm định dự án về khía cạnh tổ chức quản lý: Trong nhiều trường hợp mức độ thành bại của dự án không phải do yếu tố về thị trường hay kỹ thuật mà do chính năng lực tổ chức, quản lý và thực hiện của các cơ quan có liên quan cũng như quan hệ kết hợp giữa họ, đó là chủ dự án, các tổ chức thiết kế thi công, cung ứng nguyên vật liệu, thiết bị và đội ngũ thi công chịu trách nhiệm vận hành dự án. Thẩm định dự án về phương diện tài chính: Phải xem xét tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính, xem xét các kế hoạch của DÙ áN đầU Tư có đem lại hiệu quả tài chính hay không. Thẩm định các điều kiện pháp lý để quyết định xét duyệt dự án bao gồm: Hồ sơ trình duyệt có đủ và có hợp lệ theo quy định hay không? tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư? Thẩm định mục tiêu của dự án: Nhằm xem xét các mục tiêu của dự án có phù hợp với chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của vùng, ngành, địa phương. Ngành nghề trong dự án có thuộc ngành nghề nhà nước cho phép hay không, có được ưu tiên hay không? Thẩm định về kinh tế xã hội: Thực tế là việc đánh giá, xem xét những cái được và mất khi thực hiện dự án đầu tư đối với nền kinh tế xã hội. Dự án có sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sẵn có hay không? đã mang lại lợi ích gì cho đất nước, dự án có mang lại công ăn việc làm cho người lao động làm nâng cao đời sống xã hội, thu nhập, tạo nếp sống phong tục tập quán. Mục tiêu của dự án có phù hợp với mục tiêu của xã hội hay không? Thẩm định dự án về môi trường theo hai chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. 2.2.2.Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án đầu tư. Mỗi dự án đầu tư chứa đựng nhiều nội dung kinh tế kỹ thuật rất phù hợp. Các nội dung này có mối quan hệ ràng buộc, ảnh hưỏng lẫn nhau hình thành nên dự án đầu tư. Do vậy bất cứ một khó khăn tại một mặt nào đều ảnh hưỏng đến mặt khác và ảnh hưỏng tới kết quả của dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư phải xem xét tất cả các khía cạnh để đề ra câu trả lời cho mỗi khía cạnh đó. Tuy nhiên các dự án đầu tư đa đến Ngân hàng thương mại xin vay vốn thường rất đa dạng, với nhiều lĩnh vực và quy mô khác nhau. Trong điều kiện và khả năng có hạn, đặc biệt là đối với những Ngân hàng thương mại không chuyên sâu về nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển thì Ngân hàng khó có thể thẩm định chi tiết tất cả các khía cạnh. Ngân hàng chủ yếu tập trung vào mặt tài chính-Đây là mặt Ngân hàng có thế mạnh cả về quyền hạn cũng như trách nhiệm. Dự án đầu tư thường do các chủ dự án lập hoặc thuê các cơ quan tư vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và ý muốn chủ quan của chủ dự án. Trên quan điểm của chủ dự án thì dự án của họ bao giờ cũng có tính khả thi và họ mong muốn được Ngân hàng cho vay. Do vậy, dự án mang tính chủ quan của chủ đầu tư và thường không xem xét đánh giá được hết tất cả các khía cạnh có liên quan. Thông tin, số liệu trong luận chứng kinh tế, kĩ thuật hay các báo cáo tài chính liên quan có thể không phản ánh đúng thực trạng. Doanh nghiệp có thể quá lạc quan về tình hình tiêu thụ trong những năm tới hay tính toán không đầy đủ các yếu tố làm tăng tính hiệu quả của dự án...Vì vậy, để thẩm định tài chính dự án đầu tư được đa đến NHTM khi vay vốn là cần thiết. Là một đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động Ngân hàng có những đặc thù mà các ngành khác không có được, đặc biệt là mức độ rủi ro cao. Nâng cao hiệu quả dụng vốn và hạn chế rủi ro là mục đích của bất cứ Ngân hàng nào.Lĩnh vực kinh doanh càng hứa hẹn sinh lời cao thì càng chịu nhiều rủi ro. Vấn đề là phải đánh giá tác động rủi ro để có các biện pháp trách hoặc tính toán mức rủi ro có thể chấp nhận tương ứng với hiệu quả mà dự án mang lại. Tuy nhiên an toàn vốn không có nghĩa là không đảm bảo đầu tư vào các dự án dài hạn mà trước hết phải tìm các giải pháp tích cực để giải quyết thẩm định tài chính dự án đầu tư được coi là biện pháp hữu hiệu để phát huy tích cực. Đối với Ngân hàng thương mại, việc tài trợ cho dự án đầu tư là một hoạt động nghiệp vụ là hình thức cho vay trung và dài hạn hay theo các dự án đầu tư. Đây là một phương pháp kinh doanh thu lợi nhuận và là cơ sở để các Ngân hàng thong mại cung cấp các sản phẩm dịch vụ. Cho vay theo dự án đầu tư Tư hiện nay là một hoạt động rất phổ biến của các Ngân hàng thương mại. Do vậy trước khi đi đến một quyết định cho vay theo dự án đầu tư, Ngân hàng thương mại phải tiến hành xem xét, đánh giá thẩm định như đối với các khoản vay khác. như trên chúng ta đã nêu thẩm định một khoản cho vay theo dự án đầu tư bao gồm nhiều nội dung khác nhau, trong đó thẩm định tài chính là một khía cạnh rất quan trọng. Việc thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ giúp Ngân hàng thương mại ra được những quyết định đúng đắn trong việc tài trợ như số lượng cho vay, thời hạn, lãi suất áp dụng, quản lý và thu hồi vốn hỗ trợ dự án... Qua thẩm định tài chính dự án đầu tư, Ngân hàng thương mại phải lựa chọn và tìm ra được những dự án đầu tư có hiệu quả tài chính để cho vay. Bởi vì chỉ có như thế mới đảm bảo cho các hoạt động của Ngân hàng diễn ra một cách bình thường trong nền kinh tế. Cũng như cụ thể là việc thu hồi cả gốc và lãi theo đúng tiến độ nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế mức độ rủi ro ở mức thấp nhất. Qua đó Ngân hàng thương mại mới đảm bảo có lợi nhuận và an toàn trong hoạt động cho vay để không ngừng tăng trưởng và phát triển. Đây chính là lý do và sự cân bằng cần thiết Ngân hàng thương mại thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay. 3. Trình tự và nội dung thẩm định dự án đàu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Thẩm định dự án là xem xét, kiểm tra tính khả thi về tất cả các mặt của dự án đầu tư, xét trên quan điểm cho vay- thu hồi vốn là trách nhiêm chính của Ngân hàng thương mại thì ngiệp vụ thẩm định tài chính là một ngiệp vụ quan trọng hàng đầu của Ngân hàng. Đối với Ngân hàng thương mại, việc thẩm định hiệu quả dự án đầu tư là xem xét dự án có đủ khả năng trả nợ Ngân hàng từ kết quả tài chính tạo ra hay không. Thẩm định tài chính xuất hiện trong quá trình hoạt động của dự án có tính đến giá trị thời gian của tiền thu nhập ròng của các luồng tài chính này sẽ được so sánh với luồng chi phí đầu tư bỏ ra ban dầu và xem xét sự bù đắp đó có thoả đáng hay không. Bên cạnh đó, thẩm định tài chính dự án đầu tư còn tiến hành phân tích tài chính dự án qua các năm hoạt động để ngành đánh giá tinh hình tài chính, chất lượng hoạt động, các rủi ro để có biện pháp khắc phục kịp thời, hữu hiệu. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư : Thẩm định tài chính dự án đầu tư Tổng vốn đầu tư Các nguồn tài trợ Bảng tài chính, phân tích tài chính Đánh giá tài chính Cân đối khả năng trả nợ Đánh giá tài chính Khả năng sinh lợi Khả năng hoàn vốn Mức độ rủi ro - Giá trị hiện tại thuần - Chỉ số doanh lợi - Tỉ lệ hoàn vốn nội bộ - Tỉ lệ vốn tự có/VĐT - Thời gian hoàn vốn - Thời gian hoàn trả vốn vay - Khả năng trả nợ - Tỉ lệ lợi ích / CF - Tỉ lệ lợi nhuận / VĐT - Điểm hoà vốn - Đánh giá độ nhạy Một là: Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư (VĐT) cho dự án. Khi một dự án đầu tư đưa đến Ngân hàng xin vay thì dự án đó được thông qua nhiều cấp đánh giá, phê duyệt, tổng VĐT đươc xác định. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại vẫn xem xét lại trên cơ sở thẩm định của Ngân hàng. Điều này là rất quan trọng vì khi xác định được một lượng vốn đầu tư vừa đủ cho dự án sẽ tạo điều kiện được thực hiện một cách thuận lợi thông suốt, từ đó nâng cao tính hiệu quả của dự án. Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho việc thi công cũng như các hoạt động của dự an sau này. Ngược lại, thừa vốn sẽ gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả tài chính của dự án gây thiệt hại cho nền kinh tế. Tổng vốn đầu tư cần thiết cho một doanh nghiệp bao gồm: Vốn đầu tư cố định: Chi phí ban đầu: mặt đất, mặt nước. Giá trị nhà xưởng và vật kiến trúc. Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng… Chi phí về máy móc thiết bị, phương tiện vận tải… Chi phí trước vận hành. Vốn lưu động ban đầu: Là các chi phí để tạo ra tài sản cố định ban đầu, các điều kiện để dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế kỹ thuật dự tính gồm: Dự trữ sản xuất. Dự trữ cho bán thành phẩm, thành phẩm tồn kho. Các khoản thuộc quỹ tiền mặt. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của từng dự án mà có thể có hoặc không có, có ít hay có nhiều về vốn lưu động ban đầu. Hai là: Xem xét các nguồn tài trợ cho dự án khả năng đảm bảo từ mỗi nguồn, từ đó xác định số vốn mà Ngân hàng phải tài trợ. Các nguồn tài trợ cho dự án có thể do ngân sách nhà nước cấp phát, NH cho vay, vốn liên doanh, vốn nước ngoài … vì vậy, khi thẩm định cơ cấu nguồn vốn đầu tư, Ngân hàng cần làm rõ vốn đầu tư cần thiêt từ từng nguồn để đi sâu tìm hiểu khả năng hiện thực của các nguồn đó. Đối với các dự án được ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn một phần hay cấp phát thì cần xem xét các cam kết đảm bảo các cấp có thẩm quyền đối với ngân sách. Đối với các nguồn vốn vay từ các Ngân hàng khác cần xem xét độ tin cậy về khả năng cho vay của các Ngân hàng đã cam kết cho vay. Nếu là vốn tự có thì Ngân hàng cần kiểm tra, phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 3 năm trước đây và hiện tại chứng tỏ rằng cơ sở đã, đang và sẽ tiếp tục hoạt động có hiệu quả, có tích luỹ để đảm bảo cho cung cầu vốn để thực hiện dự án. ở những dự án có vốn vay nước ngoài, Ngân hàng tập trung xem xét các điều kiện cho vay: lãi xuất cố định thả nổi, các loại chi phí vay vốn, thời gian cho vay và ân hạn, phương thức và kĩ thuật chuyển vốn, hoàn trả vốn và lãi vay. Về vốn đầu tư phải được thưc hiện đúng tiến độ ghi trong dự án để đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án vừa để tránh ứ đọng vốn, do đó, các nguồn tài trợ không chỉ được xem xét về mặt số lượng mà cả về thời đIểm được nhận tài trợ. Sau khi kiểm tra tính hiện thực của các nguồn vốn, xác định lịch trình rút vốn từ các nguồn khác, Ngân hàng thương mại sẽ xác định được số vốn mà Ngân hàng cần phải tài trợ và kế họch bỏ vốn của mình. Ba là: Xem xét dự án các bảng tài chính và phân tích tài chính. ở nội dung này, Ngân hàng thương mại sẽ thẩm định tính chính xác, hợp lí, hợp lệ của các bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dụa trên nội dung của luận chứng kinh tế kĩ thuật, các chỉ tiêu định mức kinh tế kĩ thuật của ngành do Ngân hàng ban hành hoặc do các cơ quan chức năng chuyên môn công bố và dựa trên kết quả thẩm định các mặt thị trường, tổ chức, kinh tế xã hội của Ngân hàng. Các bảng tài chính được thẩm định thông thường bao gồm: Bảng dự trù chi phí sản xuất. Bảng dự trù lỗ lãi. Bảng dự trù tổng kết tài sản. Bảng dự trù cân đối thu chi. Trên cơ sở thẩm định được tính chính xác hợp lý của bảng này, Ngân hàng thương mại tiến hành phân tích tài chính dự án để xác định tình hình tài chính hiệu quả hoạt động của dự án qua các năm và thường sử dụng các phương pháp sau: Bảng dự trù tổng kết tài sản: Năm thực hiện Các chỉ tiêu I II III A- Tài sản. 1.-Tài sản cố định - Nguyên giá - Khấu hao - Giá trị còn lại 2.- Tài sản lưu động - Vốn bằng tiền - Dự trữ (tồn kho) - Tài sản lưu động khác - Các khoản phải thu Cộng tài sản B- Nguồn vốn 1.- Vốn cho vay - Vốn vay ngắn hạn - Vốn vay trung hạn - Vốn vay dài hạn 2.- Vốn tự có - Vốn đã có - Quỹ phát triển - Các quỹ khác Cộng nguồn vốn Bảng dự trù cân đối thu - chi: Các chỉ tiêu Vòng đời của dự án Năm thứ 1 Năm thứ 2 Năm thứ 3 A- Các nguồn tiêu thụ 1.- Tổng doanh thu 2.- Vốn góp 3.- Vốn vay - Ngắn hạn - Trung hạn - Dài hạn 4.- Thu do giải toả hàng tồn kho 5.- Nhượng bán tài sản cố định 6.- Thu nợ 7.-Thu khác B- Các nguồn tiền chi 1.- Chi sản xuất trực tiếp 2.- Chi điều hành sản xuất 3.- Trả lãi vay 4.- Hoàn trả nợ gốc 5.- Chi phí chuẩn bị đầu tư 6.- Chi phi mua sắm tài sản cố định 7.- Vốn lưu động 8.- Chi phí khác Chênh lệch thu chi Phân tích các tỉ lệ tài chính: Tỉ lệ về khả năng thanh toán: + Khả năng thanh toán hiện hành. + Khả năng thanh toán nhanh. Tỉ lệ về cân đối vốn: + Vốn riêng /tổng vốn đầu tư. + Vốn riêng /tổng nợ. + Tổng nợ /tổng vốn đầu tư. Tỉ lệ về khả năng hoạt động: + Vòng quay tiền. + Vòng quay dự trữ. + Chu kì tiền bình quân. + Hiệu suất sử dụng tài sản cố định. + Hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Tỉ lệ khả năng sinh lời: + Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. + Doanh lợi vốn tự có. + Doanh lợi vốn. Các chỉ tiêu trên sẽ được tính toán dựa trên bảng dự trù tổng kết tài sản và bảng dự trù lỗ lãi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án đầu tư. Trong quá trình phân tích, các chỉ tiêu này được so sánh qua các năm để thấy được xu hướng thay đổi các tỉ lệ tài chính, đánh giá tình hình tài chính qua các năm được cải thiện hay trở nên yếu kém để có biện pháp khắc phục dự án kịp thời. Các chỉ tiêu này được so sánh với các dự án cùng loại để xác định vị thế của dự án mà Ngân hàng đang xem xét tài trợ. Phân tích các luồng tiền mặt: Phân tích tài chính dự án đầu tư quan tâm tớilượng tiền mặt đi vào và đi ra của dự án hay còn gọi là luồng tiền của dự án. Đảm bảo cân đối các dòng tiền là mục tiêu quan trọng của phân tích dự án. Trên cơ sở bảng dự trù cân đối thu chi, người thẩm định biết được khi nào tiền mặt của dự án tăng, giảm, nguyên nhân biến đổi của dòng tiền. Điều này là rất có ý nghĩa vì các dòng tiền mặt đảm bảo cho dự án đầu tư vận hành một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Nếu dòng tiền mặt bị ngưng trệ thì hoạt động của dự án rất khó khăn, đôi khi còn rơi vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian như giá trị gia tăng, kết quả kinh doanh trước thuế, sau thuế. Trong quá trình phân tích tài chính, Ngân hàng có thể áp dụng phương pháp này, phương pháp khác có thể tính hết các chỉ tiêu hoặc thêm một số chỉ tiêu khác nữa phụ thuộc vào điều kiện của từng dự án cụ thể. Bốn là: Đánh giá tài chính dự án đầu tư. Xuất phát từ ba đặc điểm của hoạt động dự án đầu tư là đánh đổi lợi ích hiện tại lấy lợi ích tương lai, lâu dài và bấp bênh hoạt động nên hệ thống chỉ tiêu đánh giá dự án đầu tư cũng phải phản ánh đông thời các mặt trên của dự án. Các chỉ tiêu thường được sử dụng khi phân tích đánh giá tài chính dự án đầu tư bao gồm: Khả năng sinh lời của vốn đầu tư vào dự án. Khả năng hoàn vốn. Mức độ rủi ro. ơ Khả năng sinh lời của vốn đầu tư: Mức sinh lời của dự án được xác định trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với lợi ích đã bỏ ra.Một số cách so sánh chi phí với lợi ích tương ứng nhận được các chỉ tiêu so sánh như sau: n Giá trị hiện tại ròng: Giá trị hiện tại ròng (npv) hay còn gọi là giá trị hiện tại thuần nhất của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền kì vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.Mục đích của việc tính chỉ tiêu NPV là để xem xem chi phí cơ hội của vốn đầu tư, xem xét việc sử dụng nguồn lực cho dự án đầu tư có mang lai lợi ích lớn hơn nguồn lực đã sử dụng không. t =1 NPV = - Co + ồ Trong đó : Co: vốn đầu tư ban đầu của dự án tính tại thời điểm đầu Ct: luồng tiền cho dự án mang lại ở năm thứ t n : thời kì phân tích dự án r : tỉ lệ chiết khấu áp dụng cho dự án Sử dụng: chỉ sử dụng các dự án có NPV > 0 Nếu có nhiều dự án loại trừ nhau thì ta chọn dự án có NPV max Ưu điểm: NPV là một chỉ tiêu rất quan trọng. Nó cho ta biết quy hiểu giá tiền tiền lời của một dự án là lớn hay nhỏ sau khi đã hoàn trả đủ vốn đầu tư. Nói cách khác, NPV phản ánh hiệu quả của việc đầu tư về phương diện tài chính. Nhược điểm: chỉ tiêu này phụ thuộc vào lãi xuất chiết khấu.Do đó cần phải lựa chọn lãi xuất chiết khấu sao cho phù hợp với từng dự án, trên cơ sở tinh toán chi phí sử dụng vốn của từng dự án.Chỉ tiệu NPV không cho biết tỉ lệ sinh lời mà bản thân dự án có thể tạo ra được.Chỉ tiêu này không được áp dụng cho các dự án có thời gian khác nhau và có vốn đầu tư khác nhau.Do đó, muốn so sánh ta phải tính chuyển đổi NPV. Chỉ số doanh lợi PI: Chỉ số này được tính dựa vào mối quan hệ tỷ số giữa thu._. nhập ròng hiện tại so với vốn đầu tư ban đầu. n Công thức: ồ PI = t = 1 C0 Về nguyên tắc, dự án nhả thi phải là dự án có PI >1, tức là giá trị hiện tại của các khoản tiền mặt trong thời kỳ phân tích tại thời đIểm bắt đầu vận hành dự án phải lớn hơn số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra.Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ chấp nhận những dự án có PI đáp ứng được yêu cầu của NHTM đối với chủ đầu tư (chỉ số doanh lợi chấp nhận được) Chỉ tiêu PI phản ánh khả năng sinh lợi của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ được đầu tư nhưng vẫn phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu được áp dụng. Chỉ số doanh lợi PI hay còn gọi là chỉ số lợi ích chi phí. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR + Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án, nó là lãi xuất chiết khấu mà với giá trị này thì giá trị hiện tại tòng của dự án = 0. Cách tính: Đặt IRR = r và NPV = 0 : n t = 1 NPV = - Co + ồ = 0 Dùng phương pháp nội suy, ta có: IRR = r1 + (r2 - r1) Trong đó: r1, r2: tỷ lệ chiết khấu lựa chọn. NPV1: giá trị dương gần 0 với tỷ lệ chiết khấu r1. NPV2: giá trị âm gần 0 với tỷ lệ chiết khấu r2. Sử dụng: Nếu các dự án đầu tư đã độc lập với nhau thì dự án có. IRR >=r sẽ được lựa chọn. Nếu các dự án có loại trừ nhau thì ta chọn dự án có IRR cao nhất. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ biểu thị sự hoàn trả vốn đầu tư và nó chỉ ra tỷ lệ lãi suất tối đa dự án đầu tư có thể chịu được. Nó cung cấp một thông tin hữu hiệu cho nhà tài trợ khi định giá các khoản vay. Sử dụng chỉ tiêu IRR có ưu điểm là nó được tính toán dựa vào số liệu của dự án mà không cần số liệu về tỷ lệ chiết khấu.Tuy nhiên, tiêu chuẩn này có một số nhược điểm sau: Không xác định được tỷ lệ hoàn vốn nội bộ trong trường hợp đồng tiền bị biến dạng nhiều lần vì có rất nhiều lời giải khi tính IRR. Sử dụng chỉ tiêu IRR để lựa chọn dự án sẽ dẫn tới sai lầm khi các dự án là các giải pháp thay thế có những đIêu kiện khác nhau như quy mô, thời gian tồn taị, thời điểm đầu tư. NPV 0 r (%) Hình 1: Có 3 tỷ xuât nội hoàn. Không cho phép xác định được những thông tin về mức độ sinh lợi của một đồng vốn bỏ ra ban đầu, thời gian hoàn vốn. ư. Khả năng hoàn vốn: khả năng hoàn vốn của một dự án đầu tư được biểu thị bằng thời gian thu hồi vốn đầu tư ban đầu và thời gian hoàn trả vốn vay. Thời gian hoàn trả vốn ban đầu: thời gian hoàn trả vốn ban đàu là khoảng thời gian từ khi bắt đầu thực hiện đầu tư đến năm T, được xác định như sau: n t = 1 C0 = ồ Thời gian hoàn trả vốn vay: được xác định tương tự như đối với xác định thời gian hoàn trả vốn đầu tư đầu tư ban đầu nhưng được xác định tương ứng với lượng vốn đầu đi vay. Khả năng trả nợ: được đánh bằng chỉ tiêu tỷ lệ đảm bảo trả nợ đến hạn hay còn gọi là Rtrả nợ được xác định theo công thức: Rtrả nợ = Nguồn tiền trả nợ hàng năm Số nợ phải trả hàng năm Nguồn tiền trả nợ được xác định bằng tổng mức khấu hao hàng năm và lợi nhuận dùng để trả nợ. Bởi vì trong nhiều trường hợp xét tổng nguồn trả nợ trong cả thời gian trả nợ hoàn toàn đảm bảo nhưng xét từng năm thì có thể có năm thiếu tiền trả nợ. Đánh giá khả năng trả nợ không những cho phép cho thấy mức độ tin cậy của dự án về mặt tài chính mà còn là điều kiện để các Ngân hàng, các tổ chức tài chính xem xét tài trợ cho dự án. Đây chính là chỉ tiêu rất quan trọng và được các nhà tài trợ tài chính đặc biệt quan tâm. đ. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro của dự án đầu tư: Để đánh giá mức độ rủi ro của các dự án người ta thường dùng một số chỉ tiêu trong đó phổ biến và đơn giản nhất là hai chỉ tiêu: điểm hoà vốn và độ nhạy. Điểm hoà vốn: xét về mặt lý thuyết thì điểm hoà vốn là điểm mà tại đó có Tổng doanh thu = tổng chi phí. Người ta có thể tính điểm hoà vốn cho cả dự án và cho từng năm cụ thể. Điểm hoà vốn lý thuyết tính cho cả dự án là điểm mà tại đó Tổng doanh thu = tổng CF khả biến từ đầu dự án tới thời điểm đó và tổng định phí của cả dự án. Thông thường, điểm hoà vốn được biểu thị = tổng số sản phẩm sản xuất ra và được xác định theo công thức: X = f/(P-V) Trong đó: X: số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn f : tổng định phí giá cả P: giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm V: biến phí một đơn vị sản phẩm Điểm hoà vốn lý thuyết tính theo từng năm là điểm mà tại đó doamh thu ngang bằng với chi phí sản xuất trong năm. Một số chỉ tiêu biểu thị điểm hoà vốn trong năm: + Điểm hoà vốn lý thuyết = định phí/(doanh thu-B.phí) + Doanh thu hoà vốn = điểm hoà vốn lý thuyết *tổng doanh thu năm + Số lượng hoà vốn = điểm hoà vốn lý thuyết *tổng số lượng + Công xuất hoà vốn = số lượng hòa vốn/công xuất hoặch định Điểm hoà vốn thực hiện: là điểm hoà vốn cho phép dự trù khả năng của dự án để có triển vọng trả nợ trung- dài hạn Ngân hàng. Điểm hoà vốn thực hiện = định phí khấu hao cơ bản /(doanh thu – biến phí) Đánh giá độ nhạy của dự án đẩu tư: nhằm mục đích tính giới hạn an toàn của dự án khi có sự thay đổi các yếu tố đẩu tư và hoạt động xét theo hiệu quả của nó. Từ ý nghĩa độ nhạy cảm của dự án được đặc trưng bằng tỷ lệ mức độ các chỉ tiêu dánh giá dự án(khả năng sinh lợi, hoàn vốn)so với mức độ thay đổi các yếu tố thay đổi của dự án. Tổng quát độ nhạy của dự án được xác định như sau: E = PF1-PX1 Trong đó: E: độ nhạy PF: mức độ biến đổi các chỉ tiêu đánh giá dự án PX: mức độ biến đổi các nhân tố ảnh hưởng Thông thường, người ta kiểm tra độ nhạy của dự án theo từng nhân tố có ảnh hưởng riêng biệt và đôi khi cũng tiến hành kiểm tra với sự biến đổi đồng thời của một vài yếu tố. Đối với Ngân hàng thương mại, việc đánh giá độ nhạy là xác định lại các chỉ tiêu đánh giá dự án đầu tư, điều đó đòi hỏi khá nhiều công sức. Vì vậy, Ngân hàng thương mại thường kiểm tra một vài yếu tố cơ bản nhất trong các tình huống thích hợp, như là: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong trường hợp xác định thị trường chắc chắn Chi phí xác định trong trường hợp khối lượng công tác xác định và giá đầu tư chưa cụ thể. Chi phí sản xuất trong trường hợp giá cả và điều kiện cung cấp các yếu tố đầu vào thường biến động. Năm là: Xác định bảng cân đối khả năng trả nợ. ở nội dung này, Ngân hàng thương mại sẽ xác định tất cả số nợ gốc mà dự án phải trả hàng năm so với nguồn trả nợ từ khấu hao, phần lợi nhuận dùng để trả nợ và các nguồn khác. Nếu dự án không đủ khả năng trả nợ thì phải tìm giải pháp bù đắp. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng. 4.1 Chất lượng thẩm định dự án đầu tư: Ngân hàng thương mại trong chính sách tín dụng của mình luôn đặt mục tiêu an toàn, lợi nhuận lên hàng đầu. Thẩm định dự án đầu tư là một hoạt động nghiệp cù phức tạp, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động cho vay của Ngân hàng. Vì vậy, đối với Ngân hàng thương mại, mối quan tâm hàng đầu chính là chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư nhằm giúp Ngân hàng đưa ra mồt quyết định tài trợ có chất lượng cao. Đứng trên giác độ của các nhà quản lý Ngân hàng, hoạt động thẩm định được coi là có chất lượng khi hỗ trợ đắc lực cho việc đưa ra một kế hoặch cho vay, thu nợ với lãi suất phù hợp với tình hình hoạt động của dự án cũng như các hoạt động của Ngân hàng. Điều này có nghĩa là chất lượng thẩm định dự án đầu tư tốt sẽ giúp Ngân hàng nhanh chóng tìm ra lời giải tối ưu cho bài toán: cho dự án nào vay, cho vay bao nhiêu, thời gian, lãi suất… Để có chất lượng thẩm định tài chính cao, đòi hỏi Ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ trình tự và nội dung thẩm định, đồng thời quá trình thẩm định phải hội tụ đầy đủ các nhân tố tích cực tác động đến nó.Như vậy, yếu tố nào đã làm ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư. 4.2 Các nhân tố ảnh hưởng Phương pháp thẩm định và chỉ tiêu thẩm định: Thu thập các tài liệu cần thiết cho việc phân tích đánh giá dự án, tiến hành sắp xếp thông tin và sử dụng các biện pháp sử lý một cách có hệ thống theo các nội dung thẩm định.Trong điều kiện hiện nay, nếu Ngân hàng sử dụng các phương pháp thẩm định cũ với các chỉ tiêu cũ thì kết quả thẩm định tài chính sẽ không chính xác, chất lượng thấp. Những phương pháp thẩm định tài chính hiện đại sữ giúp cho việc phân tích đánh giá dự án đầu tư ddược toàn diện, chính xác và có hiệu quả cao. Thẩm định tài chính bao gồm ập hợp các hoạt động xem xét, đánh giá dự đoán các luồng chi phí, lợi ích tài chính của dự án và xác định giá trị ròng của chúng trong đIều kiện giá trị của tiền thay đổi theo thời gian. Việc tính đến giá trị thời gian của tiền trong các phương pháp, chỉ tiêu thẩm định là rất quan trọng. Có nhiều dự án là khả thi nếu không tính tới giá trị thời gian của tiền nhưng lại không khả thi khi áp dụng phương pháp hiện tại các luồng tiền. Một trong những yếu tố quan trọng để xác định hiệu quả kinh tế tài chính là tỷ lệ chiết khấu được lựa chọn để tính toán. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ kích thích đầu tư vào các dự án kém hiệu quả nhưng nếu quá cao sẽ hạn chế đầu tư. Hiện nay có rất nhiều phương pháp thẩm định dự án đầu tư khác nhau nhưng việc lựa chọn phương pháp, chỉ tiêu thẩm định nào cho phù hợp với điều kiện của từng dự án cũng rất quan trọng. Các phương pháp thẩm định tài hiện đại không chỉ xem xét dự án trong trạng thái tĩnh mà còm phân tích trạng thái động của thị trường. Điều quan trọng là Ngân hàng thương mại phải biết áp dụng một cách đồng bộ các chỉ tiêu để vừa đảm bảo tính chính xác toàn diện, kết hợp được ưu điểm của các chỉ tiêu phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của các ngành vùng, mỗi dự án cũng như điều kiện cụ thể của Ngân hàng. Thông tin: Trong hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư, mục tiêu quan trọng đối với Ngân hàng là khả năng trả nợ và sự đảm bảo an toàn vốn vay. Như vậy, Ngân hàng rất cần những thông tin đầy đủ, chính xác, kìp thời có chất lượng cao về dự án cũng như khách hàng xin vay vốn, bảo lãnh, tài trợ. Chất lượng, tính chính xác, kịp thời và đẩy đủ của các thông tin này phụ thuộc một phần vào việc lập thẩm định tài chính dự án đầu tư của chủ đầu tư và thông tin của chủ thể có liên quan. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư . Bên cạnh đó, phương pháp thu thập xử lý, phân tích và sử dụng thông tin của Ngân hàng cũng rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến chất lượng thông tin và khả năng đảm bảo thông tin cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nếu thông tin không đầy đủ chính xác, kịp thời và không cập nhật thì không những trong vấn đề thẩm định dự án đầu tư gặp trở ngại, khó khăn, không thể thực hiện được mà còn trong cả quá trình thẩm định dự án đầu tư nói chung sẽ không thể thực hiện được. Việc phân tích, đánh giá các dự án mang tính phiến diện, không khách quan, không phản ánh đúng bản chất của dự án. Từ đó làm ảnh hưởng tới chất lượng công tác thẩm định dẫn đến các kết luận sai về tính khả thi của dự án làm ảnh hưởng tới lợi ích của nhà đầu tư và gây thiệt hại cho nền kinh tế. Vì vậy, làm thế nào để có được những thông tin đầy đủ, chính xác kịp, thời phục vụ cho công tác thẩm định tài chính là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết mà các Ngân hàng thương mại phải làm. Thiết lập được một hệ thống thông tin tốt sẽ trợ giúp cho Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Con người: Con người là nhân tố quyết định chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Con người với trình độ, kỹ năng tri thức, kinh nghiệm của mình là nhân tố trung tâm liên kết phối hợp các nhân tố, các vấn đề … trong công tác thẩm định dự án đầu tư nói chung và trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng. Việc thẩm định, phương pháp thẩm định, chỉ tiêu thẩm định, kỹ thuật phân tích hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ, sự lựa chọn và được thực hiện bởi người thẩm định. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, các Ngân hàng thương mại cũng không tránh khỏi quy luật đó của nền kinh tế; vì vậy, các Ngân hàng thương mại phải có giải pháp tối ưu nhấ trong hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư ngằm đảm bảo Ngân hàng hoạt động có hiệu quả cao nhất. Kết quả thẩm định tài chính dự án đầu tư là kết quả xem xét đánh giá chủ quan của con người theo cơ sở khoa học và các tiêu chuẩn thẩm định khác nhau. Nhân tố con người ở đây đòi hỏi phải hội tụ đủ các yêu cầu như: trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức. Tổ chức quản lý điều hành. Thẩm định tài chính dự án đầu tư là tập hợp của rất nhiều các hoạt động có mối quan hệ liên quan gắn bó hữu cơ với các hoạt động khác. Kết quả của công tác này phụ thuộc phần lớn vào công tác tổ chức quản lý và đIều hành, sự phối hợp nhịp nhàng của các bên. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đựơc tổ chức quản lý và đIều hành một cách khoa học, chặt chữ nhưng vẫn đảm bảo tính khách quan sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp, liên kết được các cá nhân trng nội bộ Ngân hàng và gây được ảnh hưởng, uy tín lớn của Ngân hàng đối với xã hội, rút ngắn thời gian thẩm định mà vẫn đảm bảo chất lượng công tác này. Các nhân tố khác: Có thể coi đây là các nhân tố tác động từ bên ngoài tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Đó là sự yếu kém, không đồng bộ, thiếu ổn định trong cơ chế, chính sách của nhà nước gây khó khăn cho các hoạy động của Ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng. Tuổi đời của dự án, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây không ít khó khăn cho công tác thẩm định này đối với các dự án cho vay dàI hạn, có nghĩa là tuổi đời là khá dài nên khi tiến hành thẩm định, Ngân hàng thương mại không thể dự đoán trước được tất cả các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thẩm định dự án. Chương II Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Giới thiệu chung về Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chính thức được thành lập ngày 1/4/1963 mà tổ chức tiền thân là cục quản lý hối đoái của Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Trong thời kì đó, nước ta áp dụng hệ thống Ngân hàng một cấp - Ngân hàng nhà nước vừa đóng vai trò quản lý vĩ mô theo chủ trương chính sách của chính phủ, vừa đảm nhận vai trò kinh doanh nên cục quản lý ngoại hối được coi như một bộ phậm phục vụ kinh tế đối ngoại duy nhất của Việt Nam. Ngay từ khi được thành lập, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã phải đối mặt với những thách thức lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong suốt cuộc kháng chiến, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã làm trọn nhiệm vụ chống Mỹ, làm tốt chức năng thanh toán quốc tế duy nhất ở Việt nam và tham gia trực tiếp vào công tác tổ chức chi viện tài chính cho chiến trường miền Nam. Sau khi hoà bình lập lại, trong thời kỳ kế hoặch hoá tập trung, Ngân hàng ngoại thương không chỉ thực hiện chức năng là Ngân hàng đối ngoại duy nhất của Việt nam mà còn thực hiện vai trò quản lý toàn bộ vốn ngoại tệ của quốcgia. Toàn bộ các hoạt động xuất nhập khẩu, mọi đồng vốn ngoại tệ đã được Ngân hàng ngoại thương thực hiện và sử dụng để phục vụ cho công cuộc kiến thiết và hàn gắn vết thương chiến tranh trong điều kiện khó khăn, bó buộc do hậu quả của chính sách cấm vận vũ trang. Sau khi hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời Ngân hàng ngoại thương Việt Nam được thống đốc Ngân hàng nhà nước ký quyết định số 286 QD – NH5 ngày 21/9/1998 thành lập theo mô hình tổng công ty ngà nước tại quyết đínhố 90/TTG ngày 7/3/1996 theo uỷ quyền của thủ tướng chính phủ. Bước vào nền kinh tế thị trường, Ngân hàng ngoại thương đã từng bước thay đổi, thích nghi dần với cơ chế mới và đã có những đóng góp tích cực cho cồng cuộc xây dựng và phát triển đất nước bằng việc huy động vốn trong xã hội để phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ theo định hướng của nhà nước. Trong thời gian qua, Ngân hàng ngoại thương đã phát triển được một mạng lưới các chi nhánh rộng khắp cả trong cả nước (20 chi nhánh ), đặc biệt là tại các đô thị lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, phục vụ kịp thời nhu cầu về dịch vụ Ngân hàng cho các doanh nghiệp, cho công chúng. Ngoài ra, Ngân hàng còn có quan hệ với hơn 1300 Ngân hàng thuộc 95 nước trên thế giới cùng với 3 văn phòng đại diện, một Ngân hàng liên doanh. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam: Ban kiểm soát Hội đồng quản rị Ban Giám đốc Phòng ban N/V Trung Ương Sở giao dịch Chi nhánh Chi nhánh Chi nhánh Các phòng kinh doanh trực tiếp Các phòng kinh doanh trực tiếp Các phòng kinh doanh trực tiếp Các phòng kinh doanh trực tiếp 2.1 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua. Từ khi chuyển sang cơ chế hoạt động mới, Ngân hàng ngoại thương đã nhanh chóng vượt qua khó khăn, thử thách, đứng vững trên thị trường và đạt được kết quả đáng tự hào: ã Nguồn vốn: Để nâng cao nguồn vốn, Ngân hàng ngoại thương một mặt vẫn tiếp tục thực hiện các giải pháp đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, cạnh tranh, mặt khác đã áp dụng dịch vụ khách hàng trọn gói (nhận tiền gửi, bán ngoại tệ, cấp thẻ tín dụng) đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng nhằm tạo ra các giải pháp huy động vốn có hiệu quả. Vào thời điểm cuối năm 2000, tổng nguồn vốn đạt 35720 tỷ VNĐ, trong đó nguồn vốn bằng ngoại tệ đạt 1877triệu USD chiếm 68, 2% và nguồn vốn đạt 11356 tỷ VNĐ chiếm 31, 8%.Năm 2001, tổng nguồn vốn đạt 46272 tỷ VNĐ đến tại thời đIểm 31/12/2001 tăng 31, 7% so với cuối năm trước. Vốn chủ sở hữu: Là một trong bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh chủ đạo của Việt nam, nhiều năm nay chính phủ rất chú trọng việc cấp bổ xung vốn điều lệ cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung trong đó có Ngân hàng ngoại thương. Một mặt làm tăng thêm uy tín của Ngân hàng ngoại thương, mặt khác nâng cao hệ số an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Cuối năm 1996, tại quy định QĐ 764 /TTG của chính phủ, Ngân hàng được phép tăng vốn đIều lệ từ 200 tỷ lên 1100 tỷ VNĐ. Tuy nhiên, do ngân sách ngà nước còn khó khăn nên đến cuối năm 2000 chính phủ mới xem xét và cấpmột số vốn còn lại cho Ngân hàng (599 tỷ VNĐ, trong đó đã cấp 300 tỷ, đầu năm 2001 cấp tiếp 229 tỷ VNĐ) Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam tính đến 31-12-2001 là 1496 tỷ đồng chiếm 4% tổng số tài sản có: Vốn huy động: Đơn vị tiền: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Biến động 00/99 (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn vốn I. Vốn tự có II. Vốn huy động Thị trường 1 -Thời gian của các tổ chức kinh tế. -Tiết kiệm và kinh doanh. Thị trường 2 -Ngân hàng nhà nước. -Ngân sách nhà nước. -TCTD III. Vốn khác 26907 1123 18222 10826 5148 4043 1235 794 2014 3519 100 4 68 40 19 15 5 3 7 13 35720 1410 24858 11339 10077 5185 1327 777 3011 4267 100 4 69 32 28 15 4 2 9 12 37, 2 26 36 13 96 48 7 -2 53 21 Bảng cơ cấu nguồn vốn: Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Biến động 01/00 (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn vốn I. Vốn tự có II. Vốn huy động 1.Thị trường 1 -Thời gian của các tổ chức kinh tế. -Tiết kiệm và kinh doanh. 2. Thị trường 2 -Ngân hàng nhà nước. -Ngân sách nhà nước. -TCTD III. Vốn khác 35720 1410 24858 11339 10077 5185 1327 777 3011 4267 100 4 84 69, 57 31, 7 28, 2 14, 5 3, 7 2 8, 6 12 46272 1874 40490 33532 19957 13595 6877 1469 840 4410 3989 100 4, 1 87, 5 72, 5 43, 08 29, 38 14, 86 3, 17 1, 81 9, 53 8, 62 29, 54 32, 9 34, 77 34, 89 75, 82 35 32, 63 10, 7 8, 1 43, 13 -6, 51 Hoạt động thanh toán: Do hoạt động thanh toán và kĩ thuật hoàn thiện, hiện đại cùng với hệ thống Ngân hàng rộng khắp, Ngân hàng thương mại đã được các bạn hàng tín nhiệm thông qua việc mở TKTG, thanh toán và sử dụng dịch vụ Ngân hàng. Về thanh toán ngoại tệ, Ngân hàng vẫn được coi là một trung tâm thanh toán bù trừ của các TCTD tại Việt nam. Vai trò này đã được khẳng định trong ngiều năm qua. Mặc dù đang chịu sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại, các TCTD, doanh số thanh toán qua Ngân hàng ngoại thương vẫn tăng qua các năm. Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế: Ngân hàng ngoại thương Việt nam được các tổ chức thẻ quốc tế Mastercard, Visa, Amex và JCB chọn làm đại lý thanh toán thẻ từ năm 1990.Từ đó mạng lưới thẻ thanh toán của Ngân hàng ngoại thương ngày càng được mở rộng và doanh thu cũng như lợi nhuận từ hoạt động này ngày càng tăng lên qua các năm. Cho đến nay, số thẻ mà Ngân hàng ngoại thương đã phát hành là gần 4000 thẻ (3328 thẻ với tổng số tiền là40 tỷ VNĐ) Năm 1995, Ngân hàng ngoại thương phát hành thẻ Ngân hàng và tiền, đưa công nghệ thẻ “thông minh” là một trong những công nghệ hiện đại bậc nhất thế giới vào Việt Nam. Năm 1997, Ngân hàng phát hành thẻ ATM – thẻ ghi nợ. Đây là lần đầu phát hành thí điểm, chưa nhân rộng nhưng đến nay đã có hơn 1000 chủ thể tại Hà Nội với hơn 2000 chủ thể tại thành phố Hồ Chí Minh đã và đang sử dụng. Tháng 4/1997, Ngân hàng ngoại thương chính thức trở thành thành viên của tổ chức thẻ quốc tế Mastercard và thực hiện thanh toán trực tiếp. Kinh doanh ngoại tệ: Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có tầm quan trọng lớn đối với Ngân hàng ngoại thương. Trong thời gian qua, hoạt động này của Ngân hàng bị ảnh hưởng lớn bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Tuy nhiên, do hoạt động năng động, về cơ bản Ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, bám sát diễn biến tài chính, tiền tệ trong khu vực, có các giải pháp kịp thời đảm bảo an toàn nghiệp vụ ngoại tệ, vì vậy nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ vẫn đảm bảo có lãi. Bên cạnh đó, với thế mạnh về nguồn vốn ngoain tệ, Ngân hàng luôn bám sát định hướng của Ngân hàng ngoại thương của chính phủ trong việc mua bán ngoại tệ phục vụ mục tiêu ổn định thị trường. Dịch vụ Ngân hàng bán thẻ: Với chủ trương tăng cường hoạt động bán thẻ một mặt nhằm đa dạng hoá hoạt động, mặt khác để tạo thế ổn định nguồn vốn và tiền mặt cho Ngân hàng. Trong nhiều năm qua, Ngân hàng ngoại thương đã tích cực mạnh dạn trong việc đổi mới công nghệ trang bị, mở rộng mạng lưới, cơ sở phục vụ khách hàng. Song song với việc phát triển mạng lưới hoạt động, Ngân hàng đã áp dụng các loại hình nghiệp vụ và dịch vụ đa dạng, lãi suất ưu đãi. 2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Phát huy vai trò chủ đạo của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nhiều năm qua đã góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ; thực thi chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, kiềm chế lạm phát ; nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng đã đang và vẫn sẽ giúp đỡ cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, kinh doanh có lãi, trong đó có các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Tổng dư nợ của Ngân hàng tăng đều qua các năm: 1997 1995 1996 1998 2000 2001 1999 12000 10000 8810 9169 10185 8579 8000 7277 6098 6000 4000 3938 2000 0 Dư nợ tín dụng qua các năm Năm 2001, hoạt động Ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng có nhiều khó khăn hơn những năm trước. Tuy nhiên, do bám sát diễn biến tình hình cùng với sự chỉ đạo kịp thời của các cấp lãnh đạo, Ngân hàng ngoại thương đã áp dụng nhièu giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, hoạt động tín dụng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kết qủa hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngoại thương trong 3 năm qua được thể hiện ở bảng sau: Về cơ cấu cho vay: Dư nợ cho vay ngắn hạn đến 31/12/2000 quy ra VNĐ là 7126 tỷ đồng chiếm khoảng 70% tổng dư nợ cho vay các tổ chức kinh tế. Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2001 tăng hơn 10% so với năm2000. Trong vài năm trở lại đây, xu hướng cho vay tiền VNĐ tăng mạnh, tỷ trọng cho vay ngoại tệ giảm dần do tỷ giá diễn biến phức tạp, người đi vay thích vau nội tệ hơn để tránh rủi ro về tỷ giá, mặc dù lãi suất cho vay tiền VNĐ cao hơn ngoại tệ. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 So sánh 2001 với 2000 Số tiền (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) I. Ngắn hạn - Doanh số cho vay - Doanh số thu nợ - Dư nợ - Nợ quá hạn - Tỷ lệ quá hạn II. Trung - dài hạn - Doanh số cho vay - Doanh số thu nợ - Dư nợ - Nợ quá hạn - Tỷ lệ quá hạn III. Tổng cộng - Doanh số cho vay - Doanh số thu nợ - Dư nợ - Nợ quá hạn - Tỷ lệ quá hạn 19375 19253 6397 807 12, 6% 632 557 2417 115 4, 8% 20007 19810 8814 922 10, 5% 17184 17309 6433 1251 6, 15% 885 535 2736 169 6, 2% 18032 17884 9269 1420 15, 5% 21439 20570 7126 436 6, 15% 1064 730 3060 91 2, 97% 22503 21300 10186 529 5, 9% 4291 3261 693 -813 179 195 324 -78 4471 3456 1017 -891 25 18, 8 10, 7 -65 20, 2 36, 5 11, 8 -46, 2 24, 8 19, 4 11 -62, 7 Dư nợ trung và dài hạn đến 31/12/2001 là 3000 tỷ đồng, chiếm 30% tổng nợ.So với 1999 dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 26, 6% và tăng 11, 8% so với năm 2000. Dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng nhanh do nhu cầu đầu tư tăng nhanh và chủ yếu là đầu tư vào các tổng công ty lớn để hiện đại hoá công nghệ, tăng cường đầu tư cho nền kinh tế và thực hiện chỉ thị 09 của nhà nước về cơ cấu lại nợ. Về chất lượng tín dụng: Thời gian qua Ngân hàng ngoại thương đã có nhiều cố gắng trong quản lý, điều hành, cải tiến quy trình thẩm định tài chính và xét duyệt cho vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát quá trình vay vốn và sử dụng vốn, nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, kịp thời tháo gỡ khó khăn … Do vậy đã làm giảm được tỷ lệ nợ quá hạn, hạn chế không phát sinh nợ quá hạn mới. Đến 31/12/2001, tổng dơ nợ quá hạn của toàn ngành là khoảng 529 tỷ VNĐ, chiém tỷ lệ 5,9 %. Trong năm 2001, nợ quá hạn giảm 393 tỷ VNĐ so với năm 1999 tức là vào khoảng 10, 5% xuống còn 5,9%. Nhưng nợ quă hạn của năm 2000 tăng so với năm 1999 là 498 tỷ VNĐ, tăng khoảng 10,5% lên 15,5% chủ yếu là do cáckhoản vay cũ của các năm trước (trước năm 1999) còn đọng lại chuyển sang. Nhưng nhìn một cách bao quát qua 3 năm 1999, 2000, 2001 ta thấy được chất lượng tín dụng đã có nhiều cải tiến (có hiệu quả) ã Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Từ năm 1990 trở về trước, Ngân hàng ngoại thương là một trung tâm thanh toán quốc tế của Việt nam, độc quyền chuyên về thanh toán tín dụng xuất nhập khẩu. Vì thế cho vay đối với các dự án trung và dài hạn không phải là thế mạnh của Ngân hàng ngoại thương mà thuộc về các Ngân hàng khác như: Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng công thương. Sau khi có pháp lệnh về Ngân hàng, tất cả các Ngân hàng đều có quyền bình đẳng trong khi các hoạt động kinh doanh thanh toán quốc tế, tín dụng xuất nhập khẩu và các nghiệp vụ khác. Ngân hàng không còn thế mạnh độc quyền như trước đây, do vậy đỏi hỏi sự cạnh tranh với các Ngân hàng khác để tồn tại và phát triển. Ngân hàng đã mở rộng các hoạt động tín dụng (tài trợ)không chỉ đối với các dự án ngắn hạn mà còn đối với cả các dự án trung và dài hạn. Cho vay đối với các dự án trung và dài hạn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam là hình thức cho vay theo các dự án đầu tư và phát triển. Các dự án lớn của nhà nước, các tổng công ty nhà nước được coi là ưu tiên hàng đầu của Ngân hàng. Hội đồng tín dụng đã được thành lập tại các chi nhánh và Ngân hàng trung ương, quy trình thẩm định cácdự án cho vay được cải biến, các văn bản nội bộ được rà soát lại. Kết quả, tổng dư nợ cho vay đối với các dự án trung và dài hạn đã tăng thêm đáng kể qua các năm từ 8814 tỷ VNĐ năm 1999 lên 10186 tỷ VNĐ năm 2001. Ngân hàng ngoại thương đã tập trung vốn để cho vay, tài trợ đối với các tổng công ty lớn như các tổng công ty 90, 91 và các dự án lớn có bảo lãnh của chính phủ như: tổng công ty bưu chính, tổng công ty lương thực miền Bắc … Ngân hàng cũng cùng các tổ chức khác tham gia cho vay đồng tài trợ. 3 . Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt đông cho vaytại Ngân hàng ngoại thương Việt nam. 3.1 Tổ chức hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt nam do phòng dự án và phòng thẩm định đầu tư và chứng khoán theo quyết định số 240 của tổng giám đốc Ngân hàng ngoại thương Việt nam hướng dẫn về quy chế cho vay đối với khách hàng và bảng hướng dẫn thực hiện quy trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng. Các cán bộ tín dụng chuyên quản chịu hết trách nhiệm thực hiện thẩm định dự án đối với các đơn vị khách hàng vay vốn mà mình được phân công phụ trách. Sau khi thu nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn theo đúng đối tượng, nguyên tắc, điều kiện và thủ tục vay vốn theo quy định của quy chế cho vay. Các cán bộ tín dụng bắt đầu tiến hành thẩm định tính khả thi, tính hiệu quả của các dự án, khả năng trả nợ và lập tờ trình thẩm định. Trình tự công việc được tiến hành như sau: Bước 1: Nhằm mục đích có thêm thông tin cần thiết phục vụ các bước phân tích và quyết định cho vay, cán bộ tín dụng Ngân hàng ngoại thương chủ động tiếp xúc với khách hàng, kiểm tra thực địa nơi xây dựng để bổ sung các thông tin mà trong hồ sơ chưa đủ hoặc doanh nghiệp không cung cấp hết được. Đó là các thông tin về năng lực quản lý, điều hành xây dựng, tư chất của người vay vốn, về số lao động, tiền lương, tình trạng máy móc thiết bị hiện có, các mặt thuận lợi, khó khăn nơi xây dựng dự án. Không dừng lại ở việc nghiên cứu hồ sơ vay vốn của khách hàng, cán bộ còn thu thập các thông tin liên quan đến khách hàng, dự án nhằm làm cho nội dung phân tích, đánh giá dự án được chính xác hơn. Nguồn thồng tin có thể có được từ trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước, từ các đối tác của khách hàng, qua tạp chí, sách báo, hay qua các cơ quan hữu quan bộ thương mại, bộ khoa học đầu tư, hiệp hội Ngân hàng ... Bước 2: Lập tờ trình thẩm định Trên cơ sở các dữ liệu, tài liệu trong hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn và các thông tin thu thập được qua điều tra thực tế, cán bộ tín dụng lập tờ trình thẩm định theo bảng hướng dẫn thẩm định do trung ương soạn thảo và chịu trách nhiệm về số liệu, phương pháp tính toán nêu trong tờ trình. Nội dung tờ trình thẩm định nêu rõ ý kiến, quan điểm của cán bộ tín dụng trên các mặt, hồ sơ pháp lý có đầy đủ không, lời lỗ ra sao, khả năng trả nợ của khách hàng, mức độ rủi ro._.g khó khăn thử thách. Tuy nhiên do bám sát diễn biến tình hình thực tế, cùng với sự chỉ đạo tháo gỡ khó khăn kịp thời, có hiệu quả của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng ngoại thương đã khẩn trương khắc phục những tồn tại, sai sót, thực hiện những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt là công tác tín dụng nên đã hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng, khôi phục và giữ được chữ tín với khách hàng trong nước và quốc tế, mở rộng thị trường, giữ vững tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, nâng cao chất lượng và mở rộng tín dụng, chủ động tìm đến khách hàng lớn, các dự án khả thi, hiệu quả để đầu tư nên đã thu được những kết quả đáng tự hào. Để phát huy những thành quả đã đạt được và phát triển hơn nữa, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược đã đặt ra trong thời gian tới, hoạt động cho vay, đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương diễn ra theo hướng: "Với phương châm: An toàn – hiệu quả - phát triển”, Ngân hàng tận dụng thời cơ để mở rộng đầu tư tín dụng, bảo lãnh đạt mức tăng trưởng 25%, nâng dần tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn lên 35% tổn dư nợ, nâng cao chất lượng tín dụng, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuóng dưới 4%, tích cực xử lý khai thác có hiệu quả tài sản nợ, tài sản thế chấp để giải phóng vốn kinh doanh. Bám sát các định hướng của nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế, sớm tiếp cận với các dự án, các chương trình kinh tế trọng điểm, chủ động bố trí vốn, trực tiếp tham gia hoặc tham gia theo phần, đồng tài trợ với các Ngân hàng thương mại khác để phát huy sức mạnh về vốn, kinh nghiệm cũng như hạn chế rủi ro. Tiếp tục mở rộng các đối tượng cho vay nhằm khai thác mọi tiềm năng trong ngành kinh tế, có cơ chế thoả đáng trong chính sách đầu tư, tín dụng cho mục tiêu xã hội. Tuy nhiên với thế mạnh về vốn, Ngân hàng ngoại thương sẽ tập trung một tỷ trọng vốn thích đáng đầu tư vào các dự án lớn thuộc các doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (Các tổng công ty 90, 91). Tạo điều kiện thuận lợi cho người đi vay với chính sách lãi suất, phí dịch vụ hấp dẫn, có khả năng cạnh tranh được với các Ngân hàng khác, đổi mới phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, luôn coi lợi ích của khách hàng là lợi ích của chính mình, duy trì một cơ chế lãi suất linh hoạt để khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với những khoản vay lớn, các dự án có tính khả thi chắc chắn, độ an toàn cao. Mở rộng tín dụng đi liền với việc củng cố và nâng cao hiệu quả chất lượng tín dụng, đảm bảo khả năng thu hồi vốn, giảm dần tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tăng cường cơ chế thông tin tín dụng, nắm chắc tình hình biến động của thị trường. Dự đoán kịp thời, chính xác những yếu tố tác động đến sản xuất kinh doanh, tình hình thị trường tài chính trong và ngoài nước để chủ động tư vấn cho doanh nghiệp, thoá gỡ khó khăn, sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Trong điều kiện chung của nền kinh tế và của Ngân hàng hiện nay, để tồn tại, phát triển và hội nhập đẩm bảo thực hiện được những mục tiêu về hoạt động cho vay đặt ra, Ngân hàng ngoại thương phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Một trong những giải pháp tiên quyết hữu hiệu nhất là hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xác định trong chiến lược, định hướng hoạt động và gắn bó chặt chẽ các nghiệp vụ khác tạo thành sức mạnh tổng hợp của Ngân hàng. 2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đàu tư trong hoạt động cho vay taị Ngân hàng ngoại thương Việt Nam: Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương nói riêng và của nền kinh tế nói chung thì điều đầu tiên và trước hết là phải có một nhận thức và định hướng đúng. 2.1. Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương: Trong thời gian tới, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng cần dựa trên các định hướng sau: Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng ngoại thương phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét. Công tác thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và nhằm phục vụ hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương trong từng giai đoạn. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống với tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện, đối với tất cả các dự án xin vay, trong quá trình cho vay từ xem xét dự án cho đến giải ngân, thu nợ, thu lãi. Công tác thẩm định dự án tại Ngân hàng ngoại thương phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ Ngân hàng. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng đặc thù của hoạt động cho vay tại Ngân hàng, duy trì phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh trên thương trường. Công tác thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, chỉ đạo diều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và phải thường xuyên được tổng kết, rút ra kinh nghiệm, bài học để hoàn thiện và phát triển. 2.2. Một số giải pháp: Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư ngày càng được khuyến khích, mở rộng. Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư ngày càng trở nên quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng khoản vay của Ngân hàng. Từ thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương, chúng ta thấy rõ một vấn đề nổi lên là cần nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác này. Qua quá trình xem xét hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư thấy được những kết quả đạt được, những tồn tại, những hạn chế và các nguyên nhân đưa đến, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhắm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư như sau: Giải pháp về phương pháp thẩm định. Giải pháp về thông tin. Giải pháp về nhân tố con người. Giải pháp về tổ chức điều hành. Giải pháp về phương pháp thẩm định: Vấn đề giá trị thời gian của tiền: Đây là vấn đề mấu chốt của thẩm định tài chính dự án đầu tư nhưng chưa được Ngân hàng quan tâm đúng mức. Một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai đoạn khác nhau, nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau không giống nhau. Vì vậy cần phải có những phương pháp quy đổi giá trị của dòng tiền xuất hiện ở những thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm để xem xét, đánh giá. Điều đó chẳng những cho phép xem xét, phân tích mà còn tạo điều kiện để so sánh, lựa chọn các dự án. áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại: Ngân hàng cần phổ cập và tăng cường áp dụng những phương pháp, chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án đàu tư hiện đại trên cơ sở tham khảo, học hỏi của các Ngân hàng hiện đại trên thế giới và áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tế nước ta và hệ thống Ngân hàng. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất thiết thực trong việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính. Các phương pháp thẩm định hiện đại đều được trình bày rất phổ biến trong nhiều tài liệu khác nhau, nhưng vấn đề là lựa chọn chỉ tiêu, phương pháp nào để áp dụng cho phù hợp với thực tiễn từng dự án. Ngân hàng cần áp dụng nhiều hơn nữa các chỉ tiêu: giá trị hiện tại ròng NPV, tỷ suất sinh lời nội bộ IRR chỉ số doanh lợi PI, BIC, sử dụng các chỉ tiêu này làm tiêu chuẩn trong đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư. Ba chỉ tiêu này là cực kỳ quan trọng, phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án đầu tư và cần phải được áp dụng đồng thời để bổ xung hỗ trọ lẫn nhau, Ngân hàng nên xây dựng một quy trình tác nghiệp cụ thể để làm căn cứ cho việc thực hiện. + Tính dòng tiền: Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Các máy móc, thiết bị, nhà xưởng khi dự án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án. Một điều cần lưu ý là dòng tiền này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó là luồng tiền hoạt động trước thuế. Ngân hàng cũng cần tính đến khoản thu hồi vốn lưư động ròng, khoản thu hồi này sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Đặc biệt Ngân hàng cần phải tính toán dòng tiền cho cả đời của dự án chứ không nên dừng lại ở năm dự án trả hết nợ. Khi xác định lợi nhuận ròng dùng để trả nợ, Ngân hàng nên chú ý đến phần sử dụng vốn ngân sách nhà nước mà doanh nghiệp phải nộp (nếu có). Đối với những dự án đầu tư đã được thẩm định có hiệu quả, trong một số năm đầu hoạt động dự án có dòng tiền âm, Ngân hàng có thể xem xét thu nợ vào những năm sau chứ không nhất thiết phải yêu cầu miễn thuế hoặc tỉnh hỗ trợ. + Tính doanh thu và chi phí: Doanh thu và chi phí là 2 yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới việc tính toán các chỉ tiêu còn lại trong thẩm định tài chính dự án đàu tư,. Đây là bước quan trọng nhưng cũng khó khăn nhất trong quá trình phân tích. Việc dự báo doanh thu bán hàng liên quan đến các nhân tố như khuynh hướng tăng trưởng kinh tế, khuynh hướng giá cả, phản ứng hay hành động của các đối thủ cạnh tranh, … Đánh giá những nhân tố này là rất khó chính xác. Theo tôi Ngân hàng nên lập bảng tính giá thành phẩm sản phẩm dịch vụ hoặc yêu cầu chủ dự án lập, sau đó Ngân hàng kiểm tra lại. Bởi vì giá thành là cơ sở để xác định giá bán có phản ánh một cách đầy đủ nhất các chi phí của dụ án. Dựa vào đây, Ngân hàng có thể chỉ ra các bất hợp lý của các chi phí kê khai trong dự án, đồng thời kết hợp với các kết quả nghiên cứu thị trường để xác định giá tiêu thụ một cách hợp lý nhất. + Tính khấu hao. Khí tính khấu hao, Ngân hàng cần chú ý tới cơ cấu của chi phí đầu tư cho dự án để áp dụng các tỷ lệ khấu hao phù hợp. Đối với phần chi phí trước vận hành, Ngân hàng cần tách ra để thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp cùng với chi phí xây lắp. + Tính lãi xuất chiết khấu: Ngân hàng có thể áp dụng hai cách tính lãi xuất chiết khấu - Tính chi phí bình quân gia quyền của vốn của vốn đầu tư làm lãi xuất chiết khấu. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, rất khó tính chi phí của vốn tự có của doanh nghiệp. Lấy lãi xuất trái phiếu kho bạc Nhà nước làm tỷ lệ chiết khấu cộng thêm một mức độ rủi ro tương ứng của lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh mà dự án hoạt động chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp do phải chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố rủi ro hơn như bão lụt, hạn hán, …so với các dự án trong lĩnh vực như công nghiệp, thương nghiệp… Thông thường, các dòng tiền của dự án trong suốt thời kỳ phân tích được chiết khấu với tỷ lệ không đổi. Tuy nhiên, Ngân hàng có thể sử dụng các tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh các tác động của môi trường kinh tế tới dự áNgân hàng, chảng hạNgân hàng như tác động của lạm phát, mức độ rủi ro…. Trong những năm mà nguồn vốn khan hiếm, Ngân hàng có thể tính tỷ lệ chiết khấu cao do chi phí vốn tăng và ngược lại, tỷ lệ chiết khấu thấp hơn trong nhiều năm nguồn vốn dồi dào. + Phân tích tài chính. Phân tích tài chính tập chung vào xem xét kế hoạch tài chính ngắn hạn và các chỉ tiêu phân tích tài chính ở từng năm. Đặc biệt, Ngân hàng cần chú trọng tới tình hình và khả năng thanh toán của dự án thông qua việc xem xét các nhu cầu về vốn lưu động, tính hợp lý của các chính sách quản lý tiền mặt, chính sách dự trữ, chính sách tín dụng thương mại. Những chính này phải đảm bảo cân đối được các luồng tiền mặt vào, ra của dự án trong kỳ. Điều này rất quan trọng vì có những dự án có hiệu quả tài chính nhưng thiếu một kế hoạch tài chính ngắn hạn tốt sẽ gây khó khăn và có thể đưa đến chỗ phá sản. Ngân hàng cần lập thê các bảng dự trù cân đối tài sản, bảng dự trù cân đối thu chi, bảng kế hoạch ngân quỹ để thuận tiện trong việc phân tích tài chính dự án. Ngân hàng cần đưa một só phương pháp phân tích tái chính sau vào phân tích tái chính dự án đầu tư. Phương pháp phân tích tỷ lệ: Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động – Hàng tồn kho Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn Tổng nợ phải trả Hệ số nợ = Tổng tài sản Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Tài sản cố định Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tổng tài sản = Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi vốn tự có = Vốn tự có. Trong các chỉ tiêu trên, Ngân hàng nên đặc biệt chú ý tới các chỉ tiêu về khả năng thanh toán và hệ số nợ. Phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. Phương pháp phân tích luồng tiền mặt thông qua báo cáo ngân quỹ. Đây là một phương pháp tương đối phức tạp những nếu áp dụng một cách thích hợp vào phân tích sẽ rất có ý nghĩa và đánh giá được một cách chính xác sự vận động của các luồng tiền của dự án đầu tư. Các bảng tính: Trong bảng tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, Ngân hàng cần sửa đổi một số chỉ tiêu: thếu doanh thu không nằm trong kế hoạch chi phí vì thuế doanh thu không phải là chi phí của DH; lãi gộp đổi lại thành lợi nhuận trước thuế. Ngoài bảng tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, Ngân hàng nên lập thêm bảng phân tích dòng tiền để thấy rõ các dòng tiền vào ra của dự án và thuận lợi cho việc tính toán 2 các chỉ tiêu: HPV, IRR (xem bảng). Phân tích độ nhạy: Một dự án thường tồn tại trong một thời gian dài, các dòng tiền đi vào và dòng tiền đi ra khỏi dự án diễn ra trong thời gian đố. Luồng tiền dòng của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà mỗi yếu tố đó ở mức độ khác nhau đều có tính chắc chắn không nhất định hay còn gọi là rủi ro. Bằng việc phân tích độ nhạy, Ngân hàng sẽ xác định được mức độ chắc chắn của các yếu tố xác định và kết quả hoạt động của dự án và vì vậy có thể loại bớt được các dự án có mức độ rủi ro cao. Điều Ngân hàng cần lưu ý khi phân tích độ nhạy của dự án là phải ước lượng xu thế và mức độ thay đổi của các nhân tố ảnh hưởng. Do mối quan hệ và sự tác động của các yếu tố đến trạng thái của dự án rất khác nhau nên có thể lựa chọn mức biến động của các nhân tố khác nhau. Chẳng hạn như nhân tố vốn đầu tư Ngân hàng có thể đưa vào mức biến động 5 – 10% so với mức tính toán nhưng đối với nhân tố giá tiêu thụ sản phẩm lại có thể lấy mức biến động tới 10 – 15%. Đối với các dự án xin vay tại Ngân hàng mà trong luận chứng kinh tế kỹ thuật đã tính hoặc chưa tính thì Ngân hàng cũng phải tính lại và dự tính. Đặc biệt, đối với các dự án có đầu tư có sử dụng vốn vay bằng ngoại tệ, có sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu hoặc xuất khẩu sản phẩm thì cần quan tâm đến sự biến động của tỷ giá đối với các chỉ tiêu NPV, IRR. Ngân hàng nên xem xét sự biến động của tỷ lệ triết khấu tới các chỉ tiêu NPV, PI đối với tất cả các dự án đầu tư vì những chỉ tiêu naỳ rất nhạy cảmvới tỷ lệ chiết khấu. Qua việc đánh giá độ nhạy cảm của dự án, Ngân hàng xác định được nhân tố nào có tác động lớn nhất tới các chỉ tiêu hiệu quả của dự án đầu tư, để từ đó có các biện pháp bảo đảm, hỗ trợ và hạn chế rủi ro. Bảng phân tích dòng tiền của dự án ( bảng 2G). Để các giải pháp trên có khả năng thực hiện một cách có hiệu quả cao nhất, Ngân hàng ngoại thương cần tiến hành đồng bộ các giải pháp bổ trợ sau: Các giải pháp về thông tin: Tăng cường hệ thống thông tin nội bộ: Để đảm bảo xây dựng được một hệ thống thông tin có hiệu quả, trước hết Ngân hàng cần ban hành quy chế thu thập thồng tin định kỳ cho các trung tâm, bộ phận thông tin ở các chi nhánh cũng như TW. Những thông tin càn thiết liên quan đến dự án, thẩm định dự án phải được cung cấp một cách nhanh chóng, đầy đủ và thông suốt trong toàn hệ thống. Một lợi thế rất lớn của Ngân hàng ngoại thương là mạng lưới các chi nhánh cũng như TW được trang bị lại một hệ thống mạng máy tính khâ hiện đại. Nếu Ngân hàng khai thácmột cách có hiệu quả mạng máy tính này thì đây chính là chìa khoá để quyết định vấn đề thông tin một cách nhanh chóng và thu được lợi ích to lớn. Các chi nhánh sẽ thu thập và lưu trữ những thông tin cụ thể về tình hình ở khu vực, địa bàn hoạt động của mình. Hàng tháng các chi nhánh sẽ gửi báo cáo thông tin nội bộ thu thập được về phòng dự án và thẩm định dự án đầu tư ở TW để lưu trữ và tổng hợp trên phạm vi toàn quỗc. Việc trao đổi thông tin giữa các phòng và chi nhánh được thực hiện thông qua mạng máy tính nội bộ. Một mặt thông tin sẽ được phân loại tổng hợp theo ngành, lĩnh vực khác nhau và nếu có khả năng Ngân hàng nên tổng hợp thông tin của một số tổng công ty lớn mà Ngân hàng có quan hệ thường xuyên lâu dài. Mặt khác, thông tin cũng được tổng hợp theo hướng gồm 3 nội dung chính: Thông tin về kinh té – xã hội chung: các thông tin về chủ trương chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước về tình hiènh đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong nước, các ngành công nghiệp nặng, năng lượng, … Các thông tin về tài chính Ngân hàng: các nghị định của Chính phủ, thông tư, quyết định, quy chế của Bộ tài chính. Thông tin về thị trường, giá cả. Để nâng cao tính khả thi của giải pháp này đòi hỏi Ngân hàng phải xây dựng được một chương trình phần mềm tin học chuyên dụng. Ngân hàng có thể giao cho phòng tinh học của Ngân hàng phụ trách lập trìnhmềm hoặc đặt mua của FPT. Các thông tin dạng văn bản sẽ được lưu trữ trong máy tính để thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng, quản lý, bảo quản. Với sự trợ giúp của công nghệ tin học, Ngân hàng sẽ xây dựng được những phương pháp lưu trữ, phân tích, xử lý và quản lý thông tin hiện đại, Ngân hàng sẽ có khả năng truy cập nhanh góp phần nâng cao số lượng và chất lượng thông tin thu thập được. Thu thập thông tin từ bên ngoài: Tiếp tục phát huy lợi thế chính sách vận chuyển sẵn có, Ngân hàng nên phát triển hệ thống thu thập thông tin từ bên ngoài thông qua việc kết nối mạng máy tính của Ngân hàng Nhà nước, của các Ngân hàng thương mại khác, của các trung tâm thông tin trong nước và quốc tế, đặc biệt là mạng Intenet, mạng thông tin toàn cầu. Intenet sẽ là kho dữ liệu vô tận mà Ngân hàng có thể khai thác. Bên cạnh đó Ngân hàng có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật để trợ giúp trong việc thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án, từ đó xây dựng một cách chính xác tổng nhu cầu vốn đầu tư. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể đa dạng hoá nguồn thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp để nắm được tình hình thanh toán, khả năng đảm bảo việc cung cấp đầu vào, và mức độ chắc chắn của việc tiêu thụ đầu ra của dự án, có thể thuê các công ty kiểm toán xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính. Giải pháp về nhân tố con người: Con người là nhân tố trung tâm chi phối ảnh hưởng và quyết định đến hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư thì điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải xác định được 1 chiến lược dài hạn phát triển nguồn nhân lực, để từ đó biến những kế hoạch, mục tiêu thành hiện thực. Để đáp ứng nhu cầu này, Ngân hàng ngoại thương phải tập trung vào một số giải pháp sau: Tuyển dụng cán bộ: Cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để thu hút được moọt đội ngũ lao động có trình độ, có kinh nghiệm, có năng khiếu nghiệp vụ tài chính Ngân hàng, … Sau khi tuyển dụng đội ngũ lao động trẻ cần được đào tạo, đưa đi thực tiễn, mở các khoá học chuyên sâu ở trong và ngoài nước về công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Bồi dưỡng cán bộ: Cán bộ thẩm định cần phải thường xuyên được bồi dưỡng nân g cao kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ. Hàng năm Ngân hàng nên tổ chức những lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn cho cán bộ thẩm định với sự tham gia giảng dạy của các chuyên gia. Vấn đề đãi ngộ: Ngân hàng nên có những chính sách ưu đãi cho cán bộ làm công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư và toàn bộ cán bộ trong Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Giải pháp về tổ chức điều hành: Các dự án đưa đến Ngân hàng ngoại thương có quy mô rất đa dạng, việc xem xét, sắp xếp phân công dự án cần phải căn cứ vào năng lực, sở trường của mỗi người để phát huy thế mạnh của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên bố trí những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt, kinh nghiệm, còn những dự án đơn giản thì cho cán bộ khác. Ngân hàng cần phải sửa đổi, bổ xung nội dung thẩm định tài chính, bổ xung các phương pháp đánh giá dự án bằng giá trị thời gian của tiền và độ nhạy của dự án. Ngân hàng cấn quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định. Ngân hàng cũng nên rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định chuyển sang làm nhiệm vụ khác đối với những cán bộ khồng đáp ứng được yêu cầu công việc. Tổ chức thẩm định trong toàn bộ hệ thống cần được hoàn thiện, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng dự án, phòng thẩm định với các phòng khác, giữa hoạt động tín dụng với hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng. Ngân hàng nên phát đông các phong trào nghiên cứu khoa học hàng năm, qua đó tập hợp được các đề xuất, sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng trong toàn hệ thống. 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư: Thẩm định dự án đầu tư có phạm vi xem xét, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính tại các Ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp, chỉ tiêu trên cơ sở có một giải pháp, kế hoạch tổng thể, thì những giải pháp đề ra mới có tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động cho vay. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng, tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau: Về phía nhà nước và cán bộ ngành: Đề nghị cán bộ ngánhớm ban hành các quy định về đánh giá xây dựng tổng hợp, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, … cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng tổng vốn đầu tư và các chi phí hàng năm. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với bộ tài chính, bộ Kế Hoạch - Đầu Tư, bộ Thương Mại, ..... Xây dựng đề án, xác định các chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực, phù hợp với các yêu cầu thực tế trong và ngoài nước cùng với các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, làm cơ sở để đánh giá so sánh dự án. Các bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cao trình độ chất lượng thẩm định dự án nhất là về các mặt kỹ thuật, công nghệ, đánh giá tác động môi trường để làm căn cứ cho Ngân hàng thẩm định tài chính. Các bộ chủ quản cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành đảm trách. Hàng năm, các thông tin này sẽ được công bố một cách công khai qua các tài liệu chuyên ngành hoặc tập hợp lại ở các trung tâm thông tin giúp các chủ đầu tư thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin thuận tiện cho việc thẩm định dự án. Nhà nước cần quy định rõ hơn nữa về trách nhiệm của chủ đầu tư, của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì không được nắm giữ chức năng quản lý nhà nước để tập trung vào công tác xây dựng, tổ chức hạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Đối với Ngân hàng nhà nước: Ngân hàng nhà nước cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại nâng cao nghiệp vụ thẩm định. Mở rộng phạm vi hoạt động. Hàng năm, Ngân hàng nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Đối với chủ đầu tư: Các chủ đầu tư nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định trong thông tư số 09 –BKH- VPTĐ của Bộ Kế hoạch và đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án. Các chủ dự án cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiêụ quả. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu chi tiết trên các khía cạnh như thị trường, kỹ thuật. tài chính của dự án đầu tư và đảm bảo thực hiện đầu tư theo đúng nội dung luận chứng kinh tế kỹ thuật được phê duyệt. Các dự án phải được xác định đầu tư theo đúng tổng vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm nhiều khối lượng nhưng tính ít để dễ duyệt, khiến trong quá trình xây dựng xảy ra thiếu vốn phải bổ xung, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và tiến độ xây dựng. Kết luận Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những vấn đề quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng, mở rộng các hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Tuy nhiên nội dung công tác này có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp trong và ngoài ngành Ngân hàng. Vì vậy, đòi hỏi phải nghiên cứu sau sắc cùng với những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm, nỗ lực từ nhiều phía. Trong phạm vi của bài viết này, em đã nêu ra, phân tích, tập trung nghiên cứu và xem xét được một số vấn đề cơ bản sau: Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về Ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại, nêu lên được sự cần thiết của thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại và đưa ra một số chỉ tiêu, phương pháp tài chính quan trọng sử dụng trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Xem xét công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, rút ra được một số vấn đề cốt lõi, tổng kết những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó. Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất, giải pháp của bản thân. Đây là những nội dung rất rộng mà trong bài viết này em chỉ xin đóng góp thêm một cách tiếp cận, đánh giá mới. Những giải pháp và kiến nghị chỉ là những đóng góp nhỏ cho việc hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Sau cùng, em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc cùng các cô, các chú – anh chị em cán bộ, nhân viên ngành Ngân hàng nói chung cũng như các cô chú, anh chị em cán bộ nhân viên thuộc Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng cùng với sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa chủ quản (Khoa: Khoa Học Quản Lý), các thầy cô giáo trong Khoa Tài Chính Ngân hàng, trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, và nhất là sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo, giáo viên hướng dẫn, T. Mai Văn Bưu đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành tốt bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo: Giáo trình tài chính doanh nghiệp, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại EDWARD.REED và EDWARD.K.GILL. Quản trị dự án, Nguyễn Xuân Thuỷ, giáo trình hiệu quả và quản lý nhà nước, Tiến sỹ Mai Văn Bưu. Phân tích và quản lý các dự án đầu tư Nguyễn Ngọc Mai. Tạp chí Ngân hàng tài chính, các số 2001, 2002. Quy chế mới về quản lý doanh nghiệp nhà nước, NXB tài chính 11/1999. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương VN, năm 2000, 2001. Các hồ sơ thẩm định tại phòng dự án và phòng thẩm định - đầu tư chứng khoán, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Mục lục Nội dung Trang ChươngI: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư 3 1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 3 1.1 Ngân hàng thương mại qua hoạt động cho vay của Ngân hàng trách nhiệm 3 1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 4 2. Sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 6 2.1 Dự án đầu tư 7 2.2 Sự cần thiết thẩm định Dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 8 3. Trình tự và nội dung thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 11 4. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng 24 4.1 Chất lượng thẩm định dự án đầu tư 24 4.2 Các nhân tố ảnh hưởng 25 Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 1. Giới thiệu chung về Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28 2.1 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua 30 2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 33 3. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 37 3.1 Tổ chức hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 37 3.2 Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 39 4. Một số nhận xét đánh giá về hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 47 4.1 Những kết quả đạt được 47 4.2 Một số hạn chế 51 4.3 Nguyên nhân 56 Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 60 1. Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 60 2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự toán đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 62 2.1 Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 62 2.2 Một số giải pháp 63 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư 72 Kết luận 74 Tài liệu tham khảo 76 Bảng tổng hợp chi phí xây lắp (bảng 1B ) Đơn vị tính: 1000 đ STT Hạng mục công trình Số tiền 1 Lấp trũng và xử lý nền 1.624.477,20 2 Xây dựng nhà sản xuất 4.481.347,20 3 Móng máng 212.674,1 4 Điện - nước 183.898,00 5 Hệ thống cấp khí 182.960,50 6 Tường dậu 47.716,00 7 Đường vận chuyển và kho chứa liệu ngoài trời 306.063,00 Tổng cộng 7.039.136,00 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0194.doc