Lời mở đầu
Phát triển kinh tế là mục tiêu cuả tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước thì đầu tư luôn được coi là động lực và là đòi hỏi cấp bách của chúng ta. Trên thực tế, chúng ta đã tiến hành công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, bằng việc đẩy mạnh đầu tư trung và dài hạn. Những năm qua, tốc độ đầu tư trong nền kinh tế có sự tăng trưởng mạnh mẽ, có được vậy không thể không kể đến vai trò của các ngân hàng thương mại với tư
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần á Châu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách là nhà tài trợ lớn cho các dự án đầu tư. Song nền kinh tế nước ta trong thời gian qua còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là năm 1998, 1999 với hàng loạt các vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã làm ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế nói chung và bước phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng nói riêng, Trong vài năm gần đây, công tác thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam đang ngày càng được hoàn thiện cho thích hợp với tình hình kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, hoạt động thẩm định dự án đầu tư vẫn còn nhiều bất cập, chất lượng thẩm định dự án chưa cao, dự án đầu tư chưa thực sự có hiệu quả trong việc đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư và ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Với tư cách là “bà đỡ” của nền kinh tế và là người bạn đồng hành với hoạt động của doanh nghiệp , đóng vai trò là người tài trợ vốn cho dự án thì công tác thẩm định dự án đầu tư là không thể thiếu được trong hoạt động của các ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ góp phần quyết định trong việc nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro cho ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp. Như vậy, việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước, định hướng đầu tư đúng đắn cho các doanh nghiệp.
Đóng góp vào quá trình chung đó phải kể đến Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu ( ACB ), một đơn vị đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong hoạt động kinh doanh do đã chú trọng đến chất lượng tín dụng ngay từ khâu thẩm định.
Trên cơ sở kiến thức đã được học và nghiên cứu thực tế trong thời gian thực tập tại Ngân hàng á Châu Hà Nội, nhận thức được vai trò quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tư và những hạn chế trong quy trình và phương pháp thẩm định tại Ngân hàng, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu Hà Nội”.
Bài viết của em gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về dự án đầu tư và thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng á Châu.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng á Châu.
Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm và thời gian nên mặc dù rất cố gắng song bài viết của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô, các anh chị cán bộ của Ngân hàng á Châu và bạn bè để hoàn thiện hơn bài viết này cũng như kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1
Lý luận chung về dự án đầu tư và thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại.
Dự án đầu tư
1.1.1. Hoạt động đầu tư
Bất kỳ một quốc gia nào nói chung hay một doanh nghiệp nói riêng đều hướng tới mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Để đạt được sự tăng trưởng trong sản xuất kinh doanh hay rộng hơn là sự phát triển kinh tế xã hội thì nhất thiết phải đầu tư. Vậy hoạt động đâù tư là gì?
Lý thuyết phát triển đã chỉ ra rằng: Khả năng phát triển của một quốc gia được hình thành bởi các nguồn lực về vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên thiên nhiên. Đó là hệ thống các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ được biểu hiện bằng phương trình:
D = f ( C,T, L, R )
Trong đó: D : Khả năng phát triển của quốc gia.
C, T, L, R : Khả năng vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên.
Và phương trình này được xây dựng và thực hiện thông qua hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư được hiểu như là việc huy động nguồn lực để biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đầu tư dài trong tương lai. Các nguồn lực ở đây chính là vốn, con người, tài nguyên thiên nhiên và thời gian...và lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được (tức là đo được hiệu quả bằng tiền) như sự tăng lên của sản lượng và lợi ích không thể lượng hoá được như sự phát triển trong lĩnh vực giáo dục quốc phòng, giải quyết các vấn đề xã hội...
Đứng trên góc độ xã hội đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế, xã hội vì mục tiêu phát triển quốc gia. Còn trên góc độ doanh nghiệp, hiểu đơn giản đầu tư là việc bỏ vốn kinh doanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai.
Nhưng dù đứng trên góc độ nào chúng ta cũng đều thấy hoạt động đầu tư là điều kiện cần để thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh hay rộng hơn là phát triển kinh tế xã hội.
Hoạt động đầu tư có tính chất đặc biệt được thể hiện trên những đặc điểm sau:
Do là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết là quyết định tài chính. Với một lượng vốn hữu hạn nên bỏ vốn ra bao nhiêu và thu được bao nhiêu, hiệu quả đạt được như thế nào?
Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài, mang nặng tính rủi ro và do vậy luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.
Đầu tư nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, không phải chỉ lợi ích riêng mà cả lợi ích chung do vậy cần có sự quản lý. Để quản lý được một cách khoa học và thuận tiện người ta thường phân loại đầu tư theo các tiêu thức khác nhau:
* Theo cơ cấu vốn đầu tư được chia thành các loại như sau:
- Đầu tư tài sản cố định (TSCĐ)
Đây là loại đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định trong doanh nghệp. Thông thường vốn đầu tư cho loại tài sản này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Loại này có thể bao gồm:
+ Đầu tư xây lắp
+ Đầu tư máy móc thiết bị
+ Đâu tư tài sản cố định khác
Đầu tư cho tài sản cố định còn có thể phân thành đầu tư tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị... ) và đầu tư tài sản vô hình ( danh tiếng, bằng phát minh sáng chế, tên thương mại...)
- Đầu tư tài sản lưu động (TSLĐ)
Đây là khoản đầu tư hình thành nên tài sản lưu động cần thiết bảo đảm cho sản xuất kinh doanh tiến hành hoạt động bình thường. Khi có sự tăng trưởng của doanh nghiệp ở một mức độ nào đó thì sẽ đòi hỏi phải có sự bổ sung tài sản lưu động.
- Đầu tư tài sản tài chính:
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể lựa chọn đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Loại tài sản này có thể mang lại các lợi ích tài chính trong tương lai.
Việc phân loại đầu tư theo cơ cấu vốn giúp cho doanh nghiệp có thể xem xét tính chất hợp lý của các khoản đầu tư trong tổng thể đầu tư của doanh nghiệp để đảm bảo xây dựng được một kết cấu tài sản thích ứng với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao.
* Theo mục tiêu đầu tư có thể chia thành các loại như sau:
- Đầu tư tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp
- Đầu tư đổi mới sản phẩm
- Đầu tư thay đổi thiết bị
- Đầu tư mở rộng xuất khẩu sản phẩm, nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ.
- Đầu tư khác: như góp vốn thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, đầu tư vào tài sản tài chính v.v... Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể kiểm soát được tình hình thực hiện đầu tư theo những mục tiêu nhất định.
Mục tiêu đầu tư sẽ được thể hiện dưới các kết quả tài chính, kết quả kinh tế và kết quả xã hội. Mỗi nhà đầu tư khi theo đuổi mục tiêu nào đó sẽ cố gắng đạt được tối đa kết quả đó. Muốn tối đa hoá hiệu quả đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư nhất thiết phải có dự án đầu tư. Trên thực tế, hoạt động đầu tư được thể hiện tập trung qua việc thực hiện các dự án đầu tư. Vậy dự án đầu tư là gì?
1.1.2. Dự án đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm và vai trò của dự án đầu tư
- Khái niệm:
Về bản chất, Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hay nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong khoảng thời gian xác định.
Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục tiêu, phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được đến trạng thái mong muốn. Dự án đầu tư dài hạn được thể hiện bằng văn bản pháp lý làm căn cứ để thực hiện những mục tiêu đầu tư.
Xét về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết, đầy đủ, khoa học, và toàn diện một dự kiến đầu tư trong tương lai. Đây cũng là phương tiện chủ yếu mà chủ đầu tư sử dụng để thuyết phục nhằm nhận được sự ủng hộ về mặt tài chính từ phía Chính phủ, các tổ chức tài chính.
Xét trên góc độ quản lý thì dự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước xem xét, phê duyệt cấp giấy phép đầu tư, là căn cứ quan trọng để đánh giá và đưa ra những điều chỉnh kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác dự án và là cơ sở pháp lý để xem xét. xử lý khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.
Còn đứng trên phương diện kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
Từ các khái niệm nêu trên về dự án đầu tư ta dễ dàng có thể thấy được dự án đầu tư có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập và phát triển của nước ta hiện nay:
- Dự án đầu tư có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như tiến bộ xã hội.
- Nhờ có các dự án đầu tư có hiệu quả mà có thể khai thác các nguồn lực trong nước cũng như các nguồn tài trợ, đầu tư của nước ngoài.
- Qua các dự án đầu tư có thể phát huy được các nguồn lực trong nước: nguồn lao động, trình độ quản lý.
- Các dự án đầu tư có thể giải quyết được các mối quan hệ cung cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
1.1.2.2. Phân loại dự án đầu tư
Các loại dự án đầu tư rất đa dạng nên việc quản lý, phân tích dự án đòi hỏi rất tốn kém tiền bạc và thời gian song tất cả cơ hội kinh doanh đều đòi hỏi phải được xem xét, do vậy cần phân loại các dự án đầu tư để xác định những tiêu thức, mức độ quản lý cũng như phân tích đối với mỗi loại. Dự án đầu tư có thể được phân loại như sau:
- Phân loại dự án theo quy mô: Đây là sự phân loại dựa trên các tiêu thức như:
+ Tầm quan trọng của dự án.
+ Quy mô ngân quỹ đầu tư cho dự án.
+ Phạm vi ảnh hưởng của dự án đầu tư.
- Phân loại theo mục đích: Dựa trên các chức năng hay mục đích người ta có thể phân loại các dự án thành:
+ Dự án đổi mới thiết bị công nghệ.
+ Dự án đẩy mạnh tiêu thụ những sản phẩm hiện có trên thị trường
+ Dự án tung những sản phẩm vào thị trường mới.
+ Dự án chế tạo sản phẩm mới.
+ Dự án cải tiến sẩn phẩm hiện có.
- Phân loại theo mối quan hệ các dự án: Để đánh giá tính hiệu quả của dự án người ta có thể phân loại các dự án dựa vào mối quan hệ của chúng:
+ Dự án độc lập: Là những dự án có đặc điểm là khi được chấp thuận hay từ chối đều không ảnh hưởng dòng tiền của các dự án khác. Khi hai dự án được coi là độc lập về kinh tế thì việc đánh giá và chấp nhận hay từ chối dự án nào đó sẽ không chịu ảnh hưởng bởi quyết định của dự án kia.
Tuy nhiên ở đây ta chỉ xét đến sự độc lập về kinh tế, còn giữa các dự án luôn tồn tại nhiều mối tương quan trên nhiều phương diện: sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô, sự tăng giảm giá trị đồng tiền...
+ Dự án loại phụ thuộc: Đó là dự án có dòng tiền ( thu nhập, chi phí ) chịu sự quyết định chấp thuận hay từ chối dự án khác. Trên thực tế, loại dự án này thường là loại dự án lệ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và một dự án chịu lệ thuộc vào dự án khác nhưng ngược lại, nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với những dự án mà nó lệ thuộc.
+ Dự án loại trừ nhau: Là loại dự án mà khi một dự án được chấp thuận sẽ làm triệt tiêu hoàn toàn những khoản lợi nhuận tiềm tàng thu được từ dự án khác. Tức là nếu một trong các dự án được chấp thuận thì những dự án còn lại sẽ bị bác bỏ. Trên thực tế khả năng huy động tài chính cho đầu tư cũng có giới hạn đối với chủ đầu tư, trong trường hợp đó các dự án đầu tư sẽ loại trừ nhau, cạnh tranh nhau về mặt ngân quỹ, vốn đầu tư tạo ra mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các dự án tiềm tàng.
1.1.2.3. Chu trình của một dự án đầu tư
Như vậy, dự án đầu tư có thể được phân chia thành nhiều loại trên các góc độ khác nhau, nhưng cho dù đứng trên góc độ nào thì dự án đầu tư bao giờ cũng có chung một chu trình phát triển.
Một công cuộc đầu tư được xem như bắt đầu từ khi có ý định về dự án đầu tư. Từ ý định về dự án đến việc xây dựng, thực hiện và kết thúc dự án là cả một quá trình. Quá trình này có thể chia làm 3 giai đoạn : giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. trong mỗi giai đoạn diễn ra nhiều bước với nhiều công việc. Cụ thể là:
* Giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm các bước chính như sau:
- Nghiên cứu cơ hội đầu tư;
- Nghiên cứu tiền khả thi;
- Nghiên cứu khả thi;
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư.
* Giai đoạn thực hiện đầu tư gồm các bước chính như sau:
- Khảo sát, thiết kế, lập dự toán;
- Dự kiến mua thiết bị, công nghệ, vật tư kỹ thuật;
- Tổ chức đấu thầu, chọn thầu, giao nhận thầu;
- Thi công theo đúng thiết kế, tiến độ đã đề ra;
- Tiến hành chạy thử;'
- Bàn giao đưa công trình vào khai thác.
* Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư gồm các bước chính như sau:
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh;
- Kết thúc dự án;
- Đánh giá sau dự án.
Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là một khâu trong cả chu trình nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng, và nó được xem là có tính quyết định đối với sự thành bại của một dự án đầu tư.
1.1.2.4. Các luồng tiền của dự án
Những vướng mắc trong phân tích và đánh gía dự án đầu tư không phải là nằm trong kỹ thuật thực hiện mà ở việc xác định các luồng tiền của dự án. Đây là bước quan trọng nhưng cũng khó khăn nhất của quá trình phân tích.
Thậm chí những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này cũng mắc phải những sai lầm rất lớn. Xác định luồng tiền liên quan tới nhiều nhân tố hay biến số. Đánh giá những nhân tố này có thể rất khó chính xác. Những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định luồng tiền cụ thể dấn đến những kết luận sai về việc chấp thuận hay bác bỏ dự án hoặc xếp hạng các dự án đầu tư hoàn toàn ngược lại như nó phải có.
Gần như tất cả các dự án được phân tích dựa trên cơ sở giả định công ty đang trong quá trình hoạt động liên tục. Điều đó có nghĩa là có đã thực hiện một khoản đầu tư nào đó và cũng đã có những luồng tiền thu nào đó. Như thế, việc phân tích dự án chỉ thích hợp khi xem xét những luồng tiền đầu tư mới và những luồng tiền thu mới do việc đầu tư mới tạo ra. Nói cách khác, những luồng tiền thích hợp cho việc phân tích dự án vốn ( bao gồm luồng tiền chi phí và luồng tiền thu ròng sau khi dự án đi vào hoạt động ), là những luồng tiền do việc thực hiện dự án tạo ra. Người ta còn gọi đây là những luồng tiền tăng lên.
Sau đây, chúng ta sẽ đề cập những vấn đề cơ bản trong việc xác định luồng tiền chi phí và luồng tiền thu nhập.
a. Xác định luồng tiền ra của dự án:
Phần lớn các dự án đầu tư đòi hỏi các khoản chi phí đầu tư ngay từ ban đầu, sau đó các luồng tiền thu ròng mới xuất hiện. Nói chung việc xác định các chi phí đầu tư không phức tạp như xác định các luồng tiền thu:
Chi phí mua sắm hàng hoá và lắp đặt: Nếu như chúng ta mua một thiết bị thì không chỉ đơn giản tính giá mua là chi phí đầu tư, mà chúng ta phải tính thêm vào đó cả những chi phí liên quan cho đến khi có thể đưa thiết bị vào hoạt động. Chẳng hạn, chi phí vận chuyển bảo hiểm, lắp đặt, vận hành thử. Chúng được cộng vào giá mua tài sản cố định (hàng hoá vốn) để xác định chi phí đầu tư.
Chi phí cơ hội: Cần đưa các loại chi phí cơ hội vào hạch toán cho dự án. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp đã sở hữu sẵn một số tài sản hữu dụng cho việc thực hiện dự án. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp không phải bỏ chi phí mua tài sản đó nữa. Chi phí cơ hội của một tài sản là giá trị hiện giá cao nhất dòng lưu kim thuần do tài sản đó tạo ra nếu dự án đầu tư không sử dụng nó. Nhưng chi phí này không phải là chi phí thực tế không đưa vào hạch toán kế toán, tuy nhiên khi xem xét, đánh giá dự án nó liên quan trực tiếp tới cơ hội lựa chọn dự án nên chi phí này sẽ được xem như một phần chi phí đầu tư.
Chi phí chìm: Chi phí chìm là chi phí đã xuất hiện từ trước mà không thể bù đắp cho dù dự án có được chấp nhận hay không. Chi phí chìm như thế không phải là chi phí tăng lên nên không được bao hàm trong phân tích.
Đầu tư mới vào vốn lưu động ròng: Hầu như tất cả các dự án không những đòi hỏi đầu tư vào tài sản cố định mà còn đòi hỏi đầu tư vào vốn lưu động ròng.
Vốn lưu động ròng được tính bằng tổng tài sản lưu động trừ đi nguồn vốn ngắn hạn. Tại sao không phải toàn bộ sự tăng lên của tài sản lưu động (bao gồm tiền mặt, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho ) đòi hỏi phải được tài trợ mà chỉ đòi hỏi vào vốn lưu động ròng. Vấn đề là ở chỗ bất kỳ sự tăng lên nào của tài sản lưu động cũng phải đòi hỏi tài trợ bằng một cách nào đó, tuy nhiên có một số nguồn vốn ngắn hạn cũng tăng lên một cách tự động hay đồng thời cùng với việc mở rộng sản xuất và bán hàng. Đó là những nguồn vốn như phải trả người cung cấp, lương phải trả, thuế phải trả. Sự tăng lên của các nguồn này đã tự động tài trợ cho một phần sự tăng lên của tài sản lưu động. Chính vì vậy nhu cầu đòi hỏi tài trợ vốn tài trợ vốn từ bên ngoài vào tài sản lưu động thường nhỏ hơn sự tăng lên của bản thân nó.
Chúng ta có thể kết luận rằng: Trong trường hợp vốn lưu động ròng dương, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một nguồn tài trợ vượt quá số vốn đầu tư vào tài sản cố định để tài trợ cho sự tăng lên của tài sản lưu động.
b. Xác định luồng tiền thu của dự án ( luồng tiền vào):
Luồng tiền hoạt động sau thuế (dòng tiền sau thuế): Đối với mọi dự án đầu tư, mục tiêu đặt ra là phải tạo ra một lượng tiền trong suốt thời gian tồn tại của dự án không những đủ bù đắp chi phí đầu tư bỏ ra ban đầu, mà còn có phần dôi ra (lãi đầu tư ). Tất cả chi phí đầu và luồng tiền thu đều được tính trên cơ sở luồng tiền chiết khấu (quy các luồng tiền về giá trị hiện tại). Tuy nhiên, sau khi kết thúc giai đoạn đầu tư và dự án đi vào hoạt động, không phải giá trị đầy đủ của tất cả các luồng tiền hoạt động đầu tư thích hợp cho sự phân tích. Luồng tiền thích hợp ở đây là luồng tiền sẵn sàng cho việc sử dụng, tức là sẵn sàng cho việc chia lãi đầu tư. Luồng tiền như thế phải là luồng tiền hoạt động sau thuế.
Ký hiệu : CF : Dòng tiền dự án
D : Khấu hao;
TD : tiết kiệm thuế từ khấu hao;
R : Lãi vay;
TR : Tiết kiệm thuế từ lãi vay;
EBIT : Lợi nhuận trước thuế và lãi;
T : Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ta có : CF = EBIT + D; EBIT = CF - D
Lợi nhuận trước thuế = EBIT - R = CF - D - R;
Thuế thu nhập = T ( CF - D - R )
Dòng tiền sau thuế = CF - T ( CF - D - R )
= ( 1 - T ) CF + TD + TR
Tiết kiệm thuế từ khấu hao là phần thu nhập hoạt động, còn tiết kiệm thuế từ lãi vay phản ánh sự thật là dự án đầu tư được tài trợ bằng vốn vay, hay TR liên quan đến phương pháp tài trợ dự án. Mặc dù tiết kiệm thuế do lãi vay là một nguồn của dòng tiền sau thuế. Nhưng theo thông lệ kế toán nó được đưa vào chi phí sử dụng vốn. Sự thật là chi phí lãi vay bao hàm trong công thức tính chi phí trung bình của vốn (WACC) đã được điều chỉnh đối với thuế (chi phí nợ sau thuế). Do vậy, về lý luận cũng như trong thực tiễn, chúng ta sử dụng chi phí nợ sau thuế để tính WACC và sử dụng WACC để chiết khấu thu nhập ròng của dự án. Thu nhập ròng của dự án chính là dòng tiền sau thuế nhưng không tính phần tiết kiệm thuế do lãi vay.
Thu nhập ròng của dự án = ( 1 - T ) CF + TD
= (1 - T) lợi nhuận trước thuế + D + (1 - T) R
vì (1-T)R chính là chi phí nợ sau thuế đã tính WACC và sử dụng WACC để chiết khấu thu nhập ròng của dự án nên:
Thu nhập ròng của dự án = (1-T)lợi nhuận trước thuế + D
= Lợi nhuận sau thuế + D
Trong trường hợp sử dụng lãi vay trong tỷ lệ chiết khấu thì: Thu nhập ròng của dự án = LNST + D + R
Vấn đề về khấu hao: Trong kế toán, khấu hao là một loại chi phí làm giảm giá trị tài sản cố định được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy, được xem là một khoản chi phí nên khấu hao là chi phí kế toán. Đây là loại chi phí không xuất quỹ nên không được xem như một luồng tiền của dự án. Tuy khấu hao không phải là một luồng tiền, nhưng nó tác động đến luồng tiền một cách gián tiếp thông qua thuế. Mỗi khi mức khấu hao thay đổi nó sẽ tác động đến mức thuế phải nộp. Việc tăng chi phí khấu hao sẽ làm giảm số lượng thuế phải nộp, tức là tạo ra một sự tiết kiệm về thuế, và nhờ đó làm tăng luồng tiền sau thuế.
Khoản thu hồi vốn lưu động: Trong phần xác định luồng tiền đầu tư, chúng ta đã nói tới khoản đầu tư vào vốn lưu động ròng. Đây là phần tăng lên của tài sản lưu động ( các khoản phải thu là hàng tồn kho) đòi hỏi nguồn tài trợ từ bên ngoài. Khi kết thúc dự án hàng tồn kho được bán hết và không được thay thế, các khoản phải thu được chuyển thành tiền mặt, doanh nghiệp sẽ thu hồi được khoản vốn đã đầu tư vào vốn lưu động ban đầu. Luồng tiền thu hồi vốn đầu tư này được cộng vào luồng tiền hoạt động sau thuế để xác định luồng tiền ròng cuối cùng.
Giá trị thu hồi tài sản cố định: Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Các phuơng tiện, thiết bị sản xuất, nhà xưởng, khi dự án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán, sẽ có một luồng tiền cuối của dự án. Luồng tiền này cùng với các luồng tiền khác nói ở trên hợp thành luồng tiền ròng của dự án.
c. Sự khác nhau giữa thu nhập kế toán với luồng tiền dự án:
Trong dự án đầu tư, người ta quan tâm đến luồng tiền chứ không phải thu nhập kế toán. Nói chung giữa luồng tiền và thu nhập kế toán có sự khác nhau đáng kể. Các sự khác nhau này được thể hiện:
Khấu hao được thừa nhận trong kế toán khi tính vào thu nhập, nhưng không được thừa nhận là một luồng tiền của dự án, và đây không phải là chi phí bằng tiền thực tế.
Chi phí lãi vay là khoản vừa là chi phí vừa là chi tiêu bằng tiền thực sự, nhưng không được khấu trừ chi phí lãi vay vào doanh thu, vì chi phí lãi vay tượng trưng cho thời gian của tiền tệ và khoản tiền này đã được tính bằng cách chiết khấu dòng tiền tương lai. Khấu trừ tiền lãi vào dòng tiền cũng là tính lãi gấp đôi.
Chi phí thua lỗ vốn đầu tư của dự án trong quá khứ theo hạch toán kế toán vẫn là chi phí cho kỳ này tuy nhiên nó không được xem xét đến trong dự án mới.
Các chi phí quản trị chung được xem xét trong hạch toán dự án sẽ chỉ là những chi phí phát sinh trực tiếp từ dự án.
1.1.2.5. Nguồn tài trợ dự án
Hoạt động đầu tư bao giờ cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, phải có thời gian dài nên chủ đầu tư thường không chỉ dùng một nguồn vốn duy nhất để đầu tư mà để tài trợ cho một dự án, nhà đầu tư có thể khai thác ở các nguồn sau:
+ Nguồn tài trợ từ vốn ngân sách: chỉ đối với lĩnh vực đâù tư mang tính chất chính sách của kinh tế Nhà nước.
+ Nguồn vốn chủ sở hữu:
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp
Các quỹ của doanh nghiệp
Huy động vốn cổ phần phát hành thêm cổ phiếu…
+ Nguồn vốn đi vay theo các hình thức:
Vay của các tổ chức tín dụng
Phát hành trái phiếu.
Huy động và sử dụng nguồn vốn nào thì nhà đầu tư cũng phải bỏ ra một khoản chi phí được gọi là chi phí vốn.
Tuỳ theo quy mô đầu tư, nhu cầu vốn, chi phí vốn mà chủ đầu tư sẽ lựa chọn nguồn tài trợ cho dự án sao cho có thể tối đa giá trị tài sản chủ sở hữu.
1.1.3. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của ngân hàng thương mại:
1.1.3.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tỏ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện các nhiệm vụ đổi tiền, giữ hộ tiền, chi trả hộ và cho vay. Sự ra đời và hoạt động của ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển và tiến bộ của loài người. Ngân hàng xuất hiện không theo ý muốn chủ quan mà nó có cơ sở kinh tế là sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, và sự phát triển và trao đổi hàng hoá lại đặt ra những yêu cầu ngân hàng có những nghiệp vụ này nghiệp vụ kia.
Vai trò to lớn của hoạt động ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội được xuất phát từ đặc trưng của nó. Ngân hàng có những hoạt động đặc thù khác xa với các tổ chức kinh tế khác, điều này xuất phát từ chức năng kinh doanh tiền tệ với tư cách là một tổ chức trung gian tài chính.
Mô hình xuất phát của sự phát triển kinh tế là biến tiết kiệm thành đầu tư. Trên thực tế, để dẫn vốn từ tiết kiệm thành đầu tư có thể thông qua hai con đường là tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp ( thông qua các tổ chức trung gian tài chính trong đó đáng kể nhất là các ngân hàng thương mại ).
Mặc dù không phải là tổ chức trung gian tài chính duy nhất trong nền kinh tế trong quá trình hoạt động ngân hàng thương mại chứng tỏ được vai trò là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng vào bậc nhất bởi bề dày kinh nghiệm cũng như những lợi thế khác trong hoạt động.
Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
Huy động vốn:
Trong hoạt động Ngân hàng, vốn tự có thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn. Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ vốn ngân sách của Nhà nước cấp, vốn cổ phần, liên doanh liên kết, tự tích luỹ... tuỳ thuộc từng loại hình ngân hàng. Để thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng phải huy động vốn trong nền kinh tế như nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đồng thời trong những trường hợp cần thiết, để đáp ứng nhu cầu thanh toán, khoản đầu tư hay cho vay, ngân hàng cũng có thể đi vay Ngân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng khác.
Khi sử dụng vốn huy động, vốn vay, ngân hàng phải bỏ ra những chi phí nhất định: chi phí trả lãi, chi phí giao dịch, chi phí liên quan khác. Những chi phí này sẽ được bù đắp đồng thời ngân hàng thu lợi nhuận thông qua hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động ngân quỹ: là việc ngân hàng nắm giữ tiền mặt tại két, các khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại khác, tiền trong quá trình thu, theo quy định về dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương đồng thời để nhằm bảo đảm khả năng thanh toán, tránh rủi ro mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng, chính ngân hàng cũng để ra một khoản dự phòng... hoạt động này thường không sinh lời.
Hoạt động cho vay: Là sự thể hiện của quan hệ tín dụng- quan hệ tạm thời sử dụng vốn của nhau- quan hệ giữa ngân hàng và phần còn lại của nên kinh tế trên sự tin tưởng có vay có trả. Trong quan hệ này thì ngân hàng vừa là người cho vay vừa là người đi vay. Đây là hoạt động mang tính chất truyền thống của Ngân hàng.
Hoạt động đầu tư: Là hoạt động ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu công ty, trái phiếu chính phủ hoặc tham gia góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp để hưởng lãi suất hoặc chia lợi nhuận .
Hoạt động trung gian thanh toán: Trên cơ sở các mối quan hệ thiết lập với khách hàng, các ngân hàng trong nước cũng như các ngân hàng ngoài nước, ngân hàng thực hiện thanh toán qua: Hệ thống thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng ( với hệ thống ngân hàng ), phát hành các loại séc, thẻ ngân hàng, thực hiện trích tài khoản, chuyển khoản, thanh toán trực tiếp cho các cá nhân... Qua đó ngân hàng thu phí, tỷ trọng của hoạt động này ngày càng tăng.
Cung cấp các dịch vụ khác: Ngân hàng thương mại còn thu phí dịch vụ thông qua các hoạt động khác như: tư vấn đầu tư, bảo lãnh ( dự thầu thanh toán, phát hành chứng khoán...), làm đại lý, quản lý két... bới ngân hàng có những ưu thế về uy tín, trình độ chuyên môn nguồn thông tin và các mối quan hệ rộng khắp.
Giữa các hoạt động cuả Ngân hàng thương mại tồn tại mối quan hệ hữu cơ liên hệ trực tiếp với nhau. Ngân hàng có thể tăng cường cho vay, đầu tư khi huy động được nguồn vốn dồi dào và rẻ. Đồng thời, những khách hàng đối tác trong huy động vốn, cho vay, đầu tư (cá nhân, tổ chức kinh tế...) của ngân hàng thường sử dụng các dịch vụ khác ở ngân hàng này như thanh toán chuyển tiền. Ngược lại, chất lượng dịch vụ cao, phí phải chăng sẽ thu hút khách hàng, tăng nguồn vốn huy động cho ngân hàng, mở rộng thị trường cho vay, đầu tư...
Trên cơ sở nhu cầu phát triển của nền kinh tế và mối quan hệ gắn bó hữu cơ kể trên ngày nay các ngân hàng thương mại đều phát triển theo hướng đa năng, tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ trung gian ngày càng tăng bên cạnh sự vững mạnh và tăng trưởng của các hoạt động mang tính chất truyền thống.
1.1.3.2. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của Ngân hàng thương maị
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích nhất định với thời hạn xác định theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Với mục tiêu cung cấp vốn cho nền kinh tế với các đối tượng khác nhau, nhu cầu khác nhau, hoạt động cho vay được tiến hành theo nhiều hình thức:
Cho vay từng lần ( từng món ): Phương pháp này áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc đối với những khách hàng mà ngân hàng xét thấy cần phải áp dụng phương pháp này để dễ dàng giám sát kiểm tra và quản lý việc cho vay.
Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát tiền vay một lần hay nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu vốn thực tế của khách hàng. Mỗi lần nhận tiền vay khách hàng phải lập khế ước nhận nợ. Ngân hàng quản lý chặt chẽ doanh số cho vay để đảm bảo rằng tổng số tiền trên khế ước nhận nợ không vượt quá tổng số tiền ghi trên hợp đồng tín dụng ban đầu.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Khách hàng và ngân hàng xác định mức tín dụng tối đa được duy trì trong một thời gian xác định và theo đó dư nợ cuả khách hàng tại bất kỳ thời điểm nào đó không được vượt quá hạn mức đưa ra. Phương thức cho vay này thường được áp dụng với những khách hàng lớn, có nhu cầu vốn thường xuyên ( có dòng tiền tài chính ra vào tương đối ổn định ) và khách hàng này được ngân hàng tín nhiệm.
Cho vay trả góp: Ngân hàng và khách hàng xác định số tiền lãi vay phải trả cộng với số tiền nợ gốc. Tổng số tiền vay được chia ra để trả theo từng kỳ hạn trả nợ, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu bên vay khi họ đã hoàn trả hết nợ gốc và tiền lãi. Khách hàng vay theo phương thức này phải có phương án trả nợ khả ._.thi bằng các khoản thu nhập có cơ sở chắc chắn.
Cho vay theo dự án đầu tư: áp dụng cho nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Vay theo hình thức này khách hàng phải trả mức lãi suất cao phù hợp với tính rủi ro do thời gian cho vay vốn dài, ngoài ra còn phải trả phí cam kết nếu có yêu cầu ra hạn mức tín dụng.
Để ra quyết định tài trợ cho vay vốn ngân hàng quan tâm nhất đến việc thu hồi vốn vay và lãi vay, và mối quan tâm này đặc biệt quan trọng đối với phương thức cho vay theo dự án đầu tư bởi những đặc trưng của dự án đầu tư là:
Cho vay theo dự án thường đòi hỏi thời gian dài mà đi cùng với thời gian dài thì yếu tố rủi ro càng cao. Rủi ro xảy ra có thể do chủ quan hay khách quan. Chủ quan là về phía khách hàng vay vốn ( thay đổi trong kế hoạch sản xuất dự án đầu tư, bùng nợ, cố tình làm ăn kém hiệu quả để thu lợi ích riêng... ). Rủi ro mang tính khách quan là các yếu tố rủi ro thuộc về thị trường ( thay đổi sức mua, giá, sản phẩm cạnh tranh ), về cơ chế kinh tế, chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước...Rủi ro xảy ra dù theo nguyên nhân nào đều ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng thu nợ của ngân hàng, giảm hiệu quả dụng vốn, giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Mặt khác, dự án đầu tư thường đòi hỏi lượng vốn lớn, và để đảm bảo cho khoản vốn vay đó không phải lúc nào cũng có thể đảm bảo bằng tài sản bởi khó có thể tìm ra một tài sản có giá trị lớn hơn hoặc bằng giá trị khoản vốn vay tại thời điểm đó, hơn nữa nếu có thì khi xảy ra trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phát mại tài sản đó để thu hồi vốn. Do vậy, vốn cho vay theo dự án đầu tư thường được bảo đảm bằng chính tính khả thi của dự án. Và việc này đòi hỏi Ngân hàng phải hết sức coi trọng thẩm định dự án đầu tư để lựa chọn cho vay được các dự án có tính khả thi cao (cơ sở chắc chắn bảo đảm vốn ), đồng thời loại bỏ những dự án không có tính khả thi thực hiện phương châm hoạt động “An toàn, hiệu quả”.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại
Thẩm định dự án đầu tư
1.2.1.1.Thẩm định dự án đầu tư và vai trò của thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là quá trình phân tích, đánh giá một cách toàn diện, khoa học các khía cạnh của một dự án đầu tư để ra các quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hoặc tài trợ.
Mỗi dự án đầu tư đều chứa đựng nhiều nội dung kinh tế kỹ thuật rất phức tạp. Các nội dung này có mối quan hệ ràng buộc, tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau hình thành nên dự án đầu tư. Do vậy, bất cứ trục trặc nào tại một mặt nào đó đều ảnh hưởng tới các mặt khác và ảnh hưởng tới hiệu quả cuối cùng của dự án, thẩm định dự án đầu tư là phải xem xét các khía cạnh và đưa ra câu trả lời khía cạnh đó đã đảm bảo tính khả thi của dự án hay chưa.
Thực tế người thẩm định sẽ tiến hành kiểm tra, phân tích đánh giá từng phần và toàn bộ các mặt, các vấn đề có trong bản nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi trong mối liên hệ mật thiết với chủ dự án đầu tư và các giả thiết về môi trường mà dự án hoạt động trong đó. Thẩm định dự án có ý nghĩa giúp các dự án tốt không bị bác và dự án tồi không được chấp nhận. Tuy nhiên việc nhận định là dự án đó là tốt hay tồi, khả thi hay không khả thi... ở khía cạnh nào đó còn phụ thuộc vào góc độ của người thẩm định và khi đó họ sẽ đạt được những mục tiêu nhất định khi tiến hành thẩm định.
Đối với chủ đầu tư:
Sự sống cón của doanh nghiệp trong tương lai phụ thuộc phần lớn vào quyết định đầu tư ngày hôm nay. Do vậy, trước khi quyết định đầu tư chủ đầu tư phải xem xét kĩ lưỡng liệu các lợi ích dự kiến thu được từ dự án có tương ứng với chi phí bỏ ra hay không; mối quan tâm hàng đầu của họ là độ lớn và tính chắc chắn của luồng tiền trong tuơng lai nhằm tối đa hoá lợi ích tài chính ( giá trị tài sản chủ sở hữu ). Vì vậy thẩm định dự án đầu tư giúp họ tìm được dự án đầu tư tối ưu, tính khả thi cao trên cơ sở phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp và khả năng tìm nguồn tài trợ, giảm chi phí chuẩn bị và thực hiện đầu tư.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Trên góc độ của toàn nền kinh tế quốc dân, phù hợp với mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước thì việc thẩm định phải dựa trên quan điểm lợi ích và chi phí xã hội là chính, quan tâm đến sự phù hợp của dự án trong chiến lược phát triển vùng ngành kinh tế, các vấn đề tác động môi trường, công ăn việc làm... để từ đó ra quyết định chấp nhận việc thực hiện dự án và đánh giá dự án sau khi đã hoàn thành.
Đối với người tài trợ:
Một dự án thường kéo dài đòi hỏi một lượng vốn lớn và bị chi phối bởi nhiều yếu tố mà trong tương lai có thể sẽ biến động khó lường. Những con số tính toán cũng như những nhận định đưa ra trong dự án ( khi lập dự án ) chỉ là ước tính, dự kiến bởi vậy nên chứa đựng ít nhiều yếu tố chủ quan của người lập dự án. Người lập dự án có thể là chủ đầu tư hoặc cơ quan tư vấn do chủ đầu tư thuê lập dự án trên cơ sở ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ đầu tư. Các nhà soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp ( với mục tiêu xác định ) để nhìn nhận vấn đề của dự án nên dễ bỏ qua một số yếu tố liên quan, để làm cho dự án trở nên khả thi nhằm đạt được sự ủng hộ và tài trợ từ bên ngoài. Như vậy, dự án do chủ đầu tư lập có tính khả thi trước hết sẽ đứng trên quan điểm lợi ích riêng của họ.
Trên góc độ nhà tài trợ bên cạnh mục tiêu nhằm đóng góp cho sự phát triển của đất nước, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện dự án mang lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội thì bản thân nhà tài trợ cũng luôn xem xét đến lợi ích riêng của mình, đó là sự bảo toàn và khả năng sinh lời từ đồng vốn mình bỏ ra. Do vậy đối với nhà tài trợ thẩm định dự án đầu tư cũng là rất cần thiết để tìm ra dự án khả thi mà nếu bỏ vốn sẽ đem lại lợi ích cho mình.
Các ngân hàng và tổ chức tín dụng với tư cách một trung gian tài chính - một nhà tài trợ cho nền kinh tế thì việc thẩm định dựa án đầu tư đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy vai trò, chức năng của mình: Phát triển kinh tế vững mạnh trên cơ sở hoạt động an toàn và hiệu quả.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư phải đưa ra được cái nhìn tổng quát các vấn đề của một dự án và thường được tiến hành trên các khía cạnh sau:
Thẩm định khía cạnh pháp lý:
Việc thẩm định này nhằm khẳng định cơ sở pháp lý cuả dự án, kiểm tra tính đầy đủ hợp lý, hợp lệ của những hồ sơ liên quan đến dự án đầu tư như: Giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh, giấy tờ chứng minh về khả năng tài chính của chủ đầu tư... Đồng thời xem dự án trong mối liên hệ với việc thực hiện kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho vùng, ngành quốc gia, mục tiêu của dự án có phù hợp với định hướng phát triển hay không. Từ đó kết luận dự án có được thực hiện hay không.
Thẩm định thị trường:
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho sản phẩm của dự án.
Với thị trường đầu vào, cần kiểm tra phân tích khả năng nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho dự án, nguồn cung cấp lao động và các yếu tố khác theo yêu cầu của dự án; xác định các nhân tố ảnh hưởng trên cơ sở đó chỉ ra được sự đảm bảo và phù hợp của các phương án dự phòng, xử lý những nhân tố đó.
Bên cạnh đó, thẩm định thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng phải được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học bởi đây là khâu hết sức quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của dự án.
Cần phân tích đánh giá quan hệ cung cầu về sản phẩm của dự án tại thời điểm hiện tại và tương lai, xác định thị trường chủ yếu cho sản phẩm so sánh giá thành sản phẩm, giá bán sản phẩm của dự án với giá cả thực tế trên thị trường cả trong hiện tại và tương lai, để xác định khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm, xác định lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, dự báo những biến động về giá cả... để từ đó xác định quy mô sản xuất, quy mô đầu tư, lựa chọn thiết bị công nghệ cho phù hợp. Tuy nhiên, đây là khâu thẩm định hết sức phức tạp nhưng cũng hết sức quan trọng, để có được những đánh giá toàn diện, chính xác về khía cạnh này cần phải thu thập đầy đủ thông tin, có sự kết hợp tình hình thực tế với số liệu thống kê cũng như các định hướng chỉ đạo, các chính sách từ phía Nhà nước, các ngành và địa phương về các vấn đề liên quan.
Thẩm định khía cạnh công nghệ - kỹ thuật:
Xem xét mức độ hiện đại của công nghệ, sự phù hợp của công nghệ với điều kiện thực tế và các yêu cầu sản xuất sản phẩm, đánh giá về tính hữu hiệu của thiết kế dự án và tìm ra cách giải quyết hay quản lý, kiểm tra tính đồng bộ, phù hợp của máy móc thiết bị với quy mô và công nghệ của dự án, tính hợp lý của nội dung, tiến độ các hạng mục trong xây dựng cơ bản...
Phân tích kỹ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích mặt kinh tế tài chính, không có số liệu của phân tích kỹ thuật thì không thể tiến hành phân tích mặt kinh tế tài chính tuy rằng các thông số kinh tế có ảnh hưởng đến các quyết định về mặt kỹ thuật.
Quyết định đúng đắn trong khâu thẩm định này giúp tiết kiệm được các nguồn lực do lựa chọn được những dự án khả thi về mặt kỹ thuật, đồng thời tránh gây tổn thất nguồn lực và bỏ lỡ cơ hội tăng nguồn lực. Chi phí đòi hỏi cho khâu thẩm định này cũng lớn thường chiếm trên dưới 80% chi phí nghiên cứu khả thi và chiếm từ 1-5% tổng chi phí đầu tư.
Thẩm định khía cạnh tổ chức, quản lý:
Đây là công việc cần thiết bởi chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tổ chức quản lý trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, với dự án đầu tư, nó tác động đến tiến độ thực hiện dự án và kiểm soát quy mô, phạm vi dự án... Điều đó đòi hỏi phải kiểm tra, xem xét số lượng, chất lượng lao động xem có thể đáp ứng cho việc vận hành có hiệu quả dự án hay không, đánh giá tính hợp lý của bộ máy quản lý hành chính, hệ thống phòng ban,xưởng...
Thẩm định khía cạnh tài chính dự án:
Thẩm định tài chính nhằm đánh giá khả năng sản sinh nguồn thu nhằm đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của dự án, thông qua việc tổng hợp các biến số tài chính, kỹ thuật đã được tính toán trong phần thẩm định trước để đưa ra những bảng dự trù tài chính, tính toán những chỉ tiêu tài chính tổng hợp và đây là những số liệu đầu vào cho việc tính toán hiệu quả kinh tế xã hội dưới đây.
Đối với chủ đầu tư: Mục đích của việc xem xét mặt tài chính dự án đầu tư là:
Xem xét nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
Xem xét tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch toán kinh tế của đơn vị thực hiện dự án. Có nghĩa là xem xét những chi phí sẽ và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết thúc dự án, xem xét những chi phí sẽ và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết thúc dự án, xem xét những lợi ích mà doanh nghiệp thực hiện dự án sẽ hoặc phải đạt được do thực hiện dự án.
Đối với nhà tài trợ: Việc thẩm định tài chính dự án đầu tư nhằm đánh giá trực tiếp khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng (Lãi và gốc); đồng thời thẩm định tài chính dự án đầu tư Ngân hàng đánh gía được hiệu quả sử dụng vốn cuả mình. Có thể nói đây là khâu quan trọng nhất trong nội dung thẩm định dự án đầu tư. Nó là cơ sở ra quyết định chấp nhận cho vay hay từ chối đối với dự án.
Thẩm định khía cạnh kinh tế - xã hội:
Đây là một nội dung mà các cơ quan quản lý Nhà nước rất quan tâm, xem xét lợi ích mà dự án đem lại cho nền kinh tế và tìm cách tối đa hoá lợi ích đó. Nguyên tắc thẩm định cũng giống như thẩm định tài chính, đó là cân đối giữa lợi ích và chi phí của dự án. Song điểm khác biệt ở đây là quan niệm về lợi ích và chi phí trên góc độ xã hội. Lợi ích là những đóng góp thực sự của dự án vào phúc lợi chung của quốc gia; chi phí là những khoản chi làm tiêu hao nguồn lực thực sự của nền kinh tế. Do đó, khi lấy những chỉ tiêu từ thẩm định tài chính phải có những điều chỉnh nhất định về giá tính toán, về thuế...
Việc thẩm định ngoài việc chỉ ra đóng góp của dự án vào mục tiêu kinh tế -xã hội như tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập xác định đối tượng hưởng lợi hay chịu chi phí một cách đầy đủ, nghiêm túc tác động của môi trường - xem mức độ ảnh hưởng đến môi trường có thể chấp nhận được không và đưa ra các giải pháp cải thiện nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.
Các nội dung thẩm trên đối với một dự án đầu tư là hết sức cần thiết không thể bỏ qua bất kỳ khâu thẩm định nào bởi mỗi một khía cạnh đều có ảnh hưởng đến sự tồn tại của dự án. Mặt khác, các nội dung thẩm định có mối liên hệ mật thiết với nhau: những nhận xét đánh giá, tính toán ở mặt này có thể là cở sở cho việc phân tích mặt khác và sự phù hợp giữa các yếu tố của dự án đương nhiên là sự cần thiết. Ví dụ thẩm định thị trường cho những nhận định về chi phí nguyên vật liệu, đánh giá sức tiêu thụ sản phẩm - là cơ sở đưa ra dự tính về các dòng tiền trong thẩm định tài chính.
Thẩm định môi trường đưa ra số liệu về những khoản chi phí bỏ ra trong những năm nhất định để xử lý các vấn đề liên quan. Thẩm định thị trường đưa ra số liệu về lượng vốn đầu tư và giải pháp lựa chọn nguồn tài trợ.
Như vậy, các nội dung không thể chỉ được xem xét một cách phiến diện độc lập nhau. Tuy nhiên, thẩm định dự án đầu tư là một công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tiêu tốn thời gian, công sức và tiền bạc. Vì thế để tiết kiệm được nguồn lực, người ta thường tiến hành thẩm định từng bước, nếu dự án không được chấp thuận ở một khâu nào đó thì sẽ lập tức bị loại bỏ luôn mà không cần tiến hành thẩm định ở các khâu tiếp theo. Về nguyên tắc các khâu thẩm định đỏi hỏi tiêu tốn ít thời gian công sức, tiền bạc nhất sẽ được tiến hành trước để nhằm hạn chế tiêu tốn nguồn lực. Nhìn chung khâu thẩm định tài chính kinh tế dự án thường được tiến hành sau khi đã hoàn thành các khâu thẩm định khác.
Mặc dù tất cả các khía cạnh đều phải được xem xét nhưng đứng trên quan điểm khác nhau, các chủ thể liên quan sẽ đặt ra các vấn đề, nội dung thẩm định có ý nghĩa nhất đối với họ. Đối với các ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư đưa đến xin vay vốn thường rất đa dạng, với nhiều phạm vi, lĩnh vực, quy mô khác nhau. Trong điều kiện khả năng có hạn, đặc biệt đối với ngân hàng khi không chuyên sâu trong việc cho vay phát triển một lĩnh vực cụ thể nào thì ngân hàng khó có thể thẩm định tất cả các khía cạnh của một dự án một cách thấu đáo. Trong tất cả các nội dung thẩm định dự án đầu tư thì khâu thẩm định tài chính dự án sẽ được ngân hàng coi là quan trọng nhất và được thực hiện kỹ lưỡng nhất.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại
Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải xem xét, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính, xem xét cá kế hoạch tài chính của dự án có đem lại hiệu quả kinh tế hay không.
1.2.2.1. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại
Các chủ đầu tư tìm đến Ngân hàng thương mại vơi nhu cầu được vay vốn tài trợ cho dự án đầu tư của mình do họ không có đủ khả năng tài chính tại thời điểm đó hoặc muốn sử dụng đòn bẩy tài chính ( sử dụng nợ ). Ngân hàng thương mại, với tư cách là người cung ứng ( người tài trợ ) vốn, sẽ phải tự tổ chức việc thẩm định dự án cho mình chứ không dựa trên kết quả thẩm định của chủ đầu tư bởi kết quả đó mang nhiều ý chí chủ quan của nhà đầu tư.
Trong khâu thẩm định của mình Ngân hàng thương mại coi trọng nhất đến khâu thẩm định tài chính dự án đầu tư, nó phản ánh trực tiếp khả năng sinh lời của đồng vốn dựa trên những chỉ tiêu tài chính an toàn hơn nữa nó cũng phù hợp với thế mạnh về chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm của ngân hàng thương mại.
Ngày nay do nhu cầu từ nền kinh tế, các ngân hàng thương mại không chỉ tiến hành thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của mình mà còn tiến hành thẩm định phục vụ cho việc tư vấn và hoạt động bảo lãnh với mục đích tìm ra các dự án khả thi nhưng sẽ đứng trên góc độ khác nhau để tiến hành thẩm định, trong phạm vi bài viết chỉ xin đề cập đến công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phục vụ cho hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Phù hợp với mục tiêu chung của nền kinh tế quốc dân là tăng trưởng và bền vững trong hoạt động sử dụng vốn của mình ( đặc biệt là hoạt động cho vay ) các ngân hàng thương mại phải hết sức coi trọng khâu thẩm định tài chính dự án:
Thông qua thẩm định tài chính dự án đầu tư Ngân hàng thương mại sẽ đánh giá được nhu cầu vay vốn của dự án, tính hợp lý của việc sử dụng vốn đầu tư, hiệu quả tài chính mà dự án mang lại và khả năng trả nợ của các dự án. Kết luận đưa ra chủ yếu dựa vào sự phân tích về dòng tài chính ( lợi ích và chi phí ) của dự án đầu tư.
Thực tế ngân hàng quan tâm nhất đến khả năng trả nợ đích thực của dự án (lãi và gốc ) mặc dù nó liên quan chặt chẽ đến hiệu quả tài chính của dự án. Qua thẩm định tài chính, ngân hàng phải lựa chọn và tìm ra những dự án đầu tư có hiệu quả tài chính để cho vay. Bởi chỉ khi cho vay những dự án đầu tư có hiệu quả thì ngân hàng mới có khả năng thu hồi vốn và lãi, mới bảo đảm giá tăng lợi nhuận đồng thời bảo toàn vốn để không ngừng tăng trưởng và phát triển.
Thông tin số liệu trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hay các báo cáo tài chính có thể không phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể quá lạc quan về tình hình kinh doanh trong những năm tới hay tính toán không đầy đủ các yếu tố chi phí để làm tăng hiệu quả của dự án. Vì vậy, việc thẩm định tài chính dự án đầu tư do chủ đầu tư mang đến lại là rất cần thiết để ngân hàng xem xét lại cơ sở an toàn cho đồng vốn của mình thông qua việc thẩm tính thực tế của các số liệu, thông tin.
Là đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng, hứa hẹn khả năng sinh lời cao nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro đặc biệt trong hoạt động cho vay trung dài hạn, nên việc nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro là mục tiêu cuả bất cứ ngân hàng nào, nó quyết định sự tồn tại và phát triển Ngân hàng. Một trong những hoạt động nhằm đạt mục tiêu đó là phải tiến hành thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển nền kinh tế đang ngày càng mở rộng cũng là nhu cầu vốn tín dụng trung dài hạn rất lớn, trình độ dân trí nói chung và trình độ quản lý kinh tế nói riêng còn hạn chế, hệ thống pháp luật chưa chặt chẽ đòi hỏi ngân hàng thương mại phải hết sức coi trọng công tác thẩm định dự án đầu tư đặc biệt là thẩm định về mặt tài chính để góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động ngân hàng.
1.2.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Mục đích của việc thẩm định tài chính dự án đầu tư là xem xét đánh gía nhu cầu và sự bảo đảm các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư, đồng thời xem xét tình hình kết quả và hiệu quả hoạt động của dựa án. Nhưng để đạt được điều này việc thẩm định tài chính dự án đầu tư phải dựa trên những cơ sở sau đây:
a. Về cơ sở số liệu:
Thông tin số liệu dùng trong việc thẩm định tài chính dự án đầu tư chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh những năm gần đây; nguồn này nhằm cung cấp cơ sở để tính toán các chỉ tiêu tài chính phản ánh khả năng bảo đảm thực hiện dự án và vốn vay của ngân hàng. Kèm theo đó là các bản kế hoạch trả nợ của chủ đầu tư và bảng quyết toán tổng hợp về vốn đầu tư, chi phí, thu nhập... dự kiến phát sinh từ dự án và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật có liên quan đến dự án. Đây là cơ sở đánh giá tính khả thi và đánh giá hiệu quả của dự án về mặt tài chính.
Tuy nhiên, việc thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng không thể dựa hoàn toàn vào các số liệu thông tin từ các tài liệu trên do chủ đầu tư cung cấp. Bởi như đã đề cập ở trong nội dung những tài liệu này đã chứa đựng yếu tố chủ quan của chủ đầu tư nên vấn đề đặt ra là thẩm định tài chính dự án đầu tư phải trú trọng đến việc thẩm định tính chính xác, thực tiễn của các số liệu làm cơ sở vững chắc cho việc thẩm định tiếp theo.
b. Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư:
b.1. Tổ chức công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư:
Nhìn chung việc tổ chức thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng và thẩm định dự án nói chung phải phù hợp với việc tổ chức hoạt động của từng ngân hàng, nó do từng ngân hàng quy định thể hiện qua việc quy định chức năng, nhiệm vụ của từng phòng. Các ngân hàng sẽ chọn và tổ chức thẩm định theo các phương thức khác nhau, xuất phát từ cách tiếp cận thông tin khác nhau, cách thức quản lý khách hàng và thông tin khách hàng khác nhau, nhưng nhìn chung quy trình thẩm định một dự án gồm có:
Thẩm định trước khi cho vay: đây là quá trình thẩm định trước khi cho vay gồm các công việc như đọc hồ sơ vay vốn kỹ lưỡng, xen xét mức độ trung thực của khách hàng và khả năng tài chính của khách hàng trong những năm gần nhất; xem xét dự án đầu tư về mặt vật chất; đến cơ sở xin vay để tận mắt xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh của người xin vay, từ đó xem xét tính chính xác trung thực của các báo cáo tài chính, trách nhiệm của khách hàng và quá khứ tín dụng của khách hàng ( trước đây vay nợ và trả nợ như thế nào... ). Ngân hàng thông qua các cơ quan chủ quản của bên vay để nắm được những thông tin này.
Thẩm định trong khi cho vay: Đó là quá trình thẩm định khi đã cho vay, khách hàng đã đang sử dụng tiền vay bao gồm: việc giám sát xem việc sử dụng tiền vay có đúng mục đích hay không thông qua các hệ thống giấy tờ, báo cáo lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ... nhằm mục đích khuyến khích khách hàng hoạt động có hiệu quả để đảm bảo an toàn tiền vay, hạn chế tiền vay qua tay người thứ ba, biện pháp sử dụng trong công việc này là đòi hỏi có bảo đảm tiền vay. Nếu là sự đảm bảo bằng hình thức thế chấp tài sản thì trong giai đoạn này, ngân hàng phải đảm bảo tình trạng của tài sản thế chấp sao cho giá trị tài sản không thay đổi quá nhiều so với lúc đánh gía ban đầu. Nếu không ngân hàng phải quản lý tài sản hình thành từ nguồn vốn vay tránh sự sử dụng tuỳ ý của khách hàng.
Trong quá trình này, ngân hàng phải nỗ lực thu hồi các khoản thanh toán đúng kỳ hạn, theo định kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng để đánh giá khả năng trả nợ.
Thẩm định sau quá trình cho vay: Khi kết thúc quá trình trả nợ các bên đã thực hiện đúng cam kết như trong hợp đồng thì về phía ngân hàng vẫn nên thực hiện thẩm định để tìm hiểu tình trạng thực tế của quá trình thực hiện dự án, từ đó có được những tổng kết, rút ra những kinh nghiệm phục vụ cho việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu tham số cho quá trình thẩm định sau này.
b.2. Nội dung thẩm định tài chính của dự án đầu tư:
Thẩm định tài chính dự án đầu tư xác định gía trị hiện tại của các luồng chi phí và lợi ích tài chính xuất hiện trong cuộc đời của dự án có tính đến gía trị thời gian của tiền. Thu nhập ròng của các luồng tiền tài chính này sẽ được so sánh với chi phí bỏ ra ban đầu và xem xét sự bù đắp có thoả đáng không.
Ngân hàng sẽ đi vào thẩm định tài chính dự án đầu tư theo các nội dung sau:
Bước 1: Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cho dự án.
Bước 2: Xem xét các bảng dự toán tài chính và phân tích tài chính.
Bước 3: Đánh gía hiệu quả tài chính dự án đầu tư.
Bước 4: Cân đối khả năng trả nợ.
Cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cho dự án:
Thứ nhất: Phải xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư cho dự án. Khi một dự án đầu tư đưa lên ngân hàng xin vay vốn thì dự án đó đã được nhiều cấp xem xét, phê duyệt, tổng vốn đầu tư đã được xác định. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn tiến hành xem xét lại trên cơ sở những kết quả thẩm định ở các khiá cạnh khác của ngân hàng.
Điều này rất quan trọng bởi vì vốn đầu tư sẽ tạo điều kiện cho dự án được thực hiện một cách thuận lợi, thông suốt, từ đó nâng cao hiệu quả của dự án. Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư cũng như hoạt động vận hành kết quả đầu tư sau này. Ngược lại, thừa vốn đầu tư sẽ gây lãng phí vốn, giảm hiệu quả tài chính cuả dự án.
Tổng vốn đầu tư cần thiết cho dự án bao gồm:
+ Vốn đầu tư cố định: chi phí ban đầu về mặt bằng, giá trị nhà xưởng và cơ sở hạ tầng sẵn có, chi phí xây dựng mới...
+ Vốn lưu động ban đầu: là các chi phí để tạo ra tài sản lưu động, các điều kiện để dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế kỹ thuật dự tính: dự trữ sản xuất ( nguyên, nhiên vật liệu... ), dự trữ bán thành phẩm, thành phẩm tồn kho, các khoản thuộc quỹ tiền mặt...
Thứ hai: Phải xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, khả năng đảm bảo từ mỗi nguồn từ đó xác định số vốn mà ngân hàng cần phải tài trợ.
Các nguồn tài trợ cho dự án có thể là nguồn vốn do ngân sách cấp, vốn vay ngân hàng, vốn liên doanh... Vì vậy, khi thẩm định cơ cấu nguồn vốn, ngân hàng cần phải làm rõ mức vốn đầu tư cần thiết từ từng nguồn để đi sâu tìm hiểu khả năng hiện thực của các nguồn đó.
Đối với các dự án được ngân sách hỗ trợ vốn một phần hay cấp phát thì cần xem xét các cam kết đảm bảo của các cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn này.
Đối với nguồn vốn vay các tổ chức tín dụng thì phải tính đến độ tin cậy về khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng đã cam kết cho vay.
Nếu là vốn tự có thì ngân hàng cần kiểm tra, phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ba năm trước đây và hiện tại, chứng tỏ rằng cơ sở đã đang và sẽ tiếp tục hoạt động có hiệu quả, có tích luỹ và do đó đảm bảo cơ cấu vốn để thực hiện dự án.
Với những dự án có sử dụng vốn vay nước ngoài, ngân hàng tập trung xem xét các điều kiện cho vay; lãi suất cố định hay thả nổi, các loại chi phí liên quan, phương thức và kỹ thuật chuyển vốn...
Sau khi kiểm tra tính hiện thực của các nguồn vốn, xác định lịch trình rút vốn từ các nguồn khác, ngân hàng thương mại sẽ phải xác định được số vốn mà ngân hàng cần tài trợ và kế hoạch bỏ vốn của mình.
Bước hai sẽ xem xét các bảng dự toán tài chính và phân tích tài chính. Trong nội dung này, ngân hàng sẽ thẩm định tính chính xác, hợp lý, hợp lệ của các bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dựa trên nội dung của luận chứng kinh tế kỹ thuật và các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật, dựa trên kết quả thẩm định các mặt thị trường, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế xã hội của ngân hàng. Các bảng tài chính được thẩm định thông thường bao gồm:
Bảng dự trù chi phí sản xuất.
Bảng dự trù lời lỗ.
Bảng dự trù tổng kết tài sản.
Bảng dự trù cân đối thu chi.
Các bảng này là cơ sỏ để ngân hàng thương mại thực hiện việc phân tích tài chính và tính toán các luồng tiền nên được xem xét rất kỹ tính chính xác và hợp lý.
Trên cơ sở các bảng dự toán tài chính, ngân hàng thương mại tiến hành phân tích tài chính dự án đầu tư dể thấy được tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động cuả dự án qua các năm. Việc phân tích tài chính thưòng được sử dụng các phương pháp sau:
Phân tích các tỷ lệ tài chính:
Các tỷ lệ tài chính thường được phân ra làm 4 nhóm:
Tỷ lệ về khả năng thanh toán:
+ Khả năng thanh toán hiện hành.
+ Khả năng thanh toán nhanh.
Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn:
+ Vốn tự có / Tổng vốn đầu tư
+ Vốn vay / Tổng vốn đầu tư.
Tỷ lệ về khả năng hoạt động:
+ Vòng quay tiền.
+ Vòng quay dự trữ.
+ Kỳ thu tiền bình quân.
+ Hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
Tỷ lệ về khả năng sinh lời:
+ Doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
+ Doanh lợi vốn tự có.
+ Doanh lợi vốn.
Trong các phương pháp phân tích tài chính thì phân tích tỷ lệ tài chính là phương pháp truyền thống và áp dụng rộng rãi, có tính hiện thực cao.
Phân tích các luồng tiền mặt:
Phân tích tài chính dự án đầu tư quan tâm tới lượng tiền đi vào và đi ra từ các dự án hay còn gọi là các luồng tiền của dự án. Đảm bảo cân đối các luồng tiền này là một mục tiêu quan trọng của phân tích tài chính dự án.
Trên cơ sở bảng dự trù cân đối thu chi, ngân hàng biết được tại thời đỉm nào tiền mặt cuả dự án tăng, giảm, nguyên nhân thay đổi dòng tiền.
Điều này rất có ý nghĩa vì các dòng tiền mặt đảm bảo cho dự án vận hành một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Nếu dòng tiền mặt bị ngưng trệ thì hoạt động của dự án sẽ cực kỳ khó khăn, thậm chí là thất bại hoàn toàn.
Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian: kết quả kinh doanh trước thuế, kết quả kinh doanh sau thuế.
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn:
Phương pháp này cho ta thấy được việc tăng lên của tài sản hay nguồn vốn có hợp lý hay không, nếu không hợp lý thì phải tìm cách điều chỉnh.
Trong quá trình phân tích tài chính, ngân hàng có thể áp dụng phương pháp này hay phương pháp khác, có thể tính toán toàn bộ các chỉ tiêu hay một vài chỉ tiêu cần thiết tuỳ thuộc vào điêù kiện của từng dự án cụ thể.
Bước ba là đánh gía tài chính dự án đầu tư: Để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư người ta thường sử dụng phương pháp sau:
Phương pháp giá trị hiện tại ròng NPV.
Phương pháp tỷ suất nội hoàn IRR.
Phương pháp thời gian hoàn vốn PP.
Phương pháp tỷ suất sinh lời PI.
Phương pháp phân tích điểm hoà vốn.
Phương pháp gía trị hiện tại ròng NPV ( Net present value ):
Gía trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với gía trị hiện tại của vốn đầu tư:
CF 1 CF 2 CF n
NPV = - P + + + ........ +
( 1 + r ) ( 1 + r )2 ( 1 + r )n
Trong đó: P : là khoản đầu tư ban đầu.
CF 1, CF 2,........ , CF n : là các luồng tiền ròng dự tính trong tương lai.
Và r là tỷ lệ chiết khấu.
Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng để xác định giá trị hiện tại ròng của luồng tiền kỳ vọng trong tương lai phải xứng với mức độ rủi ro của một dự án đầu tư. Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu riêng của từng dự án là một công việc rất phức tạp. Trong phần này, chúng ta cần hiểu rằng tỷ lệ chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp trả cho rủi ro, rõ ràng là khi rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của doanh nghiệp và chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án thì tỷ lệ chiết khấu thích hợp bằng với chi phí trung bình của vốn WACC.
ý nghĩa: NPV đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính mà dự án đem lại cho nhà đầu tư với mức độ rủi ro cụ thể của dự án. Đây là phương pháp được sử dụng nhiều ở các nước.
Cách sử dụng của NPV:
Khi một dự án đầu tư độc lập về mặt kinh tế với các dự án khác của doanh nghiệp thì sự chấp thuận hay loại bỏ dự án đó phụ thuộc vào giá trị của NPV.
NPV > 0 : chấp thuận dự án.
NPV < 0 : loại bỏ dự án
NPV = 0 : doanh nghiệp sẽ tuỳ theo sự cần thiết của nó đối với công ty mà ra quyết định.
Trong thực tế nhiều khi doanh nghiệp ._.tự điển hình (không chỉ những dự án do ACB thẩm định mà cả những Ngân hàng khác đã từng thẩm định). Ngân hàng không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay, tránh tình trạng tính thừa hay tính thiếu.
Về phương pháp thẩm định:
Ngân hàng cần tham khảo và áp dụng những phương pháp thẩm định hiện đại đang được áp dụng trên thế giới song phù hợp với khả năng và điều kiện của Ngân hàng cũng như điều kiện Việt Nam, đó là tiến hành thẩm định dự án đầu tư trong trạng thái động có nghĩa là có tính đến giá trị thơì gian của dòng tiền, những rủi ro thị trường đầu ra và đầu vào, lạm phát, tỷ giá... để đánh giá độ bền của dự án.
Khi tiến hành thẩm định phương diện tài chính, Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính. Việc vận dụng tính các chỉ tiêu này cần đúng và đủ song quan trọng hơn là cán bộ thẩm định phải đưa ra được những đánh giá, kết luận từ các chỉ tiêu đó và lựa chọn tiêu chuẩn chấp nhận dự án một cách chính xác, phù hợp với từng loại ngành nghề, đôi khi có sự ưu tiên về một khía cạnh nào đó của dự án.
Khi tính toán chi phí sản xuất cho dự án, cán bộ thẩm định nên lập bảng tính lãi vay dựa trên dư nợ còn lại, việc tính lãi vay như vậy sẽ mang tính thực tế hơn. Việc tính khấu hao tài sản cố định cần thực hiện theo đúng quy định của Bộ tài chính. Dự trù thu nhập - chi phí phải được lập theo từng năm, tránh tình trạng san đều như nhau qua các năm. Trong quá trình lập dự trù thu nhập, chi phí, cán bộ thẩm định thường lấy theo giá trị trung bình của các biến số với độ chính xác không cao. Vì vậy, để tránh việc chấp nhận những dự án quá lạc quan, người ta thường sử dụng những ước tính với xu hướng giảm bớt doanh thu và tăng chi phí.
Dựa trên cơ sở lý luận đã trình bày ở trên, cùng với tình hình thực tế và khả năng ứng dụng, Ngân hàng nên áp dụng hệ chỉ tiêu đánh giá bao gồm: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), chỉ số doanh lợi (PI), thời gian hoàn vốn có chiết khấu, điểm hoà vốn qua các năm, phân tích rủi ro... bằng các ứng dụng chương trình phần mềm máy tính.
Giải pháp về con người
Nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định tín dụng và thường xuyên cập nhật những quy định của Nhà nước là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Tuân thủ các pháp lệnh của Nhà nước còn giúp Ngân hàng có thể bảo vệ lợi ích của mình trong một số lĩnh vực mà ngân hàng không đủ khả năng chuyên môn để thẩm định.
Con người là yếu tố trung tâm, cội nguồn của mọi vấn đề. Chất lượng thẩm định dự án phụ thuộc phần lớn vào yếu tố này. Bởi chiến lược con người là chiến lược lâu dài nên Ngân hàng cần có sự đầu tư quan tâm thường xuyên đến đội ngũ cán bộ điều hành hoặc trực tiếp tham gia thẩm định. Để xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định vững mạnh, ACB cần chú ý:
Đứng trên góc độ ngân hàng, cán bộ thẩm định cần phải nắm chắc các quy định do Nhà nuớc ban hành, cụ thể như:
+ Quy định về dự toán vốn đầu tư.
+ Quy định về đấu thầu.
+ Quy định về bảo vệ môi trường.
+ Quy định về kế hoạch, kiến trúc và xây dựng.
+ Quy định về các chế độ tài chính đối với tùng loại hình doanh nghiệp để đảm bảo các khoản mục chi phí của doanh nghiệp khi đi vào vận hành sản xuất kinh doanh là hợp lệ và được các cơ quan tài chính chấp nhận.
+ Quy định về khấu hao tài sản cố định, chế độ tiền lương tiền thưởng.
+ Quy định về tiền thuê đất, sử dụng đất, tiền thuê bao.
+ Những quy định về miễn giảm ưu đãi, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư.
Cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ thẩm định một cách cụ thể để có chính sách tuyển chọn, đào tạo sắp xếp cán bộ một cách hợp lý. Đổi mới cán bộ theo hướng chuyên môn hoá. Công tác chuyên môn hoá phải căn cứ vào năng lực, sở trường của cán bộ để phân công công việc, không nên phân theo số khách hàng hay theo địa bàn kinh tế. Yêu cầu này xuất phát từ kinh nghiệm và những hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn liên quan đến ngành nghề mà cán bộ thẩm định đang phụ trách.
Cần có chế độ kiểm tra, hàng năm tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ để lựa chọn ra những cán bộ giỏi về chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp làm nòng cốt cho việc thẩm định những dự án quan trọng cũng như tìm ra những thiếu sót, hạn chế để có biện pháp đào tạo bổ sung.
Đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo bằng việc tổ chức đào tạo một cách có hệ thống cho các cán bộ thẩm định về chuyên môn cũng như các lĩnh vực khác: ngoại ngữ, vi tính, quản lý, kiến thức vĩ mô về thị trường, pháp luật, công nghệ thông tin... Ngân hàng có thể đề nghị sự giúp đỡ, phối hợp của các trường đại học, các chuyên gia giàu kinh nghiệm cùng soạn thảo một chương trình đào tạo chặt chẽ, có hiệu quả. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích cán bộ tự đào tạo nâng cao trình độ bằng sự hỗ trợ về vật chất như hỗ trợ học phí), về thời gian cũng như đưa ra các cơ hội nâng lương, thăng tiến.
Ngoài việc đào tạo về nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng, Ngân hàng cần tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định nâng cao trình độ và sâu sát thực tế, Ngân hàng còn cần khuyến khích cán bộ học thêm về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật... nhằm thẩm định các dự án được sâu sắc và chính xác. Có thể mời các chuyên gia thuộc các lĩnh vực có liên quan về nói chuyện trao đổi, tổ chức kiểm tra trình độ, đào tạo cán bộ, tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm trong ngân hàng và các ngân hàng bạn, cung cấp các tài liệu tham khảo của các tác giả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, việc mời một số chuyên gia chuyên sâu về các lĩnh vực kỹ thuật khác làm cộng tác viên để tham gia thẩm định dự án mang tính kỹ thuật cao cũng là một giải pháp hay và thiết thực.
Có chính sách thưởng phạt công bằng, nghiêm minh. Đối với những dự án được thẩm định kỹ, đem lại hiệu quả cho cả Ngân hàng, sau khi thu hồi đầy đủ các khoản nợ gốc và lãi, nên chăng Ngân hàng trích ra một số phần trăm lợi nhuận từ dự án để thưởng cho cán bộ thẩm định hoặc tổ thẩm định đó. Ngược lại, với những dự án thua lỗ, không trả được nợ thì tuỳ theo mức độ và nguyên nhân mà Ngân hàng có các hình phạt thích ứng, như buộc cán bộ thẩm định hoặc tổ thẩm định tiến hành đòi nợ. Làm như vậy mới ràng buộc trách nhiệm của cán bộ tín dụng và người xét duyệt đối với chất lượng thẩm định dự án.
Hàng năm, Ngân hàng nên tổ chức hội nghị báo cáo tổng kết tình hình, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác thẩm định, bình chọn ra các cán bộ thẩm định suất xắc để đề nghị trung ương khen thưởng.
Tổ chức khai thác và cung cấp thông tin có hiệu quả
Trong môi trường kinh tế đầy biến động như hiện nay, thông tin là một công cụ vô cùng quan trọng, thậm chí là một vũ khí cạnh tranh lợi hại trong hoạt động kinh doanh. Kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực chứa nhiều rủi ro, do đó vấn đề thông tin được đặt ra như là một trong những yếu tố hàng đầu cần quan tâm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn làm giảm chất lượng tín dụng là thiếu thông tin về khách hàng trong quá trình thẩm định và xét duyệt cho vay, quá trình phân tích và xử lý thông tin về khách hàng vay vốn, làm cơ sở cho việc quyết định cho vay hay không. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, khi nhu cầu mở rộng và tăng trưởng tín dụng ngày càng cao, quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại thì nhu cầu thông tin tín dụng ngày càng lớn hơn cả về số lượng và chất lượng thông tin. Những thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là những thông tin về mức cung, cầu thực tế của dự án, thông tin về giá cả thị trường dự báo thị trường trong nước và quốc tế, kim ngạch xuất khẩu, quy hoạch và kế hoạch đầu tư...
Để có được thông tin có chất lượng cao, cán bộ thẩm định cần thu thập và chọn lọc từ nhiều nguồn song cần chú ý tới các nguồn chính như:
+Thông tin thu thập được từ doanh nghiệp vay vốn: Để vay được vốn, các doanh nghiệp phải cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho ngân hàng: tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, kế hoạch sản xuất... Đối với các báo cáo tài chính thì thông thường cán bộ tín dụng chỉ căn cứ vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đánh giá năng lực tài chính của khách hàng nhưng rất khó xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính đó vì quy chế kiểm toán nội bộ của Bộ tài chính đối với các doanh nghiệp chưa mang tính bắt buộc, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì công tác kế toán chưa được thực hiện một cách nghiêm túcm chủ yếu được thực hiện dưới hình thức ghi sổ. Công tác thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải quan tâm đến việc kiểm tra các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để nâng cao tính chính xác của thông tin trong công tác thẩm định, cán bộ tín dụng phải tiến hành điều tra tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng, nắm được tình hình thực tế và kiểm tra độ chuẩn xác của thông tin. Cán bộ tín dụng cũng có thể thu thập thông tin qua phỏng vấn khách hàng. Muốn đạt được kết quả cao thì trước khi phỏng vấn cần xác định rõ: mục đích và cách thức phỏng vấn.
Về mục đích phỏng vấn: ngoài việc nhằm kiểm tra tính trung thực của khách hàng, phỏng vấn đôi khi còn là cuộc trao đổi mà qua đó ngân hàng có thể giúp cho doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn về thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn hoặc làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ hoặc mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn.
Về nội dung phỏng vấn: mỗi khách hàng xin vay có một đặc điểm riêng do đó nội dung phỏng vấn không nên áp đặt theo một khuôn mẫu nhất định. Trong khi điều tra doanh nghiệp, bên cạnh việc thu thập thông tin về: lịch sử hình thành, tình hình thu chi, chiến lược kinh doanh, kinh nghiệm quản lý... ngân hàng còn cần phải tìm hiểu về bản chất loại hình doanh nghiệp đang hoạt động, sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng. Khi đã xác định được mục đích của cuộc phỏng vấn, cần đề ra nội dung các câu hỏi mà hồ sơ vay vốn khách hàng trình bày chưa đầy đủ.
Về cách thức phỏng vấn: phải tạo không khí thoải mái cởi mở trong khi tiến hành phỏng vấn, tránh tình trạng một người hỏi người kia trả lời dễ gây cảm giác là đang bị dò xét. Câu hỏi đặt ra cần linh hoạt và nên đặt câu hỏi mở để khuyến khích khách hàng nói chuyện, qua đó khai thác được nhiều thông tin hữu ích cho quá trình thẩm định.
Nhìn chung, mục đích của cuộc phỏng vẫn là thu thập được nhiều thông tin trong khoảng thời gian ngắn nhất, tránh gây phiền hà cho khách hàng. Để làm được điều đó, trước khi phỏng vấn, cán bộ thẩm định nên lập sẵn một danh sách các câu hỏi, nội dung cần thiết cho việc thẩm định dự án.
+ Ngoài các thông tin thu thập được từ chính các doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng có thể khai thác thông tin từ các nguồn khác như Thông tin từ phòng Quản lý rủi ro cung cấp, thông tin từ các đơn vị có tham gia quan hệ với doanh nghiệp, thông tin lấy từ trung tâm tín dụng. Đối với những dự án quan trọng, ngân hàng cần thiết phải thuê các cơ quan kiểm toán tiến hành phân tích thông tin hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải có xác nhận của kiểm toán báo cáo trình ngân hàng.
Trước mắt, nên thành lập bộ phận tổng hợp, lưu trữ thông tin một cách hệ thống theo yêu cầu của công tác quản lý tại Ngân hàng. Thông tin cần được lưu trữ dưới dạng các Ngân hàng dữ liệu bằng máy tính và được nối mạng cục bộ (mạng LAN ), mạng này được nối với kênh thu thập thông tin từ mạng Internet để trực tiếp khai thác một cách nhanh chóng, thuận tiện, đa dạng hoá các loại thông tin.
Để khai thác và xử lý thông tin một cách hiệu quả thì trước hết cán bộ thẩm định phải có trình độ, sử dụng thành thạo máy vi tính và thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ, phải được tập huấn để sử dụng thành thạo chương trình phần mềm như Excel, Asset, Foxpro... Đồng thời Ngân hàng cũng nên bổ sung đào tạo hay tuyền mộ những chuyên gia máy tính giỏi chịu trách nhiệm về thông tin phòng ngừa rủi ro.
Bên cạnh những thông tin thu thập từ các nguồn, cán bộ thẩm định cũng cần tìm hiểu, tiếp cận trực tiếp với địa bàn để xác minh tính đúng đắn của mục đích sử dụng tiền vay cũng như đưa ra những đánh giá xác thực trên phương diện thị trường.
Đối với các thông tin về khách hàng, hiện nay Ngân hàng chủ yếu dựa trên các Báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp. Trong những trường hợp nghi vấn, Ngân hàng có thể yêu cầu các Báo cáo tài chính này phải được kiểm toán cũng như yêu cầu khách hàng phải giải trình và chịu trách nhiệm về tính trung thực của các số liệu ghi trên báo cáo.
Sau mỗi dự án, Ngân hàng cần tổng kết, đánh giá lại chất lượng thẩm định, tiến hành lưu trữ thông tin một cách có hệ thống để tạo nguồn cho việc phân tích, đối chiếu cũng như rút kinh nghiệm cho những dự án sau này.
Lập quỹ hỗ trợ cho thẩm định
Hiện nay chưa có ngân hàng nào (kể cả ngân hàng thương mại quốc doanh) lập quỹ hỗ trợ cho quá trình thẩm định bởi vì nguồn thông tin là sẵn có. Tuy nhiên, các cán bộ thẩm định luôn phải có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp cần chi phí. Đồng thời các cán bộ thẩm định cũng phải thường xuyên xuống cơ sở kiểm tra, giai đoạn này phải diễn ra liên tục và gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì lẽ đó, Ngân hàng nên xem xét lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Nó sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho quá trình thẩm định thuận lợi hơn. Mặt khác, quỹ thẩm định dự án cũng có trách nhiệm trong việc khuyến khích vật chất đối với cán bộ tín dụng.
Tiến hành kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với công tác thẩm định
Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ này. Công tác này phải được tiến hành cùng với các bước kiểm tra tương ứng với các giai đoạn phát sinh cho đến lúc kết thúc quá trình thẩm định, bao gồm 3 giai đoạn:
Kiểm soát trước: Giai đoạn này dựa vào sự thành thạo về quy chế và kinh nghiệm mà tiến hành kiểm tra, mục đích là phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể:
+ Cán bộ thẩm định đã hướng dẫn khách hàng cụ thể và đầu đủ các điều kiện vay vốn ngân hàng theo chơ chế tín dụng hiện hành hay chưa?
+ Hồ sơ vay vốn có chắc chắn do khách hàng tự lập hay không? Cán bộ thẩm định chỉ giải thích hay hướng dẫn, không được làm thay.
+ Bộ hồ sơ khách hàng đã đầy đủ và hợp lệ chưa?
+ Cán bộ thẩm định đã tiến hành điều tra, thu thập đủ thông tin cần thiết chưa?
Kiểm soát trong khi cho vay: có tác dụng giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục... nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này, việc kiểm tra nên tập trung vào:
+ Cán bộ thẩm định đã thẩm định khách hàng cẩn thận chưa?
+ Phương án hoặc dự án vay vốn có được đánh giá kỹ lưỡng không?
+ Trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng có những khó khăn nào cần sự phối hợp nghiệp vụ, đã có hướng giải quyết khó khăn chưa?
+ Cán bộ thẩm định có kết hợp thẩm định trên giấy tờ với kiểm tra thực tế không?
+ Thẩm định tài sản cầm cố, thế chấp có gì sơ hở, thiếu cảnh giác không?
+ ...
Kiểm soát sau: được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ, rà soát lại tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước. Mục đích là phát hiện ra những hiện tượng bất thường trong nghiệp vụ đã hoàn thành, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay.
Yêu cầu đối với người làm công tác kiểm tra, kiểm soát phải là người có kinh nghiệm, nắm rõ tường tận quy chế, quy trình thẩm định, có óc quan sát tinh tế, là người thận trọng và khéo léo bởi kiểm tra, kiểm soát nhưng phải tránh được sự phiền hà. Công tác kiểm tra, kiểm soát phải có ý nghĩa dự phòng nhiều hơn là xử phạt.
Tóm lại để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói chung và khía cạnh tài chính của dự án nói riêng, Ngân hàng cần tiến hành đồng thời các giải pháp nêu trên. Tuy nhiên, để đạt được điều đó còn phải có sự đóng góp của các nhân tố khác không thuộc phạm vi kiểm soát của Ngân hàng, đó là sự quan tâm, phối hợp của các cấp, các ngành có liên quan trong việc ban hành các chính sách cũng như những quy chế cho toàn ngành.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ACB Hà Nội
Chúng ta biết rằng hệ thống chính sách Nhà nước ảnh hưởng và chi phối tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, tôn giáo, môi trường... Một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ trong chính sách của Nhà nước ngay lập tức tác động đến toàn xã hội. Công tác thẩm định dự án đầu tư cũng không phải là ngoại lệ, nó luôn bị chi phối bởi các chính sách vĩ mô ở các mức độ khác nhau. Do vậy, để nâng cao công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư không chỉ phụ thuộc riêng và nỗ lực của ngân hàng mà còn phải có sự giúp đỡ cũng như phối hợp của các cơ quan hữu quan.
Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan.
Hoàn thiện công tác kiểm toán - kế toán, thống kê:
Chính phủ nên có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực, chính xác của các con số trên Báo cáo tài chính.
Hiện nay, chúng ta chưa có một cơ quan thống kê nào đứng ra tập hợp các số liệu nhằm đưa ra các tỷ lệ trung bình ngành cho các doanh nghiệp và ngân hàng khai thác, sử dụng. Do vậy, Nhà nước cần lập ra một cơ quan chuyên trách nghiên cứu và ban hành hệ thống các chỉ tiêu tài chính làm cơ sở so sánh cho các doanh nghiệp và Ngân hàng.
Chính phủ nên nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất cũng như nâng cao hiệu lực trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kịp thời ban hành và thực thi các văn bản thông tư cụ thể hoá các nghị định, nghị quyết trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, Ngân hàng.
Hoạt động của các ngân hàng và các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của các hệ thống văn bản pháp luật và các quy định khác. Vì vậy, một môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp được ổn định và ít rủi ro. Hiện nay, nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế: Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật ngân hàng, luật công ty... song còn cần nghiên cứu và hoàn thiện hơn.
Cần sớm ban hành luật sở hữu và các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về cấp chứng từ sở hữu tài sản.
Cần nâng cao tính thống nhất giữa các văn bản về hoạt động tín dụng của ngân hàng đồng thời phải tăng cường trách nhiệm của các cán bộ ngành có liên quan khi cùng ngân hàng giải quyết những vướng mắc trong các khoản tín dụng đối với doanh nghiệp.
Đề nghị các bộ chủ quản như: Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục đầu tư, Thống kê... hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình phụ trách. Hàng năm thông tin được công bố một cách công khai, chính xác ở trung tâm thông tin của ngành để giúp cho ngân hàng, chủ đầu tư thuận lợi trong việc thu thập thông tin.
Bộ Kế hoạch và đầu tư cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng xây dựng và phát triển để hướng dẫn các doanh nghiệp, Ngân hàng tập trung vào tài trợ cho các dự án, các chương trình ưu tiên của Chính phủ.
Chính phủ cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trung bình ngành cho các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp.
Từ trước đến nay, việc phân tích các chỉ tiêu tài chính trong khâu phân tích tài chính doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc so sánh biến động qua các thời kỳ tức là so sánh kết quả hoạt động của các thời kỳ trước đó của doanh nghiệp. Việc đánh giá như vậy là chưa hoàn thiện bởi vì chưa so sánh được mặt bằng chung toàn ngành, cán bộ thẩm định sau khi tính toán các chỉ tiêu tài chưa có cơ sở hoặc tiêu chuẩn chung để đánh giá.
Để góp phần hoàn thiện hơn phần phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn, cần có một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành làm tiêu thức đánh giá, so sánh. Có thể tham khảo cách tính toán các chủ tiêu này ở các nước phát triển để vận dụng linh hoạt vào việc xây dựng các hệ thống chỉ tiêu chuẩn của nước ta sao cho phù hợp với thực tế phát triển kinh doanh cũng như môi trường trong nước.
- Hàng năm, Chính phủ đều có định hướng phát triển cho từng ngành, từng vùng, nhưng các dự án vẫn được các ngành thực hiện không đồng nhất, có dự án của ngành thì thừa, của vùng thì thiếu. Điều này làm cho công tác thẩm định gặp phải khó khăn vì khi thẩm định thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của dự án tại vùng thì thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Những khó khăn này Ngân hàng khó có thể lường trước được công tác thẩm định. Vì vậy, Chính phủ cần quan tâm hơn đến vấn đề này.
Đề nghị các bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án. Chính phủ cần có văn bản cụ thể quy định rõ trách nhiệm giữa các bên đối với kết quả thẩm định trong nội dung các dự án đầu tư.
Kiến nghị đối với NHNN và các NHTM
Củng cố hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro CIC của NHNN:
Để hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án của các NHTM, NHNN cần mở rộng phạm vi cung cấp thông tin tín dụng mà cả những thông tin kinh tế phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư của ngành và bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nhu cầu. NHNN cũng quy định tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam đều phải tham gia vào CIC, coi đây là một yếu tố trách nhiệm bắt buộc.
Các trung tâm CIC cần có kế hoạch nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định, cần bố trí đào tạo cán bộ về các chuyên đề: nghiệp vụ kế toán và phân tích tài chính doanh nghiệp: phân tích tín dụng và rủi ro tín dụng; các nguyên tắc đánh giá và xếp loại doanh nghiệp; tin học cơ bản và nâng cao; kỹ thuật tra cứu, điều tra thông tin và lập các báo cáo thông tin; hướng dẫn sử dụng phần mềm CIC; tiếng Anh chuyên ngành...
Về vấn đề thu thập thông tin, nên mở rộng nguồn thu thập thông tin tới các cơ quan có thể khai thác được thông tin trên cơ sở quan hệ 2 chiều, chú trọng các nguồn thông tin đại chúng. Trung tâm CIC nên có các văn bản thoả để thu thập tin tức từ các Bộ, ngành như: trung tâm thông tin của Tổng cục thống kê, Tổng cục thuế, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ thương mại, Bộ khoa học - công nghệ và môi trường... Đồng thời mở rộng nguồn thu thập thông tin nước ngoài, cần tiếp cận và tham gia thành viên trao đổi với một số cơ quan thông tin tín dụng lớn như Hiệp hội thông tin tín dụng Châu á, diễn đàn thông tin tín dụng ASEAN, các cơ quan xếp hạng tín dụng trong khu vực.
Chương trình phần mềm cho CIC cần phải xây dựng dưới hạng mở, có thể điều chỉnh hoặc mở rộng chỉ tiêu thu thập thông tin khi cần thiết và phải đảm bảo một số yêu cầu: công nghệ mới, tiên tiến, thuận tiện với việc tuyên truyền tin và phù hợp với các thiết bị truyền tin hiện có tại Việt Nam, dễ sử dụng, bảo trì và có khả năng bảo mật cao.
Trong môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh như hiện nay, khi nhiều ngân hàng không chịu cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về doanh nghiệp có quan hệ với mình cho ngân hàng khác, chỉ khi doanh nghiệp đứng trên bờ phá sản Ngân hàng cho vay mới biết chính xác doanh nghiệp đang nợ các ngân hàng khác là bao nhiêu. Vì vậy, các TCTD cần có sự hợp tác với nhau trong hoạt động tín dụng, không vì lợi ích cục bộ mà bỏ qua các điều kiện, thủ tục cần thiết khi tiến hành thẩm định. Với những TCTD vi phạm cần có biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh trong toàn ngành.
Thống nhất các văn bản hướng dẫn, quy chế tín dụng:
Thời gian qua, NHNN đã ban hành nhiều văn bản, quy chế quan trọng, tạo ra một hành lang quy chế tài chính - ngân hàng rõ ràng đầy đủ. Song giữa Nghị định chính phủ với các thông tư hướng dẫn của NHNN và với Bộ luật dân sự còn chưa thống nhất.
Ví dụ, trong phạm vi bảo đảm tiền vay của tài sản, Điều 11 nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định: “Trong mọi trường hợp, một tài sản chỉ được dùng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nhưng cũng chỉ tại một TCTD”. Trong khi, Điều 22 (d) mục 3 của Thông tư 06/2000/TT-NHNN1 hướng dẫn “không được dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ khác trừ trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu”, có nghĩa là, nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thế chấp nhiều nghĩa vụ khác không giới hạn số lượng đối tượng được đảm bảo. Trong trường hợp cho vay hợp vốn thì tài sản thế chấp không chỉ đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại một hoặc hai hoặc ba TCTD, như vậy có phải mâu thuẫn với NĐ 178 hay không? Còn bộ luật Dân sự ở điều 329 và 346 có quy định: “Một tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật có thể được cầm cố để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị của các nghĩa vụ được đảm bảo”
Để đảm bảo tính thống nhất, đầy trong luật định, đề nghị NHNN sửa đổi, bổ sung, sớm ban hành các thông tư hướng dẫn, tạo cơ sở vững chắc cho việc thi hành và áp dụng trong các hoạt động thẩm định cũng như tín dụng.
Xác đinh hướng dẫn đầu tư cho các NHTM:
NHNN cần căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ để định hướng hoạt động đầu tư của các NHTM như cần tập trung vào thành phần kinh tế nào, ngành nào, khu vực nào là trọng điểm... để từ đó giúp cho các NHTM định hướng đầu tư cho các chi nhánh của mình.
Với khó khăn hiện nay là chưa có một cơ quan nào đứng ra nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép làm căn cứ so sánh, nên chăng các NHTM cần tự nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống. Sau đây là một số tiêu chuẩn chung:
+ Thời gian hoàn vốn (PP) cần căn cứ theo từng ngành nghề mà có quy định cụ thể. Với các dự án thương mại, dịch vụ, đầu tư chiều sâu, tiểu thủ công nghiệp PP Ê 5 năm; dự án công nghiệp nhẹ: PP ³ 7 năm; Dự án công nghiệp nặng: PP Ê 10 năm; Công trình hạ tầng: PP Ê 15 năm.
+ Sản lượng hoà vốn đạt 50% - 60% công suất dự án là tốt.
+ Điểm hoà vốn trả nợ: 30% - 40% là được. Nếu lớn hơn hoặc bằng 80% thì đầu tư không an toàn.
NHNN nói chung và bản thân các NHTM nói riêng nên thường xuyên tổ chức các hội thi cán bộ tín dụng giỏi trong toàn ngành nghề để qua đó vừa khuyến khích cán bộ nâng cao trình độ của mình, vừa là cơ hội để kiểm tra kiến thức và tìm ra những cán bộ giỏi, có kinh nghiệm. Hàng năm, tổ chức tập huấn để cung cấp thông tin, kiến thức cần thiết cho các cán bộ thẩm định ở các chi nhánh, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác thẩm định tại các chi nhánh của mình.
3.4.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng á Châu Hà Nội
Thực tế cho thấy rằng, trong số các rủi ro tín dụng của các NHTM, phần lớn là do nguyên nhân chủ quan gây ra. Tổng kết như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, cho dù có kiến nghị rất nhiều đối với các cơ quan các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhằm tạo một môi trường kinh tế pháp lý ổn định, đầy đủ, và đồng bộ cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, hoạt động thẩm định đạt hiệu quả cao, song hơn ai hết, nhân tố quyết định chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư phải chính do Ngân hàng á Châu.
Kiến nghị đối với Ngân hàng đã được nêu trong phần giải pháp nhưng ở đây em muốn nhấn mạnh tới yếu tố con người là nhân quan trọng nhất, là cội nguồn của mọi vấn đề từ việc xây dựng ra những quy trình, quy định cho đến việc áp dụng, thực hiện các quy trình, quy định đó. Chính con người vận hành các trang thiết bị để khai thác, sử dụng mọi nguồn thông tin và tìm ra giải pháp để khắc phục và hạn chế rủi ro. Tóm lại, con người là nhân tố quyết định đối với chất lượng của công tác thẩm định, nói rộng hơn là quyết định tới sự thành bại của một ngân hàng. Bởi vậy, Ngân hàng á Châu không ngừng chú trọng, quan tâm đến nhân tố này.
3.4.4. Đối với chủ đầu tư
Vai trò của các chủ đầu tư trong việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là rất quan trọng, nên tự bản thân các chủ dự án phải nâng cao trình độ của mình, và đặc biệt phải tôn trọng và làm theo các chính sách pháp luật và các chế độ quản lý tài chính kinh tế của Nhà nước về chế độ hạch toán, kế toán, đầu tư, thuế...
Tóm lại, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước và định hướng đầu tư đúng đắn cho các doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, không chỉ đỏi hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân các cán bộ của Ngân hàng mà còn có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan.
Kết luận
Ngân hàng, với tư cách là một nhà tài trợ vốn cho nền kinh tế, muốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn an toàn và hiệu quả, Ngân hàng phải luôn coi trọng khâu thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định về mặt tài chính bởi nó liên quan trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư luôn là yếu tố trọng tâm quyết định chất lượng tín dụng cũng như hiệu quả kinh doanh của một Ngân hàng, khi mà hoạt động cho vay hiện nay vẫn chiếm tới hơn 80% hoạt động kinh doanh tiền tệ. Bởi lẽ những sơ suất trong công tác thẩm định có thể dẫn đến những sai lầm lớn trong các quyết định cho vay cuối cùng.
Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc thực hiện mở rộng tín dụng trung và dài hạn một cách an toàn và hiệu quả. Song việc nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề có phạm vi rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, đồng thời là việc đòi hỏi phải có thời gian dài. Do vậy trong khuôn khổ bài viết của mình, em chỉ xin đưa ra những vấn đề chung nhất và một vài ý kiến nhỏ với hy vọng sẽ có thể đóng góp phần nào vào công cuộc đổi mới hoạt động của ACB Hà Nội.
Với kiến thức còn hạn chế, các diễn đạt còn nhiều khiếm khuyết nên bài viết của em không tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè và các anh chị phòng tín dụng để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng Tín dụng Ngân hàng á Châu Hà Nội đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0032.doc