Mục lục
Lời nói đầu
Chương I: Tổng quan về quản lý tài chính doanh nghiệp
I. Khái quát về quản lý tài chính doanh nghiệp
1. Khái niệm về quản lý tài chính doanh nghiệp
2. Tầm quan trọng của quản lý tài chính doanh nghiệp
3. Sự cần thiết của quản lý tài chính doanh nghiệp
4. Bộ máy quản lý tài chính doanh nghiệp
5. Mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp
6. Thông tin sử dụng trong quản lý tài chính doanh nghiệp
6.1. Bảng cân đối kế toán
6.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
II
46 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Công ty Cổ phần đào tạo & chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp
1. Đánh giá tình hình tài chính của Công ty thông qua một số nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu
1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán
1.2. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
1.3. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
2. Kế hoạch hoá tài chính và các dự báo tài chính
2.1. Kế hoạch hoá nguồn vốn
2.2. Các yêu cầu cần thiết để kế hoạch hoá có hiệu quả
2.3. Mô hình kế hoạch hoá tài chính
Chương II. Thực trạng quản lý tài chính tại công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao bách khoa
I. Khái quát chung về Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty HTC
2. Các nghiệp vụ chính của Công ty HTC
3. Thời gian làm việc của Công ty
4. Đặc điểm tổ chức kinh doanh của Công ty
4.1 Đặc điểm tổ chức quản lý của công ty
4.2 Một số chỉ tiêu chủ yếu của công ty HTC trong những năm gần đây
5. Hợp tác và liên kết
6. Các kế hoạch hoạt động sắp tới của Công ty
7. Khái quát tình hình kinh doanh của Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa trong 3 năm gần đây.
II. Thực trạng quản lý tài chính Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa
1. Đánh giá tình hình tài chính của Công ty thông qua một số nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu
1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán
1.2. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
1.3. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
2. Kế hoạch hoá tài chính và các dự báo tài chính
2.1. Kế hoạch hoá nguồn vốn
2.2. Các yêu cầu cần thiết để kế hoạch hoá có hiệu quả
2.3. Mô hình kế hoạch hoá tài chính
III. Đánh giá tình hình quản lý tài chính Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa
1. Ưu điểm
2. Hạn chế
3. Nguyên nhân
Chương IIi: ý kiến, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại công ty Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa
I. Cơ hội và thách thức của Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa trong tiến trình phát triển Công ty trong tương lai
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa
1. Nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển thị trường thu hút số lượng học viên
2. Khai thác, sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh
3. áp dụng các biến bộ khoa học kỹ thuật trong tiến trình quản lý tài chính tại Công ty
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa
1. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên
2. Kiến nghị đối với Nhà nước
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các doanh nghiệp đặc biệt là trình độ quản lý tài chính. Vì vậy, có thể nói quản lý tài chính là chức năng có tầm quan trọng số một trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong cuộc đời kinh doanh. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, điều chỉnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế còn chậm thì quản lý tài chính là một vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi nó được quản lý tốt về mặt tài chính.
Chính vì tầm quan trọng của công tác quản lý tài chính như vậy nên chức năng quản lý tài chính thường thuộc về các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp như Phó tổng Giám đốc hoặc Giám đốc tài chính. Trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chức năng này thuộc về Phó giám đốc phụ trách tài chính hoặc kế toán trưởng. Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do các nhân viên cấp thấp hơn phụ trách. Các quyết định và hoạt động của nhà hoạt động của nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp: đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc.
Trong thực tế hiện nay, ở Việt Nam các nhà quản lý doanh nghiệp còn gặp khó trong việc đưa ra quyết định phù hợp với sự biến động của thị trường, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, đồng thời việc khai thác các nguồn vốn vẫn còn chậm trễ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Để đứng vững được trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các doanh nghiệp phải nghiên cứu và áp dụng các phương pháp, chỉ tiêu quản lý tài chính phù hợp, mang lại những thông tin tài chính chính xác, bổ ích. Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, qua một thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân khoa Ngân hàng - Tài chính và thực tập tại Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách Khoa, em nhận thấy việc quản lý tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn không chỉ trong lý luận mà cả trong thực tiễn quản lý doanh nghiệp. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài : “Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao bách khoa” cho chuyên đề của mình.
Em xin bầy tỏ lòng biết ơn xâu sắc đối với sự giúp đỡ quí báu của thầy giáo PGS_TS. Nguyễn Văn Nam, Ban lãnh đạo Công ty cổ phần đào tạo và chuyển giao công nghệ cao Bách khoa, các cán bộ và nhân viên của Công ty đã giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề này.
Chương I: Tổng quan về quản lý tài chính doanh nghiệp
I. Khái quát về quản lý tài chính doanh nghiệp
1. Khái niệm về quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính là một hệ thống hành động của nhà quản lý tài chính doanh nghiệp với mục tiêu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Bao gồm: thu thập thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phân tích số liệu và đưa gia các quyết định về hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong thời gian tới dựa trên kế hoạt tài chính của doanh nghiệp.
2. Tầm quan trọng của quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong cuộc đời kinh doanh. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, điều chỉnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế còn chậm thì quản lý tài chính là một vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết. Bất kỳ ai liên kết, hợp tác với doanh nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi nếu như quản lý tài chính của doanh nghiệp có hiệu quả, ngược lại, họ sẽ bị thua thiệt khi quản lý tài chính kém hiệu quả.
3. Sự cần thiết của quản lý tài chính doanh nghiệp
Chức năng quản lý tài chính thường thuộc về nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp như Phó tổng giám đốc hoặc Giám đốc tài chính. Đôi khi chính ông tổng giám đốc làm nhiệm vụ của nhà quản lý tài chính. Trong các doanh nghiệp lớn, các quyết định quan trọng về tài chính thường do một uỷ ban tài chính đưa ra. Trong các doanh nghiệp nhỏ, chính chủ nhân - ông tổng giám đốc đảm nhận luôn trách nhiệm quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nhà quản lý chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hoá tài chính, quản lý ngân quỹ, chi tiêu cho đầu tư và kiểm soát. Do đó, nhà quản lý tài chính thường giữ địa vị cao trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp và thẩm quyền tài chính ít khi được phân quyền hoặc uỷ quyền cho cấp dưới.
Mọi quyết định của doanh nghiệp như đưa ra một sản phẩm mới hay ngừng sản xuất - kinh doanh một sản phẩm cũ, mở rộng quy mô tài sản cố định hay thay đổi cơ cấu tài sản cố định, phát hành trái phiếu hay cổ phiếu hay thuê mướn v.v... đều gián tiếp hoặc trực tiếp liên quan đến hoạt động tài chính và có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do các nhân viên cấp thấp hơn phụ trách. Các quyết định và hoạt động của nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Nhà quản lý tài chính đưa ra các quyết định vì lợi ích của các cổ đông của doanh nghiệp. Vì vậy, để làm rõ mục tiêu quản lý tài chính, cần phải trả lời một câu hỏi cơ bản hơn: theo quan điểm của cổ đông, một quyết định quản lý tài chính tốt là gì?
Nếu giả sử các cổ đông mua cổ phần vì họ tìm kiếm lợi ích tài chính thì khi đó, câu trả lời hiển nhiên là: quyết định tốt là quyết định làm tăng giá trị thị trường của cổ phiếu. Như vậy, nhà quản lý tài chính hành động vị lợi ích tốt nhất của cổ đông bằng các quyết định làm tăng giá trị thị trường cổ phiếu. Mục tiêu quản lý tài chính là tối đa hoá giá trị hiện tại trên một cổ phiếu, là tăng giá trị của doanh nghiệp. Do đó, phải xác định được kế hoạch đầu tư và tài trợ sao cho giá trị cổ phiếu có thể được tăng lên. Đây chính là nội dung nghiên cứu cụ thể của tài chính doanh nghiệp.
Trên thực tế, hành động của nhà quản lý vì lợi ích tốt nhất của cổ đông phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất, mục tiêu quản lý có sát với mục tiêu của cổ đông không? Điều này liên quan tới cách bồi thường quản lý. Thứ hai, nhà quản lý có thể bị thay thế nếu họ không theo đuổi mục tiêu của cổ đông? Vấn đề này liên quan tới quyền kiểm soát của cổ đông với doanh nghiệp. Như vậy, dù thế nào, nhà quản lý cũng không thể hành động khác được và họ cần phải đem lại lợi ích cho các cổ đông.
Trong các quyết định của doanh nghiệp, vấn đề cần được quan tâm giải quyết không chỉ là lợi ích của cổ đông và nhà quản lý mà còn cả lợi ích của cổ đông và nhà quản lý mà còn cả lợi ích của người làm công, khách hàng, nhà cung cấp và chính phủ. Đó là nhóm người có nhu cầu tiềm năng về các dòng tiền của doanh nghiệp. Giải quyết vấn đề này liên quan tới các quyết định của các bộ phận trong doanh nghiệp và các quyết định giữa doanh nghiệp với các đối tác doanh nghiệp. Do vậy, nhà quản lý tài chính, mặc dù có trách nhiệm năng nề về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp, vẫn phải lưu ý đến sự nhìn nhận, đánh giá của người ngoài doanh nghiệm như cổ đông, chủ nợ, khách hàng, Nhà nước v.v...
4. Bộ máy quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính là chức năng có tầm quan trọng số một trong hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi nó được quản lý tốt về mặt tài chính. Do vậy, cho dù ở quy mô nào, chức năng quản lý tài chính ở doanh nghiệp cũng được chú trọng. ở các doanh nghiệp nhỏ một chủ sở hữu, người chủ thường nắm luôn phần quản lý tài chính. ở các công ty với quy mô lớn hơn, thường phó giám đốc thứ nhất là người phụ trách tài chính (giám đốc tài chính) và có cả một hệ thống phục vụ cho chức năng này nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho chức năng này nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho quá trình ra quyết định một cách chính xác và kịp thời. Các chức năng khác trong bộ máy quản lý tài chính cũng rất quan trọng như kế toán trưởng, trưởng phòng tài vụ, thủ quỹ, kế toán tổng hợp, kế toán viên... thường được bố trí ở trong một doanh nghiệp.
5. Mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp
Mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp là có quan hệ chặt chẽ với các chức năng khác như cung ứng vật tư, marketing, quản lý hoạt động tác nghiệp, quản lý nguồn nhân lực, hành chính quản trị và văn phòng trong một tổng thể nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh doanh thống nhất của doanh nghiệp. Một mặt bộ máy quản lý tài chính cần thông tin của các chức năng trên để lập báo cáo, lập dự báo, lập kế hoạt cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, các thông tin tài chính giúp cho các chức năng này nâng cao hiệu quả hoạt động, ra các quyết định và lập kế hoạt cho hoạt động của mình.
6. Thông tin sử dụng trong quản lý tài chính doanh nghiệp
6.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Nó được lập trên cơ sở những thứ mà doanh nghiệp có (tài sản) và những thứ mà doanh nghiệp nợ (nguồn vốn) theo nguyên tắc cân đối (tài sản bằng nguồn vốn). Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp.
Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn của chủ sở hữu (vốn tự có) và các khoản nợ.
Bảng cân đối kế toán
STT
Chỉ tiêu
STT
Chỉ tiêu
I.
Tài sản lưu động
I.
Nợ phải trả
1.
Tiền
1.
Nợ ngắn hạn
- Tiền mặt tại quỹ
- Vay ngắn hạn
- Tiền gửi ngân hàng
- Nợ dài hạn đến hạn trả
2.
Các khoản phải thu
- Thuế và các khoản nộp NS
- Phải thu của KH
- Phải trả CNV
- Trả trước cho người bán
- Phải trả khác
3.
Tồn kho
2.
Nợ dài hạn
- NVL tồn kho
- Vay dài hạn
- Hàng hoá tồn kho
- Nợ dài hạn
4.
Tài sản lưu động khác
II.
Tài sản cố định
II.
Vốn chủ sở hữu
- Tài sản cố định hữu hình
- Nguồn vốn kinh doanh
- Tài sản cố định vô hình
- Quỹ đầu tư phát triển
- Chi phí XDCBDD
- Lợi nhuận chưa phân phối
- Quỹ khen thưởng
Tổng tài sản
Tổng nguồn vốn
Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trong bậc nhất giúp cho các nhà quản lý đánh giá được khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh toán và cơ cầu vốn của doanh nghiệp.
6.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai.
Báo cáo kết quả kinh doanh
STT
Chỉ tiêu
1.
Doanh thu thuần
2.
Chi phí bán hàng
3.
Chi phí quản lý doanh nghiệp
4.
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT)
5.
Lãi tiền vay
6.
Lợi nhuận trước thuế (EBT)
7.
Thuế thu nhập doanh nghiệp
8.
Lợi nhuận sau thuế
Báo cáo kết quả kinh doanh đồng thời cũng giúp nhà quản lý so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cũng cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp
1. Đánh giá tình hình tài chính của Công ty thông qua một số nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân tích thành 4 nhóm chính.
Tỷ lệ về khả năng thanh toán: đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cầu vốn: nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp
Tỷ lệ về khả năng hoạt động: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
Tỷ lệ về khả năng sinh lãi: nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán
Nhóm chỉ tiêu này được rất nhiều người quan tâm, như các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp... Họ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên góc độ: doanh nghiệp có đủ khả năng trả các món nợ hay không (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Các món nợ ngắn hạn là những khoản phải chi trả trong kỳ. Để thoả mãn yêu cầu này, doanh nghiệp phải dùng toàn bộ phần tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh toán nợ tới hạn. Tuy nhiên không thể dùng tài sản cố định (tài sản dài hạn) để thanh toán vì nó có thời gian thu hồi vốn lớn hơn thời gian đáo nợ. Phần tài sản dùng để trả nợ chỉ có thể là tài sản lưu động, vì nó là những tài sản có thể chuyển thành tiền trong vong thời gian nhất định, thông thường là dưới một năm.
Khả năng thanh toán chung = STS
SNợ
Chỉ tiêu này cho biết 1đ Nợ thì có bao nhiều đồng tài sản để trả.
Khả năng thanh toán hiện thành = STS
SNợ
cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Khả năng thanh toán nhanh = Tiền + Các tài sản quay vòng nhanh
SNợ
cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các tài sản quay vòng nhanh trong thời hạn ngắn. Dự trữ là tài sản kém thanh khoản nhất trong các loại tài sản lưu động bởi việc biến chúng thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian, do đó nó bị loại ra khi tính toán khả năng thanh toán nhanh.
Khả năng thanh toán chung = Tiền / Nợ ngắn hạn
Khoản phải thu đã bị loại ra để tính toán bởi việc hoán chuyển các khoản phải thu thành tiền đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định. Tỷ lệ này cho biết mức độ doanh nghiệp có thể thanh toán ngay lập tức các khoản Nợ ngắn hạn bằng lượng tiền hiện có của mình.
Ngoài ra, để đánh giá khả năng thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu:
Tỷ lệ dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng = Dự trữ / Vốn lưu đồng ròng
Chỉ tiêu này cho biết phần thua lỗ mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu do giá trị hàng tồn kho cũng như cơ cầu vốn, cơ cấu tài sản lưu động giảm.
Khi sử dụng các tỷ lệ này cũng có một số hạn chế như: cả tử số và mẫu số đều có thể thay đổi rất nhanh, do vậy các tỷ lệ về khả năng thanh toán chỉ có giá trị nhất định khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, phân tích tài chính lại diễn ra ở một thời điểm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên tính chính xác của những phân tích khó đảm bảo, ví dụ như sau kỳ thu nợ doanh nghiệp có nhiều tiền mặt hơn và số nợ cũng giảm đi so với trước đó, làm cho kết quả phân tích ở hai thời điểm này khác nhau.
1.2. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và tổng vốn nói chung bởi vì kinh tế thị trường đòi hỏi phải so sanh doanh thu tiêu thụ với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau như: Tài sản cố định, tài sản dự trữ (tồn kho), các khoản phải thu, vì giữa các yếu tố đó đòi hỏi phải có một sự cân bằng nhất định. Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sẽ được dùng chủ yếu trong các tỷ số này để đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền = DT
Tiền
Tỷ lệ này cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
Vòng quay dự trữ = DT / Dự trữ
Số vòng quay càng cao thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt. Nhưng cũng có trường hợp tỷ lệ này cao khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn, dự trữ và doanh thu đều thấp.
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu * 360
DT
Chỉ tiêu này dùng để đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán thông qua các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Nếu kỳ thu tiền thấp thì vốn của doanh nghiệp ít bị đọng trong khâu thanh toán. Còn ngược lại thì vốn của doanh nghiệp bị đọng khá lớn trong thanh toán. Tuy nhiên các khoản phải thu trong nhiều trường hợp cao hay thấp chưa thể có một kết luận chắc chắc mà còn phải xem xét các mục tiêu của các chính sách tiêu nhằm mở rộng thị trường ...
Hiệu suất của doanh nghiệp, ví dụ như: chính sách tín dụng của doanh nghiệp với mục sử dụng TSCĐ
Hiệu suất sử dụng TSCĐ = DT
TSCĐ
Chỉ tiêu này đôi khi còn được gọi là số vòng quay vốn cố định, nhằm đo lường việc sử dụng vốn cố định đạt được hiệu quả như thế nào, cụ thể là một đồng vốn cố định được đầu tư tạo ra được mấy đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng TSLĐ = DT
TSLĐ
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ quay vòng của TSLĐ nhanh hay chậm. Nếu TSLĐ có tốc độ quay vòng nhanh chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng TSLĐ có hiệu quả.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = DT
STS
Chỉ tiêu này càng lớn cho biết tốc độ thu hồi các khoản phải thu càng nhanh, doanh nghiệp không bị đọng vốn nhiều ở các khoản phải thu.
1.3. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính tổng hợp để đánh giá kết quả, đồng thời nó cũng là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận càng cao, doanh nghiệp càng tự khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình trong nền kinh tế thị trường. Nhưng để đánh giá một cách đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta không chỉ dựa trên tổng số lợi nhuận mà doanh nghiệp làm ra bằng số tuyệt đối. Bởi vì số lợi nhuận này có thể không tương xứng với lượng chi phí đã bỏ ra, với khối lượng tài sản mà doanh nghiệp đã sử dụng, mà phải dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận tương đối thông qua các chỉ tiêu sau:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế
DT
Phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Tử số là lợi nhuận sau thuế để đanh giá tình hình tài chính thực sự của doanh nghiệp vì dưới giác độ là nhà quản lý tài chính thì chỉ quan tâm đến phần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế
VCSH
Tỷ lệ này đặc biệt quan trọng khi đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp và được sở hữu rất quan tâm. Đây cũng là một chỉ tiêu để các nhà đầu tư xem xét khi họ quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không.
Doanh lợi vốn = Lợi nhuận trước thuế và lãi
STS
Đây là một chỉ tiêu quan trọng được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tử số là lợi nhuận trước thuế và lãi để thuận lợi cho việc so sánh giữa các doanh nghiệp phải nộp thuế với mức thuế suất khác nhau và sử dụng nợ khác nhau. Mặt khác, tỷ lệ này còn cho biết trong tình trạng hiện tại doanh nghiệp có nên huy động vốn hay không?.
2. Kế hoạch hoá tài chính và các dự báo tài chính
Một yếu tố quyết định tính thành bại của một doanh nghiệp trên thị trường là doanh nghiệp đó có chiến lược như thế nào. Việc có chiến lược đúng sẽ bảo đảm tình cạnh tranh lâu dài cho doanh nghiệp và chỉ có vậy mới bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển lâu dài. Chiến lược của công ty phản ánh tầm nhìn của các nhà quản lý đối với hoạt động của doanh nghiệp trong một môi trường không luôn luôn ổn định. Trong môi trường đó ai có tầm nhìn tốt hơn sẽ là người quản lý thành công. Chiến lược doanh nghiệp được thể hiện bằng các kế hoạch kỳ hạn khác nhau và các mảng hoạt động khác nhau. Có thể nói kế hoạch hoá tài là trọng tâm của kế hoạch hoá hoạt động doanh nghiệp nói chung. Trên cơ sở các kế hoạch tài chính, các kế hoạch khác sẽ được lập ra để đảm bảo doanh nghiệp đạt được các mục tiêu mong muốn.
Kế hoạch hoá tài chính thiết lập nên các chỉ tiêu hướng dẫn cho các thay đổi của doanh nghiệp.
Một kế hoạch tài chính hoàn chỉnh của một công ty lớn là một bộ tài liệu khá đồ sộ. Còn một doanh nghiệp nhỏ hơn thì nó ít chi tiết hơn và ít đồ sộ hơn nhưng cũng có cùng những nội dung cơ bản. Đối với một doanh nghiệp rất nhỏ và vừa mới hoạt động thì kế hoạch tài chính có thể nằm ngay trong suy nghĩ của người chủ mà không cần viết ra. Tuy nhiên các nội dung cơ bản của các kế hoạch tài chính có thể tương tự cho các doanh nghiệp ở bất cứ quy mô nào.
Kế hoạch tài chính được biểu hiện qua các Bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo luồng tiền dự tính. Bởi vì các báo cáo này bao gồm các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp nên chúng cũng đề cập phần nào tới dự báo. Số liệu về thu nhập trong kế hoạch có thể là con số trung gian nào đó giữa số dự báo trung thực và số thực tế hy vọng đạt được.
Kế hoạch cũng đồng thời thể hiện dự tính về chi tiết, thường được phân loại theo mục đích chi tiêu (ví dụ như đầu tư thay thế, đầu tư mở rộng, đầu tư cho sản phẩm mới hay cho các khoản chỉ tiêu bắt buộc như thiết bị chống ô nhiễm) hay theo bộ phận hoặc theo loại hình kinh doanh. Có những thuyết minh kèm theo về nguyên do cần có những chỉ tiêu với số lượng đó và về chiến lược kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu tương ứng. Các thuyết minh có thể bao quát các lĩnh vực như các nỗ lực nghiên cứu và phát triển, các bước nâng cao năng suất, thiết kế và tiếp thị sản phẩm mới, chiến lược định giá...
Những thuyết minh bằng văn bản trên ghi lại kết quả cuối cùng của các cuộc thảo luận và đàm phán giữa các nhà quản lý hoạt động tác nghiệp, nhân viên văn phòng và các nhà quản lý cấp cao (hội đồng quản trị, ban giám đốc) của doanh nghiệp. Thông qua văn bản đó, các đối tượng liên quan đến việc thực hiện kế hoạch sẽ hiểu được những công việc phải hoàn thành.
2.1. Kế hoạch hoá nguồn vốn
Phần lớn các kế hoạch bao gồm kế hoạch tài trợ cùng với phương án dự phòng nếu cần thiết. Phần này của kế hoạch cần thể hiện một cách logic sự thoả thuận về chính sách chia cổ tức, bởi vì nếu doanh nghiệp trả nhiều cổ tức, nó sẽ phải tìm nhiều vốn hơn từ các nguồn bên ngoài.
Tính phức tạp và tầm quan trọng của kế hoạch tạo vốn rất khác nhau giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Một doanh nghiệp với các cơ hội đầu tư hạn chế, dư thừa luồng tiền hoạt động và chính sách trả cổ tức vừa phải sẽ dần dần tạo ra tình trạng “tài chính lỏng lẻo” đáng kể dưới dạng tài sản lỏng và không tận dụng khả năng vay. Các nhà quản lý của những doanh nghiệp như vậy không gặp khó khăn trong việc lập kế hoạch tìm kiếm các nguồn tài trợ, và kế hoạch tài trợ của họ theo lối mòn. Tuy nhiên, liệu điều đó có hợp với ý muốn của cổ đông không lại là một vấn đề khác.
Các doanh nghiệp khác phải tạo vốn bằng cách bán các chứng khoán. Đương nhiên là họ phải rất thận trọng trong việc lựa chọn nên chứng khoán nào, bán ra bao giờ và bán ra như thế nào. Kế hoạch tài trợ của những doanh nghiệp như vậy có thể rất phức tạp với những ràng buộc của những điều khoản của các khoản nợ hiện tại. Ví dụ trái phiếu một số công ty có thể có những điều khoản như cấm công ty phát hành thêm trái phiều nếu như lãi suất hạ thấp xuống dưới một mức nào đó để bảo vệ các nhà đầu tư.
2.2. Các yêu cầu cần thiết để kế hoạch hoá có hiệu quả
Các yêu cầu cần thiết đối với kế hoạch hoá hiệu quả phụ thuộc vào mục tiêu kế hoạch hoá và kết quả mong muốn cuối cùng. Có 3 yêu cầu chính sau đây:
- Dự báo: là khả năng dự báo phải chính xác và nhất quán. Việc đưa ra các dự báo chính xác hoàn toàn là không thể, mà yêu cầu của kế hoạch hoá cũng không cần đến mức đó. Tuy nhiêu, doanh nghiệp cần phải dự báo càng chính xác càng tốt.
Việc dự báo không thể được đơn giản hoá xuống thành một bài tập đơn thuần. Ước lượng trung thực và các xu hướng phù hợp với các dữ liệu quá khứ chỉ có một giá trị nhất định. Tương lai thường không lặp lại quá khư, do vậy kế hoạch hoá là cần thiết.
- Xác định kế hoạch tài chính tối ưu: nhà kế hoạch nào cũng phải đi đến phải phán xét xem kế hoạch nào là tốt nhất. Người ta luôn mong muốn có một mô hình có thể cho biết một cách chính xác cách thức đánh giá đó nhưng không thể có được. Không có một mô hình hay một công thức nào chứa đựng tất cả tính phức tạp và yếu tố vô hình liên quan đến trong kế hoạch hoá tài chính.
Thực tế cho rằng sẽ không bao giờ có một công cụ như vậy. Tuyên bố này được dựa trên định lý thứ 3 do Brealey và Myers đưa ra:
Tiên đề 1: Nguồn cung cấp của các vấn đề chưa giải quết được là vô hạn
Tiên đề 2: Số lượng các vấn đề chưa giải quyết mà người ta có thể có trong đầu tại bất kỳ thời điểm nào chỉ giới hạn đến 10.
Tiên đề 3: Do vậy, trong bất kỳ lĩnh vực nào sẽ luông có 10 vấn đề có thể chỉ ra nhưng chưa có giải pháp cho chúng.
Các nhà kế hoạch tài chính phải đối mặt với những vấn đề chưa được giải quyết, và xử lý theo cách thức tốt nhất mà họ có thể bằng cách phán quyết.
- Xem xét việc thực hiện kế hoạch tài chính: Kế hoạch tài chính dài hạn có một nhược điểm là bị lạc hậu gần như ngay sau khi lập. Sau đó thì chúng rất dễ bị bỏ quên. Tất nhiên là chúng ta có thể bắt đầu lại quá trình kế hoạch hoá từ con số không. Tuy nhiên sẽ có ích hơn nếu như bạn nghĩ trước được là cần phải xem lại kế hoạch của chúng ta như thế nào khi có những biến cố không mong đợi xẩy ra. Ví dụ, giả sử lợi nhuận trong 6 tháng đầu tiên thể hiện nhỏ hơn 10 phần trăm so với số dự kiến. Các con số về lợi nhuận gần như theo những bước ngẫu nhiên, do vậy không có một xu hướng chỉ ra rằng nó sẽ trở lại mức cũ sau khi bị giảm sút. Trừ khi bạn có một nguồn thông tin ngược lại, bạn nên xem xét giảm 10 phần trăm số lợi nhuận dự báo cho những năm sau.
Chúng ta lưu ý rằng các kế hoạch dài hạn có thể được sử dụng như là những điểm mốc cho việc đánh giá một chuỗi kết quả hoạt động. Nhưng việc đánh giá kết quả hoạt động sẽ có rất ít giá trị trừ khi bạn đồng thời tính đến môi trường kinh doanh mà chúng hoạt động. Nếu như bạn biết được rằng một sự suy giảm trong nền kinh tế sẽ ném bạn ra khỏi kế hoạch xa như thế nào, bạn có được tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động của mình trong những suy giảm đó.
2.3. Mô hình kế hoạch hoá tài chính
Hầu hết các mô hình kế hoạch hoá tài chính công ty là các mô phỏng được thiết kế để dự tính các hiệu ứng của các chiến lược tài chính theo các giả thiết tương ứng về tương lai. Các mô hình có nhiều loại từ mức độ rất đơn giản đến rất phức tạp bao gồm hàng trăm phương trình với các biến số tác động qua lại lẫn nhau.
Phần lớn các công ty lớn đều có các mô hình kế hoạch hoá tài chính riêng của mình hoặc sử dụng các mô hình phù hợp. Có thể một số công ty sử dụng 2 mô hình hoặc hiều hơn, ví dụ như có mô hình chi tiết phục vụ cho ngân quỹ và kế hoạch tác nghiệp, mô hình đơn giản hơn cho tác động tổng thể của chiến lược tài chính, và mô hình đặc biệt đánh giá việc sát nhập.
Các mô hình trở nên phổ biến là do tí._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0075.doc