Lời mở đầu
Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển nhanh chóng và ngày càng được khẳng định rõ vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế.
Đối với ngân hàng sự phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã mở ra một thị trường mới cho việc mở rộng và tăng trưởng hoạt động tín dụng. Với vai trò đầu tầu của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng có tác động tích cực trong việc hỗ trợ khu vực KTNQD đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp mở rộng tín dụng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bị giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện liên tục, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Nhưng thực tế trong thời gian gần đây hoạt động đầu tư tín dụng đối với khu vực KTNQD chưa được hệ thống NHTM quan tâm thích đáng cả về số lượng lẫn chất lượng. Hơn nữa, vốn tín dụng của các ngân hàng cho vay đối với khu vực KTNQD chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao. Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại NHĐT & PT Hà Nội em đã chọn đề tài “Một số giải pháp mở rộng tín dụng khu vực KTNQD tại chi nhánh NHĐT & PT Hà Nội”. Với mục đích trình bày vai trò của KTNQD và vai trò của việc mở rộng cho vay đối với KTNQD, phân tích thực trạng tình hình cho vay của NHĐT & PT Hà Nội, từ đó có những giải pháp chủ yếu và kiến nghị lên cấp trên nhằm mở rộng cho vay đối với khu vực KTNQD tại ngân hàng trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích đề ra khoá luận kết hợp sử dụng một số phương pháp như: Phương pháp duy vật biện chứng, tổng hợp, phân tích... đồng thời quán triệt vận dụng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và nhà nước.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận được chia thành 3 chương:
Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với khu vực KTNQD.
Chương II: Thực trạng hoạt động mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực KTNQD.
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực KTNQD tại chi nhánh NHĐT & PT Hà Nội.
Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, khoá luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sừ góp ý của các thầy cô giáo và những ai quan tâm tới vấn đề này.
Khoá luận được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô Vũ Thanh Hà. Nhân dịp này em xin một lần nữa bày tỏ lòng biết ơn đến sự giúp đỡ của cô. Bên cạnh đó, cho phép em được nói lời cảm ơn tới cô chú, anh chị công tác tại chi nhánh NHĐT & PT Hà Nội đã giúp em hoàn thành khoá luận!
Hà Nội, ngày tháng năm 2005.
Sinh viên
Nguyễn Thị Lan
Chương I
tín dụng ngân hàng với khu vực
Kinh tế ngoài quốc doanh
1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng:
1.1.1. Khái niệm:
Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc Latinh Creditum có nghĩa là một sự tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn. Quan hệ này thể hiện qua 3 giai đoạn:
- Người cho vay chuyển cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này được thể hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hóa, máy móc, thiết bị…
- Người đi vay sử dụng giá trị đó tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng, người đi vay phải trả cho người cho vay.
- Giai đoạn kết thúc vòng tuần hoàn tín dụng. Sau khi hoàn thành chu kỳ sản xuất người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay, giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc đi vay.
Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá, quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa bên cho vay và đi vay trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định và bên đi vay có nghĩa vụ thanh toán nợ các gốc và lãi một cách vô điệu kiện khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín dụng ngân hàng với kinh tế nhà nước, giữa ngân hàng với khu vực kinh tế tư nhân, ngân hàng và cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian.
Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, hoặc trái phiếu để huy động trong xã hội. Ngược lại, với tư cách người cho vay, ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, còn tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ, chủ yếu là bút tệ.
1.1.2. Phân loại tín dụng:
Để phân loại tín dụngcó rất nhiều cách thức khác nhau theo những tiêu thức khác nhau, sau đây là một số cách phân loại chủ yếu phổ biến hiện nay:
- Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, tín dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ, chiết khấu chứng từ có giá, phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố dịnh, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầy tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay) cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
- Căn cứ vào đối tượng tín dụng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hàn sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá bền chắc như tủ lạnh, điều hoà, máy giặt…
- Căn cứ vào mức độ đảm bảo, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Đây là loại tín dụng được tất cả các ngân hàng áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn, các khoản đầu tư trung, dài hạn.
+ Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đảm bảo cho khoản nợ vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo lãnh bằng uy tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
- Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính như ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng khác.
+ Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền và người cần sử dụng tiền đó, không cần phải thông qua một trung gian tài chính nào cả.
1.1.3. Quy trình tín dụng:
Quy trình cho vay là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cho vay đối với khách hàng.
Quy trình cho vay phản ánh nguyên tắc cho vay, phương pháp cho vay, trình tự cho vay, trình tự giải quyết các công việc, thủ tục hành chính và thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng. Để đảm bảo hiệu quả tín dụng thì quy trình tín dụng bao gồm các bước sau:
Bước 1: Tiếp xúc khách hàng.
Bước 2: Thẩm định (hay phân tích khách hàng).
Bước 3: Quyết định cho vay.
Bước 4: Giải ngân.
Bước 5: Giám sát thu nợ.
Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng. Thực vậy, tuân theo các bước quy trình tín dụng ngân hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình tín dụng cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ, nghệ thuật cho vay của ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với yêu cầu đa dạng của thị trường.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng của ngân hàng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền nhàn rỗi vào quá trình tái sản xuất xã hội, phù hợp với quá trình vận động liên tục của vốn.
ở Việt Nam hiện nay nhiệm vụ được đặt ra hàng đầu là tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng.
a. Tín dụng ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, và góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình sản xuất kinh doanh mới ra đời. Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa sử dụng trong mọi tổ chức, thành phần phần kinh tế. Tín dụng ngân hàng đã tập trung cac nguồn tiền đó thông qua hoạt dộng vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình huy động, các tổ chức kinh tế có thể mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàn để phục vụ cho hoạt động giao dịch với các tổ chức khác và tiền gửi trong tài khoản của các đơn vị luôn phải có số dư nhất định. Nhờ vậy mà ngân hàng có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất dinh doanh của các tổ chức kinh tế - xã hội và nguồn dự trữ chưa dùng đến của ngân sách nhà nước, hình thành nên nguồn vốn. Từ đó, ngân hàng tiến hành phân phối các nguồn đó một cách có kế hoạch, đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở rộng.
b. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tài chính tiền tệ. Trong đó, tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư vào các ngành, các công trình trọng điểm… Bên cạnh đó, ngân hàng còn tập trung tín dụng tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng.
c. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá qua ngân hàng với quy mô ngày càng lớn và có tính chất thường xuyên, liên tục. Hoạt động thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra qua hệ thống NHTM đã làm tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.
Ngoài ra, sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng đi đôi với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu thông tiền tệ. Đây cũng là một trong những phương thức để kiềm chế lạm phát.
d. Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Sự vận động của tín dụng ngân hàng cúng như việc quản lý tập trung thống nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng trên. Thông qua việc thực hiện phân phối lại tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng ngân hàng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng ngân hàng là không thể tách rời nhau trong chức năng này. Do đó, có được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong công tác quản lý tài chính, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội, thực hiện và củng cố chế độ hạch toán kinh tế.
e. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, việc phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới. Trong mối quan hệ kinh tế đó, sự hợp tác bình đẳng hai bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển đa dạng cả về nội dung và hình thức, về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế mỗi nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện liên kết kinh tế các nước với nhau. ở nước ta, trong thời gian qua tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào quá trình hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới.
1.2. Tín dụng ngân hàng đối với khu vực KTNQD:
1.2.1. Khái quát về khu vực KTNQD:
Trong nền kinh tế Việt Nam, KTNQD là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân bao gồm hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã đến các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, thành phần KTNQD đã tạo ra một phần không nhỏ GDP thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hút lao động, tận dụng khai thác tiềm năng của đất nước.
ở nước ta, Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định nước ta có các thành phần kinh tế như sau: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, Kinh tế tư bản tư nhân và Kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó, kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đảng ta xuất phát từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của V.I.Lê nin: “Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”. Từ đó, sở hữu tư nhân được thừa nhận KTNQD được tồn tại và phát triển bình đẳng cùng kinh tế Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị mà toàn bộ vốn thuộc về nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của các thành phần kinh tế này là doanh nghiệp nhà nước đó là các tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao (luật doanh nghiệp nhà nước - Điều 1).
ở nước ta hiện nay, khu vực KTNQD bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó:
+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 55 và khoản 1 điều 58 của luật này.
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi trong điều lệ của công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do, việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự thống nhất của các thành viên đại diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình đằng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là đại hội xã viên, cơ quan quản lý các hoạt động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã viên bầu theo luật hợp tác xã.
1.2.2. Đặc điểm và xu hướng phát triển của KTNQD:
a. Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình “Quốc doanh hoá” và “Tập thể hoá”, các thành phần KTNQD gần như bị xoá bỏ. KTNQD mới thực sự khởi sắc khi có luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty được nhà nước ban hành năm 1991. Điều đó đã quyết định nên đặc điểm của thành phần KTNQD.
Thứ nhất, ở nước ta hiện nay cùng với sự phát triển của nên kinh tế khu vực KTNQD đã có sự phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách khuyến khích và hỗ trợ hoạt động cho khu vực KTNQD, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng. Thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Chỉ tiêu
Năm 1991
Năm 1996
Năm 1998
Số lượng
Số lượng
Tăng trưởng
Số lượng
Tăng trưởng
DNNQD
123
26.091
25.968
1.244.957
1.218.866
Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng cao qua các năm, năm 1991 mới chỉ có 123 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng, tăng 25.968 doanh nghiệp so với năm 1991. Đến năm 1998, khu vực KTNQD đã có 1.244.957 doanh nghiệp tăng 1.218.866 doanh nghiệp so với năm 1996 trong đó 2.990 hợp tác xã, 2.4667 doanh nghiệp tư nhân và 1.217.300 hộ kinh tế cá thể.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hầu hết là những đơn vị còn non trẻ vì nó mới thực sự được công nhận là một khu vực kinh tế chính thức từ hơn 10 năm. Vì vậy, quy mô doanh nghiệp còn rất nhỏ bé 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực KTNQD, quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân là rất nhỏ, được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Quy mô vốn đầu tư của DNNQD
Vốn trung bình/1DN
Chỉ tiêu
< 500 Triệu
> 500 triệu
Tỷ trọng
68.3%
(100 triệu <Vốn trung bình <500 triệu chiếm 25,4%)
31,7%
(Vốn trung bình>1 tỷ chiếm 18,9%)
Doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu đồng chiếm 68,3% tổng số doanh nghiệp (trong đó doanh nghiệp có số vốn trên 100 triệu đồng chiếm 25,4%). Doanh nghiệp có số vốn trên 500 triệu đồng chiếm 31,7 % (trong đó doanh nghiệp có số vốn trên một tỷ chiếm 18,9%). Mặt khác, trong khu vực KTNQD chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù, KTNQD đa dạng về loại hình nhưng do vốn ít và hạn chế về khả năng tích luỹ vốn, KTNQD không có đủ điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại sản xuất công nghiệp nặng cũng như đầu tư vào cơ sở hạ tầng là lĩnh vực có yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn lâu.
Thứ hai, khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường bị hạn chế về tài chính. Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tồn tại và phát triển của KTNQD, giai đoạn đầu, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường gặp phải vấn đề thiếu vốn, thể hiện ở tổng nguồn vốn kinh doanh và vốn tự có trong tổng nguồn vốn, một số doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay nhưng số doanh nghiệp được xét duyệt vay vốn từ ngân hàng để tiến hành các hoạt động kinh doanh không nhiều. Song thực tế sổ sách kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung đơn giản, thiếu chính xác. Vì vậy, đánh giá tài chính để cho vay đối với ngân hàng là sự khó khăn lớn nhất là khi sổ sách kế toán chưa được kiểm toán.
Thứ ba, trong hoạt động sản xuất kinh doanh yếu tố rủi ro đối với DNNQD là lớn so với DNQD. Bởi vì, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có yếu tố sở hữu nhà nước, chủ sở hữu toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của minh (theo khuôn khổ pháp luật) và tự chịu trách nhiệm về hoạt động đó. Do đó, các thành phần KTNQD “phải tự thân vận động” trong cơ chế thị trường để tìm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất. Một trong những nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh huy động được là từ sự trợ giúp của nhà nước. Trong khi đó, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn và việc huy động vốn phải do doanh nghiệp tự tìm kiếm. Tính tự lực của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có tính chất hai mặt: nó vừa tạo ra sự năng động sáng tạo tự chủ trong sản xuất kinh doanh nhưng sự tự do này đôi khi vượt quá tầm kiểm soát của nhà nước gây nhiều tiêu cực trong hoạt động này. Tình trạng chạy theo lợi nhuận mà có phản ánh kinh doanh mạo hiểm gây thua lỗ phá sản… tạo ra sự thiếu lòng tin đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế đó là nguyên nhân khiến ngân hàng ngại cho vay đối với khu vực kinh tế này.
Thứ tư, môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển thất thường lúc lên lúc xuống tuỳ thuộc vào chính sách quản lý cụ thể của Nhà nước (chính sách thuế, lãi suất cho vay, chính sách xuất nhập khẩu…). Môi trường kinh doanh không thuận lợi ngay từ khâu làm thủ tục đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp. Thủ tục này kể từ khi có luật doanh nghiệp (được bắt đầu thực hiện từ ngày 1/1/2000) đã giảm đi nhiều khâu xong đây là khó khăn cho nhiều nhà kinh doanh muốn thành lập doanh nghiệp, như đăng ký kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề phải tập trung, sở kế hoạch - đầu tư tỉnh gây khó khăn cho các tổ chức cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp ở địa bàn xa tỉnh. Và sự sách nhiễu phiền hà của cán bộ đăng ký kinh doanh làm cá nhân, doanh nghiệp tốn kém cả thời gian lẫn tiền bạc.
Như vậy, qua các đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh ta thấy nó rất phù hợp với sự phát triển của nước ta hiện nay. Nếu nhà nước có một chính sách và môi trường thuận lợi cho môi trường này phát triển thì họ sẽ đóng góp một tỉ trọng đáng kể cho tăng trương GDP trong cả nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giảm tệ nạn xã hội trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại cũng cần có chính sách phù hợp với KTNQD trong hoạt động kinh tế của mình.
b) Xu hướng phát triển KTNQD:
Với chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã kích thích phát huy nội lực trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động dưới nhiều hình thức: doanh nghiệp tư nhân do một tư nhân làm chủ, hoặc tham gia dưới hình thức hợp tác xã. ở nước ta hiện nay, phổ biến là hai loại hình này có lượng vốn cần thiết thành lập và hoạt động nhỏ, còn sự phát triển công ty cổ phần vẫn còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam.
Trong những năm qua, số lượng doanh nghiệp ngoại quốc doanh tăng lên khá mạnh theo ước tính hiện nay có khoảng hơn 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động. Trong khi đó, số doanh nghiệp quốc doanh lại có xu hướng giảm do tiến trình cổ phần hoá hoặc do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến phá sản hàng loạt. Nhưng hạn chế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nước ta là vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng nhà xưởng, máy móc sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết bị không còn thích ứng với nhu cầu thị trường. Để tồn tại phải thay đổi dây chuyền công nghệ mà nguồn vốn tự có bị hạn chế bởi quy mô doanh nghiệp. Vì vậy, trong tương lai xu hướng xảy ra đối với các doanh nghiệp này là sự sát nhập chung vốn vào sản xuất kinh doanh. Đó là tiền đề cho sự phát triển của công ty cổ phần, ưu điểm của công ty cổ phần là có thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu. Nhưng tốc độ phát triển của công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các ngân hàng. Ngoài ra, khi ngân hàng phát triển không những là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu trái phiếu công ty mà còn có thể mua cổ phiếu, trái phiếu đó để có đủ nguồn vốn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với kinh tế hộ gia đình: là khu vực sản xuất nhỏ bao gồm tất cả hoạt động của tư nhân: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại vận tải và dịch vụ khác. Trong giai đoạn đầu của cơ chế quản lý mới khu vực kinh tế này phát triển nhanh, thu hút mọi đối tượng tham gia, tận dụng triệt để các nguồn lực sản xuất nhằm tăng thu nhập cho người lao động.
Theo cơ chế mới của nền kinh tế nhiều thành phần đã có những chuyển biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và thế giới, nếu tốc độ phát triển của KTNQD nhanh hơn tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc dân bình quân 1%/năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội nưóc ta trong 10 - 20 năm nữa là: kinh tế quốc doanh 10%, KTNQD 90%. Trong đó, thành phần kinh tế tư bản nhà nước không quá 30%, kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%, cá thể và gia đình 20%. Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với đặc điểm KTNQD. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư bản tư nhân bên cạnh tập đoàn kinh tế nhà nước trong môi trường cạnh tranh tự do, bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong nước và hợp tác quốc tế.
Mặt khác, khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, hàng năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn GDP, góp phần chuyển giao công nghệ khoa học quản lý hiện đại, đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách lao động công nghiệp hoá.
Hơn nữa, nước ta với lợi thế nguồn lao động dồi dào, chịu khó, nguồn nguyên liệu rẻ cùng với việc thực hiện chính sách, biện pháp đầu tư nước ngoài của chính phủ trong cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế, giảm giá thuê đất chắc chắn trong tương lai khu vực kinh tế có đầu tư vốn nước ngoài sẽ phát triển nhanh chóng, ngày càng nhiều dự án kinh doanh hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.2.3. Vai trò của KTNQD trong nền kinh tế thị trường:
Trong những năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn song được sự khuyến khích của Đảng và nhà nước, khu vực KTNQD đã dần khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế. Với tinh thần tự chủ năng động, sáng tạo, KTNQD đã sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường, góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân
Thứ nhất, sự phát triển của KTNQD đã tạo điều kiện khai thác tối đa nguồn lực của đất nước. Sau hơn 15 năm đổi mới, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng trình độ nền kinh tế nước ta còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn. Khu vực kinh tế nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết được những tiềm năng này. Vì vậy, cần phải phát triển KTNQD mới có thể khai thác tốt các nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích các thành phần KTNQD phát triển sẽ huy động được một nguồn vốn lớn đang nằm trong dân, tạo điều kiện cho năng lực con người được giải phóng và phát huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ chức đều cố gắng phát huy tối đa khả năng của mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn lực vì lợi ích của chính bản thân. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ hai, KTNQD tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo ra sự phát triển sôi động của nền kinh tế.
Trong những năm vừa qua, sự tồn tại và phát triển của khu vực KTNQD là cần thiết và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn mới. Việc phát triển KTNQD không những làm suy yếu kinh tế quốc dân mà còn tăng sức cạnh tranh, góp phần thúc đẩy kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ hơn. KTNQD phát triển ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng sôi động. Người tiêu dùng nhờ vậy mà có nhiều cơ hội để lựa chọn hàng hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cuả mình. Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước nên sản phẩm làm ra không đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của thị trường. Bây giờ, với sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải hoạch định lại chiến lược kinh doanh, thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp với tình hình mới, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, khu vực KTNQD đóng vai trò hỗ trợ cho khu vực kinh tế quốc doanh phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế quốc doanh không đảm nhận hết hoặc đảm nhận không tốt.
Như vậy, sự phát triển khu vực KTNQD đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể nói chung phải luôn đổi mới, hoàn thiện để tồn tại và phát triển. KTNQD còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát triển mạnh, nếu không có một chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể khai thác hết được tiềm năng của khu vực kinh tế này.
Thứ ba, KTNQD phát triển tạo điều kiện thu hút lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo khu vực kinh tế nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả. Hơn nữa, trải qua môt giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp đã bộc lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử dụng lao động cho nên với chủ trương giảm biên chế, KTNQD là khu vực đối trọng để thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan nhà nước và hành chính sự nghiệp.
Thứ tư, sự phát triển khu vực KTNQD góp p._.hần vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa, từng bước hội nhập với kinh tế thế giới thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ trở thành cầu nối cho sự hoà nhập đó. Việt Nam sẽ xoá bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan và giảm thuế nhập khẩu cho phù hợp với quy định của AFTA vào ngày 1/6/2006, hạn chế đinh lượng và kiểm soát ngoại hối, mở rộng hơn con đường tiếp cận của bên ngoài vào thị trường nội địa. Hơn nữa, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải tuân thủ những hướng dẫn của WTO vào năm 2010 hoặc sau đó. Do đó, nhà nước phải tạo ra những cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Việc thực hiện chính sách mở cửa tức là chấp nhận cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư, kinh doanh trong nước và chắc chắn sẽ thu hút được một nguồn vốn nước ngoài tương đối lớn. Để tận dụng cơ hội này nhà nước nên chú trọng phát triển KTNQD vì các nhà đầu tư nước ngoài chỉ tham gia vào quốc gia có các thành phần kinh tế tư nhân phát triển bởi như vậy họ mới có cơ hội tồn tại và phát triển.
Chính vì vậy, nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Như vậy, với vai trò của mình trong những năm tới khu vực KTNQD sẽ được mở rộng và là nơi tập trung vốn, nhân lực dồi dào đòi hỏi công nghệ thông tin đáp ứng trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn, có mức lợi nhuận cao mà nhà đầu tư lớn ít quan tâm. Đây là quan điểm của Đảng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Thứ năm, KTNQD phát triển góp phần tăng thu ngân sách cho nhà nước. Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước, khu vực KTNQD tồn tại và phát triển sẽ là nguồn đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước thông qua thuế. Hàng năm khu vực KTNQD đóng góp vào ngân sách khoảng 30%. Nguồn ngân sách nhà nước sẽ được dụng để đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng hay giúp đỡ, hỗ trợ một số ngành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, khu vực KTNQD có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào ngân sách nhà nước.
1.2.4. Một số khó khăn, hạn chế trong hoạt động của khu vực KTNQD:
- Về khả năng tài chính khu vực KTNQD còn nhỏ bé. Mặc dù, trong những năm gần đây được Đảng và nhà nước khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng nhìn chung độ tập trung vốn của khu vực này chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đều có quy mô nhỏ và chủ yếu thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với khu vực kinh tế nhà nước vốn phần lớn được hỗ trợ từ ngân sách còn khu vực KTNQD thì không nhận được sự hỗ trợ này mà chủ yếu khai thác từ nguồn vốn tự có, vốn huy động trên thị trường bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các nguồn vốn đi vay. Chính vì vậy, khả năng tài chính của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn nghèo nàn, vốn tự có nhỏ bé không thể đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều này, vì nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, sự tích luỹ tư bản không được nhiều, do đó vốn tự có khi đưa vào sản xuất kinh doanh không đáp ứng đủ. Với cách giải quyết trên đòi hỏi doanh nghiệp có uy tín cao trên thị trường, quy mô lớn, tổ chức trung gian đủ mạnh để đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu, nó phụ thuộc vào trình độ dân trí. Đối với khu vực KTNQD ở nước ta mới hình thành quy mô nhỏ, uy tín còn hạn chế do đó chưa đáp ứng được nhu cầu trên. Vì vậy,khu vực KTNQD chỉ còn cách là vay các ngân hàng thương mại là nguồn vốn dồi dào đáp ứng được qúa trình sản xuất kinh doanh của KTNQD.
- Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ thuật công nghệ của khu vực KTNQD còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của viện nghiên cứu kinh tế trung ương năm 2000 thì chỉ có 26% doanh nghiệp và 21% số công ty sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5 doanh nghiệp và 61,3% công ty kết hợp cả công nghệ hiện đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu là một trong những nguyên nhân chính làm cho sản phẩm kém sức cạnh tranh và thì phần hàng hoá bị giới hạn đó là điểm chung của các doanh nghiệp.
- Khó khăn tiếp theo đó là tiếp cận nguồn vốn ngân hàng bởi vì các doanh nghiệp thuộc khu vực KTNQD xuất thân từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí thức. Hơn nữa, khi kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường nên những kiến thức về kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai cũng nắm được. Điều đó, gây khó khăn cho chính người chủ điều hành. Họ gặp hạn chế vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, phân tích dự án, các cơ hội đầu tư. Mặt khác, các doanh nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân cho nên chứng thực được năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp không rõ ràng.
- Bên cạnh khó khăn còn một vài hạn chế. Do các chính sách nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ, chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn kiện của Đảng các chủ trương của nhà nước và chính phủ đã nêu rõ và công nhận vai trò quan trọng của KTNQD trong cơ chế thị trường nhưng việc cụ thể hoá thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo môi trường thuận lợi đối với KTNQD đến nay còn nhiều hạn chế, kìm hãm.
- Chính sách thuế còn ưu đãi, chiếu cố cho khu vực kinh tế nhà nước, chưa đảm vảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị KTNQD phải nguỵ trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế nhà nước nên thu được lợi nhuận cao.
- Các chính sách nhà nước chưa thực sự khuyến khích KTNQD tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao động bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian làm việc, khi về già.
- Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu. Tình trạng quan liêu, cửa quyền trong quản lý nói chung và KTNQD nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinh doanh.
1.2.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với khu vực KTNQD:
Trong lịch sử phát triển của mình, để khai thác được vốn, khu vực KTNQD đã dựa vào 3 nguồn chủ yếu: Vốn tự có, thông qua thị trường tài chính và thông qua tín dụng ngân hàng. Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đang rất thiếu vốn. Mặt khác, ta cũng biết khu vực KTNQD có một tiềm năng lớn để phát triển đất nước. Phát huy tính năng động trong kinh doanh, khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế nhà nước cần hỗ trợ cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh. Khi đó giải pháp hữu hiệu nhất là đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này qua kênh tín dụng ngân hàng. Từ đó, khẳng định vai trò của tín dụng ngân hàng quan trọng với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế nói chung và KTNQD nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật… thông qua các khoản tín dụng ngân hàng thương mại.
Như vậy, tín dụng trở thành một trợ thủ đắc lực cho các đơn vị này trong việc thoả mãn cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh các đơn vị này cần mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi doanh nghiệp không còn vốn thì ngân hàng sẽ cho vay. Nguồn này ngân hàng huy động từ nhiều nơi khác nhau như huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế trong nước hay nước ngoài.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo mục tiêu phát triển đất nước.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào để tiến hành sản xuất kinh doanh thì cũng cần phải có vốn và cũng như vậy đối với các thành phần KTNQD ra đời và phát triển thực hiện quá trình tái sản xuất kinh doanh và tái sản xuất mở rộng cũng cần có một nguồn vốn đủ lớn để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và các chi phí khác. Nếu chỉ dựa vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển nền kinh tế thị trường và để phân tán rủ ro trong kinh doanh. Các thành phần KTNQD phải huy động vốn từ bên ngoài, nguồn vốn quan trọng nhất để bổ sung vốn cố định và vốn lưu động cho các thành phần kinh tế quốc doanh đó là nguồn vốn tín dụng từ các NHTM.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nguyên tắc cơ bản khi đi vay là người vay phải trả lãi và gốc trong một thì gian nhất định, nếu quá hạn không trả được vốn vay thì doanh nghiệp phải chịu tổn thất về kinh tế do phạt lãi quá hạn rất cao và sự mất lòng tin của ngân hàng cho vay. Do đó, bắt buộc doanh nghiệp phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn, làm ăn có lãi để khi hết thời hạn của vốn vay có thể đủ tiền chi trả cả lãi và gốc và những khoản chi phí khác. Khi vay vốn ngân hàng cho vay yêu cầu khách hàng phải thực hiện vốn vay đúng mục đích và ngân hàng sẽ thực hiện giám sát quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thêm vào đó, để thu hồi vốn và lãi vay, đôi khi ngân hàng còn tạo nhiều điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng không phải là việc rải đều vốn cho tất cả khách hàng có nhu cầu mà chủ yếu tập trung cho những khách hàng làm ăn có hiệu quả tránh rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy, muốn tăng vốn các doanh nghiệp không thể đi vay bừa bãi mà không chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn vay. Đây là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu của chính phủ là phát triển kinh tế đa thành phần. Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt được mục tiêu đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần đưa kinh tế nước ta lên một vị trí mới. Đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để giúp đỡ các đơn vị có điều kiện thuận lợi mở rộng sản xuất kinh doanh theo kịp và hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung cho các thành phần KTNQD, tạo cơ sở vật chất cho các thành phần này đủ điều kiện liên doanh hợp tác với các tổ chức kinh tế nước ngoài và các tổ chức kinh tế lớn hơn, khai thác lợi thế của họ về kinh nghiệm sản xuất quản lý, công nghệ, khoa học kỹ thuật. Từ đó đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập cùng nên kinh tế thế giới.
1.2.6. Sự cần thiết mở rộng tín dụng đối với khu vực KTNQD:
- Sự phát triển KTNQD là tất yếu để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh té bền vững, đặc biệt với các nước đang phát triển, thiếu hụt vốn đầu tư, tích luỹ nội bộ còn thấp thì đây là cách thức hiệu quả để khai thác nội lực và phát triển kinh tế đất nước.
- Do hầu hết khu vực KTNQD thiếu vốn nên cần vốn hỗ trợ và biện pháp hỗ trợ quan trọng nhất thuộc về các tổ chức tín dụng. Việc đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần KTNQD có nhiều tác động:
+ Hỗ trợ vốn đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp này.
+ Thông qua đòn bẩy lãi suất tín dụng để tăng tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Thông qua nguồn vốn cho vay đúng mục đích, đối tượng sẽ tạo tín hiệu khuyến khích phát triển trong các lĩnh vực có thế mạnh.
- Thông qua quá trình phát triển, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ càng lớn mạnh và sẽ trở thành các doanh nghiệp lớn. Việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp này không chỉ đơn thuần là mục tiêu kinh doanh của NHTM, mà còn là chủ trương có tính chiến lược của chính phủ. Bất cứ chính phủ nào cũng thông qua các biện pháp khác nhau để hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. ở nước ta điều này lại càng quan trọng, vì số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất lớn.
- Phát triển KTNQD với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của quá trình CNH-HĐH. Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực du lịch, thương mại, số lượng các doanh tham gia các lĩnh vực sản xuất vật chất còn thấp. Các doanh nghiệp này phần lớn chỉ lo có việc làm, tăng doanh số, bảo đảm thu nhập cho người lao động, tỷ lệ tích luỹ rất thấp, khá nhiều doanh nghiệp tư nhân kinh doanh theo kiểu buôn chuyến, lỗ lãi từng phi vụ.
Như vậy, phát triển khu vực KTNQD là phù hợp tất yếu khách quan. Do đặc thù của KTNQD ở nước ta xét trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế hiện tại khu vực kinh tế đang đứng trước những khó khăn cần tháo gỡ và quá trình phát triển KTNQD đã và đang bộc lộ hạn chế chủ yếu. Đó là do quá trình phát triển KTNQD còn ngắn, đang trong giai đoạn khởi đầu nên khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế. Trước hết, do bản thân doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp ngân hàng trong khi mức cho vay bị giới hạn. Hơn nữa, hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho dù được phép vay và khó tìm nguồn vốn trung, dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính từ bên ngoài một cách rộng rãi ổn định hơn.
Mặt khác, cũng do nguồn vốn hạn hẹp của các doanh nghiệp nên các doanh nghiệp không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiếp bị, nâng cao công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Do đó, năng suất lao động còn thấp, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên, hiện nay vốn để đầu tư thành lập doanh nghiệp cũng như để mở rộng phát triển sản xuất đang là một trong những khó khăn căn bản của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Thực sự các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có nhu cầu bức xúc về vốn để thành lập và phát triển doanh nghiệp, lo lắng là làm sao vay được vốn vừa sức chi trả, tìm được người tư vấn giúp họ có thể tìm được chỗ vay vốn thích hợp và có thể làm để trả được vốn cả gốc lẫn lãi.
Các doanh nghiệp mới thành lập rất khó vay vốn trong trường hợp mới thành lập, thiếu vốn và sẵn sàng vay vốn ngân hàng bất cứ lúc nào. ngân hàng không dám mạnh dạn cho vay vì không biết năng lực của họ. Trong khi luật chỉ cho phép ngân hàng cho vay tối đa 50% trị giá dự án, các doanh nghiệp này lại muốn vay vượt số này thì rất khó. Vì vậy, tự lực phần lớn về vốn là hiện trạng của nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay.
Tóm lại, để phát triển được doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các NHTM phải cung cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp, phải tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến vay vốn ở các NHTM. Mặc dù cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dễ gặp rủi ro nhưng các doanh nghiệp này là một trong những nhân tố bảo đảm sự ổn định và bền vững nủa nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động… Khu vực KTNQD góp phần to lớn đến phát triển của đất nước. Vì vậy, việc mở rộng tăng cường cho vay đối với khu vực KTNQD là quan trọng và cần thiết.
1.2.7 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng mở rộng tín dụng đối với DNNQD:
a. Doanh số cho vay:
Doanh số cho vay là số tiền cho vay của Ngân hàng đối với khách hàng trong một thời kỳ.
Mở rộng doanh số cho vay thể hiện qua công thức :
Tăng trưởng doanh số cho vay tuyệt đối của DNNQD = DSCVt – DSCVt -1
Để mở rộng doanh số cho vay thì tăng trưởng doanh số cho vay tuyệt đối càng cao càng tốt, doanh số cho vay tuyệt đối cao chứng tỏ doanh số cho vay của năm sau cao hơn năm trước.
DSCV NQD
Tỷ lệ DSCV tương đối của DNNQD trong tổng DSCV =
ồ DSCV
Tỷ lệ DSCV tương đối của DNNQD càng cao càng tốt, điều đó chứng tỏ doanh số cho vay ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay.
DSCVt – DSCVt – 1
Tăng trưởng DSCV NQD năm sau so với năm trước =
DSCVt - 1
Công thức cho thấy DSCV của năm so với năm trước tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm. Sự tăng giảm thể hiện khả năng mở rộng tín dụng đối với DNNQD của năm sau đã tốt hơn so với năm trước hay chưa.
b. Dư nợ cho vay:
Dư nợ cho vay là tổng dư nợ cho vay kỳ trước với tổng doanh số cho vay kỳ này.
Mở rộng dư nợ cho vay thể hiện qua công thức sau:
Tăng trưởng dư nợ cho vay tuyệt đối = ồ DNCVt – ồ DNCVt-1
Tăng trưởng dư nợ cho vay tuyệt đối cao chứng tỏ doanh số cho vay lớn và phản ánh quy mô tín dụng của Ngân hàng lớn.
DNCV NQD
Tỷ lệ DNCV tương đối trong tổng dư nợ =
ồ DNCV
Tỷ lệ DNCV tương đối cao thể hiện dư nợ cho vay ngoài quốc doanh của Ngân hàng cao trong tổng dư nợ cho vay.
DNCVt – DNCVt – 1
Tăng trưởng DNCV năm sau so với năm trước =
DNCVt – 1
Sự tăng trưởng dư nợ cho vay năm sau cao hơn năm trước tăng hay giảm chứng tỏ khả năng tín dụng của Ngân hàng năm sau so với năm trước tốt hay xấu.
c. Số lượng khách hàng và số lượt khách hàng:
Số lượng khách hàng là tổng số khách hàng khu vực KTNQD vay vốn của Ngân hàng trong từng thời kỳ.
Để mở rộng tín dụng doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá khả năng mở rộng khách hàng.
Tăng số lượng khách hàng = Số lượng khách hàngt – Số lượng khách hàngt-1
Số lượng khách hàng càng cao thể hiện việc mở rộng tín dụng Ngân hàng lớn đối với doanh nghiệp ngaòi quốc doanh càng lớn.
Số lượt khách hàng là số lần khách hàng quay lại quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
Đây cũng là một chỉ tiêu đánh khả năng mở rộng tín dung đối với một khách hàng quan hệ với ngân hàng, có những chhính sách tín dụng trước và sau khi cho vay tốt. Khách hàng quay lại quan hệ tín dụng với Ngân hàng nhiều là do Ngân hàng đảm bảo an toàn thuận lợi như thời hạn cấp vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, khối lượng vay đầy đủ, chính sách khuyến khích hoặc ưu đãi vay vốn. Từ đó khách hàng tin tưởng và muốn quay lại quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
d. Mở rộng và đa dạng hoá loại hình DNNQD và ngành nghề kinh doanh:
Doanh ngiệp ngoài quốc doanh hoạt động đa dạng trên nhiều ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Do vậy, ngân hàng muốn mở rộng tín dụng với thành phần này cũng cần mở rộng cho vay đối với các lĩnh vực kinh doanh, lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu, xây dựng khu đô thị mới, công nghiệp bao bì, rượu bia... là lĩnh vực kinh doanh đang có lợi thế nhất định trong thời gian hiện nay.
Mở rộng các ngành nghề này ngân hàng phải đa dạng hoá cho vay các loại dự án, loại ngành nghề khác nhau. Để mở rộng được ngân hàng phải có khả năng thẩm định các dự án đầu tư đó.
Việc mở rộng cho vay các loại hình doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh giúp Ngân hàng mở rộng địa bàn hoạt động như uy tín của mình, từ đó Ngân hàng thu hút được số đông khách hàng và huy động được nguồn vốn lớn trong hoạt động tín dụng. Các loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đa dạng (TNHH, CP, HTX...), đòi hỏi ngân hàng phải có chính sách mở rộng đối với từng loại hình này.
1.2.8. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực KTNQD:
Trong thời điểm hiện nay, mở rộng cho vay đối với KTNQD là mục tiêu lâu dài của hầu hết các ngân hàng. Tuy nhiên, để làm được điều này các ngân hàng luôn phải xem xét kỹ các nhân tố ảnh hường đến mở rộng cho vay đối với KTNQD. Ngân hàng nghiên cứu các nhân tố để biết được đâu là nhân tố có thể thúc đẩy việc mở rộng và đâu là nhân tố kìm hãm việc mở rộng. Sau đây tôi xin trình bày một số nhân tố chủ yếu:
a. Nhân tố khách quan:
- Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế là môi trường sống của cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Mặt khác, môi trường kinh tế luôn biến động từng ngày, từng giờ. Do đó, hoạt động kinh doanh của cả hai chủ thể này đều bị ảnh hưởng rất lớn về môi trường kinh tế. Khi nền kinh tế hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất của mình. Khi đó nhu cầu vốn của họ tăng lên và hoạt động tín dụng ngân hàng có thể mở rộng theo. Ngược lại, trong thời kỳ suy thoái của nền kinh tế các hoạt động kinh tế lâm vào trạng thái trì trệ, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp và như vậy nhu cẩu vốn cũng giảm nhanh chóng và khi doanh nghiệp không cần vốn để sản xuất kinh doanh thì ngân hàng cũng không thể mở rộng cho vay, trong tình trạng như vậy thì nếu mở rộng cho vay đối với KTNQD cũng sẽ không có hiệu quả và không an toàn.
Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam đang trên con đường hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, với môi trường kinh tế thuận lợi như vậy ngân hàng hoàn toàn có thể tin rằng việc mở rộng cho vay đối với KTNQD là rất cần thiết và nó sẽ mang lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận không nhỏ nếu như ngân hàng biết tận dụng cơ hội đúng cách.
- Chủ trương chính sách của nhà nước.
Từ khi nhà nước có chính sách cho phép phát triển KTNQD, ngân hàng đã có thêm một khách hàng lớn để mở rộng cho vay. Nhưng trên thực tế chưa có nhiều chủ trương chính sách, ưu đãi đối với KTNQD. Đặc biệt trong mấy năm gần đây, các điều kiện cho vay ngày càng thắt chặt nên khu vực KTNQD không đủ điều kiện vay vốn. Như vậy nhiều chính sách của nhà nước có thể là động lực mạnh nhưng cũng có thể là cản trở khi đưa KTNQD tiếp cận với nguồn vốn tín dụng từ phía ngân hàng.
b. Nhân tố chủ quan:
Bên cạnh nhân tố khách quan thì việc mở rộng cho vay KTNQD còn chịu ảnh hưởng không nhỏ của nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hai chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình cho vay.
Từ phía ngân hàng.
Thứ nhất, chính sách tín dụng là nhân tố chủ quan đầu tiên ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với KTNQD, hay nói cách khác ngân hàng có mở rộng cho vay KTNQD hay không là tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng mà ngân hàng đưa ra trong từng thời điểm. Chính sách tín dụng đúng đắn phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh hay dự án đầu tư của doanh nghiệp là những điều kiện thích hợp để mở rộng cho vay đối với khu vực này. Từ đó, ngân hàng vừa có thể mở rộng cho vay nhưng vẫn có thể giám sát độ an toàn của khoản vốn đã cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn hạn chế trong quyết định cho vay ngoài quốc doanh vì Ngân hàng sợ rủi ro khi cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là cao. Chính vì vậy, mà Ngân hàng chỉ cho vay những món nhỏ, với cùng một khoản chi phí cho vay Ngân hàng phải bỏ ra nhiều lần từ bước thẩm định cho vay đến bước giám sát thu nợ. Do đó, chi phí khoản cho vay này rất lớn làm lợi nhuận Ngân hàng giảm.
Thứ hai, về thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng đó là thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh của khách hàng, rủi ro mà khách hàng gặp phải. Thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác sẽ nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng, tạo uy tín cho ngân hàng hơn nữa nhằm mục đích ngày càng đẩy mạnh mở rộng tín dụng ngân hàng. Mặt khác từ những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh và rủi ro khách hàng gặp phải Ngân hàng có khả năng tư vấn cho khách hàng giúp cho khách hàng vay được vốn cải thiện tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Làm được điều đó Ngân hàng sẽ thu hút số lượng khách rất lớn cũng như mang lại lợi nhuận cho chính Ngân hàng.
Thứ ba, về quy trình tín dụng. Là bước cần thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ đảm bảo an toàn tín dụng tiến hành từ khi bắt đầu phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ nợ vay cả vốn lẫn lãi. Thực hiện đầy đủ nhịp nhàng các bước quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng phát hiện kịp thời các khuyết điểm của khoản tín dụng để có biện pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời hạn chế rủi ro xảy ra. Nhưng cũng không nhất quán cứng nhắc để bảo vệ lợi ích cho khách hàng như cho ngân hàng và xã hôị.
Thứ tư, tình hình huy động vốn. Ta cũng thấy đặc trưng của ngân hàng là “đi vay để cho vay”, bởi vậy nếu không đi vay được tức là ngân hàng không có vốn để đem cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay phát triển. Khi nguồn vốn huy động ít thì ngân hàng ưu tiên cho kinh tế quốc doanh và khi huy động được nhiêù thì ngân hàng mới tiến đến cho vay KTNQD. Vì vậy, trước khi đưa ra mở rộng cho vay đối với KTNQD thì ngân hàng cần phải xem xét đến lượng vốn huy động của mình, xem lượng vốn đó có ổn định hay không? Chi phí có hợp lý hay không? vì cho vay khu vực KTNQD bao giờ cũng phải tính đến rủi ro.
Thứ năm, về chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị.
Chất lượng nhân sự đó chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, marketing, trình độ ngoại ngữ, vi tính, sự nhiệt tình trong công việc của cán bộ. Còn cơ sở vật chất trang thiết bị chính là những máy móc thiết bị phương tiện làm việc của con người. Cả hai điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới nguồn tin của khách hàng và ngân hàng. Nếu như khách hàng giao tiếp với cán bộ mà thấy yên tâm thoả mãn về trình độ nghiệp vụ, sự tận tình, chu đáo của cán bộ thì chắc chắn sẽ tìm đến ngân hàng quan hệ. Ngược lại, khách hàng gặp cán bộ quan liêu nhũng nhiễu trong nghiệp vụ đòi hỏi giấy tờ khó khăn đôi khi khách hàng phải có hình thức đút lót thì cán bộ nghiệp vụ mới giải quyết việc xin vay vốn của khách hàng. Điều đó làm cho khách hàng sợ Ngân hàng không tin tưởng vào Ngân hàng mà đi vay bên ngoài cho dù lãi suất cao hơn. Như vậy, việc cho vay của Ngân hàng bị hạn chế và lợi nhuận của Ngân hàng cũng giảm theo.
- Từ phía doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Nhân tố đầu tiên kể đến là trình độ của người đứng đầu doanh nghiệp. Khi người đứng đầu có trình độ thì việc quản lý, điều hành doanh nghiệp sẽ diễn ra tốt đẹp. Doanh nghiệp làm ăn có lãi, doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh và phương án sản xuất kinh doanh hay dự án đầu tư có tính khả thi và tính hiệu quả. Doanh nghiệp sẽ mạnh dạn tìm đến ngân hàng để yêu cầu được vay vốn. Lúc này ngân hàng sẽ yên tâm vào khoản tín dụng mà mình cho doanh nghiệp vay và việc mở rộng cho vay đối với KTNQD của ngân hàng được thực hiện ngược lại nếu ngưới đứng đầu không có trình độ thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi cho vay.
Nhân tố thứ hai là uy tín của doanh nghiệp cũng rất quan trọng. Ngân hàng muốn mở rộng cho vay đối với những doanh nghiệp đã làm ăn lâu dài với Ngân hàng (hay còn gọi là khách hàng truyền thống) hoặc những doanh nghiệp tuy chưa bao giờ quan hệ với Ngân hàng nhưng lại có quan hệ uy tín trên thị trường trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng khác. Uy tín là một phần giúp Ngân hàng yên tâm khi mở rộng cho vay đối với khu vực KTNQD, khu vực mà yếu tố rủi ro luôn luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Nhân tố thứ ba là doanh nghiệp ngoài quốc doanh lười lập phương án, dự án hay lập không chính xác các dự án đầu tư, có khi lập dự án một kiểu nhưng sử dụng vốn vào mục đích khác. Điều đó gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc cho vay như giám sát thu nợ.
Nhân tố thứ tư đó là DNNQD có khả năng về tài sản tài chính không cao do đó việc cho vay thế chấp là rất khó khăn đối với Ngân hàng. Vì vậy, các DNNQD cần phải hoàn thiện thủ tục pháp lý về tài sản thế chấp. Mặt khác, DNNQD chưa được ưu tiên trong chính sách cho vay như các doanh nghiệp quốc doanh vì vậy mà chi phí vay vốn, chi phí giao dịch của Ngân hàng lớn làm cho các DNNQD ngại khi vay vốn Ngân hàng.
Chương 2
thực trạng hoạt động Mở RộNG TD NH
ĐốI VớI KHU VựC KTNQD tạI NHĐT & PT Hà NộI
2.1 Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội :
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng ĐT &PT Hà Nội :
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội được thành lập vào ngày 27/05/1957 theo nghị định số 233/NĐ - TC - TCCB của Bộ Tài chính với tên gọi đầu tiên là “Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội”. Trụ sở của ngân hàng đặt tại số 4B Lê Thánh Tông - Hà Nội. Trải qua gần 1/2 thế kỷ, ngân hàng đã tồn tại và phát triển không ngừng với các tên gọi lịch sử như sau:
Chi hàng kiến thiết thành phố Hà nội (1957- 1981).
Chi nhánh NH Đầu tư và Xây dựng thành phố HN (1982-1989).
Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà nội (1990- nay).
Ngày mới thành lập, Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội được tổ chức theo mô hình chỉ có hai phòng là phòng cấp phát và phòng kế toán với hoạt động nghiệp vụ cấp phát thanh toán và quản lý vốn ĐTXDCB. Trải qua hơn 45 năm xây dựng và trưởng thành, ngân hàng không ngừng phát triển và trưởng thành, hiện tại ngân hàng đã mở rộng cơ sở hoạt động được tổ chức thành 17 phòng, 04 chi nhánh trực thuộc với 12 quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch ngân hàng bán lẻ tại các khu vực đông dân cư, các trọng điểm kinh tế. Với đặc trưng của ngân hàng là chủ yếu phục vụ cho đầu tư và phát triển nên ngay từ thời kỳ đầu thành lập, đó là thời kỳ phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh chống Pháp (1957- 1960), Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội đã thực hiện cung ứng 350 triệu đồng phục vụ cho 912 công trình, các khu công nghiệp quan trọng, phục hồi giao thông và hạ tầng kỹ thuật đô thị, đầu tư xây dựng mới vành đai công nghiệp từ phía Nam Hà Nội như cơ khí trung quy mô, nhà máy điện Yên Phụ, xây dựng lại đường sắt nối thủ đô với các tỉnh phía bắc, nhà máy dệt 8/3.
Khi thủ đô bước vào kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965). Chi hàng kiến thiết thành phố Hà nội đã thực hiện cung ứng vốn gấp ba lần so với thời kỳ trước 1957- 1960, triển khai và quản lý đầu tư cho 2079 chỉ tiêu kế hoạch công trình. Trong đó xây dựng trên 160.000 m2 nhà ở phục vụ đời sống nhân dân thủ đô, xây dựng các khu công nghiệp Thượng Đình, khu công nghiệp Văn Điển, Đông Anh... đặc biệt tháng 09/1963 chi hàng đã thành lập thêm 03 chi điếm phụ trách 3 huyện Thanh Trì, Từ Liêm và Gia Lâm.
Thời kỳ phục vụ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1965- 1975), Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội vừa phục vụ xây dựng vừa tham gia chiến đấu, đã cung ứng vốn kịp thời phục vụ nghi trang, nguỵ trang bảo vệ an toàn các cơ sở công nghiệp của thủ đô, sửa chữa cầu cống, đường xá bị hư hỏng do các đợt bom đạn, hoàn thành tốt công tác phòng không, sơ tán, bảo vệ cơ quan Đảng, Nhà nước đóng trên địa bàn thủ đô. Trong 4 năm từ 1965 – 1968 mức vốn đầu tư của ngân hàng góp phần xây dựng thủ đô lớn nhất toàn quốc là782 triệu đồng với 6070 chỉ tiêu công trình, trong năm 1966 lại thành lập thêm chi điếm thứ tư phụ trách huyện Đông Anh. Từ năm 1969 đến năm 1973, Chi hàng kiến thiết Hà Nội trong chiến tranh vẫn bám trụ và hoàn thành._. thu hút thêm được khách hàng vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Ngân hàng đã đưa vào áp dụng quy trình cho vay theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000, việc này làm đơn giản hoá thủ tục vay vốn, hồ sơ xin vay được quy định rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện, các bước thực hiện quy định rõ ràng, khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng khi thực hiện và cho khách hàng khi xin vay. Hiện tại vẫn chưa xảy ra lỗi lớn nào, nhưng với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ, của nhu cầu, cần phải phát hiện kịp thời những vướng mắc khi áp dụng quy trình cho vay từ đó tìm các biện pháp khắc phục. Phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế môi trường kinh doanh, hoạt động của của khách hàng, nhu cầu của khách hàng và môi trường pháp lý.
3.2.3.1. Tuân thủ các nguyên tắc thẩm định khi cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Việc mở rộng tín dụng là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Song vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng là kết quả các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, ngân hàng thu được gốc và lãi đúng hạn. Trên thực tế trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở bản thân ngân hàng, quyền trả nợ thực tế là ở người vay. Do đó, khi ngân hàng đã quyết định và khoản vay đã được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, việc cho vay hoàn toàn đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyền quyết định của ngân hàng còn việc thu nợ sẽ là khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái độ và khả năng thực hiện các cam kết nghĩa vụ trả nợ của người vay. Vì vậy, việc thẩm định khi cho vay là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải tuân thủ các nguyên tắc, nội dung cơ bản của việc phân tích thẩm định khi cho vay.Khi thẩm định để đánh giá về khách hàng cần làm rõ những vấn đề sau:
- Trước hết là đánh giá chung về khách hàng, thông qua các mặt sau: Năng lực pháp lý; Mô hình tổ chức, bố trí lao động; Quản trị điều hành như thế nào; Kinh doanh ngành nghề gì; Và các rủi ro mà khách hàng có thể gặp phải.
- Sau khi tìm hiểu chung về khách hàng cần đánh giá tình hình tài chính của khách hàng thể hiện: Đánh giá về sự chính xác, trung thực của các báo cáo tài chính; Xem xét số liệu trong bảng cân đối tài sản để so sánh sự tăng giảm về số tuyệt đối, tương đối qua các năm; Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng như: Doanh thu, chi phí, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến kết quả đó; Phân tích những tồn tại và nguyên nhân của nó.
- Tiếp theo cần đánh giá về phương án sản xuất kinh doanh, khả năng vay trả của khách hàng. Phân tích phương án sản xuất kinh doanh khả thi, các yếu tố đầu ra, đầu vào, khả năng thực hiện cũng như các yếu tố ảnh hưởng và tính toán hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh đó.
- Sau đó cần đánh giá về hình thức đảm bảo tiền vay của doanh nghiệp, xem khách hàng có khả năng thực hiện đảm bảo bằng loại nào...
Thực hiện tốt công tác thẩm định là biện pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần thực hiện mục tiêu của ngân hàng là “Tăng trưởng và an toàn” nhưng vì đây là đề tài về “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội” nên không đi phân tích sâu vào nghiệp vụ thẩm định cụ thể mà chỉ đề cập đến những nguyên tắc chung.
3.2.3.2 Kiểm tra, giám sát chặt chẽ vốn vay và quá trình trả nợ vay của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Từ khi ban lãnh đạo ngân hàng ban hành quyết định giao trách nhiệm đến từng cán bộ ngân hàng, nên cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Trong quá trình luân chuyển của đồng vốn sẽ có rất nhiều yếu tố tác động gây ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó bao hàm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Vì vậy, để có biện pháp xử lý kịp thời khi gặp những nhân tố bất lợi đối với hoạt động tín dụng thì công việc kiểm tra, giám sát khách hàng cần được tiến hành một cách thường xuyên, chặt chẽ và có hiệu quả.
Để kiểm tra, giám sát các khoản vay đạt kết quả cao thì tuỳ thuộc vào đặc thù sản xuất kinh doanh, mức độ quan hệ, sự tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng mà có thể áp dụng các hình thức kiểm tra, giám sát khác nhau. Đặc điểm riêng của khách hàng vay vốn thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là chủ yếu hoạt động sản xuất kinh doanh những mặt hàng phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng hàng ngày…vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát thường xuyên. Cán bộ tín dụng cần phải có kế hoạch hàng tuần, tháng, quý...và bất thường để kiểm tra giám sát tốt các hoạt động của doanh nghiệp cũng như tài sản đảm bảo. Đây là biện pháp quan trọng giúp cho cán bộ tín dụng nắm bắt được thông tin về các đối tác liên quan, tính thực tế của sản phẩm, xác định thời gian phát tiền vay, thời hạn cho vay, mức tiền cho vay đối với sản phẩm, khả năng thu hồi vốn để trả nợ cho ngân hàng. Đặc biệt phát hiện ra những khoản vay vốn của Ngân hàng mà khách hàng sử dụng lãng phí hoặc không đúng mục đích…từ đó đưa ra biện pháp xử lý thích hợp.
3.2.4. Xây dựng chiến lược Marketing đúng đắn và đẩy mạnh công tác Marrketing ngân hàng nhằm mở rộng quy mô cũng như nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Chiến lược Marketing ngân hàng được xây dựng tập trung vào 3 mục tiêu cơ bản đó là:
*Tăng khả năng sinh lợi.
*Tăng sức mạnh trong cạnh tranh.
*An toàn trong kinh doanh.
Để đạt được các mục tiêu đó cần làm tốt những biện pháp sau:
3.2.4.1 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường có vai trò hết sức quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng trên thị trường. Đây là công việc hết sức phức tạp nhưng lại cần thiết đối với bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. Nghiên cứu thị trường tập trung nghiên cứu các vấn đề về cung, cầu và các yếu tố tác động. Nghiên cứu cầu tức là nghiên cứu tập tính, thói quen, nhu cầu của khách hàng đối với dịch vụ của ngân hàng, từ đó ngân hàng nâng cao khả năng thích ứng của dịch vụ trên thị trường nhằm tăng cường khả năng thu hút khách hàng. Nghiên cứu cung bao gồm việc nghiên cứu số lượng, cơ cấu sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng trên thị trường và nghiên cứu ưu thế của các ngân hàng, tổ chức trung gian tài chính khác trên thị trường. Nghiên cứu các yếu tố tác động tới thị trường của ngân hàng đó là các môi trường về kinh tế, chính trị, dân cư, môi trường khoa học công nghệ, môi trường tự nhiên...
Thông qua việc nghiên cứu thị trường, ngân hàng đã xác định được các kết quả sau:
- Xác định được vị trí của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng. ở nước ta có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 85-95%, và xu hướng gia tăng nữa trong thời gian tới. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều thuộc vào loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh nghiệm của hầu hết các nước trên thế giới dù là nước phát triển hay là nước đang phát triển thì mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Là một nước nông nghiệp với khoảng 80% dân số ở nông thôn và làm nông nghiệp thì con đường CNH-HĐH phải lưu tâm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là điều tất yếu.
- Nắm được các yếu tố vĩ mô liên quan đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, từ đó điều chỉnh hoạt động một cách kịp thời phù hợp với quy định của Nhà nước. Nắm chắc tình hình đổi mới DNNN, tốc độ cổ phần hoá, nắm được các quy định của Chính phủ về việc chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của các tổ chức Chính trị – Xã hội thành công ty TNHH một thành viên. Nắm bắt kịp thời các văn bản pháp luật liên quan đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như Nghị định NĐ 90/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định thành lập hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ...
- Nghiên cứu kỹ và thực hiện Luật doanh nghiệp, luật HTX chuyển đổi, luật cổ phần hoá...
Trên cơ sở các kết quả đã thực hiện được, các giải pháp trong thời gian tớ là:
Phải nghiên cứu, xác định đúng vai trò, vị trí và xu hướng phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Xác định được vị trí, tầm quan trọng của việc cho vay NQD.
Để cho vay NQD có hiệu quả và an toàn cần nắm được thực trạng của doanh nghiệp NQD để có biện pháp quản lý và tháo gỡ hữu hiệu.
Nhận biết và phân loại được các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, phân loại theo ngành nghề sản xuất kinh doanh, quy mô...từ đó đưa ra các chính sách linh hoạt, hợp lý và đảm bảo an toàn vốn vay.
Cần nắm vững các tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động của các doanh nghiệp NQD như: Chính sách thương mại, chính sách công nghiệp, chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách thuế, chính sách đầu tư.
Cần có nghiên cứu, tìm hiểu các chính sách liên quan đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh để có chỉ đạo kịp thời...
3.2.4.2. Xây dựng chiến lược sản phẩm - dịch vụ hấp dẫn:
Trong một môi trường cạnh tranh như hiện nay thì việc cạnh tranh bằng lãi suất, phí dịch vụ là không hiệu quả và có thể nói là không lành mạnh (Đối với một số ngân hàng đã tự phá bỏ sàn lãi suất cho vay nhằm thu hút khách hàng của đối phương). Điều này vừa vi phạm quy định của NHNN, vi phạm quyền lợi của các ngân hàng khác (Khi đã tham gia ký kết thoả thuận về quy định Trần - Sàn lãi suất). Biện pháp hữu hiệu nhất đối với các ngân hàng hiện nay là tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ tốt... Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sản phẩm - dịch vụ của ngân hàng ngày càng có chất lượng cao hơn, nhu cầu người tiêu dùng cũng thay đổi. Các ngân hàng đều mong muốn dựa vào các kỹ thuật tiên tiến để tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo, thoả mãn nhu cầu khách hàng, với mong muốn thu hút lợi nhuận tối đa. Vì vậy, chiến lược sản phẩm – dịch vụ của ngân hàng là một vũ khí sắc bén trong cạnh tranh trên thị trường, đồng thời là phương pháp có hiệu quả để tạo ra nhu cầu mới. Vì thế, ngân hàng đã thực hiện cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí kèm theo sản phẩm tín dụng. Khách hàng ngoài quốc doanh có nhiều hạn chế như: Khả năng quản lý kém, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất rất hạn chế..., nên họ rất cần những lời khuyên từ những người có trình độ, hiểu biết và nhanh nhậy với thị trường. Do vậy, khi cung cấp sản phẩm tín dụng, ngân hàng đã thực hiện việc tư vấn miễn phí cho khách hàng, đưa ra những lời khuyên bổ ích, có giá trị cho khách hàng. Điều này giúp khách hàng có tâm lý thoải mái, thân thiện hơn với cán bộ tín dụng, tin tưởng vào ngân hàng, còn cán bộ tín dụng qua đó cũng hiểu biết thêm về khách hàng. Để thực hiện thành công giải pháp này thì điều cốt yếu là phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng phải có trình độ và năng lực thực sự, và có kinh nghiệm trên thị trường. Do vậy, tư vấn cho khách hàng là một công tác rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro cho khách hàng cũng như ngân hàng, thể hiện rõ chất lượng về nghiệp vụ cũng như chất lượng về dịch vụ đối với khách hàng và nó gắn kết hơn giữa khách hàng và ngân hàng.
Mặt khác trong thời gian tới, ngân hàng có thể thu hút khách hàng ngoài quốc doanh thông qua các biện pháp nhằm xây dựng một chính sách sản phẩm - dịch vụ tốt như sau:
- Có thể cấp tín dụng kèm theo dịch vụ mang tới tận nơi khách hàng cần như nhận hồ sơ tận nơi, giải ngân bằng tiền mặt tận nơi... Điều này làm giảm thời gian cho khách hàng đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng đến tận cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng để xem xét, đánh giá tình hình thực tế của khách. Việc này cũng làm tốn thêm chi phí cho ngân hàng, nhưng với môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM hiện nay, thì việc này có tác dụng thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng.
- Mở ra nhiều sản phẩm tín dụng áp dụng đối với thành phần kinh tế NQD mà NHNN đã quy định như: Cho vay bổ sung vốn lưu động; Cho vay đầu tư; Cho vay tiêu dùng; Cho vay theo chương trình đánh bắt hải sản xa bờ; Cho vay các đối tường là người đi lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài; Cho vay cầm cố chứng từ có giá; Cho vay đối với học sinh, sinh viên; Cho vay thế chấp lương đối với cán bộ công nhân viên có thu nhập ổn định...
Ngân hàng nên bắt tay vào nghiên cứu một số sản phẩm cho vay đối khách hàng cá nhân như một số ngân hàng các nước trong khu vực và các nước phát triển đã áp dụng:
- Cho vay mua nhà và xe ô tô, xe máy trả góp.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi (Hiện tại chỉ áp dụng đối với một số khách hàng là doanh nghiệp có uy tín).
Với một phạm vi hẹp hay một quốc gia đông dân như Việt Nam và đời sống kinh tế xã hội đang dần ổn định và phát triển, cùng với sự “Bảo trợ” của hệ thống pháp lý có hiệu quả thì những loại sản phẩm trên có thể áp dụng và phát triển tốt trong tương lai. Hiện nay, ở một số nước sản phẩm này thị phần rất lớn, chiếm tới gần 30% tổng dư nợ. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu kỹ, lựa chọn khách hàng có thu nhập cao, ổn định và phải đề nghị pháp luật can thiệp mạnh.
3.2.4.3. Tăng cường công tác quảng cáo, khuếch trương rộng khắp :
Một thực tế cho thấy hiện nay các NHTM nói chung và ngân hàng ĐT&PT Hà Nội nói riêng mới bắt đầu chú trọng tới công tác Marketing, họ mới chỉ giới thiệu về mình cũng như các hoạt động của họ trên các báo chuyên ngành, còn trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài báo, tivi,...còn rất hạn chế. Vì vậy cần tăng cường hoạt động quảng cáo, khuếch trương các sản phẩm cũng như các dịch vụ mới trên các phương tiện thông tin đại chúng để có nhiều hơn nữa khách hàng biết về mình. Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt qua hệ với khác hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng.
Ngân hàng cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo các chính sách, thể chế, thể lệ cho vay tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, làm cho họ hiểu được những giấy tờ cũng như những điều kiện cần thiết để vay vốn. Từ đó, khi phát sinh nhu cầu về vốn và họ cảm thấy có đủ các điều kiện, nhất định họ sẽ tìm đến ngân hàng. Trên thực tế, nhu cầu vốn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh rất lớn, nhiều khi có nhu cầu vay vốn, có đủ điều kiện vay nhưng họ vẫn ngại đến ngân hàng xin vay do họ chưa có đầy đủ thông tin về ngân hàng. Vì thế, cần tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi cụ thể các nghiệp vụ liên qua đến cho vay ngoài quốc doanh, về tài sản thế chấp, định giá tài sản thế chấp...
Tóm lại, việc thúc đẩy hoạt động Marketing ngân hàng là rất cần thiết để lôi cuốn khách hàng đến với mình và giữ được quan hệ lâu dài với khách hàng.
3.2.5 Tăng cường đội ngũ cán bộ có tay nghề và trình độ nghiệp vụ cao :
Đối với người đi vay, họ phải tiếp xúc trực tiếp với cán bộ tín dụng, thì cán bộ tín dụng trong con mắt họ là biểu tượng của ngân hàng. Do vậy, trình độ, hiểu biết cũng như thái độ của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngân hàng. Việc đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng nói riêng và đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung là việc làm thường xuyên của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Những ưu điểm mà đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng đã làm được như: Đã đổi mới từ tư duy đến nhận thức, tích cực tiếp cận, tiếp thị các khách hàng, không ngại khó, ngại vất vả, luôn nhiệt tình hướng dẫn, tư vấn cho khách hàng. Bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Số lượng cán bộ tín dụng phụ trách cho vay ngoài quốc doanh còn ít, chưa được chuyên môn hoá sâu... Do vậy, ngân hàng cần đào tạo một đội ngũ cán bộ am hiểu về lĩnh vực đầu tư, trau dồi, rèn luyện để có thái độ phục vụ tốt, nêu cao tinh thần trách nhiệm "Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm"; Lựa chọn các cán bộ có tâm huyết, trình độ, năng động để tiếp cận và giải quyết cho vay ngoài quốc doanh.
Do đặc thù của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cũng như khách hàng cá nhân là quy mô vừa và nhỏ, do đó phát sinh nhiều món vay (khoản vay) với số lượng nhỏ. Như hiện nay quy trình duyệt vay còn rườm rà, phức tạp, phải qua nhiều khâu duyệt vay. Do vậy làm giảm tính linh hoạt trong việc phán quyết tín dụng, gây khó khăn, ách tắc về thời gian duyệt vay. Vì vậy, ngân hàng nên áp dụng việc phân quyền hạn mức duyệt vay dần đến các cấp phòng, cán bộ tín dụng trực tiếp. Có thể đối với những khoản vay nhỏ, tính chất ít phức tạp, ít rủi ro thì cán bộ tín dụng có thể được trực tiếp ký duyệt vay đến một mức nào đó (tuỳ thuộc vào năng lực chuyên môn, tư cách đạo đức của từng người) và phải chịu trách nhiệm đối với những khoản vay đó. Đồng thời cùng với việc phân trách nhiệm rõ ràng cũng cần phải có những chính sách động viên khen thưởng, chính sách phân phối thu nhập thích đáng.
Ngoài ra, cần thực hiện các biện pháp sau:
aCác phòng tín dụng, các chi nhánh khu vực cần xây dựng kế hoạch cụ thể đối với việc cho vay ngoài quốc doanh.
a Ban giám đốc căn cứ vào kế hoạch xây dựng của các phòng, các chi nhánh khu vực, căn cứ vào tình hình cụ thể tại các đơn vị để có kế hoạch cho vay ngoài quốc doanh.
a Phối hợp với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, sở kế hoạch đầu tư để tiếp cận khách hàng tốt, dự án khả thi và liên hệ với sở kế hoạch đầu tư để giúp cho việc kiểm tra hồ sơ pháp lý đảm bảo an toàn.
a Phối hợp với sở địa chính, cục đăng ký giao dịch đảm bảo...để được hướng dẫn cụ thể về thủ tục, giấy tờ và các tình huống trong quá trình liên quan đến tài sản thế chấp.
a Cần có biện pháp động viên đối với việc cho vay ngoài quốc doanh...
3.3. Một số kiến nghị :
3.3.1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước:
4 Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và ban hành các nghị định, các chính sách...để tạo khung pháp lý thống nhất cho hoạt động của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
4Bộ Tài chính cần có các văn bản hướng dẫn về công tác quản lý tài chính, kinh tế thống kê...áp dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4 Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000, Chính phủ khẩn trương yêu cầu các bộ chức năng xây dựng xong các dự thảo Nghị định triển khai luật này, trình Chính phủ ban hành tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp tư nhân, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đúng pháp luật, ổn định, vững chắc sớm cho ra đời luật cạnh tranh...
4 Bộ Tư pháp, Bộ tài chính sớm ban hành các nghị định về cho vay bằng tín chấp, thế chấp và bảo lãnh để các NHTM có thể mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dễ dàng hơn.
4Quản lý chặt chẽ và chấp hành pháp lệnh thống kê đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Các cơ quan nhà Nhà nước cần tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê. Yêu cầu các doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng hoặc 10 tỷ đồng trở lên, hàng năm phải thực hiện kiểm toán. Song cũng tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,...gây khó khăn cho doanh nghiệp.
4Đẩy nhanh tiến độ Cổ phần hoá các DNNN.
4Chính phủ cam kết thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB, WTO, AFTA... về cải tổ doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4Hình thành các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh
4Ngoài ra, Chính phủ nên xây dựng dự án, đàm phán thu hút dự án nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: Đào tạo nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp Việt nam; Xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập doanh nghiệp.
4 Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như các doanh nghiệp Nhà nước.
4Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất.
4Tổng cục địa chính cần có các quyết định rõ ràng hơn về thế chấp bằng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất.
Mặt khác, một số vấn đề rất quan trọng mà Nhà nước cần thực hiện là:
Phải có những quy định, tiêu chí chặt chẽ về việc thành lập, giải thể doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Kiểm soát chặt chẽ việc kiểm toán đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nghĩa vụ đối với Nhà nước (như thuế).
Chú trọng tới tiến độ và chất lượng của việc cổ phân hoá hoặc cổ phần hoá một phần các DNNN, sắp xếp lại, chia tách, sát nhập DNNN, lựa chọn những doanh nghiệp tốt để cổ phần hoá.
Thực hiện đúng kế hoạch theo lộ trình đã đề ra là tới năm 2005 chỉ duy trì 2000 DNNN.
Có những biện pháp mạnh hơn đối với việc “minh bạch” tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước :
- Thu hút dự án, chương trình của các tổ chức tài chính quốc tế và chính phủ các nước, hỗ trợ ngành Ngân hàng Việt nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản trị, điều hành hoạt động Ngân hàng theo trình độ quốc tế, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ Ngân hàng, trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại, đồng thời cũng tăng thêm các dự án cho của ngân hàng.
- Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động Ngân hàng nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động các Ngân hàng ở Việt nam theo cam kết với hiệp địng thương mại Việt- Mỹ, AFTA. Cho phép các Ngân hàng của Nhật, Mỹ, khối EU mở chi nhánh hoạt động ở Việt nam, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động Ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
- NHNN cần phải tiếp tục nghiên cứu các chính sách cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và phải thường xuyên có những thông tư, nghị định cụ thể hướng dẫn các NHTM.
- Tập hợp những khó khăn, vướng mắc của các NHTM trong quá trình thực hiện việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh để từ đó có những tháo gỡ, chỉ đạo kịp thời.
- Sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh thương phiếu, thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển.
- Điều chỉnh một cách linh hoạt hơn nữa các quy chế quản lý tầm vĩ mô như: cơ chế điều hành lãi suất, điều hành tỷ giá...đồng thời cũng nên có chính sách hỗ trợ các NHTM trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
- Hỗ trợ các NHTM trong việc xử lý các khoản nợ.
- Thực hiện nhanh chóng có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngân hàng.
3.3.3 Kiến nghị đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Trong nền kinh tế thị trường, mọi quyết định đưa ra của doanh nghiệp đều có tác động quan trọng và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Do vậy, để đứng vững trên thị trường, mỗi doanh nghiệp nói chung và các cá thể nói riêng phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường, đáp ứng được những điều kiện của Ngân hàng để có thể vay được vốn. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần đạt một số chỉ tiêu sau:
- Có khả năng tài chính ổn định và chiến lược phát triển lâu dài.
- Có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh.
- Không có biểu hiện làm ăn nhất thời, chụp giật, lừa đảo.
- Có cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tốt. Có sản phẩm uy tín ổn định trên thị trường (cả trong nước và quốc tế).
- Có triển vọng chiếm lĩnh thị trường trên quy mô lớn.
Do đó:
Thứ nhất, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải tự nâng cao trình độ của mình trong kinh doanh, chú trọng tới việc xây dựng và hoạch định phương án sản xuất kinh doanh, kể cả mời chuyên gia tư vấn.
Thứ hai, trung thực trong việc sử dụng vốn cũng như các điều kiện liên quan đến cho vay, tránh tình trạng làm ẩu, gây thất thoát vốn khiến cho trả nợ Ngân hàng gặp khó khăn.
Thứ ba, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho khách hàng. Thực hiện việc hạch toán kế toán theo đúng chế độ hiện hành.
Kết luận
Việc nghiên cứu những giải pháp, kinh nghiệm nhằm mở rộng cho vay ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội là việc làm cần thiết phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô. Qua việc nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh nói riêng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, để xây dựng các giải pháp nhằm mở rộng cho vay ngoài quốc doanh có tính khoa học và thực tiễn nhằm phát huy sức mạnh cán bộ vào việc thực hiện nhiệm vụ cho vay ngoài quốc doanh tạo những bước chuyển đổi có tính chất vững chắc trong việc thực hiện các định hướng phát triển kế hoạch của Đảng, Nhà nước và của ngành. Đồng thời cũng mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với các cấp ngành có liên quan nhằm mong muốn đóng góp vào việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay ngoài quốc doanh tại ngân hàng ĐT&PT Hà Nội.
Danh mục tài liệu tham khảo
Các số của tạp chí Đầu tư và Phát triển – Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Các báo cáo hoạt động của phòng nguồn vốn – NH ĐT&PT Hà Nội..
Frederic S.Mishkin – Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính- NXB khoa học và kỹ thuật – Hà nội 1999.
Luật doanh nghiệp- NXB Chính trị quốc gia- Hà nội 1999
Luật các tổ chức tín dụng- NXB Chính trị quốc gia.
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam – 45 năm xây dựng và trưởng thành – NH ĐT&PT Việt nam.
Nghị định số 103/1999 NĐ- CP ngày 10/9/1999 của Chính Phủ về việc giao bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản DNNN.
Nghị định số 63/2001 NĐ-CP Ngày 11/9/2001 của Chính Phủ về việc chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị thành công ty TNHH một thành viên.
Nghị định 90/2001 NĐ-CP của Chính phủ quyết định thành lập hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nghị định 178/1999/NĐ-CP về việc bảo đảm tiền vay của các TCTD.
Niên giám thống kê 2004 – Tổng Cục thống kê.
Quy trình cho vay ngắn hạn, quy trình cho vay trung và dài hạn, quy trình cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh – Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội.
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng.
Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN 14 ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng.
Tìm hiểu luật ngân hàng – NXB chính trị Quốc gia
Tạp chí ngân hàng số 4/2004. Và các tạp chí Tài chính, ngân hàng 2001-2004.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và văn kiện đại hội Đảng IX.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
1
Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
3
1.1.
Khái quát về tín dụng ngân hàng
3
1.1.1
Khái niệm
3
1.1.2.
Phân loại tín dụng
4
1.1.3.
Quy trình tín dụng
5
1.1.4.
Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
6
1.2.
Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
8
1.2.1.
Khái quát về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
8
1.2.2.
Đặc điểm và xu hướng phát triển của kinh tế ngaòi quốc doanh
10
1.2.3.
Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường
14
1.2.4.
Một số khó khăn, hạn chế trong hoạt động của khu vực KTNQD
17
1.2.5.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đới với KVKTNQD
19
1.2.6.
Sợ cần thiết mở rộng tín dụng đối với KVKTNQD
21
1.2.7.
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng mở rộng tín dụng KTNQD
23
1.2.8
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng TDNH đối với KVKTNQD
25
Chương II : Thực trạng hoạt động mở rộng tín dụng đối với KVKTNQD tại NHĐT&PT Hà Nội
29
2.1.
Khái quát về tình hình hoạt động của NGĐT&PT Hà Nội.
29
2.1.1.
Quá trình hình thành và phát triển của NH ĐT&PT Hà Nội
29
2.1.2.
Cơ cấu tổ chức
32
2.1.3.
Chức năng và nhiệm chính của một số phòng ban
32
2.1.4.
Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
34
2.1.4.1.
Công tác huy động vốn
34
2.1.4.2.
Công tác sử dụng vốn
38
2.1.4.3.
Các hoạt động khác
41
2.1.4.4.
Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
43
2.2.
Thực trạng hoạt động tín dụng đối với KVKTNQD tại NH ĐT&PT Hà Nội
45
2.2.1.
Doanh số cho vay
45
2.2.2.
Dư nợ cho vay
47
2.2.3.
Số lượng và số lượt khác hàng
52
2.2.4.
Mở rộng ngành nghề và dự án kinh doanh
55
2.3.
Đánh giá hoạt động mở rộng tín dụng đối với KTNQD
55
2.3.1.
Những kết quả đạt được
55
2.3.2.
Những hạn chế và nguyên nhân
58
Chương III : Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với KVKTNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội
63
3.1.
Định hướng phát triển của Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội
63
3.1.1.
Định hướng phát triển của NH ĐT&PT Việt Nam
63
3.1.2.
Định hướng phát triển về tín dụng của NH ĐT&PT Hà Nội
64
3.2.
Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng
66
3.2.1.
Thực hiện đổi mới và hoàn thiện chính sách tín dụng
66
3.2.1.1.
Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp
67
3.2.1.2.
Đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay
68
3.2.1.3.
Đa dạng hoá phương thức cho vay
68
3.2.1.4.
Thực hiện tốt chính sách khác hàng
69
3.2.2.
Thực hiện đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với KVKTNQD
70
3.2.2.1.
Cho vay theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá
70
3.2.2.2.
Cho vay bảo đảm bằng các khoản thu
71
3.2.2.3.
Hùn vốn đầu tư liên doanh liên kết với khác hàng
71
3.2.3.
Xây dựng quy trình cho vay phù hợp đơn giản và khoa học
72
3.2.3.1.
Tuân thủ các nguyên tắc thẩm định
72
3.2.3.2.
Kiểm tra giám sát chặt chẽ vốn vay và quá trình trả nợ
73
3.2.4.
Xây dựng chiến lược Marketing đúng đắn
74
3.2.4.1.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
74
3.2.4.2.
Xây dựng chiến lược sản phẩm dịch vụ hấp dẫn
76
3.2.4.3.
Tăng cường công tác quảng cáo, khuyếch trương rộng khắp
78
3.2.5.
Tăng cường đội ngũ cán bộ có tay nghề và trình độ nghiệp vụ cao
78
3.3.
Một số kiến nghị
80
3.3.1.
Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước
80
3.3.2.
Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
81
3.3.3.
Kiến nghị với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
82
Kết luận
84
Danh mục tài liệu tham khảo
85
Các chữ viết tắt
NHTM : Ngân hàng thương mại
KTNQD: Kinh tế ngoài quốc doanh
KTQD: Kinh tế quốc doanh
NH : Ngắn hạn
T&DH: Trung và dài hạn
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DSCV: Doanh số cho vay
DNCV: Dư nợ cho vay
NHNN: Ngân hàng nhà nước
CNH-HĐH: Công nghiệp hoá hiện đại hoá
Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội: Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Hà Nội
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam: Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam
Công ty TNHN: Công ty trách nhiệm hữu hạn
Luật HTX: Luật hợp tác xã.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34133.doc