Lời nói đầu
Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế, tiến hành hàng loạt các biện pháp cải cách, đổi mới nền kinh tế quốc dân để đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình đổi mới đó, ngoại thương có vai trò vô cùng quan trọng trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm sản xuất trong nước, thu ngoại tệ về cho đất nướ
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tạo điều kiện nhập khẩu những mặt hàng quan trọng phục vụ cho nhu cầu đổi mới công nghệ, trang thiết bị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Sự phát triển của các hoạt động ngoại thương đã làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng trở nên sôi động, các đơn vị có nhu cầu mua bán ngoại tệ, vay Ngân hàng vốn kinh doanh, cũng như thiết lập các mối quan hệ thanh toán thông qua Ngân hàng ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi các NHTM phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại. Lúc này, hoạt động kinh doanh đối ngoại không còn là lĩnh vực hoạt động riêng của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương nữa mà là của tất cả các ngân hàng, không phân biệt quy mô, hình thức sở hữu, lĩnh vực hoạt động, ....
Sở giao dịch I (SGD I) là một đơn vị trực thuộc trung tâm điều hành NHNN&PTNT bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 và mới tiến hành hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu vào năm 1998. Đến nay, các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại tại SGD I đã dần dần được đa dạng hoá, cùng với nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, Sở trở thành nơi phục vụ khá đắc lực cho hoạt động ngoại thương.
Trong thời gian ngắn đi thực tế tại SGD I – NHNN&PTNT, tác giả nhận thấy hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo vốn và các dịch vụ liên quan cho kinh doanh xuất nhập khẩu, nhất là khi phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều đang ở trong tình trạng thiếu vốn như hiện nay.
Hầu hết các doanh nghiệp đang xuất khẩu các sản phẩm mũi nhọn thuộc các ngành nông, lâm, thuỷ, hải sản và nhập khẩu các thiết bị máy móc, dây chuyền chế biến là khách hàng của NHNN&PTNT nên hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đang là loại hình kinh doanh được chú trọng tại NHNN&PTNT cũng như SGD I. Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu và hệ thống hoá những vấn đề chung về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phân tích tình hình thực hiện hoạt động này tại SGD I – NHNN&PTNT , trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng nghiệp vụ này là vấn đề hết sức hấp dẫn và cần thiết.
Với suy nghĩ đó, cùng với những kiến thức được trang bị trong 4 năm học tại trường, tác giả đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài:
Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, cụ thể là tại SGD I – NHNN&PTNT.
- Phân tích những yếu tố thuận lợi, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp để mở rộng hoạt động này.
Đối tượng và phạm vị nghiên cứu:
- Đề tài tập trung vào phân tích hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I – NHNN&PTNT từ năm 1998 đến nay và đưa ra kiến nghị mở rộng hoạt động này cho 5 - 10 năm tới.
Phương pháp nghiên cứu:
- Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, khái quát hóa và tổng hợp để nghiên cứu.
- Sử dụng và phân tích số liệu thống kê trên cơ sở tư duy logich.
Bản khoá luận trình bày theo kết cấu sau:
Lời nói đầu
Mục lục
Chương I : Tài trợ xuất nhập khẩu và vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNN&PTNT.
Chương III: Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I-NHNN&PTNT.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Chương I
TàI TRợ XUấT NHậP KHẩU Và VAI TRò CủA Nó Đối với nền kinh tế quốc dân
********************
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhanh và mạnh hơn bao giờ hết. Dù muốn hay không, tất cả các nước trên thế giới cũng đều phải áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế để phát triển và bắt kịp với xu thế chung của thời đại. Việc hội nhập không chỉ còn là chỉ đề về lý thuyết mà đã trở thành vấn đề nóng bỏng hàng ngày của mọi quốc gia.
Thực tế cho thấy rằng, một quốc gia muốn phát triển kinh tế, thì ngoài việc dựa vào nền sản xuất trong nước, quốc gia đó còn phải thực hiện giao dịch, quan hệ với các nước khác. Sở dĩ như vậy là do sự khan hiếm và sự phân bố không đồng đều của các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một quốc gia nếu chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước thì sẽ không thể cung cấp đủ hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nền kinh tế quốc dân. Do đó việc nhập khẩu các mặt hàng cần thiết mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả là rất cần thiết.
Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có của mình, một quốc gia ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước, còn có thể tạo nên những thặng dư để xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, trả nợ, đầu tư và phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động XNK nói riêng là một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của một đất nước.
I. Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Trong xu thế thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu cầu về thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường đầu tư đã trở thành nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hoạt động của tài trợ ngân hàng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi về tài chính cho nhà xuất khẩu mà còn cho cả nhà nhập khẩu. Tài trợ ngân hàng đã thúc đẩy quá trình hoạt động của kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, tạo nên sự cân bằng trong cán cân thanh toán xuất nhập của nhà nước, trong đó vai trò của ngân hàng lúc này hết sức quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế.
Thông qua tài trợ ngân hàng giúp doanh nghiệp xuất khẩu cũng như doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn: có những thương vụ trong thương mại quốc tế đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng. Do đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như phân bón, sắt thép, gạo, bột mỳ.... thường hai bên mua bán với số lượng nguyên tàu hàng (từ 10.000 đến hai 20.000 tấn) nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong công tác giao nhận, nên kéo theo giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trường hợp này, vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán tiền nhập, tài trợ ngân hàng là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện những hợp đồng dạng này.
Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải huy động vốn từ những người gửi tiền, vay từ các ngân hàng thương mại khác, phải cân đối lãi suất và thời hạn đầu vào so với lãi suất và thời hạn cho vay sao cho đủ bù đắp chi phí, rủi ro thấp nhất và có lãi. Do đặc thù của các giao dịch xuất nhập khẩu, các giao dịch thanh toán thường vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia, nên những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường kèm theo các giao dịch thanh toán.
Những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường liên quan đến ba “khu vực” của quá trình sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu:
Khu vực thứ nhất là sản xuất, khai thác nguyên liệu cho xuất khẩu.
Những khoản tín dụng loại này thường có cả ngắn hạn, trung và dài hạn, cả nội tệ và ngoại tệ để hỗ trợ vốn hoạt động sản xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị đầu vào.
- Khu vực thứ hai là thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đối với hoạt động này, khách hàng thường cần những khoản tín dụng ngắn hạn bằng nội tệ. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực yêu cầu lượng tín dụng trung, dài hạn lớn, nếu khách hàng đầu tư vào xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị và những dây chuyền chế biến công nghệ cao.
- Khu vực thứ ba là lưu thông và xuất khẩu. Những khoản tín dụng ngân hàng cho khu vực này thường có thời hạn ngắn, chủ yếu nhằm đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục chu trình sản xuất kinh doanh mới trong thời gian kể từ khi giao hàng đến khi nhận được thanh toán từ đối tác nhập khẩu nước ngoài.
Khách hàng vay những khoản tín dụng từ ngân hàng cho ba khu vực trên thường là khác nhau, nhưng cả ba khu vực đó lại có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Khép kín hoạt động đầu tư cho ba khu vực này không chỉ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình thu nợ, hạn chế rủi ro cũng như mở rộng hoạt động tín dụng và các dịch vụ khác có liên quan.
Như vậy: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là sự hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp đỡ các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ điều kiện về tài chính để mua hàng hoá của nước đó.
II. Một số hình thức tài trợ xuất nhập khẩu.
Thông thường, nghiệp vụ tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền đề, nền tảng hoặc bổ sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời này có thể được dẫn giải như sau:
Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của khách
hàng thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến nguồn vốn của NH thông qua các khoản tín dụng NH. Ngân hàng khi đó vừa là NH phục vụ người XK (người NK), vừa là NH tài trợ cho thương vụ được thực hiện.
Ngược lại, trong quá trình tài trợ, muốn đảm bảo đồng vốn tài trợ được sử dụng đúng mục đích, quản lý được nguồn thu, NH sẽ tham gia thanh toán quốc tế với vai trò là NH chiết khấu (Negotiating Bank), NH nhờ thu (Collection Bank) hay NH phát hành (Issuing Bank).
Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán, tài trợ XNK. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức thanh toán và tài trợ XNK càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng. Căn cứ vào đối tượng và mục đích cấp tín dụng, ta có thể chia tín dụng XNK thành hai loại chính: Tín dụng NH cấp cho người XK và tín dụng NH cấp cho người NK. Trong mỗi loại đó, ta lại có thể chia tín dụng XNK ra thành các hình thức nhỏ hơn, cụ thể là:
1. Đối với hoạt động xuất khẩu:
a- Tín dụng chiết khấu hối phiếu:
Tín dụng chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện bằng hình thức ngân hàng mua lại các hối phiếu thương mại trước khi đến hạn thanh toán và khách hàng sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu đã trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Tín dụng chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín dụng cung ứng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu.
Nét đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân hàng sẽ khấu trừ tiền lãi ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho khách hàng số tiền còn lại. Các ngân hàng sẽ xác định giá trị chiết khấu căn cứ vào mệnh giá của hối phiếu được áp dụng làm đối tượng chiết khấu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng.
Công thức được xác định như sau:
Lck
Tck = M x ( 1 - x T ) - P
3600
Trong đó:
Tck : Giá trị chiết khấu
M : Mệnh giá hối phiếu
Lck : Lãi suất chiết khấu (theo năm)
T : Thời gian chiết khấu (theo ngày)
P : Lệ phí
Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền của người có nhiệm vụ trả tiền hối phiếu.
b- Tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu:
Khi nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất mà bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hoá đã chuyển giao, anh ta có thể nhận được khoản tín dụng ứng trước bằng cách bán lại bộ chứng từ hàng hoá này cho ngân hàng. Bằng cách đó, nhà xuất khẩu được bù đắp nguồn vốn để tiếp tục kinh doanh trong suốt thời gian từ khi gửi hàng cho đến khi nhận được tiền từ nhà nhập khẩu.
Điều kiện để nhận được khoản tín dụng này là khả năng truy hoàn của nhà xuất khẩu. Các chứng từ liên quan nhất thiết phải là chứng từ có giá trị để cấp tín dụng, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba để sử dụng. Các ngân hàng thường ký với nhà xuất khẩu một hạn mức tín dụng để sử dụng cho loại hình cho vay này. Tuy nhiên khoản vay này chỉ được cấp căn cứ vào giá trị của bộ chứng từ và với một tỷ lệ tối đa nhất định tuỳ theo loại hàng hoá và khả năng thanh toán của khách hàng (khoảng 70 đ80% giá trị hàng hoá).
c- Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu:
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu, L/C không chỉ là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là công cụ đảm bảo tín dụng.
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ cho nhà xuất khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo được người xuất khẩu trình. Có hai hình thức chiết khấu:
Chiết khấu miễn truy đòi: Ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu
hoàn hảo của nhà xuất khẩu. Giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ do ngân hàng tính trừ đi phí chiết khấu và thời gian cần thiết để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài. Chiết khấu miễn truy đòi cũng có nghĩa là người xuất khẩu bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng.
- Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng thực hiện việc cho vay trên cơ sở người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời gian cho vay được tính bằng thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài. Khi đó, trách nhiệm người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được tiền từ người nhập khẩu.
d- Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ:
Nhờ thu, nghĩa là nhà xuất khẩu lập các chứng từ về hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ khác gửi cho ngân hàng của mình. Ngân hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng của nhà nhập khẩu với chỉ thị giao chứng từ khi đã thanh toán (D/P = Documents against payment) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (D/A = Documents against acceptance).
Nếu điều kiện D/P (thanh toán để đổi lấy chứng từ) được sử dụng, các chứng từ được giao vào lúc chấp nhận hối phiếu và người bán mất quyền kiểm soát hàng hoá , anh ta sẽ phụ thuộc vào độ tín nhiệm và sự trọn vẹn của khách hàng nước ngoài trong việc thanh toán đúng hạn.
Cả hai phương pháp đều có lợi thế là các chứng từ cũng là chủ quyền đối với hàng hoá, vẫn nằm trong quyền kiểm soát của ngân hàng cho tới khi hối phiếu được chấp nhận hay việc thanh toán được thực hiện.
Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt rủi ro về tiêu thụ, thanh toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ lúc gửi chứng từ đến ngân hàng cho tới khi được thanh toán hay chấp nhận hối phiếu là một khoảng thời gian dài. Trong khi đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường buôn bán từ đầu đến cuối có thể cần đến một tín dụng tạm thời.
Ví dụ: Hàng hoá được mua với điều kiện “thanh toán khi xuất trình chứng từ” và bán tiếp cho một khách hàng có nhu cầu ở nước khác với điều kiện “thanh toán khi nhận hàng hoá 30 ngày” thì sẽ nảy sinh vấn đề tài trợ giữa chừng nếu nhà xuất khẩu thiếu vốn tự có. Trong trường hợp này, ngân hàng của nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu đều có thể tạm ứng trước. Để đảm bảo có thể chuyển nhượng từ sự uỷ nhiệm cho ngân hàng thu chứng từ. Nhưng giá trị của sự chuyển nhượng này phụ thuộc hàng đầu vào khả năng thanh toán của người vay tín dụng vì không có sự đảm bảo chắc chắn rằng các chứng từ của người phải thanh toán được chấp nhận và giá trị hàng hóa được thanh toán.
Hình thức này thường được sử dụng để tài trợ xuất khẩu trong ngắn hạn.
e - Bao thanh toán tương đối (Factoring):
Đây là hình thức tài trợ trung và dài hạn, đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp, đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu. Factoring không được sử dụng L/C cũng như các hối phiếu ngoại thương vì Factoring chỉ được sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng dài hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc cho nhiều nước trong cùng một thời điểm. Do vậy, đối tượng mua bán của Factoring là những tổ hợp kinh tế có doanh số hoạt động xuất nhập khẩu hàng năm lớn.
Nghiệp vụ Factoring có những chức năng sau:
- Chức năng dịch vụ thanh toán: Tổ chức Export factor đảm nhiệm mọi nhiệm vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu về những khoản thanh toán chuyển nhượng, đảm nhiệm mọi nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho nhà xuất khẩu giải quyết những vướng mắc trong thanh toán. Như vậy, Export factor thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Hơn nữa, nó còn thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
- Chức năng tài chính: Export factor đảm nhiệm chức năng tài chính cung ứng cho nhà xuất khẩu. Cơ sở để nó đảm nhiệm việc này là mối quan hệ
giao dịch giữa Export factor và Import factor.
+ Nghiệp vụ tài chính ứng trước: Dù hợp đồng Factoring được ký kết từ trước, nhưng ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ của nhà nhập khẩu. Do đó, nếu muốn sử dụng vốn trước ngày này, nhà xuất khẩu có thể vay của tổ chức Factoring. Khoản tín dụng ứng trước này được thực hiện như tín dụng luân chuyển và nhà xuất khẩu trả lãi cho khoản tín dụng này như lãi suất luân chuyển thông thường và hạn mức tín dụng từ 70đ 90% khoản thanh toán.
+ Nghiệp vụ chiết khấu: Nhà xuất khẩu có thể bán các chứng từ thanh toán và vận chuyển cho Export factor và nhận tiền ngay lập tức nhưng tỷ lệ chiết khấu khá cao (10 đ 30%) và phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
- Chức năng phòng chống rủi ro: Factoring có thể hạn chế được những rủi ro về kinh tế tới 100%.
quy trình nghiệp vụ factoring
import factor
export factor
nhà nhập khẩu
nhà xuất khẩu
(1)
(2) (6) (7) (13) (4) (9) (10) (11)
(3)
(12) &(5)
(1): Thoả thuận thương mại giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu trong đó quy định rõ định kỳ cung ứng thường xuyên.
(2): Đơn đề nghị mua thanh toán các khoản xuất liên tục do nhà xuất khẩu lập gửi tổ chức Export factor.
(3): Quan hệ giao dịch trên cơ sở hợp đồng giữa Export factor và Import factor.
(4): Import factor kiểm tra gián tiếp hoạt động kinh doanh và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu thông qua ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu.
(5): Import factor thông báo kết quả kiểm tra cho Export factor.
(6): Thông báo của Export factor cho nhà xuất khẩu và hạn mức mua khoản thanh toán.
(7): Nhà xuất khẩu công nhận thoả thuận và bán khoản thanh toán cho Export factor chuyển quyền sở hữu các khoản cho Export factor.
(8): Export factor thông báo cho nhà xuất khẩu về việc chuyển quyền sở hữu,chuyển nợ.
(9): Import factor thông báo cho nhà xuất khẩu về việc họ đảm nhiệm nhờ thu cũng như quan hệ giao dịch thay Export factor.
(10): Nhà nhập khẩu thanh toán cho Import factor.
(11): Nhà nhập khẩu có quyền phản hồi thanh toán khi có vấn đề xảy ra với hàng nhập hoặc không chấp nhận thanh toán.
(12): Import factor hạch toán nghiệp vụ vào tài khoản giao dịch cho Export factor.
(13): Export factor tất toán nghiệp vụ khi thanh toán chứng từ cho nhà xuất khẩu và trừ đi bao thanh toán.
f - Bao thanh toán tuyệt đối ( Forfaiting):
Tín dụng bao thanh toán tuyệt đối là loại tín dụng trung và dài hạn do các tổ chức tài chính cỡ lớn cấp cho nhà XK theo một tỷ lệ phần trăm (%) ứng trước mà hai bên đã thoả thuận trong tổng trị giá hoá đơn để giành lấy quyền đòi nợ từ người NK.
Loại tín dụng này có những đặc điểm rất khác so với tín dụng Factoring. Đó là:
- Thời hạn của tín dụng bao thanh toán tuyệt đối là trung hoặc dài hạn (khoảng từ 6 tháng đến 10 năm).
- Đây là loại ứng trước không có truy đòi: Sau khi nhận tiền và giao các chứng từ có liên quan đến chuyến hàng cho tổ chức tài chính, nhà XK hết trách nhiệm. Rủi ro về việc người mua hàng ở nước ngoài không trả tiền hàng hoàn toàn do tổ chức tài chính gánh chịu. Do vậy, trong hình thức tín dụng này, nhà NK phải trả cho tổ chức tài chính một khoản phí tương đối cao, và cao hơn rất nhiều so với mức phí trong bao thanh toán tương đối.
Tín dụng bao thanh toán tuyệt đối thường được sử dụng trong phương thức thanh toán bằng L/C có xác nhận. Việc chiết khấu thường là chiết khấu hối phiếu đi kèm L/C.
Như vậy, tín dụng bao thanh toán giúp nhà XK có vốn ngay để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, dù bán hàng theo phương thức thu tiền hay bán chịu; đồng thời giúp nhà XK không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp và kéo dài. Bù lại, nhà XK sẽ phải trả cho người bao thanh toán một khoản phí khá cao khi được bao thanh toán.
2. Đối với hoạt động nhập khẩu:
a - Tín dụng chấp nhận hối phiếu:
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là hình thức vì thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền cho người vay.
Tuy nhiên khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu chưa có đủ khả năng thanh toán thì ngân hàng (người đứng ra chấp nhận hối phiếu) phải trả nợ thay. Nhà nhập khẩu phải vay mượn theo danh nghĩa này để có được một chấp nhận của ngân hàng trên hối phiếu theo đề nghị của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phải trả chi phí cho khoản vay mượn này.
Giá trị của hình thức tín dụng này thể hiện ở chỗ : Với sự chấp nhận của ngân hàng trên hối phiếu, nhà xuất khẩu có được sự đảm bảo chắc chắn về khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu có thể chiết khấu hối phiếu đó tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào. Với sự chấp nhận của ngân hàng, khả năng thương mại của hối phiếu vô cùng lớn, tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu được hưởng tỷ lệ chiết khấu ưu đãi hơn.
Đối với nhà nhập khẩu, loại tín dụng này đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật thương mại. Nhà nhập khẩu phát hành một hối phiếu đòi nợ ngân hàng phục vụ mình và đề nghị ngân hàng này chấp nhận, cho dù ngân hàng không hề có nợ nần gì với nhà nhập khẩu đó. Có thể coi đây là một thoả thuận
ngầm, một nghệ thuật vay vốn.
Sau khi hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, nhà nhập khẩu đem chiết khấu hối phiếu này tại một ngân hàng khác. Với khoản thu từ chiết khấu này, nhà nhập khẩu có đủ khả năng thanh toán trước hạn cho nhà xuất khẩu để hưởng hoa hồng, khi đó nhà nhập khẩu sẽ đạt được giá mua rẻ hơn.
b - Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu:
Hình thức tín dụng này cũng đáp ứng được nhu cầu của nhà nhập khẩu khi anh ta phải thanh toán bộ chứng từ hàng hoá trong khi hàng chưa cập bến và sau khi nhận được hàng hoá phải bán đi để thu hồi vốn. Đây là một quá trình dài và anh ta cũng cần ngân hàng cấp cho một khoản tín dụng ứng trước để tiến hành thanh toán trước khi nhận và bán được hàng. Ngân hàng tài trợ trong trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ hàng hoá làm đảm bảo. Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng dành cho doanh nghiệp.
c- Cho vay mở L/C :
Khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu được đảm bảo bằng bộ chứng từ hàng hoá gọi là “thư tín dụng”. Trong ngôn ngữ thương mại hiện nay đều được dùng để chỉ phương thức thanh toán bằng L/C (letter of credit). Người nhận tín dụng loại này là nhà nhập khẩu .
quy trình luân chuyển chứng từ
nhà nhập khẩu (applicant)
nhà xuất khẩu (beneficiary)
(1)
(2) (9) (8) (4) (6)
ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu (issuing bank)
ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu (advising bank)
(3)
(7)
(1) : Ký hợp đồng.
(2) : Đưa đơn mở L/C .
(3): Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu (Issung bank) mở L/C theo yêu cầu của Applicant form thông qua hệ thống ngân hàng đại lý của mình là Advising bank.
(4) : Advising bank thông báo toàn bộ L/C đã được xác định tính chân thực cho người xuất khẩu.
(5) : Nhà xuất khẩu có được L/C như mong muốn sẽ giao hàng
(6) : Nhà xuất khẩu tập trung chứng từ chuyển cho ngân hàng phục vụ mình, ngân hàng này có trách nhiệm kiểm tra chứng từ.
(7) : Gửi toàn bộ chứng từ kèm theo lệnh đòi tiền sang ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu
(8) : Issuing bank kiểm tra chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không? Nếu phù hợp mới trả tiền.
(9) : Issuing bank đòi tiền nhà nhập khẩu
Như ta đã biết, mọi L/C đều do ngân hàng mở theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Nhưng thực ra không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư tài khoản để đảm bảo cho L/C, trong khi đó L/C lại thể hiện trong nó một sự đảm bảo thanh toán của ngân hàng. Do đó, ngân hàng mở L/C sẽ phải gánh chịu rủi ro nếu nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền.
Trên thực tế khoảng cách mở L/C và thời gian thanh toán là khá dài, nếu khống chế số dư trên tài khoản của nhà nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ. Nhưng nếu không khống chế tài khoản của khách hàng, nhất là đối với L/C trả tiền ngay thì việc xác định trước L/C này có được thanh toán hay không là tương đối khó khăn và người gánh chịu rủi ro trước hết là ngân hàng.
Khi người nhập khẩu đề nghị mở L/C, họ có thể mở bằng vốn tự có hoặc bằng vốn vay của ngân hàng. Nếu mở L/C bằng vốn tự có, khi L/C đến hạn thanh toán với phía nước ngoài, nếu nhà nhập khẩu không có đủ tiền thanh toán, anh ta phải nhận nợ với ngân hàng và phải chịu lãi suất phạt lớn hơn lãi suất cho vay thông thường (ở Việt Nam, lãi suất phạt bằng 150%). Vì vậy, trước khi mở L/C theo đề nghị của nhà nhập khẩu, ngân hàng phải kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu, khả năng cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và tương lai.
d- Cho vay trên cơ sở hối phiếu tự nhân nợ (Promissory note):
Đây là hối phiếu nhận nợ của người mua đối với người bán. Thông qua hối phiếu này ngân hàng cấp một khoản tín dụng đặc biệt gọi là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ.
Quy trình cho vay trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Quy trình cho vay trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ
(1)
nhà nhập khẩu
nhà xuất khẩu
(7)
(2) (5) (6) (4)
ngân hàng nhà nhập khẩu
(3)
chi nhánh ngân hàng nhà nhập khẩu ở nước ngoài
(10)
(8)
(9) (10)
ngân hàng trung ương nước nhập khẩu
(1): Nhà nhập khẩu ký hợp đồng với nhà xuất khẩu điều kiện thanh toán đối chứng từ (VD: Sau 90 ngày phải thanh toán)
(2): Nhà nhập khẩu ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ
(3): Ngân hàng nhập khẩu thông báo cho ngân hàng thường là chi nhánh của họ tại một nước khác (VD: Pháp ) theo đề nghị nhà nhập khẩu đã phát hành hối phiếu tự nhận nợ trong thời gian 90 ngày, được phép thanh toán tại Pháp và chuyển ngay hối phiếu này cho nhà nhập khẩu.
(4): Ngân hàng chi nhánh phát hành hối phiếu tự nhận nợ và chuyển cho người nhập khẩu.
(5) : Nhà nhập khẩu chuyển nhượng hối phiếu cho ngân hàng phục vụ mình đề nghị chiết khấu.
(6): Ngân hàng của nhà nhập khẩu thực hiện chiết khấu.
(7): Nhà nhập khẩu thanh toán cho nhà xuất khẩu.
(8): Ngân hàng nhà nhập khẩu đem hối phiếu lên tái chiết khấu ở ngân hàng trung ương.
(9): Khi đến hạn, ngân hàng trung ương xuất trình hối phiếu cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài và đề nghị thanh toán .
(10): Ngân hàng chi nhánh chấp nhận thanh toán trên cơ sở chuyển vốn cho người nhập khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu.
Đây là biện pháp được sử dụng để tránh thuế hối phiếu, nên hối phiếu này do chi nhánh của ngân hàng chấp phiếu ở nước ngoài phát hành và chuyển cho nhà nhập khẩu. Hình thức này tạo điều kiện cho nhà nhập khẩu được hưởng thanh toán nhanh trong ngoại thương mà bản thân ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu không đủ vốn.
e - Cho vay chuyển tiền:
Nhà nhập khẩu và xuất khẩu ký một hợp đồng mua bán với điều kiện thanh toán theo phương thức chuyển tiền. Nhưng nhà nhập khẩu lại không có tiền để thanh toán, họ sẽ yêu cầu ngân hàng phục vụ mình cho họ vay, khoản tín dụng này sẽ được chuyển sang tài khoản của nhà xuất khẩu tại ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu.
f - Tín dụng thuê mua vượt biên giới (Cross - Border - Leasing):
Đây là phương thức mà nhờ đó một doanh nghiệp có thể có được một tài sản nhất định mà không cần bỏ vốn. Thay vì mua đứt những tài sản đó, doanh nghiệp thuê lại chúng từ công ty thuê mua của ngân hàng.
Quy trình nghiệp vụ cross - border - leasing
nhà xuất khẩu (nhà sản xuất)
(2)
nhà nhập khẩu
công ty leasing của ngân hàng
(4) (3) (1) (5)
(1): Nhà nhập khẩu ký hợp đồng Leasing.
(2): Nhà nhập khẩu lựa chọn đối tác để thoả thuận xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở có thể chuyển sang Leasing.
(3): Công ty Leasing ký hợp đồng mua tài sản với nhà xuất khẩu.
(4): Nếu nhà xuất khẩu chấp nhận giá mua và công ty Leasing đồng ý với các điều kiện thoả thuận thì nhà xuất khẩu bán 100% giá trị tài sản cho công ty Leasing.
(5): Trong suốt thời gian thuê mua, doanh nghiệp phải đặt cọc một khoản tiền và phải trả tiền thuê cho công ty Leasing.
Sau thời gian thuê, người thuê có quyền chọn mua tài sản cho thuê theo giá cả ấn định.
Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn, mặc dù mua hàng theo phương thức này sẽ đắt hơn so với trả tiền ngay, nhưng nó lại tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc, công nghệ mà không phải trả tiền ngay.
III. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu. Bằng các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp gia tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện các thương vụ thành công. Chính vì vậy, tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tất cả các bên tham gia vào lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.Đối với doanh nghiệp XNK:
- Tín dụng XNK của NH giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn.
Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp XNK, đặc biệt là các doanh nghiệp XNK của Việt Nam hiện nay, có năng lực tài chính rất hạn chế. Trong khi đó, có những thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn để có thể thực hiện được hợp đồng. Tín dụng NH cho hoạt động XNK chính là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện được những hợp đồng dạng này.
Hơn thế nữa, trong đi._.ều kiện cạnh tranh khốc liệt, “thương trường như chiến trường” hiện nay, các doanh nghiệp chỉ có thể bán được hàng khi chấp nhận bán hàng
trả chậm, trả gối đầu. Song việc thu hồi nợ bán hàng gối đầu đang ngày càng trở thành nỗi lo của các doanh nghiệp XNK. Nguy cơ mất trắng hàng trăm tỷ đồng từ phương thức bán hàng trả chậm, gối đầu đang là thực tế đáng lo ngại cho các doanh nghiệp. Tín dụng XNK của NH đã khiến cho các nhà XNK yên tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, từ đó khắc phục được nguy cơ sụt giảm trong hoạt động bán hàng trả chậm nói riêng và nguy cơ sụt giảm trong doanh số bán hàng XNK nói chung.
- Trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, một doanh nghiệp đã được NH đứng ra bảo lãnh, cấp tín dụng sẽ có lợi thế rất lớn. Bởi vì khi đó, khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp được khẳng định. Cùng với nghệ thuật đàm phán, và vị thế sẵn có của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có thể giành được nhiều điều kiện có lợi cho mình trong quá trình thực hiện thương vụ.
- Tín dụng XNK giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện hợp đồng: Thông qua tài trợ của NH, doanh nghiệp sẽ có đủ vốn để thực hiện thương vụ. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ, gia công, chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp NK, vốn tài trợ của NH giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong nước. Qua đó, giúp các doanh nghiệp XNK chớp được thời cơ kinh doanh thu lợi nhuận cao, tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn tại, đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường; đồng thời thực hiện được các nghĩa vụ đối với nhà nước.
- Bên cạnh đó, tín dụng XNK của NH còn giúp cho các doanh nghiệp có vốn để nhập máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây truyền sản xuất, chế biến, trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ được giá thành sản phẩm, tạo khả năng cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Ngoài ra, tài trợ của NH còn góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp XNK trên thị trường quốc tế. Sở dĩ như vậy là do nhờ có tài trợ của NH, doanh nghiệp XNK có khả năng thực hiện có hiệu quả những thương vụ lớn, có khả năng quan hệ, làm ăn với các khách hàng tầm cỡ trên thế giới, từ đó củng cố, nâng cao được uy tín, vị trí của mình trên thị trường thế giới.
2. Đối với các NH thương mại.
- Tín dụng NH cấp cho nhà XNK thường là tín dụng ngắn hạn. Điều này giúp NH tránh được những rủi ro về thanh khoản.
Thời hạn tín dụng XNK thường ngắn do nó gắn liền với thời gian thực hiện hợp đồng XNK. Thời gian thực hiện hợp đồng XNK đối với người XK là thời gian kể từ lúc thu gom hàng, chế biến, xuất đi cho đến lúc nhận được tiền thanh toán của người mua. Đối với người NK, thời gian này tính từ lúc nhận hàng cho đến lúc bán hết hàng và thu tiền về. Thời gian này thường là dưới một năm. Như vậy, có thể thấy rằng, kỳ hạn tín dụng XNK phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các NHTM, hay là thời hạn “cho vay” phù hợp với thời hạn “đi vay”. Và do đó, ngân hàng tránh được các rủi ro về thanh toán có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh.
- Tín dụng XNK đảm bảo cho việc sử dụng vốn đúng mục đích. Trong hoạt động XNK, với hình thức thanh toán qua ngân hàng, vốn tài trợ thường được thanh toán thẳng cho bên thứ ba mà không qua bên xin tài trợ. Do đó, tránh được tình trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế được rủi ro tín dụng.
- Trong trường hợp NH phục vụ thanh toán cho nhà XNK đồng thời là NH cấp tín dụng XNK, thì tín dụng XNK nâng cao tính an toàn cho NH thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Cụ thể là: trong nghiệp vụ thanh toán hàng XK, khi NH chuyển bộ chứng từ hàng hoá để đòi tiền người NK nước ngoài, NH sẽ chỉ định việc thanh toán tiền hàng phải thông qua tài khoản của người XK mở tại NH. Còn trong nghiệp vụ thanh toán hàng NK, NH tài trợ sẽ buộc người NK phải tập trung tiền bán hàng vào tài khoản của mình mở tại NH. Và như thế, các nguồn thu để trả các khoản tín dụng được NH quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được những rủi ro gây ra bởi tình trạng xoay vốn, sử dụng vốn sai mục đích của doanh nghiệp nhận tài trợ trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi.
- Hoạt động tín dụng XNK còn đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân hàng. Đó là các khoản lãi của hoạt động cho vay thanh toán, lãi chiết khấu hối phiếu, chứng từ thanh toán, các khoản phí cho hoạt động bảo lãnh.... Tiền lãi thu cao do giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn.
- Thông qua tín dụng XNK, NH còn có điều kiện mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
3. Đối với nền kinh tế đất nước:
- Tín dụng XNK của NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK và lưu thông hàng hóa XNK. Nhờ có tài trợ của ngân hàng, hàng hoá được xuất, nhập phù hợp với yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thời vụ..., đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân, góp phần làm ổn định thị trường và tăng tính năng động của nền kinh tế.
- Với các khoản tín dụng XNK của NH, doanh nghiệp XNK có điều kiện thay đổi, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất... Nhờ đó, có điều kiện phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước và làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Tín dụng XNK còn góp phần đáng kể phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới.
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, với tư cách là một thành viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, các NHTM cùng với hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của mình, đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cho cân bằng cán cân thanh toán quốc gia. Và tín dụng XNK của NHTM chính là một trong những công cụ để triển khai có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của một đất nước.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tín dụng XNK của NH cũng phát triển ngày càng phong phú.Từ hình thức đơn giản ban đầu là cho vay trực tiếp, ngắn hạn, đến nay, các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức tín dụng XNK đa dạng và có hiệu quả cao.
IV. Những rủi ro thường gặp trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Không đơn giản như mua bán nội địa, buôn bán quốc tế thường từ hai nước trở lên nên trong giao dịch sẽ gặp không ít trở ngại về phong tục tập quán, ngôn ngữ, luật pháp, chính sách ngoại thương... Vì vậy, việc nắm bắt đầy đủ thông tin về các đối tác giao dịch là vấn đề không dễ dàng. Tất cả những trở ngại trên làm nảy sinh nhiều rủi ro tiềm ẩn, gây thiệt hại cho các đối tác trong giao dịch xuất nhập khẩu và các ngân hàng liên quan, vì chính ngân hàng là trung gian đảm bảo cho quá trình thanh toán kịp thời và thông suốt.
Bên cạnh những rủi ro bất khả kháng như: chiến tranh, cấm vận, thiên tai... còn không ít những rủi ro khác ảnh hưởng đến hoạt động của các bên liên quan trong hoạt động xuất nhập khẩu . Sau đây là một số rủi ro thường gặp trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:
1. Rủi ro do khách hàng không hoàn trả khoản tín dụng
Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng sử dụng mọi biện pháp để truy đòi mà vẫn không đòi được nợ vì bản thân khách hàng đang gặp rủi ro. Có thể xảy ra hai trường hợp sau:
1.1. Rủi ro do khách hàng mất khả năng thanh toán
Rủi ro này xảy ra khi nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thiếu thông tin đánh giá về đối tác của mình. Chẳng hạn, nhà xuất khẩu đã nhận được khoản tín dụng do ngân hàng cấp để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu, nhưng đột nhiên, nhà nhập khẩu tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng trong khi quá trình mua nguyên liệu, chế biến đã hoàn tất. Như vậy thiệt hại sẽ xảy ra với nhà xuất khẩu.
Một trường hợp nữa cũng gây ảnh hưởng đến nhà xuất khẩu và gián tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng là khi nhà xuất khẩu đã giao hàng mà nhà nhập khẩu bị phá sản, mất khả năng thanh toán.
1.2. Rủi ro do không thanh toán.
Rủi ro xảy ra vì, bản thân con nợ vẫn có khả năng trả nợ nhưng không chịu hoàn trả mà sử dụng khoản tín dụng đã cấp để tiếp tục một giao dịch mới.
2. Rủi ro do mất khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành L/C.
Rủi ro xảy ra trong trường hợp ngân hàng tài trợ cho nhà xuất khẩu để họ tiến hành thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Nhưng đến khi phải thanh toán, ngân hàng phát hành L/C lại bị phá sản mất khả năng thanh toán. Điều này cũng gây ra rủi ro cho ngân hàng.
3. Rủi ro hối đoái.
Rủi ro này xảy ra do có sự khác nhau về đồng tiền thanh toán.
Có nghĩa là nó phát sinh do có sự biến động tỷ giá giữa ngoại tệ và bản tệ. Ví dụ: Khi nhà nhập khẩu ký hợp đồng mua hàng và thời hạn thanh toán sau ba tháng. Ba tháng sau, nếu ngoại tệ tăng giá thì nhà nhập khẩu phải bỏ ra một lượng bản tệ lớn hơn mới có được số ngoại tệ đó để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Như vậy nhà nhập khẩu bị thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.
Trong trường hợp, đồng nội tệ tăng giá mạnh so với đồng tiền thanh toán, nhà xuất khẩu sẽ bị thiệt hại vì số tiền bán hàng không đủ trang trải chi phí số tiền đã bỏ ra thu mua, chế biến hàng xuất khẩu và như vậy không thể đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng.
4. Rủi ro do thay đổi bất lợi về lãi suất.
Rủi ro về lãi suất phát sinh do những biến động không cùng chiều giữa lãi suất phải trả cho nguồn vốn ngân hàng đi vay và lãi thu được từ việc sử dụng vay vốn. Ví dụ như lãi suất giảm xuống trong khi lãi suất trả cho các trái phiếu đã phát hành không đổi, sự biến động của lãi suất có thể làm giảm thu nhập của ngân hàng.
5. Rủi ro do gian lận thương mại
Trường hợp này thường xảy ra khi tiến hành giao dịch với các đối tác không tên tuổi trên thị trường. Có trường hợp cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thông đồng với nhau để lừa đảo ngân hàng, có trường hợp thuê chủ tàu không tên tuổi vận tải dẫn đến những trục trặc trong thanh toán làm cho ngân hàng phải mất thời gian và chi phí để khắc phục. Để hạn chế những trường hợp tương tự, các đối tác tham gia giao dịch xuất nhập khẩu phải hết sức thận trọng trong việc lựa chọn bạn hàng, cán bộ trực tiếp thanh toán quốc tế phải tinh thông nghiệp vụ, nắm rõ thông lệ, luật pháp và công ước quốc tế. Đặc biệt phải hết sức cẩn thận, tỷ mỷ khi kiểm tra đối chiếu L/C và các bộ chứng từ liên quan.
6. Rủi ro liên quan đến môi trường pháp lý
Rủi ro này thường xảy ra khi giao dịch với đối tác thuộc các nước đang phát triển và kém phát triển vì ở các nước này môi trường pháp lý đang ở trong giai đoạn hoàn thiện.
Ví dụ: Trong khi nhà nhập khẩu vẫn có khả năng thanh toán và muốn thanh toán, nhưng chính phủ nước nhập khẩu vì lý do gì đó lại quyết định tạm ngừng việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Vì vậy, ngân hàng mở L/C và nhà nhập khẩu không thể tiến hành thanh toán gây ra mất uy tín với đối tác nước ngoài.
Một trường hợp nữa đã xảy ra tại Việt Nam, khi một ngân hàng Việt Nam đã mở L/C trả chậm theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Nhưng đến hạn, nhà nhập khẩu không thể thanh toán, ngân hàng mở L/C trả thay được một phần vì do hạn chế về vốn không thể trả thay hết số tiền của L/C. Bên nước ngoài tiến hành kiện ngân hàng mở L/C. Kết quả là toà án tối cao Việt Nam yêu cầu nguyên đơn hoàn tất lại thủ tục hồ sơ để kiện nhà nhập khẩu để có thể xử theo Luật thương mại. Toà án không xử trường hợp này vì ở Việt Nam chưa có luật xử tranh chấp liên quan tới L/C.
V. Kinh nghiệm quốc tế về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Chính sách tín dụng ưu đãi đã được các nước rất coi trọng. Nhiều nước đã thành lập những ngân hàng chuyên doanh phục vụ xuất nhập khẩu, thông qua đó áp dụng những biện pháp đặc biệt để hỗ trợ xuất nhập khẩu, đặc biệt là hỗ trợ những ngành xuất khẩu mũi nhọn. Trong từng thời điểm, giai đoạn khác nhau, tùy theo tình hình phát triển kinh tế của mình, mỗi quốc gia có chính sách riêng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Tại Hàn Quốc:
Hàn Quốc có chính sách cho vay ưu đãi và tài trợ cho xuất khẩu rõ ràng, cho doanh nghiệp xuất khẩu vay với lãi suất ưu đãi: Từ năm 1962 đến 1968, chênh lệnh giữa lãi suất thương mại và lãi suất ưu đãi tăng lên tới 4,3 lần và còn 2 lần vào những năm 70. Thậm chí lãi suất ưu đãi còn thấp hơn cả mức tăng giá (lãi suất thực âm). Tuy vậy, đến năm 1982, do những hạn chế và nhược điểm của chính sách lãi suất ưu đãi, Hàn Quốc đã áp dụng chế độ lãi suất thống nhất.
- Tại Nhật Bản:
Những năm đầu của thời kỳ tăng trưởng nhanh, Nhật Bản cũng áp dụng chính sách tín dụng đặc biệt và bảo hiểm đối với hàng xuất khẩu. Ngân hàng xuất nhập khẩu của Nhật (JEXIM) ra đời vào năm 1950 có nhiệm vụ cấp tín dụng cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thuộc các ngành công nghiệp then chốt. JEXIM có bốn hình thức tài trợ chính là: tín dụng xuất khẩu, tín dụng nhập khẩu, tín dụng đầu tư ra nước ngoài và tín dụng không điều kiện (untied loans).
- Tại Trung Quốc:
Đầu những năm 90, Trung Quốc cấp phát 100 triệu NDT tiền dự trữ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để mở nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn. Thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu năm 1994 thực hiện bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu, đồng thời Nhà nước hỗ trợ vốn hàng năm và miễn thu thuế doanh thu đối với thu nhập từ phí bảo hiểm, cho phép áp dụng biện pháp hạch toán ba năm đối với bảo hiểm tín dụng trung và dài hạn.
- Tại các nước ASEAN:
Các nước ASEAN lại tập trung ưu đãi về thuế, không coi trọng ưu đãi tín dụng và lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
- Tại Mỹ:
Mỹ, thông qua EXIMBANK và OPIC, tài trợ xuất khẩu song phương, tài trợ dự án, bảo lãnh nợ và bảo hiểm. EXIMBANK tài trợ xuất khẩu hàng hoá của Mỹ bằng cách cung cấp tín dụng, bảo lãnh vốn lưu động (working capital guarantees) và tín dụng bảo hiểm xuất khẩu (export credit insurance).
Trong khi đó, OPIC (Overseas Private Investment Coporation ) lại khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân Mỹ đầu tư vào các nước đang phát triển thông qua tài trợ vốn cho các dự án và bảo hiểm các rủi ro chính trị, trong đó có bảo hiểm trước rủi ro về tính không chuyển đổi của các bản tệ, quốc hữu hóa (exproriation) và biến động chính trị. Cả hai tổ chức này đều tài trợ rộng rãi cho các dự án phù hợp với tiêu chuẩn do họ đặt ra.
- Tại Pháp:
Từ cuộc cải cách năm 1975, tín dụng người mua nhằm giúp người mua trả tiền ngay cho người bán được phép thực hiện theo ý muốn của những người này, theo tiến bộ thực hiện hợp đồng. Phương thức này đã cho phép giảm bớt, thậm chí xoá hẳn nhu cầu cấp vốn trước cho người nhập khẩu.
Cũng ở Pháp còn có hình thức tạm ứng ngoại tệ, đây là tín dụng của ngân hàng dành cho người nhập khẩu để bù đắp thời hạn giữa lúc trả tiền người cung cấp và thời điểm giao hàng. Các khoản ứng trước ngoại tệ này khiến người nhập khẩu phải chịu rủi ro hối đoái, nhưng có thể bù đắp rủi ro này bằng cách mua ngoại tệ có kỳ hạn. Cho đến tận năm 1986, ở Pháp và một số nước khác, quy chế quản lý ngoại hối còn hạn chế việc này trong phạm vi nhập khẩu nguyên liệu với số lượng nhỏ và hàng hoá định giá bằng ECU. Sau đó thì việc bù đắp rủi ro được hoàn toàn tự do.
Việc tạm ứng bằng ngoại tệ đã phát triển rất mạnh tại Pháp vì chúng
không nằm trong hạn mức tín dụng. Nhưng hình thức này hiện nay không còn tồn tại và tạm ứng bằng bản tệ lại trở thành một phương thức tài trợ không bị hạn chế. Việc đi vay bằng bản tệ hơn là tạm ứng bằng ngoại tệ chỉ là do các điều kiện thị trường quyết định.
- Tại Đức:
Tín dụng cho người đặt hàng được thực hiện phổ biến ở Đức. Một trong những phương thức tín dụng cho người nhập hàng là các ngân hàng Đức ký kết hiệp định khung với các ngân hàng và chính phủ nước ngoài cho phép các ngân hàng và chính phủ này những khoản tín dụng riêng rẽ nhằm tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hóa, máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ từ Đức.
Ưu điểm của loại hình tín dụng này:
* Nhà xuất khẩu:
- Tránh được rủi ro làm ngưng trệ thanh toán về kinh tế, chính trị nằm ở nước ngoài.
- Tránh được khó khăn đối với cán cân thanh toán và giữ được khả năng tín dụng của mình.
- Cạnh tranh được với địch thủ nước ngoài.
* Nhà nhập khẩu:
- Có thể thanh toán từng phần cho cả công trình, thiết bị đã nhập khẩu. Đồng thời có thể thanh toán từ lợi nhuận của các sản phẩm làm ra từ các công trình, thiết bị đó => Nhà nhập khẩu giữ được vốn và ngoại tệ của nước mình.
- Có thể tận dụng được lãi suất thuận lợi ở nước xuất khẩu.
Quy trình tín dụng cho người đặt hàng được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ: Qui trình tín dụng cho người đặt hàng:
Nhà nhập khẩu
Nhà xuất khẩu
(4) (1)
Công ty bảo hiểm (VD: HERMES)
(6)
(5) (6) (2) (6)
Ngân hàng của nhà xuất khẩu
(6)
Ngân hàng của nhà nhập khẩu
(5)
(3)
(1). Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký kết đồng mua bán với điều kiện thanh toán bằng tiền mặt cùng với yêu cầu tín dụng cho người đặt hàng.
(2). Nhà nhập khẩu yêu cầu bảo đảm của ngân hàng
(3). Bảo đảm từ ngân hàng của người nhập khẩu.
(4). Nhà xuất khẩu mua bảo hiểm tín dụng.
(5). Bảo đảm của nhà xuất khẩu và bảo hiểm tín dụng tài chính của công ty bảo hiểm cho khoản tín dụng được ngân hàng xuất khẩu cung cấp.
(6). Ngân hàng xuất khẩu thanh toán cho nhà nhập khẩu đồng thời nhà nhập khẩu trực tiếp nhận nợ hoặc ngân hàng của nhà nhập khẩu đứng ra nhận tín dụng để chuyển tiếp đến cho nhà nhập khẩu.
Thành công và hạn chế của các quốc gia trong việc áp dụng chính sách ưu đãi tín dụng là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu đối với Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
Chương ii
thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại sở giao dịch i - ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam
*********************
I.Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam 10 năm qua
Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần xứng đáng của mình vào những thành tựu to lớn và rất quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã giành được trong thời kỳ đổi mới nói chung và trong 10 năm qua nói riêng.
Những nhiệm vụ đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội 1991-2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu đã được hoàn thành về cơ bản. Điều đó thể hiện trước hết trong việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
Giai đoạn 1991 - 2000 đi vào lịch sử gắn với thành tựu lớn về tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp phần xứng đáng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao suốt thời kỳ này. Từ 1991 đến nay, bình quân tăng 2,5 - 3% xuất khẩu góp phần làm tăng 1% GDP. Kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm ở mức cao, kim ngạch năm 1998 gấp khoảng 4,5 lần kim ngạch năm 1991, giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm tới 28%, năm 1996 đạt kỷ lục 33,1% và năm 1997 - 22,7%, song năm 1998 chỉ tăng 1,9% - mức tăng thấp nhất trong vòng 7 năm trở lại đây, chủ yếu do tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á. Năm 1999 và 2000, Chính phủ đã áp dụng hàng loạt giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng, nhờ vậy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã được phục hồi. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng 23,3%, năm 2000 tăng 21,3%, đạt 14,3 tỷ USD, gấp 6 lần so với năm 1990. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000, kim ngạch xuất khẩu tăng gần 21%/năm, gần gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu trên đầu người tăng từ 30 USD năm 1991 lên 74 USD năm 1995 và tới 180 USD năm 2000, đưa Việt Nam vào đội ngũ những nước có nền ngoại thương tương đối phát triển (kim ngạch xuất khẩu 170 USD/người/năm).
Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nói riêng, tổng kim ngạch XNK nói chung so GDP tăng nhanh chứng tỏ mức độ mở cửa khá mạnh của nước ta. Năm 1998, tỷ lệ xuất khẩu trên GDP đã đạt 36% - mức trung bình trên thế giới, năm 2000 tỷ lệ này đạt trên 45%GDP; Tỷ lệ ngoại thương của Việt Nam so với GDP tăng mạnh (bằng mức của Hàn Quốc) nhưng còn kém xa Singapore và Hongkong, song có thể thấy nền kinh tế định hướng xuất khẩu đã tương đối rõ. Năm 1998, tổng kim ngạch XNK đạt tới trên 3/4 GDP, năm 1999 đạt trên 80% GDP và năm 2000 đạt trên 90%GDP. Tuy nhiên, tổng lượng xuất khẩu tuyệt đối còn thấp (năm 2000 khoảng 29 tỷ USD) do qui mô nền kinh tế còn quá nhỏ bé. Nếu so với các nước trong khu vực, kim ngạch xuất khẩu của ta bằng 1/3 Philippines, 1/7 Indonesia và Thái Lan, 1/10 Malaysia và bằng 1/16 của Singapore.
Bảng 1:Tổng kim ngạch XNK Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000
Kim ngạch xuất khẩu (tr.USD)
Tổng kim ngạch XNK so GDP (%)
Kim ngạch XK so GDP (%)
Kim ngạch xuất khẩu (USD/ người/năm)
1991
2.087,1
29,5
13,9
30
1992
2.580,7
31,4
15,8
37
1993
2.985,2
39,2
17
42
1994
4.054,3
52
21,3
56
1995
5.448,9
64,8
26
74
1996
7.255,9
80
31,5
96
1997
9.185,0
80,6
35,6
116
1998
9.360,3
77,7
35,1
120
1999
11.540,0
81,1
40,3
150
2000
14.308,0
95,7
46,4
180
Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:
Tỷ trọng xuất khẩu lúa gạo và dầu thô giảm còn khoảng 30% năm 1996 (năm 1990 là 40%). Tỷ trọng hàng chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 20% năm 1996, khoảng 35% năm 1999 và gần 40% năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thuỷ sản, gạo và hàng dệt may thì năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng là cà phê, cao su, điều, giày dép than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả
(đến năm 2000, trong 12 nhóm hàng này có 4 nhóm - dầu thô, dệt may, hải sản, giày dép - có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD). Tuy nhiên, rõ ràng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất bất hợp lý. Theo một số tính toán cứ 6 USD kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì chỉ có 1 USD là hàng gia công. Xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu (trên 70% kim ngạch xuất khẩu). Trong khi đó ở Trung Quốc năm 1994 xuất khẩu nguyên liệu thô chỉ chiếm có 16,3%.
Bảng 2:Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 1991 - 2000
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Nhóm I(%)
33,4
37,1
34,0
28,8
25,3
27,6
24,1
24,0
24,6
25,0
Nhóm II (%)
14,4
13,5
17,6
23.1
28,4
30,1
35,8
35,6
36,5
35,5
Nhóm III (%)
52,2
49,4
48,4
48,1
46,3
42,3
40,1
39,4
38,9
39,5
Nhóm I: Công nghiệp nặng - khoáng sản
Nhóm II: Công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp
Nhóm III: Nông lâm thuỷ sản
Nguồn : Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại)
Nhập khẩu cơ bản đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng các nhu cầu cần thiết của đời sống nhân dân. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên - vật liệu phục vụ cho sản xuất chiếm vị trí chủ yếu, tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm hẳn, tình trạng nhập siêu lớn thuyên giảm đáng kể. Năm 2000, tư liệu sản xuất chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26 - 27% là máy móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5% (tỷ lệ này năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối và tương đối. Năm 1996 nhập siêu gần 4 tỷ nhưng năm 1999 thâm hụt thương mại chỉ còn 0,2 tỷ USD, tỷ trọng nhập siêu giảm từ 33% kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 - 1995 xuống còn 18% thời kỳ 1996 - 2000.
BảNG 3:Cơ cấu hàng nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000
Năm
Tư liệu sản xuất
(%)
Hàng tiêu dùng
(%)
1991
89,9
10,1
1992
83,4
16,6
1993
84,4
15,6
1994
82,2
17,8
1995
83,5
16,5
1996
87,6
12,4
1997
89,9
10,1
1998
91,5
8,5
1999
93,7
6,3
2000
94,8
5,2
(Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại)
Hiện nay, nước ta đã mở rộng đáng kể thị trường, có quan hệ với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, có hiệp định thương mại với trên 61 nước. Đồng thời, Việt Nam đã bước đầu hội nhập với các thể chế kinh tế - thương mại khu vực và trên thế giới với việc tham gia ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và xúc tiến đàm phán để tham gia WTO.
II. Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
1. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại các NHTM
1.1. Những kết quả đạt được
Những năm 90, nhất là giai đoạn 1991-1995 đã chứng kiến những kết quả phát triển xuất khẩu đáng kinh ngạc, trong đó có phần đóng góp của các khoản tín dụng dành cho xuất khẩu. Với kim ngạch xuất khẩu khoảng 8-9 tỷ USD/năm, trừ đi phần xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn 6-7 tỷ, giả định 80% số vốn sản xuất hàng XK là nguồn tín dụng thì tổng tín dụng dành cho XK ước khoảng 4-5 tỷ USD/năm (tương đương 40 - 50.000 tỷ VND), chiếm 60-70% tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng. Đó là chưa kể các khoản tín dụng trung và dài hạn vào công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu. Nếu căn cứ vào số doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu (khoảng 1.500) và tỷ lệ vốn vay bình quân của doanh nghiệp là 90% thì vốn vay một chu kỳ sản xuất là
13.000 tỷ, với 3 - 4 chu kỳ sản xuất một năm thì tổng tín dụng khoảng 40.000 tỷ VND (sở dĩ có sự chênh lệch trong 2 phương pháp tính là do có sự tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN - không được tính vào tín dụng thúc đẩy xuất khẩu - chiếm tới 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu. Thêm vào đó là những sai số trong tính toán vốn tự có của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu và một lượng vốn tín dụng ưu đãi không qua hệ thống ngân hàng). Tuy vậy, có thể nói từ khi bắt đầu đổi mới (1986) đến nay các ngân hàng đã dành cho xuất nhập khẩu khoản vốn tín dụng khá lớn.
1.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Đặc điểm dễ nhận thấy nhất của Việt Nam hiện nay là các giải pháp về tín dụng chỉ có tính tạm thời, phần lớn là tín dụng ngắn hạn, đáp ứng yêu cầu trước mắt, phục vụ cho từng “phi vụ” mà thiếu hẳn các dự án đầu tư dài hạn phát triển xuất khẩu, tín dụng dài hạn chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng tín dụng (tỷ lệ chung của cả hệ thống khoảng 30%). Hiện tượng này không chỉ có trong hoạt động tín dụng cho xuất nhập khẩu, mà còn phổ biến trong toàn bộ hoạt động tín dụng. Đây là đặc điểm lớn nhất, có tác dụng chi phối lĩnh vực tín dụng thúc đẩy xuất khẩu, là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng hạn chế sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam như hiện nay.
Các NHTM có liên quan tới tín dụng và dịch vụ ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu đã có nhiều cố gắng trong các năm qua. Nhiều nhân tố mới đã xuất hiện theo hướng tích cực, có tác dụng hỗ trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy vậy, còn nhiều hạn chế:
- Trình độ của các cán bộ ngân hàng còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của thị trường quốc tế và yêu cầu từ phía các doanh nghiệp. Trình độ nghiệp vụ ngoại thương được đào tạo theo chương trình đã lạc hậu, thiếu thực tế. Đặc biệt công tác thẩm định dự án để cho vay còn rất lúng túng; ngoài ra là hạn chế về ngoại ngữ và trình độ tin học; tác phong làm việc với các đối tác nước ngoài còn yếu và vẫn còn tồn tại tâm lý ban ơn, mong muốn duy trì quan hệ xin - cho trong các quan hệ với các bạn hàng.
- Công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, đặc biệt là công nghệ thanh toán (trong nước và quốc tế).
Dịch vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn hạn hẹp cả về loại
hình và chất lượng. Ngân hàng hầu như chưa có vai trò gì trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm đối tác cho hàng xuất khẩu, khai thác thị trường xuất khẩu tiềm năng.
- Khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam với các ngân hàng nước ngoài còn thấp. Nguyên nhân chính là các NHTM của ta còn muốn dựa dẫm vào sự bảo hộ và giúp đỡ của Nhà nước, không muốn và không dám cạnh tranh thực sự trên thị trường tín dụng. Chính vì vậy, có những thời điểm ngân hàng nước ngoài đã lấn át ngân hàng trong nước trên thị trường tín dụng cho tới khi Nhà nước phải áp dụng các biện pháp hành chính để tháo gỡ. Bên cạnh đó, NHTMQD còn nặng về thu mình trong các mối quan hệ bạn hàng truyền thống (các doanh nghiệp Nhà nước lớn) mà ít chú trọng thiết lập quan hệ bạn hàng mới, lâu dài.
- Hệ thống thông tin của các NHTM đã được cải thiện mạnh trong mấy năm gần đây, hệ thống NHTM đã được tin học hoá tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng nói chung và tín dụng xuất khẩu nói riêng. Tuy vậy, hệ thống thông tin của nước ta còn nhiều bất cập, đặc biệt là thông tin về tài chính của các đối tác nước ngoài, về thị trường nước ngoài và yếu kém trong việc xử lý thông tin.
- Quỹ hỗ trợ xuất khẩu vừa ra đời theo quyết định 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9/1999 trong khi chưa có các quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo ngành hàng nên tín dụng và ưu đãi tín dụng cho xuất khẩu không thể triển khai suôn sẻ được. Kế hoạch thành lập một ngân hàng XNK đã bị bỏ qua trong khi vẫn chưa có hình thức tổ chức khác đảm nhận vai trò kênh tín dụng và ưu đãi tín dụng thúc đẩy xuất khẩu có hiệu quả. Về tín dụng trung và dài hạn cho xuất khẩu chủ yếu qua quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (vốn ngân sách cấp ban đầu là 1.100 tỷ) do Tổng cục ĐTPT quản lý, mới đây đã nhập thành quỹ hỗ trợ phát triển, còn tín dụng ngắn hạn chủ yếu do Ngân hàng Ngoại thương (VCB) đảm nhiệm.
- Tín dụng cho các thành phần kinh tế phi Nhà nước phát triển xuất khẩu rất kém, một phần do độc quyền ngoại thương của Nhà nước, phần khác do thiếu cơ chế phát triển tín dụng cho các đối tượng này.
- Tín dụng đầu tư vào các vùng nguyên liệu xuất khẩu và phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu không đáng kể, đồng thời có mức độ rủi ro cao do phụ thuộc vào thời tiết (chủ yếu nguyên liệu là nông lâm hải sản), không chắc chắn về thị trường tiêu thụ.
Đồng thời về chính sách tín dụng nói chung, chưa có những quy định mới để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ chế tín dụng phục vụ xuất khẩu còn rất cố hữu, đóng khung vào khuôn mẫu chung đối với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, chưa có những giải pháp nghiệp vụ tín dụng phù hợp hỗ trợ mạnh mẽ cho xuất khẩu.
2.Hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNN&PTNT
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng NHNN&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, gọi tắt là ngân hàng Nông Nghiệp ( NHNN), có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development (VBARD), trụ sở chính đặt tại số 2 – Láng Hạ - Đống Đa – Hà Nội.
Tổ chức tiền thân của ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam là ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam, thành lập theo quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988. Từ khi thành lập đến nay, ngâ._. chức năng dịch vụ thanh toán, nó đã giảm nhẹ gánh nặng cho nhà xuất khẩu nếu phải thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ, giảm được chi phí thanh toán. Trả tín dụng chứng từ cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu và có hệ số an toàn cao hơn tất cả các phương thức thanh toán khác.
- Thực hiện hình thức ứng trước tín dụng để tài trợ xuất khẩu kết hợp với kinh doanh ngoại tệ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài hoặc L/C đã thông báo, Sở cấp tín dụng để doanh nghiệp thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời, ngân hàng ký một hợp đồng mua bán số ngoại tệ của khách hàng khi được thanh toán theo tỷ giá kỳ hạn và tiến hành thu nợ từ nguồn bán ngoại tệ đó.
- Chiết khấu hối phiếu: Căn cứ vào các hối phiếu đã được ngân hàng nước ngoài chấp nhận, nhưng chưa đến hạn thanh toán, ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách chiết khấu lại các hối phiếu đó.
- Trong tài trợ nhập khẩu, Sở nên đưa thêm các hình thức: Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu, tín dụng chấp nhận hối phiếu và cho vay trên cơ sở chứng từ nhờ thu.
2.3.Triển khai hoạt động Marketing trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu
Trong cơ chế thị trường, Marketing là một công cụ để cạnh tranh, thu hút khách hàng, mở rộng thị trường. Điều này rất cần thiết với SGDI vì hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu mới được triển khai, phải cạnh tranh rất quyết liệt với các NHTM khác trên cùng địa bàn đã có kinh nghiệm trong hoạt động này và đang chiếm lĩnh phần lớn khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu.
Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý trong một ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về các dịch vụ ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn để thích ứng với môi trường thị trường bằng các giải pháp, các chính sách linh hoạt để đạt tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội và lợi nhuận của ngân hàng.
Để áp dụng Marketing trong ngân hàng, đạt được các mục tiêu của nó là tăng khả năng sinh lời, tăng sức mạnh trong cạnh tranh, an toàn trong kinh doanh thì SGDI cần thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản:
- Phải nắm bắt thường xuyên sự biến động của thị trường để đáp ứng kịp thời các nhu cầu về nguồn vốn và cung ứng tốt nhất các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
- Phải tìm kiếm được sự khác biệt so với các ngân hàng đối thủ nhằm khai thác thị trường và thu hút khách hàng.
Đồng thời, Sở phải chú ý tới đặc thù của hoạt động ngân hàng:
- Tiền là nguyên liệu không thể thay thế được để làm nên các sản phẩm ngân hàng.
- Hoạt động ngân hàng tuân thủ sự quản lý vĩ mô của Nhà nước trong một hành lang hẹp.
- Sản phẩm của ngân hàng mang tính công cộng, bất kỳ một yếu tố rủi ro nào về mặt nghiệp vụ do sơ suất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của ngân hàng.
- Hoạt động ngân hàng có rất nhiều mối quan hệ trong lòng thị trường mà các ngành sản xuất kinh tế khác không có được.
- Thị trường của ngân hàng mang tính phổ cập thông dụng, tất cả các ngân hàng đều hoạt động trên một mặt bằng chung,..
Như vậy để thực hiện thành công hai nhiệm vụ nêu trên, SGD I phải xây dựng được một chiến lược Marketing hỗn hợp bao gồm 4 chính sách lớn:
2 Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu điều tra:
Chính sách này đòi hỏi Sở phải xem xét, phân tích một cách tổng hợp các yếu tố môi trường, thị trường và các mặt mạnh, mặt yếu của Sở . Ngân hàng phải tìm hiểu khách hàng của mình là ai, số lượng bao nhiêu, xem họ cần gì, cần lúc nào, cần bao nhiêu. Tiến hành phân loại từng nhóm khách hàng theo những tiêu thức nhất định để xem nhu cầu nào ngân hàng có thể đáp ứng một cách có lợi nhất và nên phục vụ họ như thế nào. Những khách hàng nào đang mang lại thu nhập lớn nhất cho Sở, tương lai họ sẽ ra sao, nhóm khách hàng nào sẽ thay thế, nhóm khách hàng nào đang quan hệ với Sở một cách tạm thời, những khách hàng nào mang lại thu nhập thấp nhưng vẫn phải nuôi dưỡng để phát triển trong tương lai. Qua việc nghiên cứu thị trường hiện tại và thị trường trong tương lai sẽ giúp Sở đưa ra các giải pháp phù hợp để thu hút khách hàng, phát huy thế mạnh của mình để chiếm lĩnh tối đa thị trường:
- Thực hiện phân loại khách hàng:
+ Với khách hàng gửi tiền: Phân loại khách hàng lớn, có nguồn vốn rẻ để có ưu đãi về phí dịch vụ trong thanh toán, bố trí cán bộ phục vụ chu đáo, nếu cần có thể đến tại đơn vị.
+ Với khách hàng thanh toán quốc tế, khách hàng vay: Phân loại thường xuyên để có chính sách ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay, phương thức cấp tín dụng và nhu cầu phục vụ, nhất là những khách hàng có nguồn ngoại tệ cho thanh toán. Chú trọng các khách hàng lớn, có nguồn vốn, khách hàng có ngoại tệ để tạo sự cân bằng trong thanh toán xuất nhập khẩu, khách hàng kinh doanh có hiệu quả để đầu tư vốn.
2 Chính sách sản phẩm, giá cả:
Sở phải tạo ra sự khác biệt về sản phẩm của mình so với các ngân hàng
khác thông qua các chính sách lãi suất và các dịch vụ bổ trợ:
- Hiện nay do điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM, nên giá của các sản phẩm ngân hàng không có sự chênh lệch lớn. Vì vậy, Sở phải đưa ra mức giá hợp lý với từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng địa bàn. Chính sách giá cả phải luôn linh hoạt, mềm dẻo.
- Các NHTM trên cùng địa bàn có nhiều dịch vụ sản phẩm mới, đa dạng hơn SGDI. Vì vậy, Sở nên đưa ra các dịch vụ mới như: Chuyển tiền điện tử nối mạng toàn quốc; đưa máy rút tiền tự động (ATM) vào sử dụng rộng rãi; ứng dụng đề án ngân hàng bán lẻ đang thử nghiệm; nối mạng với khách hàng lớn để khai thác thông tin, tạo điều kiện cho khách hàng nắm số liệu của đơn vị ở ngân hàng kịp thời và tiện lợi.
- Dịch vụ bổ trợ sẽ làm tăng thêm giá trị của sản phẩm và chính nó sẽ tạo ra sự khác biệt giữa các ngân hàng. Sở nên cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ bổ trợ như: Tư vấn cho khách hàng về thị trường tiêu thụ, lựa chọn đối tác kinh doanh, sản phẩm có chất lượng.
=> Muốn làm được điều này, Sở phải có một hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ về thị trường trong nước và quốc tế.
2 Chính sách phân phối:
Chính sách phân phối là chính sách đặt nền tảng cho mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và là một bộ phận quan trọng của Marketing hỗn hợp. Khi thực hiện chính sách này, Sở phải huy động toàn bộ cơ sở vật chất, kỹ thuật và nguồn nhân lực để cung ứng sản phẩm dịch vụ đến từng khách hàng. Để thực hiện chính sách này, Sở cần phải:
- Mở rộng quy mô kinh doanh ngay tại Sở.
- Mở thêm các chi nhánh loại 4, các điểm giao dịch. Đồng thời phải quan tâm đến một số yếu tố như: Địa điểm mở quầy giao dịch phải thuận tiện về giao thông, môi trường dân cư hợp lý, an ninh, an toàn khu vực cao; quan tâm đến việc sắp xếp bố trí cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ tác nghiệp, giờ giấc mở cửa giao dịch.
2 Chính sách giao tiếp khuyếch trương:
Hiện nay, các ngân hàng thường chú trọng về chính sách quảng cáo gây tín nhiệm: Quảng cáo độ an toàn của các khoản tiền gửi, mức độ nhanh chóng chính xác khi cung cấp các dịch vụ. Nhưng trên thực tế, quyết định lựa chọn ngân hàng của khách hàng phần lớn là do phong cách giao tiếp của các nhân viên ngân hàng trong giao dịch. Bởi vì không có hình thức quảng cáo nào tốt hơn cho ngân hàng bằng chính khách hàng của họ.
Do hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở mới hình thành nên có thể nhiều khách hàng chưa biết tới. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo, Sở cần tiếp cận tuyên truyền các doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu quả đến quan hệ giao dịch. Đồng thời đối với cán bộ phải quan tâm đào tạo và đào tạo lại, tuyển chọn cán bộ có năng lực, nhiệt tình, có chế độ khen thưởng rõ ràng để khuyến khích họ làm việc tận tâm hơn. Địa điểm giao dịch được sửa sang sạch đẹp. Đặc biệt quan tâm đến phong cách giao tiếp của cán bộ ngân hàng với khách hàng sao cho thật nhiệt tình, lịch sự để tạo sự tin tưởng và giữ được mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng.
2.4. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Thẩm định dự án là khâu vô cùng quan trọng trước khi ra quyết định cấp tín dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để thẩm định chính xác một dự án đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm về thẩm định, kể cả thẩm định các hồ sơ tài liệu pháp lý cũng như những thông số liên quan tới khía cạnh tài chính, kỹ thuật, điều kiện thị trường liên quan đến dự án đầu tư. Phải đánh giá một cách chính xác năng lực vay nợ, uy tín của khách hàng, khả năng tạo ra lợi tức, quyền sở hữu tài sản có và môi trường kinh doanh của khách hàng. Cán bộ tín dụng có thể tiến hành điều tra, khai thác thông tin về khách hàng qua những cách sau đây:
- Phỏng vấn người xin vay: Đây có thể coi như một nghệ thuật, qua đó có thể đánh giá và hiểu rõ khách hàng hơn trong mục đích vay vốn, phương án kinh doanh và các thông tin khác về tình hình tài chính của họ. Nếu yêu cầu xin vay không phù hợp với chính sách của ngân hàng hoặc còn có những khúc mắc thì cán bộ ngân hàng có thể cho khách hàng những lời khuyên. Tuy nhiên, không nên tin tưởng tuyệt đối vào các thông tin nhận được thông qua phỏng vấn khách hàng vì rất có khả năng thông tin họ đưa ra sai sự thật và thiếu khách quan.
- Hồ sơ của khách hàng tại ngân hàng: Căn cứ vào hồ sơ mà khách hàng đệ trình và các thông tin ghi trong sổ sách tại ngân hàng để hiểu rõ thêm về họ: Số dư tiền gửi, tiền vay, các lần trả nợ, các báo cáo tài chính…
- Thu thập các nguồn thông tin bên ngoài qua: Báo chí trong và ngoài ngành, truy cập mạng Internet; thông tin của các ngành, các bộ có liên quan; thông tin từ các ngân hàng khác mà khách hàng đã đặt quan hệ…
- Điều tra nơi hoạt động kinh doanh của khách hàng: Cán bộ tín dụng phải đến tận nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng để đánh giá được một cách khách quan tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, cán bộ thẩm định phải đi sâu nghiên cứu, phân tích thêm về tình hình thị trường hiện tại ảnh hưởng đến dự án đầu tư như thế nào, dự báo các thay đổi của yếu tố thị trường và ảnh hưởng của những thay đổi đó đối với kết quả của dự án. Dự kiến những trường hợp xấu nhất và giải pháp khắc phục.
2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng
Sau khi cấp tín dụng phải tiến hành kiểm tra để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, phát hiện kịp thời các sai phạm để có biện pháp xử lý phù hợp, tránh mất vốn. Đồng thời cần tiến hành công tác kiểm tra đột xuất và định kỳ việc sử dụng vốn vay của khách hàng để phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm tàng.
Bên cạnh công tác kiểm tra trên, cán bộ tín dụng phải thu thập thêm các thông tin về biến động lãi suất, tỷ giá trên thị trường để có những biện pháp hạn chế rủi ro.
Đối với những khoản tín dụng yêu cầu phải có tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng phải bám sát những quy định hiện thời về hồ sơ pháp lý, đánh giá và dự tính khả năng phát mại các tài sản thế chấp đó. Khi xác định tài sản thế chấp phải căn cứ vào giá trị thị trường và dự kiến những biến động bất lợi nhất, ảnh hưởng của những biến động đó đối với giá trị của tài sản thế chấp để phòng tránh rủi ro và việc ra quyết định chính xác hơn.
2.6. Thực thi các giải pháp phòng chống rủi ro
Rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng là rất khó tránh khỏi, nên việc xây dựng một hệ thống thông tin nhằm thu thập những dữ liệu cần thiết để đánh giá mức độ rủi ro làm cơ sở cho những giải pháp hạn chế rủi ro và thực hiện các biệp pháp phân tán san sẻ rủi ro là rất cần thiết.
Hiện nay, những khách hàng vay vốn chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu tại SGD I là: Seaprodex Hà Nội, Tổng công ty kim khí Hà Nội…nên việc tập trung dư nợ vào một số ít khách hàng sẽ không có lợi cho việc phòng ngừa rủi ro. SGD I nên thực thi một số giải pháp phòng chống rủi ro sau:
- Phân tán rủi ro tín dụng: Sở cần tránh dồn vốn, nên phân bổ nguồn vốn hợp lý vào nhiều khoản đầu tư , không cho vay quá nhiều vào một đối tượng sản phẩm hàng hoá, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu với các thời hạn khác nhau.
- Liên kết đầu tư: Sở nên tham gia vào một chương trình lớn phát triển một ngành sản xuất, một loại mặt hàng xuất khẩu với sự hợp tác giúp đỡ của các ngành chức năng để tận dụng kiến thức kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư. Với vai trò là một nhà cung cấp tài chính, Sở có thể cùng liên kết với các ngân hàng khác để tài trợ cho những dự án lớn có khả năng sinh lời mà một mình Sở không thể đảm đương nổi để cùng nhau giải quyết các nhu cầu vốn lớn, cũng như san sẻ những thiệt hại khi rủi ro xảy ra.
- Tham gia bảo hiểm tín dụng: Mặc dù ở nước ta hình thức này chưa phổ biến, nhưng do hoạt động xuất nhập khẩu luôn chứa đựng nhiều rủi ro và việc dự đoán rủi ro còn rất phức tạp. Vì vậy, để giảm bớt những rủi ro có thể xảy ra, Sở nên quan tâm một cách thích đáng đến việc mua bảo hiểm tín dụng.
2.7. Tăng cường cải tiến hệ thống thông tin tín dụng
Thông tin trong mọi lĩnh vực đều đóng vai trò hết sức quan trọng, được sử dụng như một vũ khí sắc bén trong môi trường cạnh tranh. Đặc biệt là trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thông tin về thị trường trong nước và thị trường thế giới lại càng quan trọng hơn.
- Sở nên rà soát lại hệ thống máy tính trong toàn Sở và các chi nhánh, cải tiến phần mềm ứng dụng hiện có, xây dựng những chương trình phần mềm mới phù hợp với nhu cầu giao dịch và quản lý thông tin.
- Sở có thể thiết lập một mạng máy tính giữa Sở với các chi nhánh để quản lý hoạt động tín dụng sát sao và thường xuyên hơn . Tổ chức tốt công tác thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu phân tích tín dụng và các nhu cầu nghiên cứu khác.
- Nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng các chương trình phần mềm ứng dụng nhất là đối với cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định, cán bộ kế toán và cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế.
- Hoàn thiện các biểu mẫu báo cáo cho phù hợp với nội dung thông tin cần tra cứu.
Bên cạnh đó, Sở có thể ký kết với các ngân hàng nước ngoài những chương trình trao đổi cán bộ, nhằm học hỏi kiến thức mới, kỹ năng và công nghệ mới, trao đổi kinh nghiệm với các đối tác nước ngoài để dần dần hoàn thiện hoạt động của mình, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập với cộng đồng ngân hàng khu vực và trên thế giới.
2.8. Tham gia tích cực vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Chính thức đi vào hoạt động từ 20/09/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường mua bán ngoại tệ giữa các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ với nhau và giữa các NHTM, là bước khởi đầu của thị trường hối đoái. Mục tiêu của thị trường này là điều hòa ngoại tệ giữa nơi thừa và nơi thiếu trong cả nước, hình thành tỷ giá một cách linh hoạt.
Như ta đã biết, tín dụng xuất nhập khẩu có đặc điểm là nguồn vốn lớn, hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào quy luật và biến động của thị trường tiền tệ, thị trường thương mại thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, SGDI-NHNN&PTNT phải đảm nhận vai trò của người trung gian thực sự giữa cung và cầu tiền tệ với mục tiêu lợi nhuận và thực thi các chính sách của nhà nước. Do đó, NHNN& PTNT phải từ bỏ thói quen bao cấp, trông chờ vào nguồn vốn cấp phát của Nhà nước, phải tích cực tìm kiếm các giải pháp để huy động vốn một cách rẻ nhất, nhanh nhất với chi phí thấp nhất từ trong, ngoài nước để phục vụ cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của mình. Xu hướng “ liên kết ” trở thành một vấn đề tất yếu và vô cùng quan trọng đối với hoạt động tín dụng của SGDI-NHNN&PTNT .
Chính vì vậy,tham gia vào thị trường này sẽ giúp Sở bổ sung được nguồn ngoại tệ khi cần thiết, đáp ứng nhu cầu kịp thời của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu.
3. Một số kiến nghị
3.1. Đối với SGD I - NHNN&PTNT
SGD I - NHNN&PTNT là đơn vị không chuyên môn hoá trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu, thêm vào đó, lĩnh vực này đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của nhiều ngân hàng trong nước và ngân hàng nưóc ngoài trên địa bàn Hà Nội có thế mạnh về vốn, công nghệ, cũng như bề dày kinh nghiệm trên thương trường. Vì vậy, trước mắt quy mô cũng như kinh nghiệm tài trợ xuất nhập khẩu của SGD I chưa thể bằng các ngân hàng này. Ngoài ra, SGD I còn gặp rất nhiều khó khăn cả khách quan và chủ quan như đã nêu trong phần trước.
Để khắc phục khó khăn, dần dần mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, SGDI nên hướng các hoạt động của mình theo các hướng sau:
- Sở nên đặc biệt chú trọng đến việc thực thi chiến lược Marketing hỗn hợp bao gồm 4 chính sách: Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; Chính sách sản phẩm, giá cả; Chính sách phân phối; Chính sách giao tiếp khuyếch trương trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu. Vì hiện nay khách hàng mới tại Sở chưa nhiều, khách hàng cũ đang bị lôi kéo quyết liệt nên Marketing chính là một công cụ hữu hiệu giúp Sở giải quyết được những vấn đề lớn như:
+ Phòng tránh nguy cơ mất khách hàng, mở rộng thị trường, tăng thu nhập cho ngân hàng.
+ Phòng tránh rủi ro tín dụng do dồn vốn vào một số khách hàng lớn.
+ Tăng cường khả năng cạnh tranh.
- Do người thực hiện chiến lược Marketing chính là các cán bộ Ngân hàng, nên đồng thời với việc triển khai chiến lược Marketing, Sở nên đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp với khách hàng cho mỗi cán bộ. Từ đó biến Marketing trở thành hoạt động tự giác của mỗi cán bộ, nhằm nâng cao uy tín của Ngân hàng trên thương trường cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I.
- Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Lựa chọn và đưa thêm các hình thức tài trợ như: Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu; Cho vay trên cơ sở chứng từ nhờ thu; Chiết khấu hối phiếu; Factoring; Forfaiting...
- Hiện nay trong tài trợ xuất nhập khẩu, Sở vẫn cho vay bằng nội tệ là chủ yếu, cho vay bằng ngoại tệ chưa đáng kể. Sở cần tìm những bạn hàng mới có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu các loại vật tư phục vụ nông nghiệp.
- Công tác tư vấn về thanh toán, quản lý tài chính và thị trường xuất nhập khẩu của Sở cần củng cố một bước để giúp đỡ khách hàng, tạo mối liên hệ mật thiết hơn với khách hàng, qua đó giữ được khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới, nâng cao quy mô và hiệu quả tín dụng xuất nhập khẩu.
- Rà soát lại các chính sách ưu đãi hiện hành, bổ sung thêm các quy định ưu đãi mới nhằm khuyến khích tín dụng xuất nhập khẩu một cách thiết thực, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, cũng như quyền lợi của ngân hàng và khách hàng.
- Chuẩn bị các điều kiện cần thiết về vật chất và cán bộ sẵn sàng tham gia và phát triển tín dụng phục vụ thương mại điện tử, đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới của thanh toán quốc tế.
- Nên đề ra chiến lược cụ thể để đảm bảo cân đối ngoại tệ trong tín dụng và thanh toán.
3.2. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
NHNN&PTNT nên thực hiện một cách tổng thể và đồng bộ việc chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống các văn bản chế độ quản lý, điều hành và hướng dẫn nghiệp vụ trong toàn hệ thống. Do đã có Luật các Tổ chức tín dụng nên toàn bộ hệ thống văn bản phải được rà soát, chỉnh sửa và đổi mới để xây dựng một hệ thống văn bản đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, hiểu sai giữa các văn bản, đồng thời cũng dễ chỉnh sửa khi cần thiết để theo kịp những thay đổi của thị trường. Đặc biệt là các quy định, hướng dẫn liên quan đến quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay, quy trình hạch toán kế toán và công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
- Ngân hàng cần triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản chính sách, chế độ của chính phủ và các ngành có liên quan đến xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối và tín dụng đến các Sở, các chi nhánh.
- Hoàn thiện cơ chế, mô hình, hệ thống quản lý thông tin nhằm nâng cao hiệu quả công tác thống kê, báo cáo chỉ đạo kịp thời, thống nhất trong toàn hệ thống. Cải tiến, hoàn thiện những phần mềm hiện có, xây dựng phần mềm mới để phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh và chuyển tải thông tin phục vụ cho công tác quản lý điều hành kịp thời và chính xác.
3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước:
Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng về đổi mới quản lý hoạt động ngân hàng: Chính phủ không can thiệp sâu vào nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước trong quá trình thực thi tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước không can thiệp sâu vào quá trình vạch chiến lược và điều hành kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Nhà nước nên xây dựng khuôn khổ pháp lý, thông tư hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện cho các NHTM đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất nhập khẩu.
- NHNN nên có cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp với hoạt động của các NHTM, chính sách tỷ giá linh hoạt để khuyến khích xuất khẩu.
- Hệ thống hoá các quy trình thẩm định dự án để thống nhất và phổ biến rộng rãi cho các tổ chức tín dụng.
- Có chính sách lãi suất hợp lý để vừa điều tiết nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho các NHTM xử lý linh hoạt trong tài trợ xuất nhập khẩu.
- Hoàn thiện các quy định về cầm cố, thế chấp, đảm bảo tiền vay, quản lý rủi ro để các Ngân hàng mở rộng tín dụng an toàn và hiệu quả.
3.4. Đối với Nhà nước:
Hiện nay, các yếu kém trong nhận định, tổ chức phối hợp, quản lý để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã là một trong các nguyên nhân dẫn đến các cơ quan thực thi pháp luật xem việc xử lý thu hồi tài sản, tiền vốn đối với các khách hàng vay cố tình không trả nợ ngân hàng vẫn là công việc "giúp đỡ ngành ngân hàng".Gần đây Chính phủ đã ban hành nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, các cơ quan hữu quan như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính cần sớm ban hành Thông tư hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng.
- Nhà nước nên có chủ trương, cơ chế quản lý, chính sách đảm bảo môi trường pháp lý ổn định cho các đơn vị hoạt động ngoại thương không phân biệt thành phần kinh tế.
- Sớm ban hành Luật Thương phiếu và có các văn bản hướng dẫn kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng tiến hành nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu.
- Có chính sách ưu đãi tín dụng xuất nhập khẩu rõ ràng, nhất quán để các Ngân hàng có thể sớm hoạch định các chính sách tín dụng xuất nhập khẩu của mình.
- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xuất nhập khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
- Xúc tiến mạnh hoạt động của quỹ hỗ trợ xuất khẩu, khẩn trương xây dựng đề án thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu.
Kết luận
********************
Trong thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, ngành Ngân hàng Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc và thu được những thành tựu tốt đẹp. Hoà mình trong sự biến đổi ấy, NHNN&PTNT đã không ngừng phấn đấu khắc phục khó khăn, tìm kiếm phương thức kinh doanh có hiệu quả. Không những khẳng định vị trí hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, còn vươn ra chiếm lĩnh thị phần ở khu vực đô thị, hoạt động có hiệu quả cả trong lĩnh vực kinh doanh nội địa cũng như kinh doanh đối ngoại.
Tuy gặp phải không ít khó khăn, nhất là khi hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu mới hình thành, còn đang ở trong giai đoạn vừa làm vừa học hỏi nhưng Sở giao dịch I - NHNN&PTNT đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ: Doanh số cho vay không ngừng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển. Tuy nhiên, tiềm năng mở rộng và phát triển nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở còn rất to lớn nhưng Sở vẫn chưa khai thác được nhiều.
Hoàn thành bản khoá luận này, em hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé để SGD I - NHNN&PTNT có thể đánh giá đúng những mặt được và chưa được trong quá trình thực hiện vừa qua, đưa ra một số giải pháp để Sở có thể nghiên cứu triển khai kịp thời nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Hy vọng trong một tương lai không xa, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - NHNN&PTNT nói riêng sẽ đạt được nhiều thành tựu và mở rộng thành hoạt động kinh doanh quan trọng và mạnh mẽ, có sức cạnh tranh và hiệu quả cao.
Danh mục tài liệu tham khảo
QQQ
- Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8/1997.
- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8, 9.
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài trợ thương mại quốc tế ở Việt Nam - Chủ nhiệm đề tài: PGS.NGƯT.Đinh Xuân Trình
- Giáo trình Thanh toán quốc tế . Chủ biên: PGS.NGƯT.Đinh Xuân Trình
- Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế - Chủ biên: PTS Lê Văn Tề, NXB: TP Hồ Chí Minh.
- Nghiệp vụ tín dụng và thanh toán quốc tế - Chủ biên: PTS Lê Văn Tề,
NXB: TP Hồ Chí Minh.
- Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh
ngoại tệ - Tác giả: Lê Văn Tư & Lê Tùng Vân, NXB: Thống kê.
- Công nghiệp hoá - hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh
nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở Châu á - Chủ biên:
PGS, PTS Tô Xuân Dân, NXB: Chính trị Quốc gia - Hà Nội.
- Tài chính ngoại thương - Tác giả: HERBERT - J.KESSLER, NXB: Khoa
học kỹ thuật.
- Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 Chủ biên: PTS. Phạm Quyền & PTS. Lê Minh Tâm.
- Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam 2001- 2010.
- Quyết định 284/2000/ QĐ - NHNN.
- Quyết định 241/NHNN1.
- Quyết định 195/ 1999/ QĐ - TTg về quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
- Báo cáo tổng hợp của SGD I các năm 1998, 1999, 2000.
- Tạp chí Ngân hàng 1998, 1999, 2000, 2001.
- Tạp chí Thị trường tài chính - Tiền tệ.
- Tạp chí Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam.
- Niên giám thống kê năm 2000.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Chương I - Tài trợ xuất nhập khẩu và vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân
4
I. Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
5
II. Một số hình thức tài trợ xuất nhập khẩu
6
1. Đối với hoạt động xuất khẩu
7
2. Đối với hoạt động nhập khẩu
13
III. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
18
1. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu
18
2. Đối với các ngân hàng thương mại
19
3. Đối với nền kinh tế đất nước
20
IV. Những rủi ro thường gặp trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
21
1. Rủi ro do khách hàng không hoàn trả tín dụng
22
1.1. Rủi ro do khách hàng mất khả năng thanh toán
22
1.2. Rủi ro do khách hàng không thanh toán
22
2. Rủi ro do mất khả năng thanh toán của NH phát hành l/C
22
3. Rủi ro hối đoái
22
4. Rủi ro do thay đổi bất lợi về lãi suất
23
5. Rủi ro do gian lận thương mại
23
6. Rủi ro liên quan đến môi trường pháp lý
23
V. Kinh nghiệm quốc tế về tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK
24
Chương II - Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại sở giao dịch I NHNN & PTNT Việt Nam
29
I. Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam 10 năm qua
29
II. Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
32
1. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại
32
1.1. Những kết quả đạt được
32
1.2. Những hạn chế và nguyên nhân
33
2. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNN & PTNT
35
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNN & PTNT
35
2.2. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNN & PTNT
36
2.2.1. Những kết quả đạt được
36
2.2.2. Những hạn chế
38
2.3. Giới thiệu về SGD I - NHNN & PTNT
40
2.3.1. Cơ cấu tổ chức của SGD I
40
2.3.2. Các hoạt động kinh doanh của SGD I
41
2.4. Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ của SGD I
43
2.4.1. Hoạt động bảo lãnh trong tài trợ xuất nhập khẩu
43
2.4.2. Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu và tài trợ ứng trước thế chấp bộ chứng từ xuất khẩu
46
2.4.3. Hoạt động D/A, D/P, tín dụng chứng từ
47
2.4.4. Hoạt động cho vay các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
48
2.5. Quy trình thủ tục cấp tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
50
2.5.1. Thủ tục xét duyệt cho vay
50
2.5.2. Quy trình thực hiện cho vay
52
2.6. Kết quả hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I
53
2.6.1. Doanh số cho vay
53
2.6.2. Thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn
55
2.7. Những khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I và nguyên nhân
56
2.7.1. Những khó khăn và hạn chế
56
2.7.1.1. Những khó khăn
56
2.7.1.2. Những hạn chế
60
2.7.2. Các nguyên nhân của những hạn chế
64
Chương III - Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNN & PTNT Việt Nam
72
I. Định hướng phát triển xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm tới
72
1. Định hướng phát triển xuất nhập khẩu từ nay đến 2010
72
2. Định hướng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại
75
II. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHNN & PTNT và SGD I trong những năm tới
76
1. Định hướng kinh doanh của NHNN & PTNT
76
1.1. Định hướng chung
77
1.2. Định hướng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
78
2. Định hướng kinh doanh của SGD I trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
80
III. Một số giải pháp mở rộng hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNN & PTNT
80
1. Nhóm giải pháp tầm vĩ mô
80
1.1. Cải thiện môi trường pháp lý đảm bảo tính đồng bộ, ổn định, nhất quán của hệ thống luật và quy chế
80
1.2. Phân định rõ trách nhiệm của các tổ chức và các cơ quan hữu quan
81
1.3. Chính sách ưu đãi tín dụng nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu, quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu
82
2. Nhóm giải pháp tầm vi mô đối với SGD I
83
2.1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn
83
2.2. Thực hiện đa dạng hoá khách hàng và các hình thức tài trợ XNK
84
2.3. Triển khai hoạt động Marketing trong tài trợ xuất nhập khẩu
86
2.4. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
89
2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
90
2.6. Thực thi các giải pháp phòng chống rủi ro
91
2.7. Tăng cường cải tiến hệ thống thông tin tín dụng
91
2.8. Tham gia tích cực vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
92
3. Một số kiến nghị
93
3.1. Đối với SGD I
93
3.2. Đối với NHNN & PTNT
94
3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước
95
3.4. Đối với Nhà nước
95
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0036.doc